vhnt, số 180
1 May 1996
Trong số này:
thư vhnt..................................................................PCL
T h ơ :
1 - Ðọc thơ Bùi Giáng ........................................Cao Nguyên
- Biển và trăng .........................................Cao Nguyên & N.
2 - Sơ huyền .........................................................Chinh
3 - Hoàng Lan ..............................................Trần Thái Vân
4 - Sông Hồng chảy về đâu ? ....................................CỏMay
5 - Căn phòng .................................................Phạm Chi Lan
6 - Thơ ngoại ngữ: Moving on ......................................Ian Bui
D i ễ n Ð à n V ă n H ọ c :
7 - Ðiểm thơ Phạm Ngà: Lời ru con ......................Sung Nguyễn
T r u y ện N g ắn / S án g T ác :
8 - Inoue Yasushi: Cây súng săn (phần 1/4) ..................Y-Yên dịch
9 - Ðà Lạt chiều buông .............................Nguyễn Tấn Hưng
Thân gửi đến bạn đọc vhnt số này, là một hòa hợp những sáng tác đặc sắc của các cây bút quen thuộc của VHNT. Mong bạn đọc có những giây phút thưởng thức nghỉ ngơi cho tinh thần.
Xin thông báo đến độc giả về dự án in tuyển tập "Văn Học Nghệ Thuật trên internet". Nhóm chủ trương VHNT đã bắt đầu thực hiện việc ấn hành này. Tập san VHNT sẽ là một tuyển tập các sáng tác đặc sắc xuất hiện trên diễn đàn VHNT. Ấn bản tuyển tập VHNT sẽ được phổ biến đến độc giả ngoài internet về sinh hoạt văn học giá trị của giới văn nghệ trên cộng đồng siêu không gian, và để giới thiệu các cây bút "trẻ" đã góp công tạo nên diễn đàn đa dạng và phong phú của chúng ta. Tuyển tập này còn có ý nghĩa quan trọng vì sẽ nói rõ chiều hướng cá biệt của nhóm văn học "mới" trên internet mà chắc chắn nhiều người đang muốn tìm hiểu. Mục đích của tuyển tập không hẳn chỉ để ấn hành những sáng tác đặc sắc đã xuất hiện trên VHNT, mà còn là một bản đúc kết, là tinh lọc các sáng tác đã được chọn lựa nói lên một cái nhìn, một bắt đầu của việc định hướng vhnt mà người chủ biên này đã không thể làm được trọn vẹn trong riêng một số vhnt, hay năm bảy số vhnt. Tập san VHNT sẽ tóm lược mọi tinh hoa từ số đầu tiên cho đến số gần nhất.
Nhóm chủ trương VHNT rất mong được sự ủng hộ của độc giả về chương trình này. Về thể thức ủng hộ, bạn đọc sẽ nhận được một thư riêng do anh Trần Thái Vân gửi đến hộp thư của bạn trong nay mai, với đầy đủ chi tiết và điều lệ việc đóng góp ủng hộ cho quĩ thực hiện tập san VHNT.
Cũng rất mong các thân hữu và cộng tác viên gửi bài vở mới cho tập san này, để tuyển tập sẽ có một nội dung thật đặc sác phong phú.
thân ái,
PCL/vhnt
Ðọc Thơ Bùi Giáng
Đọc thơ mới biết thơ buồn
Nhìn đời mới biết đời buồn hơn thơ
Bùi Giáng
Bao giờ mới hết mộng mơ
Là khi đất mở hồn thơ khép rồi
Bước xênh xang giữa đất trời
Ðâu là bến đỗ đâu người chờ mong
Một đời những ngóng cùng trông
Những vui cùng gió những buồn cùng hoa
Một đời nói tiếng thiết tha
Kiếp người - ấy cũng như là cơn mơ
Dang tay níu giữa đôi bờ
Sông dài biển rộng lững lờ trôi xuôi
Phù du cũng mệt kiếp người
Mưa nguồn, chớp bể, túi đời nhẹ tênh.
Biển và Trăng
Đêm.
Biển
duỗi êm đềm,
dài gợn tưởng.
Sóng
ôm ấp lung linh vầng trăng.
Sóng sánh.
cơn ngọt ngào say đắm đuối
hút sâu
ngây ngất tận cùng.
Ngày.
Thủy triều thức giấc đau tiếng ru ghềnh đá.
Bãi vắng.
Cánh rong khô phơi mình
khát khao niềm trăng tan.
Gió lồng lộng rát cơn buồn cát cuốn
Bọt biển trắng cơn buồn
uất ức
nỗi giận hờn xô từng đợt âm bạ
Niềm đau dã tràng dại khờ xây mộng
Mãi vẫn yêu,
vẫn hiến dâng viên cát xe tròn tan mùa sóng vỗ
Mặn khắc khoải.
