vhnt, số 162
18 March 1996
Trong số này:
thư vhnt................................................................PCL
T h ơ :
1 - Lời con đường hoang ...................................Ðức Lưu
2 - Tàng cây Bố ................................................Cỏ Nhớ
3 - Vô ngôn về metaphors ...................................Pham Chi Lan
4 - Bài ca nhân gian ............................Nguyễn Phước Nguyên
5 - Cho một cuộc tình ..........................................CỏMay
6 - Vô nhiệm ...................................................Hoài Nam
D i ễn Ð àn V ă n H ọc :
7 - Văn học có tính "quản trị"...................Nguyễn Tiến Dũng
8 - Giới thiệu sách báo trong tháng ..........................D N g/t
T r u y ện N g ắn / S án g T ác :
9 - Bà bán rau thì là .............Lại Thanh Hà / Ngự Thuyết dịch
"ý nghĩ về cái đẹp"
Hãy thử nghĩ đến những cái đẹp của đời sống, khi quanh mình đang có những chuyện bực mình, những nỗi buồn và lo lắng, xem có dịu đi phần nào sức nặng ép của cuộc sống... Một buổi bình minh với mầu sắc chói chang chinh phục bầu trời rực rỡ, một hoàng hôn thiếp dần cuối chân trời lịm vào bóng tối, khe suối và những hồ nước trong suốt, cái đẹp điên cuồng của biển trong cơn bão, nét quyến rũ thẹn thùng của hoa lá e ấp đầu mùa xuân, cảnh bao quát mênh mông của núi rừng, sự thinh lặng của cánh đồng cỏ, tiếng leng keng của chiếc phong linh, tiếng hát của chim chóc, và những đóa hoa cười nụ cười làm thân... Ðó là những vẻ đẹp của thiên nhiên, ở đâu cũng có thể tìm thấy nét đẹp với cái nhìn của mỹ cảm. Nhưng có những nét đẹp sống động và ấm áp có thể tìm thấy, một cách thật bất ngờ, trên những gương mặt, đôi mắt, những cửa sổ tâm hồn từ những nhân cách và trái tim toát ra.
Nét đẹp có tác động làm rung động, là nét đẹp tinh thần. Có những người là một bức tranh, là một tác phẩm với ánh sáng và bóng tối hòa lẫn tạo ra được vẻ đẹp khác biệt, mà có khi, người ta nhận ra ở một góc độ ánh sáng và bóng tối được bộc lộ - Như là tình thương, như là tình thân, như là tình yêu!
Có rất nhiều cách biểu lộ nhân cách tinh thần, mà trong đó, có nhân cách chọn cách sáng tạo. Một nhân cách dùng để bộc lộ tình thân, tình thương, và tình yêu cho người, và cho cả thiên nhiên, qua sự đam mê và thương yêu dành chính cho sự sáng tác...
Chúc bạn đọc một ngày tinh thần nhẹ nhàng.
thân ái,
PCL/vhnt
Lời Con Đường Hoang
Tự bao lâu cũng không ai rõ được
Ta nằm đây gắng gượng giữa phong ba,
Mặc năm đài tháng rộng cứ trôi qua,
Mặc nắng cháy, lẫn mưa sa dồn dập.
Chính ta đó, con đường hoang cô độc.
Không bóng râm, không một gốc tre già,
Hừng hực nắng hè gặm nám thịt da
Ta thoả chí gào la cùng gió xiết
Ta yêu lắm những ngày hè khắc nghiệt
Vắng bóng người, thưa hẳn tiếng chim ca
Văng vẳng bâng quơ dáo dác tiếng gà
Càng nung đỏ một ngày hè chết lặng.
Rồi đêm xuống khi hoàng hôn khuất dạng
Ta thu mình lặng ngắm ánh trăng tan
Tận hưởng côn trùng rỉ rích kêu than
Nghe mùi gió giữa đêm tàn man dại
Mùa nước lũ - Lòng ta càng khoan khoái
Gió lộng hành tung đỏ đám bụi hoang
Nước đục giận run hối hả tuôn tràn,
Rồi man dại phủ muôn làn sóng bạc
Những khi ấy thịt da ta khoái lạc
Nghe vạn roi đòn hối hả hằn lên
Trên mình ta, con đường nhỏ không tên
Con đường đất bị bỏ quên trơ trọi...
Chẳng thiết đau thương, chẳng màng buồn tủi
Khi nghĩ về những thế giới xa xôi
Kèn trống âm vang, phố thị đông người
Và quanh đó những đường tươi hớn hở
Những con đường xanh đủ màu hoa nở
Ðang uốn lưng, khoe lối phẳng cây trồng
Ðường nép mình ven những dãy thông
Mưa như nắng vẫn ung dung nhàn hạ.
Kìa những đường thơ Thu về, hối hả
Tự ướm mình sau lớp lá vàng xinh
Thiêm thiếp trộm nghe trai gái tự tình...
Vô tư lự ru mình trong tiếng gió
Xa xa kia, những con đường loét lở
Cũng được nâng niu xoa thuốc, xức dầu
Ðã mấy ai từng khinh bỏ chúng đâu,
Nhàn hạ sống, chẳng âu sầu, tư lự...
Có những đêm ta lắng giòng tâm sự
Thoả mãn, tự hào thay số phần ta
Dẫ sinh ra cùng dưới một vòm trời
Tuy khoác vội một mảnh đời khốn khó
Ta thừa hiểu - Ta, con đường hoang nhỏ
Chẳng học làm sang, chẳng thích trèo cao,
Vốn sinh ra từ một chốn quê nghèo
Nào mơ tưởng những nuông chiều vun xới,
Những lối tỉa châm, vun trồng giả dối
Là những tầm thường nguỵ tạo bên ngoài
Ta nằm đây, con đường đất xơ xài
Vẫn yêu chuộng một hình hài đạm bạc.
Sưởi ấm ta? Ðây những ngày nắng hạn.
Tắm mát ta? Là những lúc mưa ngâu.
Ánh trăng vàng làm đèn sáng đêm thâu.
Côn trùng sẵn, mỗi đêm sầu trỗi nhạc.
Hãy yêu ta, con đường quê môc mạc
Con đường mòn em xoá vết chân qua
Mỗi dạo trưa hè khi trống điểm xa,
Ta vẫn đợi gót hồng em trở lại
Ta hoang dã, nhưng nặng lòng ưu ái.
Ta cơ hàn, nhưng giàu nghĩa vị tha.
Vì chính nơi này em đã sinh ra,
Dòng sữa mẹ cũng chính ta nuôi dưỡng.
