vhnt, số 165
25 March 1996
Trong số này:
T h ơ :
1 - Chiều phai .....................................................lephan
2 - Mụ lang ....................................................Ðức Lưu
3 - Con gái của V. ..............................................Lộc Quy
4 - Trái tim làm thinh ................................................NDP
5 - Ðồng điệu ...........................................Trang Nghiêm
6 - Ta đã tìm em giữa mất còn .................................Chinh
D i ễ n Ð à n V ă n H ọ c :
7 - Cảm nhận Ðinh Hùng (2/2) ........................Phạm Thế Ðịnh
8 - Phỏng vấn nhà thơ Ðăng Khoa:
Một nửa do tôi, một nửa do trời ......................Yên Ba
T r u y ện N g ắn / S án g T ác :
9 - Kết nghĩa ..................................Nguyễn T. Ðoan Thuần
Chiều Phai
Giấu một nụ cười vào trong đáy mắt
Tay dắt tay nhau lên đỉnh đồi chiều
Xin em hãy ước điều xa xôi nhất
Cho dấu yêu tôi làm ánh sao theo
Những tóc mây giăng tím trời ký ức
Hương nắng nào tan ấm một bờ vai
Hãy ngả vào tôi nỗi niềm thao thức
Dẫu khói sương kia có lạnh môi gầy
Cần nói chi trong chiều phai em hở
Sẽ chở che theo suốt lối nhau về
Hạnh phúc là êm đềm khi tiếng thở
Có nụ cười trong đáy mắt ai nghe...
lephan
Mụ Lang
Ở mãi bên xóm Mộc
Có mụ Lang làm thuê
Sống một thân cô độc
Mụ làm đủ mọi nghề.
Kẻ mướn mụ xách nước,
Người hỏi mụ giữ em.
Khi đồng công giao trước,
Lúc đổi gạo thay tiền.
Chẳng rõ mụ từ đâu,
Còn những ai thân quyến?
Chồng, con mụ thế nào.
Chẳng ai buồn biết đến.
Gọi mụ là mụ Lang
Chiều xê xế quanh làng
"Cạo gió và giác lễ..."
Cứ thế, mụ rao khan.
Mỗi khi trời trở gió
Bà cụ bận chợ xa,
Tôi theo tiếng rao đó
Gọi mụ Lang qua nhà.
Mụ đánh gió mát tay
Lại không đòi quá mắc
Cốt kiếm cơm qua ngày
Cùng vài xu tiêu vặt.
Thường mỗi đêm trăng sáng
Bên gốc Mã-đậu già,
Bọn trẻ hằng lai vãng,
Nghe mụ kể chuyện ma.
Ðời sống mụ đạm bạc
Như mụ chẳng buồn lo
Bên mái tranh dột nát,
Mặc bữa đói, bữa no.
Qua mấy ngày chợ sang,
Quanh vỉa hè, quán nước,
Thưa hẳn tiếng mụ Lang
Như những ngày chợ trước.
Ðã hai hôm trăng tỏ,
Bên gốc Mã-đậu già,
Bọn trẻ hằng qua đó
Nhưng chẳng thấy mụ ra.
Rồi mãi ngày hôm sau,
Một con bệnh đến cửa,
Thấy xác mụ chèo queo
Lạnh cong, không cục cựa...
Mụ Lang đã xua hết
Những tháng ngày tối qua.
Chẳng ai rõ mụ chết
Vì đói, hay bệnh già.
Mụ sống vẫn lặng câm,
Bao tia mắt xa lạ.
Khi chết cũng âm thầm,
Có những ai buồn bã.
Ðức Lưu
Con gái của V.
Nhận được hình con bé
từ trại cấm xa xôi
lòng chợt đau như xé
đẹp chi lắm con ơi!
Phôi thai từ trại cấm
chào đời giữa nhà giam
thương con từ nơi chốn
cất tiếng khóc lầm than.
Tròn xoe đôi mắt biếc
ồ đôi mắt bồ câu
rào kẽm gai oan nghiệt
con chớp vội niềm đau.
Tóc con dài đen nhánh
nào che nỗi oan khiên
tuổi thơ nào thần thánh
phần con lại truân chuyên.
Thương nắm tay con dại
kéo không nỗi tương lai
người đời ơi có thấy
con chỉ mới lên 2.
Chờ lên 5 lên 7
hay lên 9 lên 10
thiên đường tự do ấy
mừng con bước chân vui.
Hay chuỗi ngày thơ ấu
lận đận đến đôi mươi
ong bướm, đời tù ngục
con trả nợ cõi người.
Nhận được hình con bé
thơ khóc suốt trong tôi
đời hồng nhan con nhé
đẹp chi lắm con ơi.
Cỏ Nhớ
Trái Tim Làm Thinh
Có trái tim em rỉ máu
Vết thương một đời không khô
Dưới vùng ngực em ô nhục
Tim đau quấn mảnh khăn sô
Có anh một đời khô khốc
Thương em lòng cũng rã mềm
Nào hay tim anh gai góc
Chỉ làm đau nhói tim em!
Có trái tim em kiêu hãnh
Dựng riêng một cõi ngục tù
Dưới vùng ngực em đài các
Tim nằm nghe nhịp hoang vu
Có anh một đời trì trệ
Thương em lòng biết xôn xao
Nào hay tim anh cùn nhụt
Làm sao phá được lối vào!
Có trái tim em trinh bạch
Ân cần ướp mật thanh xuân
Dưới vùng ngực em rất trẻ
Tim vui mở tiệc liên hoan
Có anh một đời tím ngắt
Thương em lòng trổ hoa vàng
Nào hay tim anh cay đắng
Em buồn, gầy cuộc ly tan!
