vhnt, số 172
10 April 1996
Trong số này:
thư vhnt..................................................................PCL
T h ơ :
1 - Sáng lãng quên ....................................Nguyễn Mạnh Trinh
2 - Trích đoạn LXXXI trong "Mặt Trời Không Bao
Giờ Có Thực" của Phạm Công Thiện ............Phạm Công Thiện
3 - Vọng hương .................................................Ðức Lưu
4 - Truyền thuyết về con chim trắng .....................Nguyễn Sung
5 - Như hạt bụi bay ..............................Nguyễn Phước Nguyên
6 - Ðêm và em ..........................................................WPH
7 - Tìm em ...............................................Ðặng Khánh Vân
D i ễ n Ð à n V ă n H ọ c :
8 - Xuân Diệu lắm phen vất vả ..........................Lê Ðình Kỵ
H ội H ọa / L ời N h ạ c :
9 - Kỹ thuật laminage trong hội họa Việt Nam ......................P.V
10- Ta như làn gió (lời nhạc) ................................M.A.Tuấn
11- Khi trở lại trường cũ (lời nhạc) ...................Võ Tá Hân
T r u y ện N g ắn / S án g T ác D ị c h T h u ật :
12- Yukio Mishima: Vị sư chùa Shiga và tình yêu .....Vy Anh phỏng dịch
"Em mọi ơi ..."
Em Mọi ơi,
Ngày nay anh làm thơ
Chẳng còn hay như trước
Suốt một tháng
Viết không được một câu
Thì lấy đâu ra thơ
mà tặng em cho được
tặng một câu chưa đủ
thì lấy đâu bốn câu
cho đủ một bài
Em Mọi Ơi, thơ Bùi Giáng
Ðó là tâm trạng của cô chủ biên phụ trách mục "thư vhnt" :) suốt một tuần chẳng nghĩ ra điều gì lý thú để nói với bạn. Thôi thì, "em mọi ơi", hãy thưởng thức sáng tác của người khác, trong vhnt số này, thay cho những lời gửi gấm riêng.
Số này vhnt tăng cường phần lời nhạc của những độc giả cũng là nhạc sĩ sáng tác, đã có lòng chia sẻ nhạc bản với bạn đọc. Chỉ nghe lời nhạc đã thấy truyền cảm, giá chi ta được nghe chính tác giả trình diễn?
Mời bạn đọc thưởng thức một truyện dịch của văn hào Mishima của văn học Nhật Bản, cùng những bài thơ của các nhà thơ đã thành danh, và... sắp sửa thành danh.
Cũng xin thông báo: vhnt đang có những dự án về phát triển tờ báo qua hình thức multi-media trên internet, và đang cần rất nhiều sự trợ giúp của các chuyên viên kỹ thuật trong ngành. Bạn đọc nào cảm thấy có thể giúp một tay thực hiện những projects đang soạn thảo, xin email cho <lanpham@saomaịorg>, để biết thêm chi tiết. Rất cám ơn sự ủng hộ và đóng góp của mọi thân hữu, cộng tác viên, và bạn đọc.
Gửi đến bạn đọc lời chúc những ngày mùa xuân bình an.
thân ái,
PCL/vhnt
Sáng Lãng Quên
Buổi sáng tấm lòng ta tịch mịch
nghe từng sợi nắng cợt trêu mình
dáng trời hôm nay như ngọc bích
sao ta nghĩ mãi chuyện u minh
Nhìn con sóc nhỏ trên dây điện
tưởng ta cuộc sống cũng vậy thôi
xoè đuôi đỏm dáng vờ ăn diện
buổi tối ngồi nhìn đêm thẳm khơi
Quên quên nhớ nhớ ngày qua mãi
chẳng thấy kìa hoa bướm nhởn nhơ
hay lá đợi xanh thân cỏ dại
hạt sương phù thế vẫn còn mơ
Chợt muốn ngủ vùi muôn đợt sóng
quê nhà chuyện kể tưởng ngàn năm
vẳng trên ghềnh đá trầm âm vọng
buốt nhói thương đau điệu nhạc thầm
Vài câu thơ viết đành dang dở
ý ngại trăng cao ở cõi ngoài
ráng sống cho qua chờ hội ngộ
nỗi thầm lặng lớn hẹn ngàn mây
Buổi sáng hồn ta như hạt sỏi
góc vườn quên lãng sợi rêu rong
võng trưa hè cũ như buộc trói
tâm thức chìm chìm vào mênh mông
Còn lại tháng ngày ngồi bó gối
cười ruồi tai hóng chuyện vá trời
biếc mộng mơ tan vèo sợi khói
dung lượng sầu ta về biển khơi
Chợt nghe điệu gẩy đàn u uất
nước non vẳng lại tiếng ru hời
thương nữ thở than trong lũng chật
bụi phủ mờ phai một chỗ ngồi
Ðâu nữa Ðường thi trời bát ngát
tính toan có lúc ngại văn chương
con chim sẻ cứ vào mưa tạt
làm sao cánh vỗ tận ngàn phương?
Ta sống như ta còn biệt tích
chiếu giường tiền kiếp giấc mơ im
ngựa vó xoãi quanh hoài vở kịch
nghẹn dòng máu lạ ngại về tim
Ta sáng dửng dưng muôn buổi sáng
tà tà vẫn sống vẫn đùa chơi
áo phong phanh khép cơn bấc thoảng
kỳ quặc tình ta chiếc lá rơi
Buổi sáng thâm tâm tờ giấy trắng
bút mực chưa thành ý lẻ loi
hiển nhiên ngày tháng đành câm lặng
trôi mãi chưa qua một góc đời ...
Nguyễn Mạnh Trinh
LXXXI
Tôi khinh bỉ mùa thu trên tóc em
Những con ngựa già chạy đuổi bóng trăng non
Tôi khinh bỉ tiếng gà gáy trọn đêm thâu
Những bóng ma đen chạy về mua mộng ảo
Ðường lên mặt đá hoa cương nổi loạn
Biển nổi cù lao trên trời ly hương
Những con rắn già nằm ngủ mười lăm thế kỷ
Hạnh phúc đổ trên khoé mắt bé thơ mùa tuyết chảy
Mùa đông đùn khói cá chết trên trời
Tóc Quế Hương xõa xuống nhú đồi Place de la Contrescarpe
Những con đường lên, những con đường xuống
Tôi bước theo Phương trên đường lên dốc ngược
Phương xõa tóc dài phủ đá sông nâu
Xóm chợ Mouffetard Phương bước nghiêng đường dốc
Và hát rất nhỏ
Moi je construits
Les marionnettes
Avec...de la ficelle
et du papier...
Tôi hát theo rất lớn
Cơn gió heo may dâm loạn
Tôi hát theo luống cày lên hoa
Tóc Phương bay lâu đài yêu ma
Những chiếc nón lá marronniers
Những đám mây non của trời tháng tư
Đầu tháng tư
Tôi hát theo lâu đài huyễn mộng
Tiếng xe điện ngầm cuối phố Jussieu thét mòn lòng đất
Paris Như tiếng hát của Phương khoét nhói đời tôi những
đêm trắng bạch, những đêm Paris mỏi mòn thuốc lá, những
đêm cà phê huyền chảy mướt tóc Phương trên chuyện tình
tưởng tượng và chỉ là tưởng tượng
Những đêm nín thở
Những đêm mưa tháng tư tưới trên cỏ măng mọc mướt thân
thể của một người
Mưa phùn tháng tư tưới trên những nhú hoa linh lan
Những nhú hoa muguets trắng bạch
Bóng mặt trời trong con ngươi của mắt Phương
Bóng mặt đường trên những trang giấy tôi mang từ Greenwich
Village đem về cho Phương bôi đen những ô nhật ký màu xám
Moi
Je construits
Les marionnettes
Avec de la ficelle
et du papier...
Phạm Công Thiện
(Chương LXXXI trong "Mặt Trời Không Bao Giờ Có Thực")
Vọng Hương
Vi vu gió hú đỉnh xa xôi,
Cô lẽ, quạnh hiu, tôi với tôi
Trong bếp than hồng âm ỉ cháy,
Ngoài hiên tuyết trắng lạnh lùng rơi.
Ðành tâm quay gót rời quê mẹ,
Thổn thức đêm dài mơ dĩ vãng,
Chạnh hồn hương vọng nỗi bời bời.
Ðức Lưu
Trường Ca: Truyền Thuyết Về Con Chim Trắng
Ðàn chim trắng khát tự do
Lạc vào giông tố - và lũ quỷ
Bầu trời đỏ sẫm
Tan tác chim gọi bầy
Lả tả, lông trắng đẫm máu
Núi lam mờ xa xa - nơi tự do
Hoàng hôn không buông dù vắng mặt trời
Ðêm ấy là đêm màu đỏ Không gian thiêu đốt
... Chim trắng lạc bầy
Thoi thóp giữa sình lầy
Không một bóng cây
Bầu trời không ngự trị ở đây
Mặt đất không ngự trị ở đây
Chim trắng đã chết ...