Em đã trót sinh ra và khôn lớn
Trên mảnh đất này em chối được sao?
Ta thăng trầm nhưng không bỏ em đâu.
Ðã là me, vòng tay ta vẫn đợi.
Con đường nhỏ, em ơi, xin nghĩ tới,
Có vui chăng cũng nhớ đến quê nghèo
Thân chuối buồn đang ủ rũ hắt hiu
Lay theo gió vào những chiều cô vắng
Chớ quên ta trong những trưa vắng lặng
Nhớ về ta trong những lúc xa xôi,
Con đường mòn bé bỏng, đơn côi...
Ðức Lưu
Tàng Cây Bố
Bố mang tình Mẹ chắt chiu
vượt qua hình thức giáo điều khắt khe
nặng tình nặng nghĩa phu thê
10 năm Bố Mẹ vẹn thề có nhau.
Như tàng cây rộng thân cao
Bố thiêng liêng tỏa bóng vào đời con
nhưng đời phước hạnh chưa tròn
Bố trôi theo vận nước mòn mỏi xa.
Nỗi buồn của trẻ không cha
lớn khôn theo sóng phong ba biển đời
từng dòng nước mắt Mẹ rơi
dài theo năm tháng chia phôi não nùng.
10 năm sau mới trùng phùng
tình xưa về với thủy chung 1 nhà
lớn khôn con mới có cha
nhưng lòng vẫn bé như là lúc xưa
tàng cây Bố mát sớm trưa
đời con phước hạnh từng mùa Bố ơi.
Cỏ Nhớ
Vô Ngôn Về Metaphors
Trở về giữa cơn biến động thân xác
không có mẹ ở cạnh để xoa dịu vết thương
bước vào bóng tối
đụng phải bờ tường
im lặng bóng tối...
mặt trời quay,
mặt trời xoay quanh đời tôi
mặt trời quay mặt trời chóng mặt
những chu-kỳ-sáng-tối chóng mặt
bóng tối xõa tóc ngồi chờ
một ngày bỏ trốn vào sau núi dãy núi
Tôi không còn nhỏ để ủ mặt mình vào lòng đôi bàn tay
đôi bàn tay chờ một ngày vuốt mặt
không thể tự làm đẹp hơn
cuộc sống
mặc thời gian tàn rữa
như hạnh phúc
như ý niệm mơ hồ về con người
và sự sáng tạo ra cái đẹp
như lớp son phấn buổi sáng
và ảo giác của buổi tối
tự đánh lừa mình hay đó là chiếc bóng trong gương?
Tôi không biết nói gì, nghĩ gì với khoảng trống và thời gian
bởi chẳng có gì tồn tại vĩnh cửu
cất hết mọi kỷ niệm vào chiếc rương khóa kín
như khóa kín đời vào trong thân xác này
chịu chung một niềm hiu quạnh
Cảm giác buổi sáng lái xe đến ngồi nơi một băng ghế trống
trong công viên nghĩa trang có những ngôi mộ thản nhiên
từ đàng xa có tiếng còi của một chuyến tàu
trên tuyến tàu mà tôi không hề biết con đường rầy
nằm ở đâu.
đi đâu? từ đâu đến?
nghe trong gió một vài chiếc lá lào xào
giữa khoảng không im bặt cảm xúc cũng bặt im!
Tôi vẫn không biết nói gì, nghĩ gì với khoảng trống
mai sau thời gian không có tôi
không có ai bào chữa cho mình
về một mặt trời chóng mặt
về bóng tối của một ngày bỏ đi
và cả những biểu tượng
của một bài thơ -
Neruda nói về những metaphors
khi đứng sững nhìn núi
tay cầm dao lột vỏ củ hành, tháo dần từng lớp áo mỏng
càng đi dần vào từng lớp bên trong,
càng khơi vào mạch nguồn nước mắt
người ta chỉ có thể khóc được khi vào đến tận lõi cùng
của một củ hành
(mà từ ở xa có thể bưng mũi bỏ chạy)
mỗi tạo vật là một biểu tượng
một cách tuyệt vọng cho chính nó
củ hành tôi -
xin nhà thơ hãy nương tay
mà dừng lại ở lớp vỏ thứ nhất.
Phạm Chi Lan
March 1996
bài ca nhân gian
nhiều khi
ta muốn tẩy đi một phần dĩ vãng,
nhưng cuộc sống không như những nét viết chì.
bởi linh hồn không còn là tờ giấy trắng -
sặc sỡ muôn màu
rối loạn,
cuồng điên.
vẽ mình an nhiên
nhìn cuộc đời
bàng quan,
tọa thị.
mà trong tim vẫn còn
nỗi buồn bất trị
gào tên.
muốn đưa tay bám víu mộng ước
bay
lên,
sao đôi chân vẫn vùi sâu trong mặt đất
(những vướng mắc cưu mang !)
ôi, hợp...
ôi, tan...
ôi, trăm ngàn người quen biết...
trả cho tạo hóa xoay vần
thành một chiếc kim đâm.
ngoảnh mặt mười năm,
ngó lại một lần -
nghe đau buốt những đơn thuần nhỏ dại.
thôi, áo quan đâu
hãy đưa ta mặc lại
chôn kín hình hài cho nhân loại reo vui.
hạt cát bay đi.
hạt bụi bay về.
ai
đi giữa chợ
nghe
bốn bề
câm
lặng.
ta sẽ dừng chân
mặc đường đời trăm chặng.
hóa đạo thành đời,
chấm dứt cuộc chơi.
nguyễn phước nguyên
Cho Một Cuộc Tình
Anh đã đi và đã chẳng trở về
Ðỏ trời chiều một ráng thương đau
Anh ra đi đem hết cả nụ đời
Ngày mịt mù và đêm thở rất sâu
Anh đã đi và đã chẳng trở về
Ðể một mình tôi quên mất tương lai
Ðưa tay ra, tay trắng, mộng chẳng còn
Nhìn cuộc đời lòng tôi qúa hoang mang
Anh đã đi và đã chẳng trở về
Lặng lẽ cười, tôi ngồi ngắm đơn côi
Ði đi anh, đem theo cuộc tình dài
Cuộc tình tròn như cơn lốc mê điên
Quên đi anh, quên kẻo lại sầu
Cuộc tình nào không "sắc sắc không không"
Cỏ May
Vô Nhiệm
Ngây ngô như đứa trẻ
Nụ cười ẩn suy tư
Cõi tạm, đời, hư nghĩa
Khi tàn cuộc cũng về
Tim vỗ bờ vô thức
Tay nới rộng cưu mang
Mộng bình du gối giấc
Ðêm gọi ngày man man
Thoát không ngoài nét mực
Những tình nghĩa phai phôi
Như cuộc đời thoáng đến
Như gió quyện mây trôi
Hồn bình yên một sáng
Tan vào nắng ban trưa
Chút hoàng hôn xót lại
Giấc ngủ - Ðời qua chưa?