Có trái tim anh gai góc
Có trái tim anh tội tình
Ngày qua, một ngày hoang phí
Trái tim làm thinh, ... làm thinh!
Nguyễn Đức Phùng
Đồng Điệu
Ngước mặt
Ngó trời sao
Biết mặt đất còn quá nhỏ.
Lặng nhìn
Ngày đêm trôi
Biết đời người rất ngắn.
Ngó ta
Như bụi vậy!
Từ đâu?
Về đâu?
Ra biển
Tôi nghe hồn biển thở
Sóng bơi vào bến nhớ
Hờn dỗi
Sóng xô bờ.
Nhặt viên đá xanh, ném vào im lặng
Ðể tha thứ cho mọi người.
Nghe đau
Con tim nhói!
Ừ! Duy ơi!
Sống trên đời cần có một tấm lòng
để thấy điều ta cho đâu phải là mất.
Biền biệt và mù khơi
Duy vẫn đứng bên trời
Hồn ở đâu?
Về đâu?
Vào rừng
Ngồi tịch mặc
Nghe lá xanh độ lượng
Sống và chết rất bình tâm
Thực thực, hư hư
Giật mình!
Tôi tìm lại bóng tôi...
MT
Ta Đã Tìm Em Giữa Mất Còn
(của Tr)
Tôi đi qua đây một mùa đông
Em đi qua tôi một sớm mai hồng
Rượu tôi mời em không đủ ấm
Nụ cười em mời lau sạch nỗi buồn tôi?
Tôi tìm cho em đoá hoa trăm năm
Phương nam mỏi mê cánh nhạn khuất chìm
Những đóa phù dung không còn đủ sức
Sống tiếp một ngày cho hết hân hoan
Giông tố trần gian đã xô em đi
Nên ta tìm em giữa mất, còn
Chiêm bao không tặng cho ngày tháng
Ðể giữa vô cùng ta mất nhau
Sóng nào dâng trong lòng quạnh hiu
Biển nào qua đây vỗ sóng ru chiều
Em không về thăm vùng biển cũ
Nên muôn trùng xa cách vu vơ
Chinh
3.21.96
Cảm nhận Ðinh Hùng
(2/2)
Thơ Ðinh Hùng lúc đó đầy những hình ảnh hỗn độn của bóng dáng thanh bình kề bên bạo chúa:
Thời đại Hoàng Kim sắp phục hồi
Ta mừng Bạo Chúa sắp lên ngôi...
Có lẽ vì lý do đó mà có người đã cho rằng trong thơ Ðinh Hùng có ẩn tính tiên tri. Lời thơ đã báo những biến động xã hội sắp xẩy ra, và những tư tưởng nhân bản bị đe dọa bởi chiến tranh và một nền văn minh vật chất quá độ.
Căn nhà cổ mà Ðinh Hùng sống ở cửa Ô cầu Rền là nơi ông đã đốt đời với thuốc phiện, cộng thêm những đêm trác táng với men rượu và ả đào. Dạo đó có một số thi sĩ trẻ ái mộ thơ của Ðinh Hùng, trong đó có hai người sau này trở nên nổi tiếng nhờ tính khảng khái, và thành thật của mình là Trần Dần, và Phùng Quán. Vào năm 1988, trong một buổi đối thoại tại Bến Ngự, Trần Dần, tác giả những câu thơ nổi tiếng Tôi đi không thấy phố, không thấy nhà. Chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ... đã công khai nói rằng "Tiền chiến Việt Nam tôi thích Vũ Hoàng Chương, Ðinh Hùng và Vũ Trọng Phụng, vớt vát thêm thì còn Thạch Lam ...". Hoàng Phủ Ngọc Tường có vẻ không hài lòng, ông ta lên tiếng "Cho phép tôi quay lại trước một chút. Tôi e rằng anh đánh giá Ðinh Hùng hơi quá, ngoại trừ việc thích hoặc không thích. Tôi có dịp đọc Ðinh Hùng khá nhiều, tôi thấy văn chương ông ta lòe loẹt , có cái gì ghê ghê, như là son phấn. Nếu tôi nhớ không nhầm, thì ngay trong "Thi nhân Việt Nam", Hoài Thanh cũng chỉ xếp Ðinh Hùng ngồi ở "chiếu ba" trong làng văn lúc đó". Trần Dần, cán bộ Việt Minh chính gốc, trả lời Hoàng Phủ Ngọc Tường như sau "Ðinh Hùng thời đó là không có chiếu gì. Nhưng Ngõ Bò (gần Bạch Mai, thời đó là nhà ông Ðinh Hùng và Vũ Hoàng Chương) là trung tâm thu hút. Ai cũng thấy Ðinh Hùng là thi sĩ tượng trưng đầu tiên của Việt Nam trong Mê Hồn Ca, Lạc Hồn Ca, v.v... Thơ Ðinh Hùng như thế này: Nửa mặt mày hoa nép hậu trường. Tôi thích là vậy". Phùng Quán có mặt trong đêm ấy, nhưng không bàn về đề tài này.