Bình minh rồi ư?!
Ban mai đó ư?!
Chim trắng chưa chết,
Giọt máu cuối cùng báo mặt trời lên
Trăng non - Trăng khuyết
Lúa trổ - Ngày mùa
Thu cây tàn lá - Xuân hoa đơm mầm
Nước trở lại nguồn
Cuộc đời đổi thay
Chim nào có hay
Vì ở đây
Không có bầu trời và mặt -dất
Có tiếng chim hót hát
Lũ quỉ thét gầm
Tiếng hót lịm dần ...
Ai đó đã trả giá cho tiếnt hót của mình!
Chim hiểu như vậy
Lầm lũi đi
Lây lất sống
Chờ tự do
Một ngày kia
Chói chang
Ánh sáng tự do
Chim bật hót - Không suy nghĩ
Chim bay lên - Không đắn đo
... Chim mắc vào vòng vây quỉ dữ
Chim vẫn hót
Tiếng ca hay hơn bao giờ hết
Màu máu hồng nhuộm trắng màu lông
Chim yêu tự do
Chim quí cuộc đời
Chim cho tiếng hót
Thánh thót lan xa
Gọi tự do cho bầy
Vang vọng hôm nay
Sung Nguyen
như hạt bụi bay
em hỏi tôi về cuộc đời.
tôi sẽ kể em nghe
chuyện một hạt cát
xoay vần trong cơn trốt thời gian,
thành những hạt bụi mong manh
và cứ thế
luân lưu chuyển kiếp.
em hỏi tôi về lòng người đổi thay.
tôi sẽ chỉ cho em
một dòng sông
bắt nguồn từ chốn không cùng,
chia trăm nhánh trôi đi,
nhưng đều đổ về lòng biển
hư vô
em hỏi tôi về quê hương.
tôi sẽ chia cùng em
những điều buồn không nói
gói kín trong tim,
những đêm dài
giấc ngủ chưa yên
và
những bước chân chập chững
cho khoảng cách thêm gần
giữa hai bờ đại dương.
em hỏi tôi về tình yêu.
tôi sẽ nói với em
về niềm vui đánh mất -
hạnh phúc đong
bằng trống vắng tâm linh,
những cơn đau rất thật
(vết thương xưa chưa lành lặn bao giờ.)
em hỏi tôi về chuyện cũ mười năm.
tôi nghe như
một giấc ngủ
phù du.
khi thức tỉnh,
bây giờ,
ngồi nhớ lại
chép cũng không đầy vài trang giấy.
nên thôi.
và em hỏi về tôi.
tôi sẽ vẽ cho em
những vòng tròn nối tiếp loang đi
khi viên đá ném xuống mặt hồ
làm gợn sóng.
hiểu không em,
này hỡi Trâm Anh?
Trâm Anh!...
ôi, Trâm Anh...
em
của mười năm trước
như hạt cát xoay vần.
và em
của bây giờ
như những hạt bụi bay
cũng giống nhau thôi,
phải không em?
và này, Trâm Anh
em cũng như tôi.
nguyễn phước nguyên
Ðêm Và Em.
Ðêm
Lung linh những vì sao
Ðêm
Long lanh ánh mắt nào
Ðêm
Cho lòng anh bối rối
Ðêm
Gõ nhịp thở hồi sinh
Em
Trinh nguyên làn hương dịu
Em
Nỗi nhớ của tinh cầu
Em
Chắp đời anh đôi nửa
Em
Hiện hóa giữa đêm nàỵ
3/27/96
WPH
Tìm Em
Tìm em...
tình lạc trên mây
Tháng năm phiêu bạt
thân gầy xác xơ
Tìm em...
trút một giấc mơ
Cưu mang nửa kiếp
nặng bờ vai - đau !
Tìm em...
những bước lao đao
Em đi ngược lối
nghiêng chao cuộc đời !
Tìm em...
sợi tóc khẽ rơi
Nhặt lên mới biết
tóc thời đổi thay
Tìm em...
quá khứ hồi lai
Tay ôm ảo mộng
hồn bay lạc loài ...
DKV
4/96
XUÂN DIỆU PHẢI LẮM PHEN VẤT VẢ
Kỷ niệm 80 năm ngày sinh Xuân Diệu 2-2-1916 / 2-2-1996
Xuân Diệu là người đầu tiên đã đặt vấn đề kế thừa và tiếp thu (có phủ định) giữa Thơ mới và "Từ ấy": "Tố Hữu đã dùng những yếu tố của phong trào lãng mạn đang thịnh hành đương thời đem vào thơ mình, và diễn đạt cái tinh thần cách mạng lối mới, cách mạng vô sản..." Ðiều này quá rõ, nhưng đương thời bị phản bác, coi là giảm giá trị của "Từ ấy", đề cao Thơ mới, mơ hồ, thoả hiệp về quan điểm.
Về bài thơ bốn câu "Dạ hương" trong tập "Riêng chung":
Tôi cầm mùi dạ hương
Trong tay, đi đến người thương cách trùng
Dạ lan thơm nức lạ lùng
Tưởng như đi mãi không cùng mùi hương
cũng có ý kiến phê phán cho là "cũ kỹ, lạc hậu trong thời đại chúng ta và không có một ý nghĩa nào cả". Xuân Diệu buộc phải thanh minh:"Bốn câu ngắn ấy muốn nói: hương thơm là man mác, tình yêu và tâm hồn con người cũng có cái không biên giới của nó, như một mùi hương, tâm hồn là sản phẩm cuối cùng của vật chất, nhưng có phải đâu vì vậy mà nó cọc cạch, nó không man mác." (Dao có mài mới sắc, tr 143-144). Cẩn thận như thế đó, không quên cái câu chú thích "tâm hồn là sản phẩm của vật chất" để chứng tỏ rằng mình, nhà thơ Xuân Diệu, cũng duy vật như aì!
Bài thơ Gió của Xuân Diệu viết năm 1957, có mấy câu:
Hồn ta cánh mở rộng
Hai bên gió thổi vào
Nghĩ những điều hớn hở
Như trời cao cao
thì có bài phê bình: "Gió hai bên là gió gì? Buồn chạy theo gió hai bên là thứ buồn gì? Buồn chạy theo gió hai bên không phải là thứ buồn của tư tưởng vô sản. Chỉ có thứ buồn của tư tưởng cơ hội chủ nghĩa mới chạy theo thứ gió hai bên mà thôi..." (Tiền Phong số 282 tháng 3 -1958). Cơ hội chủ nghĩa lúc bấy giờ muốn hiểu nó là tư sản, xét lại cũng đều được. Ðúng là bài Gió của Xuân Diệu không lấy đề tài, cảm hứng từ đời sống chính trị xã hội nóng bỏng lúc bấy giờ, nhưng dù thời cuộc có khẩn trương, sôi động đến đâu đi nữa, chả lẽ nhà thơ không có quyền viết về thiên nhiên, về gió trăng, núi sông, không có quyền viết về tình yêu, về những tình cảm riêng tư thầm kín hay sao? Và chả lẽ ý nghĩa, giá trị của một tác giả chỉ là ở đề tài, chỉ đề tài mới quyết địnhtất cả tư tưởng của tác phẩm hay sao? Trong văn học nghệ thuật, ngoài đề tài có nhiều con đường , nhiều cách để sáng tác đạt tới ý nghĩa tư tưởng. Còn lấy bài Gió mà nói, dù không trực tiếp đề cập đến chính trị tư tưởng, đến ý nghĩa xã hội, thì nó cũng chỉ cóthê/ ra đời trong xã hội miền Bắc, mà không thể có trong xã hội Sài Gòn trước đây, cũng không thể có trong "Thơ Thơ" hay "Gửi hương cho gió". Không trực tiếp nói về xã hội, mà vẫn mang ý nghĩa xã hội, không trực tiếp nói vềchính trị tư tưởng, mà vẫn gắn liền với thế giới quan, nhân sinh quan tiến bộ, khoa học, xã hội chủ nghĩa, chỉ cần đối chiếu với bài Tiếng gió Xuân Diệu viết thời "Thơ Thơ" cũng thấy rõ:
Có nhiều lúc gió kêu thê thiết quá
Như gió đau một nỗi khổ vô hình
Như bao điều ả não của nhân sinh
Ðã in vết ở nơi hồn của gió
Gió vừa chạy vừa rên vừa tắt thở
Ðem trái tim vừa uất của không gian
Tiếng gió
Thời Thơ mới con người cảm thấy bơ vơ, lạc loài, tâm hồn không có điểm tựa, gió cũng mang nỗi đau "vô hình", uất nghẹn, kêu than, rên rỉ, nghĩa là vẫn gắn liền với chuyện con người, chuyện xã hội.
Tuy không tài hoa, lộng lẫy như nhiều bài thơ hay nhất của Xuân Diệu, bài Gió có cái gì thật vững vàng, chắc nịch, cái khí thế tất cả lên đường mới, cũng là cái khí thế của xã hội của con người miền Bắc lúc bấy giờ. Nhưng thiên nhiên là một thực thể sống động, gió là một hiện tượng cụ thể, thực tế, không phải là một cái cớ, nghĩa là tả gió thì phải ra gió:
Gió về như mưa tới
Lá dậy như lá đi
Ào ào tiếng sóng vỗ
Không gian có việc gì.