Những an thường khép kín
Sau nếp đời hư không
Duy tâm vào trầm lặng
Nhòa lối rẽ, từ trong
Hoài Nam
Văn Học Có Tính Quản Trị
Ðọc xong bài Văn Hoc gối vụ của Văn Chính, chưa kịp có ý kiến thì đến bài "Tự do và đỉnh cao nghệ thuật..." của anh Lưu Ðức. Cả hai bài chỉ làm tôi thêm buồn, vì nhận thấy bao nhiêu năm qua, dưới sự quan tâm của nhà nước, các nguồn sáng tạo của các văn nghệ sĩ đã bị bóp nghẹt, dập tắt của các vị có chức năng trong Ban Văn Hoá, có chức cao quyền trọng nhưng mù tịt về nghệ thuật. Làm sao mà có được một tác phẩm đích thực khi mọi chuyện lựa chọn chỉ chạy theo chỉ tiêu, theo chỉ thị của vài đấng có quyền có chức, dùng ánh sáng của những chủ nghĩa xa lạ để xét soi, chiếu rọi những tác phẩm bằng tim máu của các văn nhân nghệ sĩ. Bởi vậy tôi không thấy làm lạ khi những tác phẩm được giải chỉ được đánh giá là "lửng lép", không ngạc nhiên khi Phan thị Vàng Anh không được giải, không tò mò khi Nguyễn Huy Thiệp bây giờ ít viết đi mà lại mở một quán nhậu, đi làm một anh chủ nhà hàng...
Cái chuyện các nhóm nhạc rock phải có giấy phép mới hoạt động được chẳng phải mới mẻ gì. Trở ngược lại thập niên 1980, các nhóm ca khúc chính trị đều phải núp dưới danh nghĩa của các xí nghiệp, hợp tác xã thì mới được dự thi hoặc trình diễn trên các sân khấu. Nghĩa là Nhà Nước muốn quản lý mọi hoạt đông văn hoá nghệ thuật mà đại diện ở đây là Sở Thông Tin Văn Hoá thành phố. Buồn cười nhớ lại hồi đó có lần ca sĩ Nhã Phương bị cấm hát một thời gian chỉ vì trong khi diễn, cô đã nhảy nhót quá bạo trên sân khấu và bị đánh giá là chịu ảnh hưởng của tàn dư Mỹ Nguỵ, hoặc vài tay đàn trong ban Ðại Dương bị kiểm điểm vì tóc tai dài loòng thoòng theo kiểu the Beatles. Sự thiển cận, ngu dốt của một số viên chức có trách nhiệm đã làm đình trệ bao hình thái văn nghệ thời bấy giờ. Cũng giống như nhận xét của một vị tai to mặt lớn về chiếc áo dài hồi đó " Chiếc áo dài tượng trưng cho tiểu tư sản". Thật hết biết. May quá, hiện giờ chiếc áo dài dân tộc đã được trở lại với các em nữ sinh, làm trầm trồ điên đảo những du khách ngoại quốc mỗi khi gặp các em tan trường về.
Có đọc cái mail của X. nói về mấy cái mini revolution về văn học ở TP. HCM. Theo tôi đó chỉ làm vì cho có, lâu lâu lại quậy lên một lần rồi thôi. Thực chất là luôn luôn nhà nước lãnh đạo, mọi hình thái văn nghệ phải có sự chỉ đạo từ trên, mọi tác phẩm phải phục vụ cho nhân dân, cho nhu cầu đòi hỏi của mỗi thời kỳ. Dù có biến thái tới đâu, dù có thay đổi tới đâu, vẫn có bàn tay kiểm soát của tổ chức, để uốn nắn những lệch lạc, sai trái nếu có. Lâu lâu có đổi mới, nhưng tôi vẫn hoài nghi. Hồi còn ở VN, hồi năm tám mấy, cả Hà Nội và thành phố HCM như điên lên, đón nhận những vở kịch của Lưu Quang Vũ vạch trần những thối nát, tiêu cực trong nội bộ Ðảng, để rồi một ngày đẹp trời được tin anh và vợ, là nhà thơ nữ Xuân Quỳnh, với cháu bé đã bị qua đời trong một tai nạn xe cộ trên đường phố Hà Nội. Lúc đó, ai nấy đều đặt câu hỏi phải chăng đó chỉ là dàn cảnh? Dương Thu Hương, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Phan Thị Vàng Anh... những khuôn mặt nổi loạn trong làng văn nghệ hiện nay trong nước, liệu sẽ làm được gì?
Chờ xem.
Dũng Nguyễn
Giới Thiệu Sách Báo Trong Tháng
Nhạc Thời Gian
Truyện dài của Thẩm Oánh, Minh Văn xuất bản 1995, 120 trang, giá US$8.00, ngoài Hoa Kỳ $9.50. Liên lạc: Minh Văn, Falls Church, VA 22042, USA. Tel: (703) 698-8490.
Chúng ta đều biết Thẩm Oánh là một nhạc sĩ nổi danh thuộc thế hệ những nhạc sĩ đầu tiên xây dựng nền tân nhạc Việt Nam, nhưng ít ai biết ông đã từng viết văn, làm báo. Nhạc Thời Gian là quyển truyện dài đã được Thẩm Oánh viết cách đây nửa thế kỷ, đăng trong tờ nguyệt san Việt Nhạc, ấn hành khảng năm 1943 đến năm 1950. Ðây là lần đầu tiên cuốn truyện này được in thành sách.
Khung cảnh của câu chuyện là Hà Nội của thập niên 40, trong đó có những thanh niên nam nữ yêu nhau và yêu âm nhạc, cùng nhau mang tài năng tâm huyết xây dựng cho nền âm nhạc còn phôi thai của nước nhà. So với sách vở thời ấy, lý tưởng xây dựng nền âm nhạc là một đề tài mới lạ. Có thể đây chính là hoài bão của tác giả và những nhạc sĩ đồng thời của ông vào những năm nền âm nhạc của ta mới thành hình, và cuốn sách này phần nào giúp chúng ta thấy được nhờ những bước mở đầu trăn trở như thế chúng ta mới có được một nền nhạc phong phú như ngày nay.