Tôi cho rằng Hoàng Phủ Ngọc Tường đã hiểu méo mó câu trả lời của Trần Dần. Câu hỏi mà Ngô Minh đã đặt cho Trần Dần là "Ðộc giả ở Hội hỏi anh: thế giới anh thích ai nhất? Tiền chiến ai nhất? Thời anh, anh nể ai nhất? Sau anh, anh đọc ai?". Trần Dần trả lời như vậy có nghĩa là chỉ nói về Ðinh Hùng tiền chiến. Dạo tiền chiến, Ðinh Hùng chỉ có in hai tác phẩm, một là tập thơ văn xuôi "Ðám ma tôi", ký tên Hồ Ðiệp, xuất bản khoảng năm 1943-1944 (theo Mai Thảo), và sau đó là tập Mê Hồn Ca. Làm gì mà có nhiều tác phẩm để Hoàng Phủ Ngọc Tường nói là đã đọc khá nhiều. Câu thơ Trần Dần đã dẫn trong đoạn trả lời đã trích trong bài cuối của tập Mê Hồn Ca:
Hồn phách thanh tuyền dáng ảo hương
Bâng khuâng thần chủ lạ thiên đường
Gợn trong nhân ảnh màu hư cấu.
Lạc thổ hồng lên tuổi thái dương
Thức ngủ huyền vi, điềm ngọc sáng.
Lửa đâu hoài niệm: Ðất phong vương?
Hiện thân động mái chèo kim cổ,
Nửa mặt phù sinh nép hậu trường.
Quả tính siêu thực và tượng trưng (theo nghĩa dùng hình tượng, màu sắc để gợi ý) rất mạnh. Có thể những chữ "hồng lên tuổi thái dương", hay "điềm ngọc sáng" đã cho cảm giác sáng bừng, chói nhưng không lòe loẹt. Có thể là khó hiểu nhưng không điểm trang kiểu hát bộ, đầy nét phấn son.
Chỉ khi vào tới miền Nam, và cho đến năm 1961, Nam Chí Tùng Thư mới xuất bản tập "Ðường vào tình sử", trong đó những mỹ từ được Ðinh Hùng trau chuốt rất nhiều.
Trong bài thơ đầu, Ðinh Hùng đã dùng màu sắc rất chói và những hình ảnh lạ lùng:
Ngón tay thơm vàng phấn bướm đa tình
Anh sẽ tìm em như tìm một hành tinh
Mặt trái đất sắp tan vào mộng ảo
Trên đường ta đi,
Những đóa hoa nở mặt trời xích đạo
Những làn hương mang giông tố bình sa
Những sắc cầu vồng nghiêng cánh chim sa
Em ơi ! Vệt nắng phù kiều uốn mình ô thước
Ta, suốt đời ngư phủ,
Thả con thuyền trên mái tóc em buồn lênh đênh...
Nếu những hình ảnh này mà có người cảm nhận là làm dáng quá thì có thể hiểu được.
Nhưng cũng trong tập thơ này, có nhiều câu thơ rất trong, không có những mỹ từ nào quá đáng:
Tôi hết thơ hoa, mộng bướm rồi
Bây giờ lòng kể chuyện lòng thôi
Bởi em mơ dáng sầu đôi chút,
Tôi mới bâng khuâng ngỏ mấy lời
Truyện Lòng
hay:
Hai người có buổi bâng khuâng quá
Kể truyện mưa xuân với nắng hè
Chắc hẳn đôi lòng lơ đãng cả
Vì chưng cùng nói chẳng cùng nghe
Và có rất nhiều câu thơ đã được phổ nhạc, rất đẹp và không quá cầu kỳ như:
Chưa gặp em tôi vẫn nghĩ rằng:
Có nàng thiếu nữ đẹp như trăng,
Mắt xanh là bóng dừa hoang dại,
Thăm thẳm nhìn tôi, không nói năng.
Bài thơ hạnh ngộ đã trao tay
Ôi mộng nào hơn giấc mộng này?
Mùi phấn em thơm mùi hạ cũ
Nửa như hoài vọng, nửa như say
Tự Tình Dưới Hoa
Hoặc:
Từ giã hoàng hôn trong mắt em
Ta đi tìm những phố không đèn
Gió mùa thu sớm bao dư vị
Của chút hương thầm kia mới quen
Một Tiếng Em
Nếu bước chân ngà có mỏi
Xin em dựa sát lòng anh
Ta đi vào tận rừng xanh,
Vớt cánh rong vàng bên suối
Suối Dòng Mộng Ảo
Ðinh Hùng của những phút loạn hồn, mê hồn của thời tiền chiến giờ đã chỉ ca tụng truyện lòng trong cả một tập thơ đẹp. Tôi được cái may mắn đã đến với thơ của Ðinh Hùng chỉ với một tấm lòng cảm nhận, nhờ đó giờ đây còn có được bao nhiêu cái đẹp còn sót trong trí nhớ trong mỗi độ tâm hồn rảnh rỗi để chỉ sống với thơ.
Thơ Ðinh Hùng dùng chữ cầu kỳ và rất mới, nghe như sáo mà không rỗng. Những hình tượng huyền ảo lẫn lộn cho thấy những thoáng mỹ nhân, thiên nhiên, loạn hồn, mê đắm. Những hình ảnh có thể đã đến được trong óc của ông nhờ tác dụng của thuốc phiện. Nhưng phải có một tinh thần rất trật tự có óc tổ chức, thông minh thì mới ghép được chúng mà thành những tác phẩm nghệ thuật. Câu Nửa mặt phù sinh nép hậu trường cho tôi một cảm giác nửa thực, nửa siêu thoát, chữ phù sinh mang lại một ảo giác của cánh bướm Trang Tử, nhưng chữ hậu trường lại bao một thực tại. Chữ nép khéo lắm vì tỏ được cái ý nửa này, nửa nọ, một mong muốn xa cách, nhưng vẫn bị chường ra, không có vùng không gian thoải mái để hoạt động.