Gió, gió thổi rào rào
Trăng, trăng lay chấp chới
Trời tròn như buồn căng
Tất cả lên đường mới
Gió
Gió về, mưa tới, lá dậy, lá đi, ào ào sóng vỗ, rào rào, trăng thì chấp chới khắp không gian, chuyển động, như đang "có việc gì", xét đến cùng cũng là những chuyển động trong đời sống và trong tâm hồn con ngườị Con người không còn là "Ngọn cỏ gió đùa" (tên một tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh), không còn "Buồn theo gió lan xa từng thoáng rợn" (Lời kỹ nữ - Xuân Diệu), tâm hồn mở rộng đón gió bốn phương và cao, cao, cao lên mãị Nội dung, ý nghĩa bài thơ là như thế. Tác giả có dụng ý kỹ thuật thỏa đáng. Nếu chỉ viết đơn giản: Gió thổi rào rào... trăng lay chấp chới, thì câu thơ sẽ trơn tuột, còn viết:
Gió, gió thổi rào rào
Trăng, trăng lay chấp chới
thì tình hình thay đổi hẳn, câu thơ bỗng đứng lên dõng dạc, đường hoàng , càng tự khẳng định trong từng cặp đối xứng: gió-trăng, gió thổi-trăng lay, rào rào-chấp chới, cả về đối xứng ý, chữ Thơ thiên nhiên đấy, nhưng liên quan chặt chẽ với xã hội, với con ngườị Ðúng như người bạn thơ thân thiết của Xuân Diệu, Chế Lan Viên, đã "lý luận" bằng thơ:
Nhìn đây mục Nam quan
Chẳng chút buồn quan ải
Dù tả một làn mây
Cũng là mây thời đại
Ðể kết thúc, xin dẫn ra đây một đọan thơ của Trần Ðăng Khoa:
Trăng ơi từ đâu đến
Hay từ một sân chơi
Trăng bay như quả bóng
Ðứa nào đá lên trời
được chính Xuân Diệu bình như sau:" Cái cú sút này hẳn là của một em thiếu nhi anh hùng, con cháu của một dân tộc anh hùng, mới đá được một quả bóng sáng bay lên thành mặt trăng vậy". Nói vui, nói quá một tí, nhưng đâu phải Xuân Diệu tán!
Lê Ðình Kỵ
(TTCN 28-1-1996)
Kỹ thuật Laminage Trong Hội Họa Viêt Nam
Nhà sưu tập Trần Hậu Tuấn và cơ sở Laminage Sài Gòn đã phối hợp tổ chức tại số 7 Hàng Khay (Hà Nội) một cuộc triển lãm tranh phiên bản của các danh họa Nguyễn Gia Trí, Nguyễn Tiến Chung, Nguyễn Sáng, Dương Bích Liên, Nguyễn Tư Nghiêm và đặc biệt là gần 100 phiên bản của Bùi Xuân Phái (tất cả tranh gốc thuộc sưu tầm của Trần Hậu Tuấn), được thực hiện bằng kỹ thuật tiên tiến laminage (tranh được chụp lại thật giống với bản chính-cỡ có thể to nhỏ hơn hoặc bằng bản chính-sau đó được dán ép lên gỗ phẳng và chắc, đảm bảo không bị phai màu theo thời gian và có thể lau sạch bằng nước). Triển lãm này (từ 28-1 đến 11-2-1996) là triển lãm tranh phiên bản đầu tiên với qui mô lớn và bằng kỹ thuật laminage hiện đại.
Trần Hậu Tuấn cho biết anh mong muốn được nhân rộng loại hình tranh phiên bản laminage này để dần dà nó sẽ trở nên phổ thông với số đông công chúng yêu nghệ thuật song chưa đủ khả năng kinh tế để mua tranh thật. Anh hi vọng tranh phiên bản lọai này rồi sẽ có giá thành thích hợp với túi tiền của nhiều người (khoảng vài ba trăm ngàn đồng, cả khung), đồng thời nó sẽ được treo ở nhiều nơi thay cho đồ mỹ nghệ, tranh Thái Lan...
P. V.
Ta Như Làn Gió
Ta như làn gió, cuốn áo em bay, vuốt tóc em say, ngây ngất tim khờ dại.
Ta như vạt nắng, rớt xuống vai em, suởi ấm môi em, trên thế gian còn lại.
Ta như lời đố, với những băn khoăn, với những phân vân, muôn nẻo về đâu.
Em cho lời đáp, xóa hết ưu tư, xóa hết âu lo, như nước êm mặt hồ.
Ðến với em xa nghìn trùng,
Dẫn đón đưa nhau vào mộng,
Nắng vui đùa gió, mây hồng che bao dung.
Trái đất quay đi từng mùa,
Thế giới yêu thương dại kh
Những cánh hoa mai rộn nở, hạnh phúc đơm bông đợi chờ.
Tìm về thung lũng xanh,
Một giòng sông nước trong,
Một chiều thu mây xám, khói sương xây thành.
Tình ngủ say giấc êm,
Tròn vầng trăng nỗi niềm,
Bụi thời gian phai trắng, thiên thu qua thềm.
Khoanh tay nhìn xuống, thế giới mênh mông, thế giới lưu vong, ta với em cùng về.
Ta như làn gió, vẫn mãi bên em, vẫn mãi yêu em, dưới bóng cây chiều hè.
Ta như loài bướm, quấn quít bên em, mãi mãi yêu em, trên gối chăn hẹn thề.
M. A. Tuấn
Võ Tá Hân tuy mới cho ra mắt nhạc của anh trong hai năm qua nhưng đã được giới yêu nhạc rất mến chuộng. Nhiều bài nhạc hay của anh đã được phổ biến rộng rải ở trong nước cũng như ở hải ngoại. Xin giới thiệu đến các bạn yêu thơ nhạc một trong những bài hát hay của nhạc sĩ.
LanKhue
Khi Trở Lại Trường Cũ
Về lại Huế anh ghé thăm trường cũ
ngôi trường xưa lấp lánh nắng ban mai
anh dừng lại nhìn trẻ thơ ngồi học
thoáng thấy em thanh thản đứng giảng bài
trường em dạy - xưa kia anh đã học
giấc mơ đời rạo rực lửa phương Ðông
sách vở thơm áo trắng cũng như lòng
cánh diều nhỏ bay giữa trời ước vọng
về lại Huế anh ghé thăm trường cũ
cổng trường xưa hàng phượng lá xanh mơ
anh lạc lõng như thú hoang xa núi
giữa sân trường tiếc nuối chuỗi ngày thơ
vài bạn nhỏ ngỡ ngàng nhìn anh đến
áo trắng hiền vẫy mực đẹp ngây ngô
đôi mắt nai ôm cặp dáng thiên thần
anh nhìn lại - ô hay mình đáng tội
bởi xa lắm tuổi thanh xuân cao ngạo
anh trở về kỷ niệm cũng phôi pha
bàn ghế xưa không còn dịp được ngồi
thử cầm bút tô xanh đời mình lại
về lại Huế anh ghé thăm trường cũ
gió sân trường thơm bụi nước bên sông
anh bỡ ngỡ giữa trăm ngàn tiếng động
vì từ lâu bút mực đã cạn dòng
anh trở lại mong được ngồi cuối lớp
đôi tay vòng theo bạn nhỏ trông lên
trước bảng lớp tay em đều nhịp thước
ấm lòng anh - kẻ lang bạc tìm về
anh xin làm người tình si trước cổng
theo em về qua những ngõ phố xưa
có bướm trong hoa có tiếng đàn vọng
gợi lại giấc mơ đậm hương bốn mùa
Thơ Huỳnh Văn Dung, do Võ tá Hân phổ nhạc trong nhạc tập Dẫu Ngày Xưa Rất Xưa.
Nhạc Sĩ Phạm Duy đã viết trong bài giới thiệu nhạc Võ Tá Hân:
Nhạc tập này cho tôi gần gủi với quê hương hơn bao giờ hết qua những vần thơ, nét nhạc chan chứa tình nước, tình người. Trên hết, nó còn cho tôi tin tưởng rằng ở quê hương tôi bây giờ, đã có tối thiểu hai tình nhân của xứ Huế tụng xưng tình yêu...
Hai mươi năm lưu xứ, đau thương chất chứa trong lòng mình, một sớm mai này bỗng thoắt cuốn gói ra đi, nhường chỗ cho niềm vui bất tận...
Vị Sư Chùa Shiga Và Tình Yêu
Vài hàng về tác giả: UKIO MISHIMA là một trong những đại văn hào lừng danh của Nhật, tác giả cuốn tiểu thuyết nổi tiếng thế giới KINKAKUJI " KIM CÁC TỰ " và của cuốn " CHIỀU HÔM LỠ CHUYẾN " cùng những cuốn khác. Ông cũng là người Samurai cuối cùng của Nhật đã Harakiri (rạch bụng tự sát trước quốc hội Nhật) để phản đối quốc hội đồng thời khêu gợi lại tinh thần quốc gia của người Nhật sau khi bại trận năm 1945.