Cay Ðắng Mùi Ðời
Truyện dài của Hồ Biểu Chánh, Minh Văn tái bản tại Hoa Kỳ 1995, 157 trang, giá US$8.00, ngoài Hoa Kỳ $8.50. Liên lạc: như cuốn trên.
Cuốn tiểu thuyết này xuất hiện lần đầu cách đây 73 năm, vào năm 1923. Tác giả, Hồ Biểu Chánh, là một nhà văn tiền phong của nền văn chương cận đại Việt Nam, đã được đọc rất rộng rãi và được mến chuộng suốt cuộc đời viết văn rất dài của ông. Nhà xuất bản Minh Văn in lại Cay Ðắng Mùi Ðời tại Hoa Kỳ với sự ủy nhiệm của cháu nội đích tôn của tác giả, ông Hồ Văn Kỳ Thoại.
Cay Ðắng Mùi Ðời là sách phóng tác từ một quyển tiểu thuyết Pháp nhưng người đọc không hề nhận ra một dấu vết tây phương nào, ngoài những nét lớn của cốt truyện. Tác giả chỉ mượn cái sườn câu chuyện và dựng lại với chất liệu hoàn toàn Việt Nam, hay rõ hơn, của Nam Kỳ Lục Tỉnh. Văn Hồ Biểu Chánh có nhạc điệu riêng, đọc lên là thấy ngay Nam Kỳ xưa, chất phác và nặng đạo lý, một thứ Nam Kỳ ròng, nguyên chất hơn những sách về "miệt vườn" xuất hiện sau này.
Vietnam, A Traveler's Literary Companion
Tập truyện ngắn Việt Nam dịch sang tiếng Anh, Whereabouts Press xuất bản, John Balaban và Nguyễn Quí Ðức tuyển chọn, 239 trang, giá US$12.95. Liên lạc: Whereabouts Press, San Francisco, CA 94118.
Sách gồm bốn truyện của Nguyễn Huy Thiệp, và các tác giả khác mỗi người một truyện: Dương Thu Hương, Phạm Thị Hoài, Hồ Anh Thái, Lê Minh Khuê, Doãn Quốc Sỹ, Bảo Ninh, Nguyễn Quý Ðức, Andrew Q. Lam, Thích Ðức Thiện, Vũ Bảo, Linh Bảo, Quý Thể và Nguyễn Bá Trạc. Các truyện được dịch bởi nhiều người khác nhau (trừ hai truyện viết thẳng bằng tiếng Anh của Nguyễn Quí Ðức và Andrew Q. Lam): Phan Huy Ðường và Nina McPherson, Greg Lockhart, Nguyễn Quí Ðức, Hồ Anh Thái và Wayne Karlin, Võ Ðình Mai, Trần Quý Phiệt v.v...
(Trích đăng Thế Kỷ 21-March/1996)
Bảy năm về trước, tôi đã gặp người bán hàng rong đó. Lúc đưa mẹ đến chợ Việt Nam, tôi thấy một bà già đứng trước chợ, rất gần với nhân vật trong truyện "The Dill Peđler." Bà đang bán rau, có lẽ là rau thì-là, nhưng điều tôi nhớ rõ nhất vẫn là sự quyết chí ở trong đôi mắt của bà.
Năm 1990, tôi rời Orange County để theo học cao học tại Ðại học Massachussetts ở Amherst, và trong thời gian theo học ở đây, tôi bắt đầu sáng tác. Từ lâu, tôi biết là mình thích viết văn, nhưng vẫn không dám thú nhận. Không ai trong gia đình tôi sống nhờ nghệ thuật, và tôi cũng không quen biết một nghệ nhân nào. Nhưng lòng ham thích viết văn vẫn thúc bách tôi.
Một hôm nọ, trong lúc đang ngồi nhà ở Amherst, bên ngoài trời lạnh và ảm đạn, tôi nghĩ đến bà bán rau trước cửa chợ. Có lẽ tôi nhớ nhà, có lẽ tôi muốn nghĩ đến một vài khuôn mặt thân quen. Tôi nghĩ ra một câu chuyện, một mục đích cho bà. Tôi muốn bà đại diện cho người Việt, và những người bà gặp gỡ tiêu biểu cho từng thời kỳ trong lịch sử của người dân Việt.
Tại sao những truyện của tôi đều lấy người Việt làm nhân vật? Tại sao? Bởi vì nhũng gì họ nghĩ, những khổ đau cũng như hạnh phúc của họ đã làm tôi say mê. Tôi ưa dành nhiều thì giờ tìm hiểu tâm tình họ. Ðó là cách tôi duy trì sự liên hệ với giòng giống. Ðiều tôi biết chắc chắn là khi viết về họ, tôi là con người Việt Nam hoàn toàn, đủ nghĩa.
Tôi đến Mỹ năm 1975, lúc tôi mười tuổi. Ban đầu gia đình tôi cư ngụ ở Alabama, sau dó dời về Texas. Học xong đại học, tôi về Orange County năm 1988 để làm viêc cho nhật báo Orange County Register. Sau đó tôi qua miền đông, và mới gần đây đã trở lại Orange County. Tôi đang viết cho nhiều ấn phẩm và hoàn tất cuốn tiểu thuyết đầu tay.
Bà Bán Rau Thì-là
Từ trong phòng bà Năm nghe được hai con chích choè gọi bà. Bà bảo chúng im. Bà đã sửa soạn sẵn sàng sau khi bới lại mái tóc bạc thành cục búi tó sau đầu, mặc chiếc quần dài đen, cái áo nâu, và khoác áo len màu xám; tất cả đều tự may tại nhà, chẳng khác gì những y phục mà mẹ bà, bà của bà đã từng mặc, đời này qua đời khác.
Bà Năm đi ra khỏi cổng sau, lấy tay xua hai con chim, lên tiếng với chúng bằng cái giọng líu lo như chim kêu. "Tao biết rồi, tao biết rồi. Ðừng làm ngứa tai tao nữa. Tụi mày muốn đánh thức con trai tao sao." Hai con chim bay đi. Chúng làm xong nhiệm vụ.