Giòng thơ Ðinh Hùng còn cho thấy cái hùng khí nhiều khi tàn bạo:
Ta lảo đảo vùng đứng lên cười ngất,
Ghì chặt nàng cho chết giữa mê ly
Rồi dầy xéo lên sông núi đô kỳ
Bên thành quách ta ra tay tàn phá
Bài Ca Man Rợ
Những hình ảnh y như trong những phim quái vật khổng lồ loại King Kong của Nhật, và của Mỹ vào những năm 1950, những sinh vật man rợ, hồng hoang về tàn phá đô thị, Trong đó nào thiếu những nét mỹ nhân mà Ðinh Hùng đã tả. Ðinh Hùng đã thấy những hình ảnh đó trước thế chiến thứ hai, sự cảm xúc kỳ dị của thơ là vậy, người thi sĩ có khả năng viễn kiến so với người đương thời.
Cùng với Hàn Mạc Tử, Ðinh Hùng đã vượt qua cái sợ chết, nhờ vậy ông mới dứt được những cái bó buộc, chật hẹp của cõi sống mà đi xa được trong hai khoảng không gian và thời gian như thế.
Tất cả điều tôi vừa viết đều đến với tôi bằng cảm nhận, không qua một hệ thống phân tích ý thức nào.
Tôi thấy những lời khuyên của Ainer Maria Rilke rất đúng với lòng tôi, trong lúc thưởng thức thơ Ðinh Hùng. Ông đã viết như sau trong bức thư thứ nhất gửi người thi sĩ trẻ tuổi:
Tôi không thể đi vào được thể chất của những vần thơ ông, bởi vì tôi hoàn toàn xa lạ với tất cả việc bình phẩm phê bình. Hơn nữa, muốn lãnh hội ý nghĩa một tác phẩm, không gì tai hại nguy hiểm cho bằng những lời lẽ của sự phê bình văn nghệ. Những lời lẽ phê bình đó chỉ đưa đến những ngộ nhận ít nhiều quá đáng. Không thể nắm lấy tất cả hay nói tất cả về những sự vật, như người ta thường ngỡ thế đâu. Phần lớn những gì xảy đến đều không thể diễn tả được và đã được xảy ra trong một lãnh vực mà không có một ngôn ngữ nào có thể dẫm tới được; những tác phẩm nghệ thuật lại còn không thể nào diễn tả hơn mọi sự khác, những tác phẩm nghệ thuật là những sinh thể kín đáo bí mật mà đời sống của chúng thì còn lại không cùng trong khi đời sống chúng ta phải lướt trôi qua nhanh chóng.
Vì đời sống của con người bị bó trong một khoảng thời gian và không gian hữu hạn. Nhu cầu muốn đi xa hơn, đi lâu hơn trong tư tưởng và tâm hồn tạo những thôi thúc âm thầm nhưng mãi có. Những bài thơ tuyệt tác đã thay cho những phi thuyền có tốc độ vượt ánh sáng để đi ngược vào quá khứ hoặc trổ trước tới tương lai, hoặc vượt ra khỏi vũ trụ bao la, đến những tinh cầu hay galaxies thăm thẳm. Vượt không gian tôi đã mượn những lời thơ Hàn Mạc Tử để "thoát ly ra ngoài thế giới" bay tới một chỗ chưa có mà thi sĩ gọi là "Phượng Trì" kề cạnh với một cõi siêu linh. Mặt khác, tôi nhờ cánh thơ Ðinh Hùng để vượt thời gian quay về cõi hồng hoang hát bài ca man rợ, hay vào cõi mộng để:
Em muốn như ta mộng chốn nào
Ước nguyền đã có gác trăng sao.
Truyện tâm tình: dưới hoa thiên lý,
Còn lối bâng khuâng: Ngõ trúc đào.
Vào những nơi mà thi sĩ đã đối thoại với linh hồn của người yêu cũ, hay một người bạn ông mến thương là Thạch Lam
Nhớ xưa, gần bóng Dạ Lan Hương
Anh với tôi nằm mộng canh trường.
Giăng kề song cửa, hoa kề gối,
Anh chuyện sầu, tôi truyện mến thương.
Tôi với anh giường chung mộng chung,
Vì duyên thơ mới có duyên lòng
Anh buồn từ thưở giăng lên núi
Ấy độ tôi hoài ước lại mong"
Cặp Mắt Ngày Xưa, Gửi hương hồn Thạch Lam
Những chốn ấy là chốn của thơ, của thế giới thơ, không có chính trị Nơi mà những cặp mắt khe khắt, những ngòi bút sắc mài để đâm nhau, những đòi hỏi phục tùng, những bắt buộc nghĩa vụ... không có cơ hội tung hoành.
Phạm thế Ðịnh
(14/05/95)
* Nguyễn Hiến Lê dịch tựa này là "Chuyện quái đản" Sơ lược về Ðinh Hùng: Tài liệu về tiểu sử Ðinh Hùng tôi có được, không đưa những dữ kiện chính xác, xin ghi tạm đây một số điều đã đọc:
Ðinh Hùng hình như là tên thật của thi sỹ, sinh vào khoảng 1921, thưở trẻ đẹp trai, mặc dầu dáng dấp nhỏ thó, bạn thân của Huyền Kiêu, biết và ái mộ nữ họa sĩ Nguyễn thị Lựu. Ông học trường Bưởi và có biết chơi măng cầm (mandoline) và vĩ cầm (violon). Nổi tiếng ngay khi thơ chưa được in, bạn thân với thi sĩ Vũ Hoàng Chương, ông này sau lấy chị Ðinh Hùng.
Nghiện hút thuốc phiện từ thuở rất trẻ, ngay từ năm 1942-1943, Phạm Duy đã gặp Ðinh Hùng đi hút cùng chỗ với nhà thơ Tychia Ðái Ðức Tuấn, nhà văn Ðàm Quang Thiện...