Xin mời các bạn vào truyện
oOo
Theo như Eshin viết về "Những điều cốt yếu của sự cứu rỗi", thì Mười Ðiều Khoái Lạc cũng chỉ như là một giọt nước của biển cả khi so sánh với những lạc thú của Vùng Ðất Trong Lành. Trong vùng đất này, mặt đất toàn bằng ngọc bích và những con đường đi có những dây quấn bằng vàng viền hai bên đường. Mặt đất trải dài vô tận không nhìn thấy biên giới. Ở mỗi một khu thờ phụng thiêng liêng có năm chục triệu căn phòng và những tháp được dát nào là vàng, bạc, ngọc lưu ly, thủy tinh, san hô, mã não và ngọc trai; và những kỳ trân dị vật trải dài trong các phòng. Trong các phòng ốc và trên đỉnh của các tháp, nhiều thiên thần tấu lên những khúc nhạc thiêng liêng và ca những bài ca ngợi Ðức Phật Thích Ca Tất Ðạt Ða. Trong ngôi vườn bao quanh các ngôi nhà, tháp và hàng trụ là những cái hồ lớn đầy vàng và ngọc bích, nơi mà các tín đồ đến để gột rửa tội lỗi; và những cái hồ bằng vàng được viền bằng cát bạc, và cái hồ ngọc bích thì được viền bởi cát thủy tinh. Những hồ được phủ đầy bông sen tỏa muôn ngàn màu sắc, có làn gió nhẹ thoảng qua trên mặt nước cùng những luồng ánh sáng chiếu đan nhau từ mọi hướng. Ngày cũng như đêm trên bầu trời đầy tiếng chim hót của chim hạc, ngỗng, công,trĩ, vẹt... và giọng hát ngọt ngào của Kalavinkas, một loài chim có khuôn mặt của những người đàn bà đẹp. Những âm thanh này cùng với muôn ngàn con chim đầy màu sắc khác đều cất lên các điệu hót êm đềm để ca ngợi đức Phật. (Tuy nhiên giọng hót ngọt ngào của chúng chỉ là âm thanh, nên khi chúng tụ hợp lại thì rất là ồn ào).
Bờ của những cái hồ và các con sông đều có những rừng cây quý. Mọi cây có thân bằng vàng, cành bằng bạc và những hoa bằng san hô, vẻ đẹp của nó được soi trên mặt nước. Trên không trung còn có những sợi dây nhiều màu sắc, và đầu sợi dây đều được treo những chiếc chuông quí giá reo lên ca ngợi Phật Pháp vô thượng.
Nếu một người nào muốn ăn một vật gì đó thì tự động trước mặt người đó hiện ra bảy bàn, trên đó hình của bảy cái bát màu sắc đựng đầy các món ăn ngon nhất. Nhưng mà không cần phải gắp thức ăn đưa vào miệng. Chỉ cần nhìn màu sắc hấp dẫn đó và thưởng thức cái hương vị của nó: thế là bao tử được ăn đầy và cơ thể được nuôi dưỡng, trong khi đó con người vẫn giữ được trong sạch về tinh thần lẫn thể xác. Khi một người đã dùng xong bữa ăn mà không đụng đến thức ăn, những cái bát thức ăn và các bàn tức thời biến đi.
Còn nữa, thân thể được tự động trang phục mà chẳng cần may, vá, giặt hay nhuộm tẩy gì cả.
Ðèn cũng thế chẳng cần thiết vì bầu trời được chiếu sáng bởi ánh sáng vĩnh cửu/. Hơn thế nữa ở vùng đất Trong Lành này khí hậu quanh năm điều hòa nên chẳng cần máy lạnh hay lò sưởi/. Có hà ng trăm ngàn hương thơm ngào ngạt trong không khí và những cánh hoa sen rơi không ngớt.
Trong chương nói về Cổng Kiểm soát, chúng ta lại được cho biết là những người đi quanh quẩn gần đó không thể nào có hy vọng đi sâu vào vùng đất Trong Lành, họ phải tập trung tinh thần trước để kha i ngộ những năng lực của "sự ngoại tưởng", và sau đó tiếp tục phát triển những năng lực nàỵ Cái năng lực tưởng tượng sẽ cho ta một thời gian ngắn thoát khỏi cái trần tục xô bồ này để tìm thấy Ðức Phật. Nếu chúng ta được ban cho sự giàu có, sự suy tưởng lung tung thì chúng ta có thể chú tâm vào một hoa sen độc nhất và từ đó tư tưởng có thể đi đến những chân trời vô tận.
Nếu quan sát qua kính hiển vi và dùng phép chiếu thiên văn học thì hoa sen có thể trở thành nền tảng của toàn bộ lý thuyết về vũ trụ và nhờ sự tác động ngoại biên thì chúng ta có thể tìm được chân lý. Trước hết chúng ta phải biết mỗi một cánh hoa có tám mươi bốn nghìn đường gân, và mỗi đường gân cho ra tám mươi bốn ngọn đèn. Hơn nữa, những bông hoa nhỏ nhất cũng có đường kính khoảng hai trăm năm chục yojana/. Như vậy cái số đo yojana mà chúng ta đọc được trong các thánh thư tương ứng với bảy mươi lăm dặm, như thế chúng ta thấy rằng một hoa sen có đường kính khoảng mười chín nghìn dă .m thu nhỏ lại/. Một bông hoa như thế có bốn mươi tám cánh hoa và ở giữa các cánh hoa có một triệu hạt ngọc , và mỗi hạt chiếu ra một ngàn ánh sáng. Ðẹp hơn hết là giữa đài h! oa có bốn trụ lộng lẫy thật là cao vời vợi và một tháp ở giữa trung tâm của vũ trụ Phật. Nếu tập trung nhìn vào những hình tượng này thì chúng ta sẽ biết được "ý tưởng về đài hoa sen của Ðức Phật ngồi"; và cái quan niệm về thế giới mà đã nói ở đây chỉ để làm nền tảng cho câu chuyện về thế giới tưởng tượng mà thôi.
Vị đại hòa thượng chùa Shiga là một người rất là đạo hạnh, lông mày của ông bạc trắng, và ông ta không làm gì được nhiều hơn để cà nhắc tấm thân già trên chiếc gậy đi từ thiền viện này qua thiền viện khác.
Trong đôi mắt ông cho thấy giới tu khổ hạnh chỉ như là một đống gạch vụn. Ông ta đã từ bỏ cuộc sống đó đã từ một năm nay và cây thông nhỏ do chính tay ông ta trồng khi ông dời vào căn phòng nhỏ hiện nay, đã thành cây thông lớn có những cành cây đong đưa theo gió. Một vị tu sĩ đã thành tựu trong việc lìa xa thế giới phù du đã lâu cảm thấy an tâm ở tương lai.
Khi vị cao tăng nhìn thấy sự giàu có và cao sang thì ông chỉ mỉm cười với lòng trắc ẩn và tự nghĩ rằng tại sao những lớp người này lại không nhận thức được là họ đã hưởng được những lạc thú qua mộng ảo. Và khi ông thấy những người đàn bà đẹp, phản ứng của ông chuyển qua thương hại cho những người đàn ông vẫn còn đam mê cái thế giới ảo tưởng và những người đã bị cuốn trôi vào cơ n sóng khoái lạc về nhục dục.
Một khi người đàn ông không còn có hứng thú một chút nào về những cám dỗ của thế giới vật chất thì lúc đó thế giới sẽ hoàn toàn yên lặng; nó chỉ là một bức tranh ở trên một tấm giấy, một tấm địa đồ của một xứ lạ nào đô Khi một người có trong trí óc những cái ham muốn xấu xa của cái thế giới hiện tại thì được gạn lọc kỹ càng, và nỗi lo sợ cũng quên đi. Vì thế lão hòa thượng không hiểu được tại sao lại có địa ngục. Ông ta hiểu rằng không chừng sau này cái thế giới này không có một quyền lực nào áp đặt lên ông cả; vì ông hoàn toàn không có tánh tự kiêu, nó hoàn toàn không có ở nơi ông vì đức hạnh cao dày của ông.
Hơn nữa tấm thân của ông cũng được quan tâm; người ta có thể nói rằng vị hòa thượng không còn lâu lắm sẽ lìa khỏi cái xác phàm của ông. Trong một vài trường hợp nào đó ông nhìn tấm thân của ông chẳng hạn như khi tắm ông ta lại hoan hỉ nhìn những cái xương nhô lên dưới lớp da khô nhăn tạm thời che phủ nó. Bây giờ thân thể của ông đã đến tình trạng này và ông cũng cảm thấy đã đến thời kỳ của nó, cũng như cảm thấy nó thuộc về một người nào khác. Một thân hình như thế hình như chỉ thích hợp với sự dưỡng sinh ở vùng đất Trong Lành hơn là những thức ăn uống của địa cầu.