Bà đi quanh sân, dừng lại tại mỗi cây thì-là, hết cây này đến cây khác, đầu gật gù. Thế là rau này sẵn sàng đem đi chợ bán được rồi. Rau thì-là mọc khắp nơi, cạnh cái xích đu, trong thùng cát, dưới cây táo. Mấy năm trước đây bà Năm gầy một vườn rau, nhưng cỏ mọc tràn mọi nơi có đất trống. Chỉ có thì-là mới sống sót, nó ít cần được săn sóc hoặc tưới nước. Rồi gió thổi hạt bay đi khắp sân, đến mùa xuân hạt thì-là nẩy mầm mọc vượt lên trên cỏ. Bà ngồi cạnh một khóm thì-là, bắt đầu ngắt những nhánh nhỏ kết hợp bởi vô vàn những chiếc lá lăn tăn như hạt tiêu xay. Bà lấy làm lạ khi thấy rằng chỉ trong một tháng những nhánh mới đã thay thế những nhánh bị cắt. Bà xếp nhánh rau vào rổ, thận trọng nâng niu từng cuống lá mềm, thế mà vài cọng vẫn bị gãy đi khiến cho mùi cay cay bay lên nồng cả lỗ mũi. Bà cố nén không cho hắt hơi. Bà lầm bầm "Bọn trẻ phải lo canh chừng người ngoài, người già phải để ý những người trong nhà", rồi bà chống một bàn tay xuống mặt đất ẩm đứng dậy. Bà đi khom lưng như thể là để ôm cứng lấy cái rổ rồi bước đến một khóm thì-là khác. Mỗi lần bà ngồi xổm xuống, cả thân hình bà đè nặng trên đôi chân yếu ớt, nên bà thấy mệt hơn. Tuy vậy bà vẫn đi hết khóm này đến khóm kia để ngắt bỏ những cành mới bị gãy. Khi sắp đầy rổ, bà cột mười nhánh với nhau thành một bó. Ðược tất cả là năm chục bó.
"Chà chắc mặt trời đã đổ lửa rồi?" Bà đưa ngón tay trỏ vẫy vẫy về phía mặt trời Nam Cali. Tuy nóng thế bà vẫn mặc chiếc áo len để coi cho được mắt khi ra khỏi nhà. Bà chống gậy đi trên lề đường đến trạm xe buýt ngừng. Ngay khi đến xứ này bà đã đi trên những lối đó. Thoạt tiên bà không vững bụng cho lắm nhưng bà chợt nghĩ rằng tại đất Mỹ rác rến đều nằm dưới những đường cống kín đáo và bà có thể bước trên những đường tráng xi măng màu xám sạch sẽ. Bà không biết chắc mình có còn thích cái gì khác ở nơi này, ngoài những lối đi tráng xi măng màu xám thật sạch sẽ đó. Thỉnh thoảng bà dừng chân tháo cái nón rơm ra, đưa cánh tay áo len quẹt ngang trán. Cái nón đó dùng cho người Mỹ đầu to tướng nên nó tuột khỏi đầu bà hoài. Thế là bà làm cái quai vải màu vàng và đỏ trông rực rỡ như màu xoài chín. Cũng cái anh chàng tài xế da láng xầy đón bà. Bà tự nhủ không nhìn vào mặt hắn, nhưng rồi lần nào bà cũng nhìn. Khi chào bà, cặp chân mày của hắn nhíu lại trông giống hai con sâu róm đen nhăn nhúm. Bà nhắm mắt lại, nhưng quá trễ. Hắn luôn luôn có mặt ở đây ngay từ lần đầu tiên đứa cháu bà đưa bà đến chiếc xe buýt này. Hắn ta cũng luôn luôn mặc áo quần giống như bà, quần đen áo sơ mi và áo len cài nút từ trên xuống dưới. Hắn có cái dáng của một người Tàu nhà quê sống trong một thành phố lớn. Bà biết rằng mình cũng có cái dáng đó nhưng bà không quan tâm. Bà đi vội lên hàng ghế đầu. Bà đã bị ngã hai lần khi xe buýt khởi sự chạy tới. Lúc đó hắn là người ân cần nhất giúp bà đến ghế ngồi và nói những tiếng nghe lạ lạ như là "Xin lỗi" vậy. Ðến gần chỗ trạm xuống, bà cầm một mảnh giấy rách và vẫy. Không cần đọc hắn cũng hiểu, hắn cho bà xuống ngay.
Bà Năm đứng lẫn lộn trong đám đông trước Siêu thị Bình Dân. Ðó là vào một ngày thứ Bảy. Những cặp vợ chồng trẻ ăn mặc đẹp đẽ vào vào ra ra tấp nập mang thực phẩm và con cái hội nhập vào nhịp sống của họ. Bà đến gần trong khi họ cho đồ vào các bao bì, rồi bà giữ lấy tay hỗ ít người bỏ đi được. Bà biết rằng lẽ ra bà không nên bán thì-là nơi đây. Trước kia, người chủ siêu thị trả bà năm chục cents mỗi bó nhưng sau đó bà đến trễ và một người đàn bà khác chiếm lấy mối. Người chủ siêu thị cười khi bà từ chối lời đề nghị trả bà mười cents một bó, cho nên bà tự mình bán rau thì -à ngay trước cửa hiệu của ông ấy. Người mua đầu tiên ngày hôm đó trả bà một Mỹ kim mỗi bó, không thèm mặc cả. Tháng trước, người chủ tiệm bắt gặp bà đang bán rau rồi la ó lên rằng bà đã tranh giành quyền lợi của ông ấy. Bà nuốt giận bảo ông ta "Ông mới là người moi ruột của khách hàng để lấy tiền." Rồi bà đem thì-là bán ở cuối đường nhưng cả ngày chỉ bán được hai mươi sáu bó." Bà lẩm bẩm: "Sao vẫn có nhiều người đến mua đồ tại cửa hàng anh chàng này, cái anh chàng mũi lõ giống như cái vòi bình trấ Thật khó hiểu. Giòng máu Pháp hẳn đã ngấm vào trong gia đình này cả trăm năm rồi."
Bà Năm lại nhìn mặt trời. Cằn nhằn trời nắng chói, và vì đã bán được mười hai bó, Bà tìm chỗ ngồi nghỉ. Nghĩ rằng ngồi trên chiếc ghế gãy là quá lộ liễu, bà đành ngồi tựa vào tường. Bà mò tay trong bị để kiếm cau trầu. Lá trầu và hạt cau bà gói trong giấy thiếc, vôi trong bao nhựa. Bà quẹt vôi vào giữa lá trầu rồi chụp nó lên trên hạt cau. Xong xếp lá trầu quấn quanh hạt cau. Bà bắt đầu nhai, vị cay nồng chích vào lưỡi làm bà tỉnh cả người. Rồi bà nhắm mắt lại vừa nhai trầu vừa hướng về phía mặt trời. Nước trầu biến thành đỏ ngoét, một ít lọt xuống cổ họng. Bà nán thêm vài phút hưởng cái cảm giác cay cay trong mồm rồi nhổ bã trầu vào ống nhổ có nắp đậy. Con trai của bà đã cảnh cáo rằng nước trầu sẽ ăn mòn ruột của Bấ Bà cho rằng hắn chẳng hiểu gì cả. Người làng của bà chẳng đã sống mãi cho đến già đó sao? Ngoài ra nhai trầu làm thơm miệng, răng sạch và cứng.