Năm 1943-44 xuất bản tập "Ðám ma tôi" với bút hiệu Hồ Ðiệp, sau đó là tập thơ "Mê Hồn Ca".
Năm 1947 Phạm Duy và Tạ Tỵ có gặp Ðinh Hùng trong vùng kháng chiến với Vũ Hoàng Chương.
Năm 1950 Ðình Hùng rời khu kháng chiến về Tề.
Di cư vào Nam, Ðinh Hùng cộng tác với báo Tự Do (chủ nhiệm là Phạm Việt Tuyền) làm thơ trào phúng mục "Ðàn Ngang Cung" với bút hiệu Thần Ðăng, viết phiếm trong mục "Nói hay đừng", ông thực hiện chương trình thơ Tao Ðàn cho đài phát thanh Sài Gòn cho đến khi chết. Chương trình này sau vẫn được tiếp tục cho đến 1975, do bà Ðinh Hùng thực hiện với sự giúp đỡ của các nghệ sĩ thân hữu.
Trong Nam, Ðinh Hùng cho xuất bản ba tập thơ "Mê Hồn Ca" (tái bản), "Ðường vào tình sử" và "Ngày đó có em" (theo Phạm Duy).
Ông cũng viết những chuyện dã sử như "Kỳ Nữ Gò Ôn Khâu", "Ðường Kiếm họ Hoàng", văn ông không được ái mộ bằng thơ của ông.
Ðinh Hùng mất vào năm 1969, thân hình teo lại như một đứa bé. Khi ông mất, nhà rất nghèo vì cả hai vợ chồng đều nghiện hút. Lúc đó nhờ ông tướng Nguyễn Bảo Trị can thiệp nên xác ông mới được chôn tại nghĩa trang Ðô Thành. Số người đã đến đưa người thi sĩ tài hoa này tới phần mộ đi sau xe tang dài khoảng 1 cây số. Người thi sĩ của những thi sĩ, nhà thơ của những nhà thơ miền Nam đã để lại nhiều tiếc thương cho những người yêu thơ của ông, điển hình là hình ảnh của thi sĩ Hoàng Anh Tuấn đã ôm mặt khóc nức nở ngay cả sau khi mọi người đã tản mác ra về.
Tài liệu tham khảo:
Ðinh Hùng Tác Giả và tác phẩm (nhà xuất bản Ðời) Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh và Hoài Chân
Tìm hiểu thơ Việt Nam của Nguyễn Hưng Quốc Thư gởi người thi sĩ trẻ tuổi của Rainer Maria Rilker (Phạm Công Thiện dịch)
Trăm Hoa vẫn nở trên quê hương
Nói chuyện với nhà thơ Trần Ðăng Khoa
MỘT NỬA DO TÔI, MỘT NỬA DO TRỜI...
Có một cái tên mà hầu như ai cũng biết: Trần Ðăng Khoa. Nhưng cũng còn có những điều mà người ta biết ít về anh...
Một lần bên hồ Hoàn Kiếm lộng gió, cùng với mấy người bạn, tôi đã nghe Trần Ðăng Khoa say sưa đọc một truyện ngắn vừa sáng tác. Tôi rất đỗi ngạc nhiên khi thấy Trần Ðăng Khoa đọc thuộc từ đầu đến cuối, không vấp một chữ! Cái truyện ngắn ấy có tên là"Thời sự làng tôi", sau được đăng trên tạp chí "Văn Nghệ Quân Ðội", kể về ông chủ nhiệm hợp tác rất mê thả diều và đi thả diều thật ở ngoài đồng.
Một lần, ở Matxcơva, khi đang lang thang tại khu chợ trời nổi tiếng Kiznưi, tôi thấy một gã trai lùn mập, đội cái mũ cát két rất giống như các nhân viên Trêca thường đội trên phim, cũng đang lang thang ở khu chợ. Nhà thơ đây rồi! Thấy tôi, anh bảo: "Về nhà tao, có món này ghê gớm lắm, không đâu ở cái Matxcơva này có đâu!". Khi đó Trần Ðăng Khoa đang theo học khoá đầu tiên của sinh viên VN cùng với Khánh Chi, Trọng Nghĩẳtại trường viết văn Goocki. Cùng phòng với Trần Ðăng Khoa còn có một anh bạn viết kịch người Kiêcghidia mà Trần Ðăng Khoa gọi đùa là "đại tác gia". Với vẻ đầy bí hiểm, Trần Ðăng Khoa lôi từ trong tủ thức ăn ra một lọ... mắm tôm khô! Tôi thấy "đại tác gia" người Kiêcghidia đi ra khỏi phòng như bị ma đuổi, còn Trần Ðăng Khoa thì hể hả tổ chức ngay một bữa ăn đầy hương vị quê nhà...
Tốt nghiệp trường Goocki, Trần Ðăng Khoa về làm biên tập viên cho tạp chí Văn Nghệ Quân Ðội ở nhà số 4 Lý Nam Ðế, Hà Nội. Thơ của anh đăng ít, nhưng bạn đọc lại chú ý nhiều đến những bút ký chân dung văn học, những bài báo hoặc bài trả lời phỏng vấn của anh. Vẫn với một đầu óc sắc sảo, thông minh, được diễn đạt dí dỏm, hài hước. Và cũng điềm đạm, thận trọng hơn. "Nhà thơ trẻ con" ngày xưa đã xa rồi...
- Ðã lâu không được đọc thơ anh mà thỉnh thoảng lại thấy những bài viết hoặc trả lời phỏng vấn "hay hơn cả viết" của anh đăng đây đó trên báo chí. Chúng làm tôi nhớ đến cái buổi đọc "Thời sự làng tôi" bên hồ Gươm năm xưa. Phải chăng cái buổi ấy đã là một ngã rẽ trên đường đời của anh?