Trong giấc mơ ông thấy mình sống suốt đêm ở vùng đất Trong Lành, và khi thức dậy, ông thấy mình vẫn còn hiện hữu ở thếgiới hiện tại với nỗi buồn và giấc mơ biến dần.
Vào mùa xem hoa, nhiều người từ thủ đô đến viếng làng Shiga. Ðiều này chẳng làm phiền người tu hành một chút nào vì ông ta đã quá quen thuộc với sự động của thế tục nên cũng không bận tâm chút nào cả. Vào một buổi chiều mùa Xuân, ông ra khỏi tịnh thất của ông, nương theo chiếc gậy đi xuống hồ. Bóng hoàng hôn chầm chậm tỏa những tia sáng trong chiều tấ Mặt hồ không một gợn sóng. Vị lão hòa thượng bắt đầu đọc những câu kinh về "Sự suy gẫm về nước."
Vào lúc đó, một chiếc xe bò đi quanh hồ và dừng lại gần chỗ vị hòa thượng đang đứng; chiếc xe bò rõ ràng là của một giới chức cao cấp. Chủ nhân của nó là phu nhân của vương đình ở vùng Kyogu ở thủ đô, đó là thứ thiếp của một vị đại vương. Vị phu nhân này đến Shiga vào dịp Xuân và bây giờ trên đường về dừng lại bên bờ hồ để ngắm cái hồ lần cuối. Vô tình vị hòa thượng nhìn về phía người phụ nữ và bất chợt vị tu già toàn thân rúng động vì sắc đẹp của người mệnh phụ phu nhân. Hai đôi mắt giao nhau, ông không làm sao dời ánh mắt đi, và bà ta cũng không nhìn chỗ khác. Không phải bà ta có tính dễ dãi cho phép người nào đó có những cái nhìn nóng bỏng; nhưng thái độ của vị tu già khắc khổ này thì có thể chấp nhận được hơn là những người bình thường; bà ta tự nghĩ như thế.
Một lúc sau người phụ nữ kéo rèm che xuống. Chiếc xe bò bắt đầu chuyển bánh lìa khỏi Shiga và từ từ ra con đường đi vềkinh thành. Màn đêm xuống dần và chiếc xe kéo đang trên con đường Ðền Bạc đi về thành phố. Khi mà chiếc xe của sự quấy nhiễu khuất dạng sau những hàng cây, lão hòa thượng vẫn còn đứng lặng yên tại chỗ. Chỉ trong một nháy mắt, cái thế giới hiện tại đã trả thù người tu h ành một cách tàn nhẫn. Những điều gì mà ông cho là hoàn toàn an lành nay đã hoàn toàn sụp đổ.
Ông trở về ngôi chùa, tọa trước tượng đức Phật và niệm Phật. Nhưng những tư tưởng không trong lành đã ám ảnh ông. "Một người đàn bà đẹp" - ông nói thầm, nhưng sự ma ám thoáng chốc đó chỉ là một hiên tượng tạm thời đượm vẽ cái xác thịt sẽ sớm bị hủy hoại. Ðúng thế, mặc dù cố gắng hết sức mình để tránh nỗi ám ảnh đó đi, cái vẻ đẹp không thể nào tả được của người phụ nữ đã khích động ông trong một khoảnh khắc bên bờ hồ, bây giờ đã đè nặng trên trái tim của ông với một hấp lực từ nơi vô tận nào đô Lão hòa thượng không còn trẻ về tinh thần lẫn thể xác để biế t rằng là cái cảm giác đó chỉ là một sự lường gạt của da thịt ông trên cái thể xác của ông. Da thịt của con người, ông biết rất rõ là không thể nào thay đổi một cách mau chóng. Hơn nữa, ông có vẻ chìm đắm trong cái chất độc dịu dàng đã đột ngột làm biến đổi tính khí của ông.
Vị lão hòa thượng không bao giờ phá vỡ cái tịnh khiết. Cái xung đột của nội tâm mà ông đã phấn đấu vào lúc trẻ chống chọi với những đòi hỏi của xác thịt làm cho ông nghĩ đến những người đàn bà cũng chỉ là ý muốn nhục dục. Chỉ có cái xác thịt thực sự là cái xác thịt có ở trong trí tưởng tượng của ông. Vì ông ta cho rằng xác thịt như là ý niệm trừu trượng hơn là một thực thể, ông đã t in vào sức mạnh tinh thần để chinh phục nó. Với sự nỗ lực đó vị lão tăng đã thành công; thật vậy không ai có thể nghi ngờ điều này.
Ðúng vậy, gương mặt của người phụ nữ đã vén rèm của chiếc xe và nhìn ra hồ thật là êm đềm thơ mộng, thật là rực rỡ, được diễn tả như là một vật chói lọi mà ông không thể nào diễn tả được. Ông chỉ có thể nghĩ rằng để hồi tưởng lúc tuyệt vời đó, một điều gì đó đã ẩn nấp thầm kín trong tâm hồn ông, cuối cùng cũng tự hiển lộ ra. Ðiều này chẳng khác gì cái thế giới hiện tại đang yên nghỉ, nhưng bây giờ đột nhiên thoát ra khỏi bóng tối và bắt đầu khuấy động.
Sự thể tưởng chừng như là ông ta đang đứng trên con đường lớn dẫn về thủ đô, hai tay bịt chặt lấy hai tai và nhìn hai cỗ xe bò lớn khua động lăn bánh đi ngang qua nhau. Bất thần ông bỏ hai tay ra và tiếng động ngoại cảnh xâm chiếm toàn thể tâm hồn ông.
Ðể nhận biết những hiên tượng xảy ra, để có những âm động trong tai của một người, thì chúng ta phải hòa nhập vào cái thế giới hiện tại. Một người như lão hòa thượng đã cắt đứt những sự liên hệ với những sự thể bên ngoài thì lại một lần nữa đã tự đặt mình trong sự liên hệ với chúng.
Ngay cả khi đọc kinh tình yêu Sutras, đôi lúc ông cũng sẽ nghe được những tiếng thở dài não nuột của ông. Ông nghĩ rằng có lẽ thiên nhiên đã làm rối loạn tâm trí của ông, và ông nhìn ra cửa sổ của căn phòng ông thấy dãy núi vươn cao trên nền trời lúc chiều tà. Tuy nhiên những suy nghĩ của ông thay vì tập trung vào cái đẹp đẽ, thì nó lại tản mát như những cụm mây trôi lững. Ông tập trung tầm nhìn vào mặt trăng, nhưng những suy nghĩ của ông một lần nữa lại bồng bềnh trôi như trước; và khi một lần nữa ông đứng trước sự thật với cố gắng vô vọng lấy lại sự trong sạch của tâm trí; khuôn mặt của đức Phật bây giờ được biến dạng và trông giống như mặt của người phụ nữ trong chiếc xe. Cái vũ trụ của ông lại bị giới hạn trong cái vòng nho nhỏ: ở một điểm là vị đại hòa thượng và điểm đối diện là thứ thiếp của đại vương.
Người thứ thiếp của đại vương thành Kyogoku sớm quên đi nguời tu sĩ già mà bà đã thấy ông ta nhìn chăm chú vào bà ở bên bờ hồ Shiga. Tuy nhiên, mãi một thời gian sau, lời đồn đãi đến tận tai mới làm bà nhớ lại sự việc đã qua. Một người dân làng tình cờ nhìn thấy cảnh vị lão hòa thượng đứng nhìn chiếc xe của người phụ nữ đi xa dần. Người này đã nói cho vị quan cũng đã đến Shiga để xem hoa rằng: kể từ ngày đó người tu già trở nên si dại. Vị hoàng phi giả vờ như không tin vào lời đồn đãi đó, vì đức hạnh của nhà sư đặc biệt này được truyền khắp thủ đô, và sự việc này chỉ làm tăng thêm tính tự cao của nàng mà thôi.
Nàng đã hoàn toàn chán ngấy cái tình yêu mà nàng đã nhận được của những người đàn ông ở cái thế giới này. Nàng cũng biết rõ sắc đẹp của mình, và nàng có cái khuynh hướng là bị thu hút bởi bất cứ hấp lực nào, chẳng hạn như tôn giáo, vì nó đã cho nàng sắc đẹp và quyền uy là những thứ vô giá. Vì quá chán cái thế giới hiện tại nên nàng tin vào vùng đất trong lành. Nhưng có một điều không tránh được là ở Niết Bàn lại là nơi từ chối mọi sắc đẹp và vẻ hào nhoáng của nhãn quan vì nó bị coi như là rác rến vô giá trị; nó đã đặc biệt cảnh tỉnh những người như vị thứ phi là người đã hoàn toàn giác ngộ trong cuộc sống cao sang của cung đình.