Trên người, bà tự hào nhất về hàm răng đen nhánh. Vào cái thời son trẻ bà nổi tiếng về hàm răng của mình và bà biết chắc rằng chồng bà cưới bà cũng nhờ hàm răng đó. Nhưng dù sao chăng nữa hàm răng đó cũng chứng tỏ bà có kỷ luật. Một số các cô con gái không nhịn đói giỏi như bà nên đành phải chùi thuốc nhuộm hàm răng đi khiến cho răng mang cái màu nâu nâu đỏ đỏ suốt đời. Bà sụt mất hơn mười ký trong tháng bà nhuộm răng. Bà không biết cách nhuộm răng, chỉ nhớ rằng bà phải há mồm nhiều tiếng đồng hồ để cho ông thầy thuốc Nam bôi thuốc vào răng mỗi lần. Thoạt tiên răng đỏ lên, bà chỉ ăn được cháo, nhưng phải đổ xuống tận cổ. Cuối cùng thuốc đổi màu đen và đóng cứng quanh răng giữ răng khỏi bị sâu. Bà Năm chợt thấy một người đàn bà trẻ tuổi ra dáng chịu xài tiền. Bà tiến gần người đó, bước chậm hơn và lưng cũng khom hơn thường lệ. "Lại đây, lại đây này. Tôi có đúng thứ rau để nấu canh chua cá lóc. Cho nó vào canh sẽ thơm lừng. Mới hái sáng hôm nay thôi. Có rau này vào thì bất cứ cá gì cũng hết tanh."
Người đàn bà trẻ tuổi tỏ vẻ lúng túng, cầm lấy một bó thì-là bà vừa chìa ra.
"Một Mỹ kim lận hả?"
"Nước tưới đã tốn hơn số tiền đó rồi. Làm ơn giúp tôi đi, có thiệt hại gì đâu?"
Người đàn bà cười xòa và đưa thêm một Mỹ kim. Bà Năm gật đầu, mỉm cười, ngẫm nghĩ, "Cái bọn trẻ tiêu tiền phí phạm. Nhưng mà giúp bà già còn hơn bỏ tiền ra làm tóc cho nó dựng đứng lên như lông nhím."
Mới xế chiều bà đã bán được ba mươi bốn bó. Bà lấy dây cao su cột tiền lại với nhau rồi nhét vào trong cái túi may nơi quần lót. Bà cẩn thận cài kim băng nơi miệng túi. Trong những năm bán rau quả ngoài chợ, bà đều cất tiền cái kiểu đó nên không bao giờ bị móc túi. Bà rùng mình nhớ lại cái thời bà phải ngày ngày cứ năm giờ sáng là đi mặc cả với những người từ vùng quê chở rau quả vào thành phố, rồi bà ngồi ngoài chợ suốt ngày bán mớ hàng đó cho những bà nội tr Không có ai mua gì mà không mặc cả, họ trả giá từng xu. Ðó là cái lối phụ nữ thuộc giai cấp bà thường làm. Hồi đó bà không bao giờ thắc mắc về cái ý nghĩ lấy chồng sớm, sinh đẻ con cái rồi dành gần trọn cuộc đời mình để nuôi nấng chúng. Trong những năm làm ăn khấm khá, chồng bà mang tiền về nhà nhưng khi chiến tranh leo thang ông chồng phải đi lính. Và tử trận. Mọi trách nhiệm đổ lên đầu bà. Bà nhớ là bà rất tự hào vì kiếm được cơm ăn áo mặc cho cả gia đình. Mọi góa phụ đều như thế, làm việc đầu tắt mặt tối cho mục tiêu chung, mà thật sự không biết sẽ mang lại được gì. Và bây giờ con cái đã lớn, bà tự hỏi liệu trước kia bà có thể làm được gì khác không mặc dù cái điều khác đó cũng rất mơ hồ như những lý do khiến bà làm những gì mình đã làm.
Có ai đánh rơi một vật gì đô Khi nhìn lên bà nghĩ rằng ông chủ cửa hàng đang đi ra. Bà vội tiến về cửa hàng vải, đầu cúi thấp, và thân hình tựa vào chiếc gậy chống.
Bà đụng phải một người nào đó và có lẽ đã té ngửa nếu không có hai cánh tay của một người ôm lấy bà. Cái bị của bà rơi và những bó thì-là nằm vung vãi trên mặt nền xi măng. Có người trao cho bà một bó thì-là. Bà nhìn lên thấy khuôn mặt bầu bầu và nghiêm khắc của người đàn bà đội nón xanh. Bà Năm ngẫm nghĩ: "Hẳn anh chàng mũi lõ gọi bà này tới." Khi người đàn bà đó nói, đôi má phì nộn rung lên. Bà Năm muốn phì cười nhưng cũng biết làm bộ lúng túng.
"Xin lỗi, tôi muốn gọi con trai tôi", bà phát âm một câu nói đã tập trước và trao cho cô kia một mảnh giấy có dòng chữ viết sẵn từ lâu, từ lúc bà đòi đi xe buýt. "Ðây là mẹ tôi. Bà không nói được tiếng Anh. Nếu bà đưa quí vị xem cái giấy này có nghĩa rằng bà bị đi lạc cần quí vị giúp đở. Xin gọi tôi ở số (714) 894-4420. Tôi là con trai của bà tên là Mạc Nguyên. Xin cám ơn."
Thay vì đi gọi điện thoại, người đàn bà dẫn bà Năm lên xe. Bà Năm biết rằng mình sắp phải đi đâu nên tự nhủ đừng hoảng hốt. Trước khi lái xe đi người đàn bà đó gỡ nón ra cho thấy cái đầu tóc dày, đen và cuốn xoắn lại trên đỉnh đầu theo kiểu người Nhật. Bà Năm nhìn đầu tóc người đàn bà ấy. Bà ngoảnh mặt đi nơi khác khi cô kia nhìn bấ Bà không biết tóc thật hay giả, hay là tóc thật nhưng có tóc giả vấn vào. Bà biết cái tai hại có thể xảy ra khi chí và trứng nơi mái tóc giả bò qua tóc thật và làm hỏng cả đầu tóc. Bà đã từng thấy điều đô Cô đó bắt đầu nói và nói không ngừng. Có một lần, cô với tay qua để vỗ vào bàn tay Bà Năm. Bà Năm kéo cái bị lại gần mình hơn.