- Hoàn toàn không phải. Tôi mê văn xuôi từ lâu và đã từng viết tiểu thuyết từ hồi còn bé. Năm học lớp 7, tôi bắt đầu viết một cuốn tiểu thuyết, đến năm lớp 10 thì xong, dày đến 300-400 trang. Nó có tên là "Bước chân thứ nhất". Toàn bộ cuộc chiến tranh hồi đó được nhìn qua con mắt của một cậu bé lớp 1, với những mối quan hệ dằng dịt trong thời chiến. Có cả tình yêu của những ông bà già ở làng quê nữẳCũng may là tôi không đưa in đâu cả, mặc dù các nhà xuất bản hồi đó cũng rất ưu ái tôi. Bởi vì tôi thấy cuốn tiểu thuyết ấy chẳng ra sao cả. Nhưng mộng văn xuôi thì vẫn còn, tôi vẫn viết đều đều. Ðấy là công việc mà tôi vẫn làm từ bé. Ðiều đó không có nghĩa là tôi chuyển ngạch hoặc sợ thi ca gì đầu.
- Nhưng dẫu sao khi nhắc đến Trần Ðăng Khoa, vẫn phải nhắc đến một quá khứ huy hoàng chứ! Anh là một trong số rất ít người đã có tên tuổi từ rất sớm. Anh có cảm thấy gánh nặng của nó không?
- Tôi tuyệt nhiên không nghĩ nhiều về cái đó. Tôi nói rất chân thành đấy. Sáng tác của tôi hơi khác với mọi người một chút là do tôi làm thơ từ khi còn là trẻ con. Hồi đó tôi làm thơ hồn nhiên lắm, gần như thấy đời sống thế nào thì tôi nói thế ấy. Nhiều người nói sao thằng bé này có ý thức chính trị đến thế, lại có người kêu là "ông cụ non". Thực ra thì thời ấy bản thân đời sống đã là đời sống chính trị rồi. Mình chỉ ăn bữa cơm trong trận bom, hôn nhau giữa làn mưa đạn thì riêng việc nói ra những điều ấy nó đã có một tư thế rồi. Tự thân đời sống lúc đó đã là văn chương rồi. Bây giờ mọi việc đã qua. Tôi tự thấy mình đã hoàn thành cái công việc của một thằng bé yêu văn chương và làm thơ trong chiến tranh. Ðấy là một cậu bé, còn bây giờ là một anh chàng, một người lính làm thơ.
- Một người lính làm thơ, điều đó có khác biệt gì nhiều lắm so với những người làm thơ khác xung quanh không?
- Cũng không có gì khác đâu. Chỉ có điều là khi chiến tranh xảy ra thì nếu có yêu cầu, anh ta sẵn sàng ra trận như một người lính. Nhưng thực ra thì ở nước ta, trong những năm chiến tranh có ai mà không ra trận đâu. Nhà nông còn là chiến sĩ, huống hồ là các thi sĩ! Nhiều nhà thơ đã từng đổ máu ở chiến trường như một người lính, nhưng họ đâu có phải là lính như Hồng Nguyên, Bùi Nguyên Khiết, Lê Anh Xuân... chẳng hạn. Không ít tác phẩm ngày ấy đã có sức sống dài lâu...
- Dài lâu tôi có thể hình dung ra một bạn trẻ ngày nay khi đọc những bài thơ ấy, cả của anh ở cái thời trẻ con ấy nữa, thở dài mànói" ôi, mệt quá!
- Ðiều ấy là bình thường. Bởi tác phẩm nào cũng chịu sự thử thách vô cùng nghiệt ngã của thời gian. Một tác phẩm chỉ có sức sống ngắn, sao cứ bắt bạn đọc phải yêu nó dài dàỉ Tôi cho thơ chỉ có hai loại: hay và không hay. Thơ không hay thì chẳng có gì phải bàn. Còn thơ hay thì nó chẳng cần phải tựa vào một cái gì cả. Nó sống bằng chính sức sống của nó. Với sức sống ấy, nó có thể làm sống dậy cả một thời đại mà nó ra đời, ấy là những "Việt Bắc" của Tố Hữu, "Tây tiến" của Quang Dũng, "Nhớ" của Hồng Nguyên, "Ðất nước" của Nguyễn Ðình Thi, "Tràng giang" của Huy Cận, "Ðồng chí" của Chính Hữu và nhiều thi sĩ khác nữa. Còn không hay thì bạn đọc sẽ quên thôi. Có rất nhiều bài thơ cũng viết về kháng chiến nhưng bị bạn đọc trẻ quên lãng, nhưng không nên cho rằng lớp trẻ bây giờ quay lưng lại quá khứ, phủ nhận quá khứ. Ðây là chuyện thưởng thức nghệ thuật. Thơ dở thì họ chê, họ không đọc. Bạn đọc không có lỗi, lỗi tại nhà thơ chúng tôi thôi.
- Anh có tự hay trách mình như vậy không?
- Làm thơ cho hay là một thử thách nghiệt ngã đối với tất cả mọi người, trong đó có cả tôi nữa. Nhưng tôi đã không còn vào cái thời bồng bột để có thể ảo tưởng. Tôi vẫn đang làm cái công việc nặng nhọc mà tôi đã làm từ bé, còn có làm được không thì không thể nói trước được. Một nửa do tôi, còn một nửa do ông trời...
- Xin cảm ơn anh.