Trong những thứ mà người ta ưa thích là tình yêu, vị thứ phi giữ được danh giá được xem như là một sự tinh lọc trong cung đình. Thật thế, người ta biết bà không hề yêu một người nào. Bà đã hoàn thành nhiệm vụ của bà đối với vị Ðại vương trong sự lễ nghi toàn vẹn, không một ai có khi tin được rằng bà đã yêu ông thật lòng. Vị thứ phi đã mơ mộng một ước vọng nằm ở ranh giới không đạt đến được.
Vị sư già ở chùa Shiga được nổi danh về đức hạnh, và mọi người ở thủ đô đều biết vị chủ trì già nua này đã hoàn toàn từ bỏ cái thế giới hiện tại. Thật là một điều làm mọi người đều giật mình, phải chăng là lời đồn ông ta đã quáng mắt bởi vẻ diễm kiều của vị thứ phi và vì bà mà ông nỡ hy sinh cái thế giới tương lai của ông hay sao? Việc từ bỏ những thú vui ở vùng đất trong lành mà đã ở trong tầm tay của ông quả thật là không có một sự hy sinh nào lớn lao bằng, một món quà nào lớn bằng.
Người thứ phi của đại vương hoàn toàn thờ ơ trước những vẻ đàng điếm của những chàng trai trẻ phóng đãng hay đổ xô vào cung đình, hay vẻ hào hoa của những vương tôn công tử đến gặp nàng. Những vóc dáng bề ngoài của những người đàn ông chẳng có nghĩa gì đối với nàng. Bây giờ nàng chỉ quan tâm đến một việc là: tìm kiếm một người nào đó có thể cho nàng một tình yêu sâu đậm. Một người đàn bà mà có một khát vọng như thế là một nhân vật đáng khiếp sợ. Nếu nàng chỉ là một gái giang hồ đệ nhất lưu thì chắn chắn nàng đã thỏa mãn với những của cải vật chất. Tuy nhiên, nàng là vợ hờ của vị đại vương, đã từng thụ hưởng sự giàu có mà thế giới có thể cung cấp cho nàng. Người đàn ông mà nàng chờ đợi phải cho nàng của cải của cái thế giới tương lai.
Những lời đồn đãi về sự mê say của lão hòa thựơng loan truyền khắp cung đình. Phần cuối câu chuyện thường là câu chế giễu vị đại vương. Dĩ nhiên là nàng khó chịu bởi những lời nói giễu cợt này và cố giữ trầm tĩnh, giữ dáng điệu thờ ơ. Mặc dù nàng đã biết rõ mọi việc, nhưng có hai lý do mà tại sao người ở trong cung đình lại tự do giễu cợt điều này mà thường lệ bị cấm: thứ nhất, để cho biết là được như tình yêu của vị sư già là để ca ngợi sắc đẹp của người đàn bà đã khiến cho người tu sĩ đức hạnh cao dày lại bỏ sự tịnh tâm của mình; thứ nhì, mọi người đều biết rõ rằng tình yêu của ông già đối với một người đàn bà sang trọng thì có thể chẳng bao giờ được đáp lại.
Vị thứ phi đã nhớ lại khuôn mặt của người tu sĩ già mà nàng đã nhìn thấy qua cửa sổ của chiếc xe. Nó không giống như các khuôn mặt của một người nào cho đến nay đã yêu nàng. Một điều lạ là cái tình cảm đó lại trỗi dậy trong trái tim của một người đàn ông mà chẳng có một điểm nào để được yêu. Người đàn bà nhớ đến câu nói "tình yêu của tôi cô đơn và tuyệt vọng" do các chàng thi sĩ quèn đã phổ biến trong hoàng thành để khơi dậy sự cảm động trong trái tim của những tình nhân của họ. Và cũng để so sánh với tình trạng vô vọng mà vị đại hòa thựơng đã tự chuốc lấy, cái tình trạng ít có may mắn về cuộc tình sang trọng, và những vần thơ đại loại như thế nhắm vào nàng cũng chỉ là nhũng thứ trang điểm của người đồng tình, những lời nói ngẫu hứng hư không và hoàn toàn không phải là những lời nói để làm cho người ta động lòng.
Ðến đây cũng cần cho độc giả biết người vợ bé của vị đại vương không là một người tiêu biểu cho sự cao sang của cung đình như mọi người đều biết, mà nàng chỉ là một người đã tìm thấy cái hương vị thật sự của cuộc đời qua sự hiểu biết là mình được yêu. Ðành rằng nàng có một địa vị cao, nhưng dù sao thì nàng cũng chỉ là một người đàn bà; mọi quyền lực và chức phận ở trên thế giới này đối với nàng hình như là những cái gì trống rỗng. Những người đàn ông quen biết nàng đều lao vào những cuộc tranh giành những thế lực chính trị; nhưng nàng lại mơ mộng chinh phục thế giới bằng một cách khác, bằng một cách của đàn bà. Nhiều người đàn bà mà nàng đã quen biết đã làm lễ thí phát và từ bỏ tục thế. Những người đó đã làm cho nàng bật cười. Vì dù sao đi nữa, một người đàn bà có thể nói rằng mình sẽ từ bỏ thế tục, nhưng mà họ không thể nào từ bỏ những thứ mà họ đã có. Thực sự thì chỉ có đàn ông mới có thể từ bỏ những gì mà họ có.
Người tu sĩ già mà nàng thấy bên bờ hồ đã đạt được một thành quả nào đó trong cuộc đời, đã từ bỏ hết cái Thế Giới mộng ảo và mọi sở thích của ông ta. Trong mắt của nàng thì ông ta chẳng được một điểm nào so với những người đàn ông sang trọng mà nàng đã quen biết ở cung đình. Bây giờ, ông ta vừa mới từ bỏ cái thế giới phù du này, và vì nàng ông lại mất luôn cả cái thế giớ tươn g lai.
Người thứ phi nghĩ đến bông sen cao quí mà nàng đã tin tưởng và đã có một ấn tượng sống động trong trí cùa nàng. Nàng nghĩ đến một hoa sen vĩ đại có bề rộng khoảng hai trăm năm mươi yojana. Cái cây hoa không thực này làm cho nàng thấy hứng thú hơn là những bông hoa mảnh mai nở trong hồ ở đô thành. Ban đêm khi nàng nghe tiếng gió thổi xào xạc qua lá cây ở trong vườn của nàng, những tiếng động đó làm cho nàng cảm thấy nhàm chán khi so sánh với tiếng nhạc du dương ở vùng đất trong lành khi gió thổi qua những cây linh thiêng. Khi nàng nghĩ đến những nhạc khí được treo lơ lửng trên bầu trời và tư . cất lên tiếng nhạc mà chẳng ao giờ đụng đến, và tiếng nhạc của thụ cầm (harp) vang lên trong cung điện làm cho nàng cảm thấy đó là một sự bắt chước nhạt nhẽo.
Vị hòa thượng đang đấu tranh. Trong cuộc đấu này, ông ta đã chiến đấu với cái xác thịt lúc trẻ của ông mà ông luôn luôn sôi nổi với hy vọng thừa hưởng cái thế giới của tương lai. Nhưng cuộc đấu tranh vô vọng với tuổi tác thì là một sự mất mát không thể nào đền bồi được.
Mối tình câm của ông không thể nào được bà hoàng đáp lại thật là rõ ràng như mặt trời giữa ban ngày. Ðồng thời ông cũng biết rằng không thể nào đến được vùng đất Trong Lành khi nào mà ông còn là nô lệ cho mối tình này. Lão hòa thượng đã được sống hoàn toàn thảnh thơi về tâm trí, nhưng chỉ trong một nháy mắt đã bị khép chặt vào nơi đen tối và tương lai hoàn toàn bế tắc.
Ông có một nỗi lo sợ. Khi mà chiếc xe sang trọng đến gần bên bờ hồ Shiga, thì ông biết sự việc được sắp đặt để chờ ông, một việc không khác gì hơn là để vuột mất Niết bàn mà nó đã ở trong tầm tay của ông. Nhưng mà hiện tại, tỉnh dậy trong đêm tối của thế giới hiện tại, ông không thể nào thấy được những điều gì kín đáo ẩn nấp ở đằng trước mặt.
Ông đã cố tĩnh tâm theo nhiều phương pháp nhưng đều vô ích. Ông thử trầm tư mặc tưởng vào một hoa cúc, về một cảnh trí tổng quát hay suy tưởng về những phần nhỏ; nhưng cứ mỗi lần ông bắt đầu tham thiền, thì khuôn mặt đẹp đẽ của người thứ phi lại hiện ra trước mắt của ông. Sự suy tưởng về Nước cũng vô ích vì khuôn mặt đáng yêu bất biến đó lại nổi bềnh bồng trên những gợn sóng của mặt hồ.
Ðiều này không có gì ngạc nhiên vì là hậu quả đương nhiên của tính mê say của ông. Ông nhận thấy rằng tập trung tư tưởng chỉ có hại hơn là đạt được kết quả tốt, đoạn ông làm cho trí óc giảm dần và tản mác. Một điều ngạc nhiên với ông là với sự tập trung tinh thần đó lại gây ra một hiệu quả trái ngược và đưa ông tới những ảo giác; nhưng ông sớm nhận biết được rằng cố gắng làm những phương pháp trái ngược là làm phân tán tư tưởng của ông thì nhận lấy kết quả là toàn ảo giác. Khi mà tinh thần của ông chịu khuất phục dưới thể xác, người tu sĩ quyết định là thay vì theo đuổi một sự tranh đấu vô ích, thì tốt hơn hết là không cần thiết phải cố làm sao không tập trung tư tưởng vào khuôn mặt của người thứ phi.