Tia nắng nóng hừng hực chiếu thẳng vào mặt Bà Năm. Bà muốn quay kiếng xuống nhưng máy lạnh đang chạy. Không khí nhân tạo làm cho phổi bà đau và ruột bà cồn cào mỗi khi xe quẹo. "Dù sao mình đã được ngồi rồi." Bà ngẫm nghĩ và dựa vào sau, cố ngọ nguậy ngón chân kẹt trong đôi giày tennis mà đứa cháu gái của bà đã vứt đi. Trong tòa nhà bà Năm thấy nhiều người mặc đồ xanh. Bà hít một hơi dài, cố gắng đừng hoảng hốt. Sau khi suy đi tính lại bà quyết định nói cho cô đó biết là bà bị lạc đường như cái lần trên xe buýt khi đứa con trai bà phải lái ba tiếng đồng hồ để kiếm ra bấ Cô đó nhìn Bà Năm và đưa nắm tay lên trước miệng, làm dấu. Bà Năm gật đầu, chìa ra bảy mươi lăm xu vì bà không muốn được cho không. Bà thấy một cái máy bán thức ăn uống ở góc phòng và tiến đến đó. Cô kia gọi theo bà nhưng bà không nhìn lại.
Một người đàn ông đá vào cái máy đó. Bà nghĩ rằng anh chàng này phải biết rằng có tiền máy mới chạy. Người đàn ông nhìn quanh, bà Năm hơi lo sợ một chút. Trong một giây, bà nghĩ đó là người chủ siêu thị, cũng cái mũi lõ kiểu Pháp đó, cái mũi nhọn đến nỗi khi bà nhìn lên là thấy hai cái khe thay vì hai lỗ mũi tròn. Bà sờ mũi bà rồi lau mồ hôi. Cánh mũi mũm mĩm quen thuộc làm bà khoái chí và trong khoảnh khắc bà xoa ngón tay trên đầu mũi, chiếc mũi nở ra như những miệng hầm khổng lỗ khổng lồ ở cuối địa đạo. Bà lại nhìn khe mũi của người đàn ông, nghĩ rằng cái mũi này phải thật nhọn và thật kín. Người đàn ông chỉ nơi bỏ đồng tiền, bà Năm im lặng không cười trả. Bà nắm chặt cái bị của bà. Họ chỉ trỏ vào miếng giấy lúc nãy của bấ Bà cố hiểu nhưng như thường lệ bà chỉ nghe được những tiếng xì xồ như tiếng kêu của loài rắn. Trong lúc họ nói, bà nghe được chữ "Việt Nam" và bà cảm thấy dễ chịu đôi chút. Người đàn ông gật đầu và nói "Hello" trước khi quay đi. Bà Năm không trả lời, bà chỉ nhìn vào chiếc bụng phệ thường thấy nơi mấy người đàn ông Mỹ. Bà hình dung họ ăn những miếng thịt to bằng cái đùi bà rồi duỗi ruột ra, nên mười năm mười lăm năm sau kết tụ lại thành những khối như mỡ heo nơi thắt lưng.
Người đàn bà gọi số điện thoại. Khi nói, môi của cô chu ra nhọn hoắc như mỏ két. Bà Năm cố nín cười trước khi đưa nắm tay để giữa tai và miệng ra dấu xin được nói. Người đàn bà gác điện thoại không thèm nhìn bà Năm.
oOo
Ðứa con trai bà vào. Anh ta hất hất những sợi tóc rũ trước trán che hai mắt kiếng. Bà Năm biết rằng hắn vừa ngủ dậy, bằng không, tóc hắn đã được chải láng coóng. Hắn gầy người đi vì làm giờ phụ trội và khuôn mặt trông càng xám xịt phía trên chiếc áo sơ mi đỏ. Hắn vẫn mang đôi dép da cũ mà bà Năm thường cằn nhằn bảo nó vứt đi cho rồi. Ðứa cháu gái bảo đó là đôi dép của Chúa Giêsu, bà thì liên tưởng đến dép Việt cộng. Hắn không ngó ngàng gì đến Bà Năm, chỉ nói chuyện với cô kia. Bà Năm thì thầm: "Bảo cô ta là mẹ bị lạc đường." Nó vẫn không để ý đến bà. Cũng không nhìn bà. Hai cái mồm kia cứ việc mở ra ngậm lại. Toàn là những tiếng xí xô xí xa. Bà Năm đứng nhổm dậy khi nghe nói "Siêu thị Bình Dân". Hai người đó không để ý. Bà kéo tay áo của con bà ba lần nhắc lui nhắc tới rằng bà lạc đường. Nó không trả lời. Cuối cùng anh ta quay về bà nói:
"Cô cảnh sát nói mẹ đã lạc đường hay sao?"
"Quỉ thần ơi! Ðúng vậy tao bị lạc."
Anh dằng lấy cái bị của bà, mở ra dù bà ngăn cản. Anh lôi ra mớ rau thì-là, bẻ gập những cành rau làm cho mùi thì-là tỏa ra khắp nơi. Người ta lại xì xầm. Bà Năm lấy lại mớ rau trong tay con rồi cho vào bị. Bà hít một hơi dài, đầu bỗng thấy nặng trĩu. Bà ngồi xuống. Cô cảnh sát quay nhìn bà, chắc lưỡi ba lần, tỏ vẻ khó chịu và lắc đầu. Ðứa con của bà thông dịch, bà bị phạt 75 Mỹ kim vì bán thực phẩm mà không có giấy phép. Sẽ bị tù nếu còn đi bán như thế nữa.
"Mày chẳng bao giờ nghe lời mẹ mày cả! Tao cho mày đi học để thành luật sư, mà mày ngu như con bố"
Anh ta không nói gì cả, hai mẹ con đi theo cô cảnh sát đến quầy.