Yên Ba
(TTCN 7-1-1996)
Kết Nghĩa
Ngọc co mình trong căn lều với bộ đồ ướt sũng. Chiếc tàu vượt biên hơn 50 người bây giờ chỉ còn vỏn vẹn lại 7 người. Lòng đại dương đã cướp mất đi cả gia đình Ngọc. Cả hai tuần lễ trôi trên mặt biển chiếc tàu đánh cá nhỏ nát dạt vào quần đảo Nam Dương. Bảy người trong tàu chỉ còn thoi thóp thở. Người thổ dân trên đảo tử tế cho đồ ăn rồi họ chở vào trại tỵ nạn KuKụ Ngọc bơ vơ hốc hác. Nỗi kinh hoàng như chưa xóa hết trên khuôn mặt của con bé gái chỉ vừa hơn 13 tuổi đầu. Ngọc chỉ sống dưới gốc cây hay tìm một cái gì để ăn cho qua ngày.
Nam Dương ban ngày nóng như thiêu đốt ban đêm lại mưa dầm dề. Cả tuần Ngọc có ngủ gì được đâu. Ngọc hốc hác xanh sao. Anh Kha cùng tàu độc thân thương hại nên dẫn Ngọc về ở chung. Bây giờ ngồi co ro trong góc lều Ngọc đưa mắt nhìn anh Kha và đám thanh niên sống chung. Anh Kha ném chiếc áo xin được của bà hàng xóm có danh sách đi Mỹ cho Ngọc:
- Thay đi Ngọc kẻo bệnh.
Anh Kha trước kia là lính biệt động quân. Người anh đầy thẹo vì mảnh đạn. Nghe nói anh có vợ có đứa con hơn một tuổi. Hồi tháng năm 75 bị thất lạc trong lúc chạy trốn. Anh bị học tập rồi cùng lũ bạn vượt ngục. Thấy Ngọc bơ vơ anh thương hại cứu giúp chứ thân anh cũng chẳng khá gì. Ngoài hai chỉ vàng anh dấu được anh hùm lại với đám bạn lính độc thân kiếm miếng đất căn lều Cả bọn 5 thằng đực rựa mạnh ai nấy sống. Quay sang lũ bạn Kha đề nghị:
- Bây giờ có đứa em gái kết nghĩa với tao ở chung tụi bây phải đàng hoàng.
Tướng anh dữ tợn và lại là người gan dạ nên đứa nào cũng chẳng nói gì.
Từ đó mỗi ngày Ngọc lo mọi việc trong nhà từ nấu cơm đến giặt quần áo cho anh Kha và Ngọc. Mấy người ở chung nhờ Ngọc giặt đồ thì trả công vài gói mì hoặc một lon đồ hộp. Cuộc sống Ngọc coi như tạm ổn.
Anh Kha lấy số vàng còn lại mua chiếc ghe rồi ngày ngày chèo ra biển câu cá. Mỗi lần mang về là Ngọc phụ mang đi bán từng gia đình. Hôm nào ế thì cả bọn có cá ăn mấy ngày. Hôm nào bán hết thì Ngọc mua miếng thịt heo về kho mặn. Cứ như thế Ngọc được coi như đứa em gái của năm thằng lính độc thân trên đảo. Tối nào không mưa là cả bọn đốt củi hát hò thật vui vẻ. Ngọc như là thủ quỷ trong nhà. Ai có tiền thì đưa cho Ngọc cầm gi Ngọc cầm tiền mua đồ dùng trong nhà. Cả năm người quí Ngọc rất nhiều. Có lần bạn gái Minh đi Mỹ, Minh mang về chiếc áo thun thì hí hửng khoe:
- Ngọc nè, em giữ lấy. Áo này qúi lắm đó.
Ngọc vui vẻ nhận lấy. Tấm lòng của năm người anh kết nghĩa này thật vô cùng quí.
Sống chung hơn sáu tháng Ngọc được tên đi Mỹ vì còn nhỏ mà không thân nhân. Anh Kha mua con gà làm tiệc tiễn chân Ngọc:
- Mai này anh em mình sẽ có dịp gặp lại.
Ngọc vừa ăn vừa khóc. Ngọc thương nhất là anh Kha vì nếu không có anh Kha thì có lẽ Ngọc đã chết đói hoặc chết lạnh rồi. Mấy người khác thì buồn rầu chán nản:
- Bây giờ ai sẽ nấu cơm giặt quần áo cho tụi mình đây.
Họ chẳng vui vẻ gì cả. Con gà nếu ngày thường thì họ đã giành nhau ăn hết sạch thế mà vẫn nằm y nguyên chẳng ai đụng tới. Ngày ra đi anh Kha mua được chiếc áo sơ mi mới đưa cho Ngọc để Ngọc mặc cho có vẻ đàng hoàng một tí. Số tiền Ngọc dành dụm đã trao lại hết cho anh Kha. Ngọc bịn rịn không muốn đi cho đến khi ủy ban gọi thêm 1 lần Ngọc mới bước xuống tàu để đi. Tàu chuyển bến Ngọc nhìn về cho đến khi không còn thấy gì cả. Mai này Ngọc sẽ thế nào. Ðịa chỉ của người anh ruột của anh Kha đã được Ngọc dấu kỹ trong túi áo. Cái liên lạc duy nhất mà Ngọc còn giữ được.
Qua Mỹ Ngọc được một gia đình Mỹ nhận nuôi. Ngọc vẫn nhớ đến anh Kha của Ngọc. Không biết bây giờ thế nào. Mấy lần Ngọc muốn gởi thơ thăm dò nhưng đều bị ba má nuôi Ngọc ngăn cản. Họ muốn Ngọc quên đi cái dĩ vãng ngày xưạ Học xong trung học Ngọc đã đủ lớn khôn. Ngọc bắt đầu đi tìm lại anh Kha của Ngọc. Thơ đi mà chẳng có thơ về. Thời gian lại cứ trôi đi.