Lão hòa thượng tìm thấy niềm vui mới trong việc tôn sùng trong tầm nhìn vào người phụ nữ với nhiều cách khác nhau, cũng như ông tôn sùng tượng Phật với hào quang. Ðể thực hiện điều đó, ông đã chuyển đối tượng của tình yêu vào một cái gì rực rỡ và chói lọi để tự cảm thấy niềm vui mới.
Một khi ông suy nghĩ đến vấn đề này thì giác ngộ chớm nở với ông. Ông đã diễn tả về người thứ phi không phải là một con người bằng xương thịt, cũng không chỉ là một hình ảnh, mà là một mẫu tượng thực, một mẫu tượng tinh túy của sự việc. Thật là quái lạ khi theo đuổi tìm cái bản thể ở trong gương mặt của người đàn bà. Ðúng thế, cái lý do để tìm kiếm cũng không xa lắm. Ngay cả khi rơi vào bẫy tình, vị hòa thượng chùa Shiga cũng không từ bỏ cái thói quen mà ông đã luyện tập trong những năm dài tọa thiền, để phấn đấu tiến đến cái tinh túy của sự việc bởi phương cách hoàn toàn trừu tượng. Người thứ phi ở vùng Kyogoku bây giờ trở nên đồng dạng với cái nhìn về một hoa sen vô tận với độ lớn hai trăm năm mươi yojana. Khi nàng nằm trên mặt nước được nâng bởi các hoa sen thì nàng trở nên vĩ đại như núi Sumeru, to lớn như toàn thể vương quốc.
Một khi vị sư già càng cố chuyển tình yêu của ông vào một hình tượng không tưởng nào đó, thì ông lại càng lánh xa đức Phật. Vì việc không thể nào đạt được trong tình yêu đã dẫn đến việc không thể nào có được sự giác ngộ. Ông càng nghĩ đến tình yêu tuyệt vọng, thì chắc chắn điều quái lạ càng lớn và căn tính sẽ dẫn đến những ý nghĩ không trong sạch.
Ông hy vọng có một cơ hội nào đó thấy được khuôn mặt của người phụ nữ đó một lần nữa, nhưng cũng sợ rằng khi gặp lại nàng, khuôn mặt đó bây giờ đang vĩ đại như một hoa sen, sẽ vỡ vụn thành tro bụi. Nếu việc đó xảy ra, chắc chắn ông sẽ được cứu. Ðúng như thế lần này thì ông sẽ đạt được sự siêu thoát. Và chính cái viễn tượng đó đã làm cho người tu sĩ già vừa sợ vừa kinh hoàng.
Tình yêu đơn côi của lão hòa thượng biến chuyển một cách kỳ lạ, tự lừa dối mưu mẹo, và cuối cùng ông có quyết định là đi gặp bà hoàng, ông đang ở trong tìmh trạng mơ màng mà ông vừa mới hồi phục sau cơn bệnh đã làm khô héo con người của ông. Người tu sĩ già lầm lạc này lại nhầm lẫn tìm niềm vui bằng cách hoàn thành quyết định của ông để hoàn phục và cuối cùng sẽ thoát được những ngăn trở trong tình yêu của ông. Không một ai ở trong cung của vị thứ phi lấy làm lạ cái cảnh tượng một vị tu sĩ già lặng lẽ đứng ở góc vườn, nương thân hình trên chiếc gậy và nhìn vào cung một cách buồn bã, vì những nhà sư phái khổ hạnh và những người ăn xin thường đứng ngoài những ngôi nhà lớn của kinh đô để chờ của bố thí. Một trong những tì nữ của người thứ phi đã để ý đến sự kiện này và nói cho chủ của nàng hay. Người thứ phi hờ hững nhìn qua bức màn che ngăn cách nàng với quang cảnh ngoài vườn, mờ mờ qua những cành lá xanh tươi là bóng dáng đứng gục đầu trầm lặng của người sư già khắc khổ trong chiếc đạo bào đen bạc. Một đôi lúc nàng lại nhìn ông ta, nhưng khi nàng sực nhớ rằng mình chẳng có chuyện gì để hỏi nhà sư này cả, người mà nàng đã nhìn thấy bên bờ hồ ở Shiga; sắc mặt của nàng tái đi.
Sau một thời gian không có một chủ định nào, bấy giờ nàng mới cho biết là không hề biết đến sự có mặt của nhà sư trong khu vườn của nàng. Các thị nữ của nàng nhận lệnh và lui ra.
Bây giờ, đây là lần đầu tiên nàng cảm thấy một nỗi lo lắng. Trước đây, suốt trong cuộc đời của nàng, nàng đã từng thấy có biết bao nhiêu người đã từng từ bỏ cuộc sống trần tục này, nhưng chưa bao giờ nàng dừng đôi mắt vào một ai đã từ bỏ cái thế giới tương lai của mình. Nàng cho là cái nhìn đó là một điềm xấu và là một nỗi khiếp sợ không thể nào diễn tả được. Nỗi vui mừng lớn lao trong dự tưởng mà nàng cầu xin là cái ý tưởng tình yêu của nhà sư biến nhanh đi tức khắc. Cái ý tưởng này còn mạnh hơn là sự việc ông ta đã từ bỏ cái thế giới tương lai của ông chỉ vì nàng, cái thế giới đó, bây giờ nàng đã nhận thức được rằng nó sẽ chẳng bao giờ đến với nàng.
Người thứ phi nhìn xuống áo quần thanh lịch của nàng và đôi bàn tay xinh đẹp, đoạn nàng nhìn ra vườn, nhìn vào hình dạng xấu xí của người sư già và nhìn vào cái đạo bào sờn rách của ông. Có một sự mê hoặc khủng khiếp nào đó đã móc nối những điều này lại với nhau.
Có sự khác biệt nhau là do ở cái nhìn sâu sắc! Vị lão hòa thượng bây giờ như một người đi cà nhắc vừa ra khỏi địa ngục. Nhưng bây giờ không còn gì lưu lại trên con người đức hạnh mà đã kéo lê theo sau mình cái hào quang rực rỡ của vùng đã từng vang dội ở trong tâm trí. Cái quang vinh của vùng đất Trong Lành, bây giờ đã hoàn toàn tiêu tan, như thế thì điều chắc chắn là con người đã đứng trên bờ hồ Shiga đồng thời cũng là một con người hoàn toàn khác biệt.
Cũng như hầu hết những người ở trong cung đình, vị thứ phi cũng có ý thức tự kềm chế những cảm xúc của mình, nhất là khi nàng đương đầu với điều gì đó mà làm cho nàng cảm kích sâu đậm. Bây giờ rõ ràng thấy mối tình của vị lão hòa thượng, nàng cảm thấy chán nản cho ý nghĩ về cái khát vọng quá đáng mà nàng đã từng mơ ước qua bao năm tháng, bây giờ xem như đó là một cái gì hư ảo.
Cuối cùng khi nhà sư già khấp khiểng trên chiếc gậy đến được kinh thành thì ông quên hết sự mệt mỏi. Ông thầm lặng tìm đường đi vào cung của người thứ phi vùng Kyogoku và đứng nhìn qua khu vườn. Sau những bức rèm kia, không ai khác hơn là vị phu nhân mà mình yêu, ông thầm nghĩ như vậy.
Bây giờ sự tôn thờ của ông được xem như một hình trạng tinh khiết, cái thế giới tương lai lại một lần nữa cố hết sức dẫn dụ nhà sư. Trước đây chưa bao giờ ông ta hình dung được vùng đất Trong Lành sao mà tinh khiết lẫn chua cay đến thế. Sự khao khát về việc này của ông ta hoàn toàn bởi tính nhục cảm. Không còn ý thức gì còn ở trong ông ngoài việc gặp vị thứ phi, bày tỏ tình yêu của mình, và như thế một lần nữa ông lại bước lên những ý tưởng không trong sạch mà nó đã trói buộc ông vào cái thế giới này và cũng vẫn ngăn trở ông đến được vùng đất Trong Lành. Ðó là những sự việc còn lưu lại để giải quyết.
Thật là khổ cho ông phải đứng tựa thân hình già nua của mình trên chiếc gậy. Những tia nắng mặt trời của tháng năm, rọi xuyên qua những những lá cây và chiếu xuống cái đầu trọc của ông khiến dần dần ông cảm thấy mất tự chủ, và nếu không có chiếc gậy thì có lẽ ông đã gục ngã. Và nếu như vị phu nhân hiểu đựơc hoàn cảnh của ông và mời ông vào diện kiến,được như thế thì xem như ước nguyện của ông đã được thỏa mãn! Vì thế lão hòa thượng vẫn chờ đợi. Ông đứng đợi và nuôi hy vọng trên chiếc gậy. Cuối cùng thì mặt trời được bao phủ bởi những đám mây chiều. Hoàng hôn xuống. Nhưng cũng chưa có một lời nào từ người thứ phi mời ông đến gặp nàng.