Người con trai nói liên hồi suốt trên đường đi đến chỗ xe đậu và ngay cả trên xe. Ðến chỗ đèn đỏ anh đập tay vào tay lái, giận dữ nói to hơn. Bà Năm quay kiếng xe xuống. Dù nóng nhưng không khí thiên nhiên làm bà tỉnh táo hơn. Bà kéo cái bửng che nắng xuống. Xe vượt qua mấy chục nhà hàng, văn phòng và tiệm Việt Nam. Con trai bà thường nói đây là nơi để sống cho tới già, là nơi mình sống theo lối Việt Nam dù không ở trên đất nước Việt Nam. Bà để một tai nghe gió thổi vào những ngọn lá dừa lao xao, còn tai kia nghe đứa con nói. Bà nhìn dọc theo con đường. Cà phê Tự Do... tiệm Thanh sửa áo quần... "Mẹ biết không, mẹ làm phiền con quá"... Tiệm Hai Cua... "Nếu mình phải đi hầu tòa"... Tiệm bánh mì Ba Lễ.. tiệm chè Hiển Khánh... "đừng để cho thân chủ biết"... bánh cuốn Tây Hồ... "Sao mẹ lại không chịu ở yên như những bà mẹ khác."
Gần tới nhà anh bình tĩnh lại. Khuôn mặt anh xịu xuống, xám ngắt, không còn đỏ tía sưng sỉa nữa, nhưng đôi mắt bỗng dữ dằn, bực bội như thể anh không biết chuyện gì đã xảy ra.
"Mẹ này, mẹ làm ơn đừng đi ra ngoài và làm phiền con nữa. Mẹ không muốn người Mỹ nghĩ tốt về ta sao? Mẹ cứ làm cái gì mẹ làm được trong nhà, con sẽ đưa mẹ đủ tiền mẹ cần."
Bà vẫn im lặng. Trong nhiều năm bà đã để dành nhiều đô la lẽ ra phải để mua áo quần ngoài tiệm may và ăn tiệm với bạn bè. Tại sao phải đến nhà hàng trong khi nấu tại nhà ngon hơn và rẻ hơn. Cứ cuối tuần bà và bạn bè thường gặp nhau. Bây giờ chỉ còn hai người, những người khác hoặc đã chết hoặc theo con cái đi nơi khác.
Lúc đó họ đã để dành tiền để thuê căn hộ nơi họ có thể sống với nhau, ăn món gì họ thích và đánh bài suốt đêm. Ý nghĩ đó kỳ cục đến buồn cười. Rồi bà Tư biết tìm được tiền thuê 600 đồng một tháng, một căn phòng dơ bẩn ở khu người mới đến sống. Bà Năm thì tiếp tục để dành tiền mà chủ yếu là để được hưởng cái thú lén lút ủi những tờ giấy bạc cho thẳng lúc đêm khuya.
Sau đó bà nẩy ra cái ý bán rau thì-là. Ðến bây giờ cái hộp đựng giày của bà đầy cả tiền. Mỗi tuần bà giấu cái hộp đó ở mỗi nơi khác nhau, sợ thằng con trai tìm thấy bắt bà phải gởi tiền vào ngân hàng. Sau đó chẳng bao lâu, bà nghĩ rằng bà nên theo bà Xuân đi Las Vegas một chuyến. Theo lời bà Xuân kể, đó là thành phố sáng rực đèn đóm và sòng bạc. Xe buýt sẽ đưa họ thẳng đến sòng bạc có phòng ngủ bên trên, rồi họ chỉ có việc ngủ và đánh bạc, ngủ và kéo máy cho ra ba quả anh đào may mắn, ngủ và đi thang máy để thấy ruột gan cồn cào. Nếu may mắn, cũng có thể kiếm đủ tiền xe trở về. Bà Xuân đã có cái may đô Bà Năm chỉ nghĩ về điều đó thôi; bà thích thấy cái hộp đựng giày của bà tiền đầy lên dần dần.
"Mẹ này, mẹ có nghe con nói không? Mẹ phải hy sinh cho các cháu chứ. Mẹ làm phiền chúng nó. Con biết mẹ thích đi xe buýt nhưng con không thể để mẹ làm như thế nữa. Mình phải theo luật lệ, phải..."
"Hy sinh cái gì. Nuôi mày và anh chị em mày lớn lên như thế chưa đủ ấ Không hy sinh nữa. Hy sinh, ha ha. Hy sinh để làm gì. Tao mệt rồi, tao già rồi, mày hy sinh đi."
"Nghe đây mẹ, con biết..."
"Thôi đủ. Không nói nữa."
Ðến nhà, đứa cháu gái chạy ra, hỏi han. Bà đưa nó cái bị và tìm chỗ ngồi. Ðứa cháu gái đứng cạnh bồn rửa bát lo rửa mớ rau thì-là còn lại, mái tóc dài rũ xuống dưới lưng. Bà muốn cháu mình để tóc chấm ngang vai mà thôi, và nghĩ đã tới lúc phải tự cắt tóc cho mình. Ðã nhiều năm bà tự nhủ phải cắt tóc mỗi tuần sau khi gội đầu.
"Bố cháu bảo cháu phải luôn luôn ở bên cạnh bà."
"Ðồ khùng! Thế thì tao phải đi đến trường với mày sao? Bố mày không biết muốn nói cái gì."
"Bà gặp chuyện rắc rối hả bà?"
"Trời đất! Tao già như thế này còn gặp rắc rối gì nữa?"
Từ trong nhà bếp bà thấy đứa con trai đứng ở vườn sau tay chống nạnh. Mặt trời phía sau lưng anh ta vẫn sáng chói nhưng đã bắt đầu mát dịu. Ðây là thời khắc bà thích nhất vì bà có thể chờ đợi cái mát mẻ của buổi chiều đến. Anh con trai nhìn xuống đất. Rồi anh ta tiến đến gần những cây thì-là của bà, những cây gần cái xích đu, rồi cúi xuống. Bóng của anh che khóm thì là, anh nhổ một cây. Rồi anh đứng dậy đi. Bà Năm chăm chú nhìn. Trong khoảnh khắc bà thấy có cái máy cắt cỏ đẩy đến. Con bà xuất hiện. Bà bảo đứa cháu gái mang trầu cau cho bấ Bà nhai trầu, bảo nó đem mớ thì-là lại. Mười sáu bó chưa bán. Bà đi đến bồn nước nhả bã trầu, đổ cái ống nhổ đi rồi ngồi xuống cởi giày ra. Bà xoa bóp hai bàn chân, xoa cổ, rồi mang giày lại.
Vừa nghe tiếng máy cắt cỏ ngoài kia, bà nhặt nón, gậy, bị, rồi ra khỏi cửa, biết rằng bà có thể đáp được chuyến xe buýt 4 giờ 42; chuyến xe sẽ đưa bà đến chợ lúc 5 giờ 30 để kịp họp buổi chợ chiều vào lúc đông người.
Lại Thanh Hà
Ngự Thuyết chuyển ngữ