Hình ảnh người anh ngày xưa cứ như còn lẫn quẩn trong tâm trí Ngọc. Học xong năm thứ nhất đại học, Ngọc mua vé bay qua Texas với số tiền Ngọc để dành được. Tìm đến địa chỉ ngày xưa anh Kha đưa cho Ngọc. Ðịa chỉ là ngôi giáo đường nho nhỏ trong thành phố nhỏ bé gần Dallas. Người cha già nhìn vào tấm địa chỉ rồi lắc đầu:
- Cách đây hơn bảy năm có một người Việt Nam đang thụ huấn tại đây. Anh ta họ Ðào. Nhưng đã đi nơi khác cách đây ba năm rồi.
Ngọc như người lạc lõng bơ vợ Cái hy vọng ngày nào cũng đã mất. Anh Kha của nàng bây giờ thế nào rồi. Thấy Ngọc đứng buồn rầu ông vội an ủi:
- Đừng buồn. Việc gì cũng được thượng đế sắt đặt cả.
Ngọc buồn bả:
- Con muốn tìm lại người thân nhưng mà lại không còn tin tức.
Ông cha gìa vỗ trán nói:
- Hay con hãy ở tạm đây. Ta sẽ cho người lục lại sổ sách coi khi cha họ Ðào bỏ đi thì về giáo xứ nào.
Mắt Ngọc sáng lên vui mừng:
- Cám ơn cha, cám ơn cha.
Ở gần hai ngày trong giáo xứ, người cha già tìm đến Ngọc với nét vui mừng:
- Ta đã tìm được rồi.
Tay ông cầm tờ giấy với địa chỉ một ngôi giáo đường nằm trong vùng của thành phố Houston. Ngọc cám ơn rồi vội vả bỏ đi. Cái vui mừng sắp gặp lại người anh ngày xưa làm cho Ngọc chẳng thấy gì mệt mỏị Ngọc lấy xe buýt về Houston rồi tìm về địa chỉ mà người cha gìa đưa cho nàng. Ðó là ngôi giáo đường nằm trong vùng nhiều người VN. Ngọc đưa tay gỏ cửa. Ông gác gian sau khi biết Ngọc kiếm cha Ðào thì chỉ về căn nhà nhồ Vị cha khoảng gần 50 tuổi mở cửa. Ông có khuôn mặt hao hao giống anh Kha. Ông từ tốn mời Ngọc vào trong. Sau khi nghe Ngọc kể mọi chuyện. Ông cầm lấy tay Ngọc nói:
- Cha có nghe anh Kha của con kể về con khi mới qua. Anh Kha cũng nhờ cha tìm kiếm con rất nhiều lần. Cha kiếm được địa chỉ con nhưng cha mẹ nuôi con không cho cha gặp con. Họ có lý do riêng của họ Anh Kha mấy lần xin con về nuôi nhưng luật lên ở Mỹ này rất khó khăn. Họ đâu hiểu gì về anh em kết nghĩa, họ chỉ biết là con không có họ hàng gì cả với anh Kha của con.
Ngọc nước mắt chảy dài trên má:
- Bây giờ con đã lớn rồi. Cha có thể cho con biết anh Kha con ở đâu?
Vị cha rót ly nước trà đưa cho Ngọc:
- Uống đi rồi cha dẫn con đi gặp anh Kha của con.
Ngọc cầm ly uống vội rồi theo chân cha Ðào bước ra khỏi nhà. Ngồi trên xe Ngọc suy nghĩ liên miên. Không biết anh Kha của Ngọc đã tìm được người vợ và đứa con đã thất lạc ngày xưa chưa. Cha Ðào chẳng nói gì. Chiếc xe đi về nghĩa trang trong khu vực ngoại ô. Ngọc ngơ ngác nhìn cha Ðào:
- Thưa cha...
Cha Ðào dẫn Ngọc đi lần vào bãi cỏ:
- Anh Kha của con đã chết trong một tai nạn xe cộ cách đây hơn hai năm rồi.
Ngọc bật khóc nức nở. Trước mặt Ngọc là một mộ bia đề chữ "Ðào Tuấn Kha" đã ngã màu vì thời gian. Cha Ðào nói tiếp:
- Khi qua đến Mỹ. Anh Kha con đi làm nghề thợ hàn. Anh nói phải kiếm thật nhiều tiền để kiếm lại vợ con bị thất lạc. Ngày hôm đó anh được tin vợ con anh đã bị chết trong ngày thất lạc. Anh Kha con đã uống thật nhiều rượu và trong lúc lái xe đã bị chết ngay tại chỗ.
Ngọc ngắt những cọng cỏ quanh mộ khóc không ngừng. Anh Kha của nàng đó. Ði lính bom đạn chẳng hề gì thế mà lại chết một cách quá buồn khổ. Cha Ðào vổ vai Ngọc nói:
- Thôi đừng buồn. Biết đâu anh Kha của con hiện giờ đang vui cười khi biết đã gặp lại con.
Ngọc cúi đầu theo chân cha Ðào ra khỏi nghĩa trang. Chung quanh cũng có vài người đang đứng lặng yên thì thầm với người chết. Ngọc nhìn lại thì thầm:
- Anh Kha, anh hãy yên ngũ. Em hứa sẽ trở lại gặp anh. Em hứa với anh ngày nào em còn sống em sẽ tìm lại phần mộ vợ con anh để thăm hỏi. Ngũ đi anh.
Ánh nắng chiều chiếu cuối đường, gío thổi như thì thầm chia xẻ. Hai bóng một già một trẻ bước dần đi.
Thuan T.D. Nguyen