Dĩ nhiên là nàng không thể nào biết được rằng: vị tăng lữ này đang tìm vào vùng đất Trong Lành qua nàng. Thỉnh thoảng nàng lại nhìn qua bức rèm. Ông ta đứng bất động, ánh nắng chiều cũng nhạt dần trong khu vườn, nhưng vị sư già vẫn còn đứng đó.
Người thứ phi tự nhiên cảm thấy sợ hãi. Nàng cảm thấy rằng cái điều mà nàng nhìn thấy ở ngoài vườn là một hiện thân của "cội nguồn ảo ảnh" mà nàng đã đọc được trong kinh Sutras. Nàng đã chế ngự được nỗi sợ bị trầm xuống địa ngục. Vì bây giờ nàng lại quyến rũ một người tu sĩ dày đức hạnh, thay vì mong muốn vào vùng đất Trong Lành thì lại thấy địa ngục, một việc khủng khiếp khi nàng nghĩ đến điều nàỵ Một tình yêu vô thượng mà nàng đã từng mong ước đã vỡ tan nát. Ðược yêu như nàng vậy - nội tại đã hàm chứa khổ kiếp. Khi mà lão hòa thượng nhìn qua nàng để mà vào vùng đất Trong lành, thì hiện giờ nàng lại nhìn qua người tu già để xuống địa ngục khủng khiếp.
Vị phu nhân kiêu ngạo của vùng Kyogoku đã quá tự hào để không cưỡng nổi những nỗi sợ hãi mà không một phấn đấu, và bây giờ nàng cố gọi cái năng lực của cái tính vô tình thiên bẩm của nàng. Nàng tự nhủ người tu sĩ già sớm muộn gì cũng sẽ gục ngã. Nàng nhìn qua rèm che và nghĩ rằng bây giờ chắc lão đang nằm dài trên mặt đất. Ðiều khó chịu đối với nàng là hình dáng im lìm đứng bất động của lão hoà thượng.
Ðêm xuống và dưới ánh sáng trăng, thân hình của người tu sĩ trông giống như một đống xương.
Vị phu nhân không thể nào ngủ được với nỗi sợ hãi. Nàng lại nhìn qua rèm và xoay lưng ra phía vườn. Nhưng lúc nào nàng cũng cảm thấy hình như có một tia nhìn xuyên thấu của lão hòa thượng vào lưng của nàng.
Ðiều này nàng biết là không phải là một tình yêu bình thường. Vì nỗi sợ hãi vì được yêu, sợ phải đọa xuống địa ngục, vị thứ phi càng thành tâm cầu nguyện vùng đất Trong Lành hơn lúc nào hết. Đấy là vùng đất Trong Lành của riêng nàng mà nàng cầu nguyện - một vùng đất Trong Lành mà nàng cố đạt được mà không bị tổn hại đến tâm hồn của nàng. Ðó là một vùng đất khác biệt với vùng đất của nhà sư và nó cũng chẳng liên quan đến mối tình của ông ta. Nàng cảm thấy chắc chắn rằng nếu nàng không khi nào để ý đến ông ta thì mọi việc sẽ giải tỏa ngay tức khắc.
Nàng tự nghĩ, tình yêu của nhà sư chẳng dính dáng gì đến nàng. Ðó chỉ là mối tình đơn phương, mà tình cảm của nàng chẳng có tí nào cả, và không có một lý do nào để mà loại nàng không được vào vùng đất Trong lành. Ngay cả nếu như ông ta có chết đi, nàng vẫn không bị tổn hại gì. Khi đêm càng đi vào khuya và trời càng lạnh hơn, thì niềm tin tưởng đó bắt đầu bỏ rơi nàng.
Lão hòa thượng vẫn đứng trong vườn. Khi mặt trăng bị che khuất bởi những đám mây, ông trông giống như một người khác lạ, một cái bứu cây cổ thụ. Nàng nghĩ rằng cái hình tượng ngoài kia không quan hệ gì đến mình, bên cạnh nàng hoàn toàn là sự khổ não, và nàng chỉ muốn gào lên cho vơi bớt sầu não. Tại sao vì cõi Niết Bàn mà phải chịu khổ như thế này?
Vào một lúc nào đó, nàng hoàn toàn quên hẳn sắc đẹp của nàng, hay có thể nói một cách chính xác hơn là nàng tự kiếm cách nào để quên chuyện này.
Cuối cùng thì ánh sáng trắng nhạt cũng biến mất trên bầu trời và thân hình của tu sĩ già lại đón nhận ánh sáng bình minh. Ông ta vẫn đứng yên. Vị thứ phi đành phải chịu thua. Nàng gọi nữ tì và ra lệnh mời lão hoà thượng vào trong sân và quì bên ngoài bức mành.
Vị hoà thựơng đang ở vào trạng thái lãng quên trong khi xác thịt sắp gục ngả. Ông cũng không biết có phải là ông đã đợi người thứ phi hay là đợi cái thế giới tương lai. Vì thế mà khi ông nhìn thấy người hầu từ cung đi ra đến gần, ông cũng không ngờ rằng cái điều mà ông đang chờ đợi đã đến được trong tay.
Khi tì nữ chuyển lời mời của người thứ phi cho ông. Khi cô ta nói xong, vị hòa thượng hoàn toàn sợ hãi, và bật ra tiếng la không giống người. Người tì nữ cố cầm tay ông dẫn đi, nhưng ông rút tay lại và tự mình đi về phía ngôi nhà với những bước đi nhanh nhẹn dị thường và chắc chắn.
Ở phía trong của bức rèm lờ mờ tối nên bên ngoài không thể nào nhìn thấy hình dáng của vị phu nhân. Người tu sĩ đã quì xuống, hai tay ôm lấy mặt; ông ta khóc. Một lúc lâu ông đứng dậy không nói một lời nào và thân hình của ông run lên.
Nhưng rồi trong cái tối mờ mờ của rạng đông, một bàn tay trắng từ sau bức rèm từ từ đưa rà. Nhà sư chùa Shiga nắm lấy nó trong bàn tay của ông và áp nó lên trán và vào má của mình.
Người thứ phi vùng Kyogoku cảm thấy có một bàn tay lạnh ngắt sờ vào bàn tay của nàng. Và cùng lúc đó nàng cũng nhận biết có một chất nước âm ấm. Bàn tay của nàng bị ướt đẫm bởi nước mắt của một người. Và khi mà những tia sáng nhợt nhạt của ánh bình minh xuyên qua bức rèm rọi đến nàng, sự tin tưởng nhiệt thành của nàng được nhuộm bởi một sự cảm hứng huyền diệu: Nàng cảm thấy chắc chắn rằng: cái bàn tay của người nào đó đã sờ tay nàng không của ai khác hơn là của đức Phật.
Rồi thì cái mộng tưởng lớn dần, một lần nữa lại tràn ngập tâm hồn của người phụ nữ: mặt đất bằng ngọc bích của vùng đất Trong Lành, hàng triệu bảy-tháp-châu-báu, các thiên thần hoà nhạc, nhữ ng cái đầm vàng chảy ra những cát bạc, hoa sen rực rỡ, và những giọng hót ngọt ngào của chim Kalavinkas - mọi thứ hình như đều mới nảy sinh. Nếu đấy là vùng đất Trong Lành mà nàng được thừa hưởng - bây giờ nàng tin như vậy - thì tại sao nàng lại không chấp nhận tình yêu của lão hoà thượng?
Nàng chờ đợi người đàn ông với đôi bàn tay của Phật yêu cầu nàng vén tấm rèm ngăn cách nàng và ông ta. Bây giờ ông có thể hỏi nàng; và rồi thì nàng có thể gỡ bỏ sự ngăn cách đó và cái thân hình tuyệt đẹp của nàng sẽ ở trước mặt của ông như ngày nào đã xuất hiện trên bờ hồ ở Shiga; và nàng có lẽ sẽ mời ông bước vào phòng.
Vị thứ phi chờ đợi... Nhưng người tu sĩ già không nói một lời nào cả. Ông không đòi hỏi nàng một điều gì. Một lúc sau tay của ông lơi dần và bàn tay trắng như tuyết trắng của người thiếu phụ cô đơn còn lại trong ánh sáng của buổi bình minh. Người tu sĩ đã bỏ đi. Trái tim của vị thứ phi lại trở nên lạnh giá.
Vài ngày sau tin đồn đến vương đình là linh hồn của vị lão hoà thượng đã đạt được sự giải thoát cuối cùng ở trong tịnh thất của ông ở Shiga. Với cái tin này thì vị phu nhân ở kinh thành Kyogoku tập viết kinh Sutras từng cuộn từng cuộn giấy với nét bút rất đẹp.
Yukio Mishima
Vy Anh phỏng dịch