Mặn nhớ thương.
Mặn say đắm.
Nhưng đêm vẫn lóng lánh ngọt ngào từng vết chém vầng trăng.
Biển ơi...
Cao Nguyên & N.
Sơ Huyền
Thuở trăng non
Ðàn ngựa chạy tháo lưng đồi
Ðem theo chiêm bao thơ ấu
Trong cơn mưa ngời hạnh phúc vỡ
Em xõa tóc màu dĩ vãng biếc ngọc.
Loang loáng xa vầng mây cố quận
Bất tận nhớ.
Tình chiếc đơn lá rụng cuối mùa.
Tiếng chuông nhà thờ rơi xuống
vài giọt thời gian.
Sông đen dài thao thức.
Rời rã trong em suốt dải mơ hồ -
Xõa kín
một vùng tóc trắng.
Ngựa chạy suốt,
Suốt trong cơn mưa xa xưa.
Rong ruổi giữa giấc mơ ngàn đày đọa
Thăm thẳm vầng trăng sơ huyền,
Tóc bay xanh ngời một thuở
Rã chiêm bao .
Chinh
Hoàng Lan
Ðoàn tàu chạy xình xịch
Dưới trời mưa tháng mười
Tôi im lặng ngồi
Thả hồn về một nơi vô định
Muà đông yên tịnh
Nước bạc dòng sông
Không có một bóng nông phu ngoài đồng
Và những con trâu mệt nhọc
Thỉnh thoảng vài tiếng chim kêu như khóc
Có lẽ vì chúng đói lòng
Mây trời không bay thành dòng
Chúng đóng lại thành từng mảnh -
Mảnh xám mịt mù...
Tôi ngủ gật, ngủ gù
Giật mình, a, có người ngồi bên cạnh
Làm bạn đồng hành
Nàng mỉm cười, đôi mắt ướt long lanh
Nét mặt mơ hồ tựa sương thu buổi sáng
Một vẻ buồn, rất buồn như người từ dĩ vãng
Từ một cõi xa xôi
Tôi mỉm cười
Và tôi im lặng -
Sự im lặng màu trắng
Tàu ra đến Tam Quan
Nhìn kỹ lại nàng
Nàng rất đẹp, cái đẹp đứng đắn
Áo quần, tóc tai ngay ngắn
Không như những người ở lứa tuổi chúng tôi
Nàng nhìn ra cửa đôi mắt xa xôi
Khẽ ngâm một bài thơ nghe quen lắm đấy
"Biết đâu trong đám xuân xanh ấy..."
Trong giọng trầm buồn, đơn sơ
Như vu vơ
Như tiếng thở
Như đổ vỡ
Hơi ngờ ngợ
Của người thương tiếc nửa chừng xuân
Tôi tần ngần
Rồi đánh bạo làm quen, nói chuyện
(Cái kiến thức thơ, văn chắp lại không đầy dăm ba miếng
Lại hữu dụng trên xe lửa, xe đò)
Nàng vui lên, tiếng Huế nói nhanh như chim gọi líu lo
Ðến Ðà Nẵng trời mưa tầm tã
Nước lụt trôi đường rầy ngoài miệt Lăng Cô
Khách đổi tàu đổ xô
Tìm chỗ ngủ đợi ngày mai đi tiếp
Nhìn cảnh hỗn loạn khủng khiếp
Tôi hỏi nàng có muốn về nhà tôi không
Nàng dường như do dự trong lòng
Tôi bảo, "Ngày mai chưa chắc đi được
Về nhà em thể nào cũng tốt..."
Nàng là người thực tế
Nên quyết định ở trọ lại nhà tôi
Khi người ta ở vào cái tuổi sắp ra đời
Thường hay tỏ lòng hào sảng
Tối hôm đó tôi cũng làm một người hào sảng
Tiếp đãi bạn lỡ đường chí tận, chí tâm
Ngồi đàm thoại văn, thơ đến khuya, thì thầm
Kể cho nhau nghe vài câu chuyện lý thú
Lúc tôi giăng mùng cho nàng ngủ
Trên giường bất ngờ nàng nắm giữ
Hai cánh tay của tôi
Kéo mạnh về phiá nàng ngồi
Tôi còn nhớ mặt nàng đỏ ửng
Tôi ấp úng
Hơi thở của nàng lùa vào mặt tôi nóng rực, ào ào
Nàng thiều thào
Những gì không được rõ...
Như chú gà cồ mặt đỏ
Nét phi thường
Tướng oai phong nhưng chưa từng xáp chiến trường
Bên ngoài gáy to, trong lòng nhát như bống
Ừ đúng, tôi là chú gà cồ bất động
Chỉ thế... Chắc nàng thất vọng!
Sáng hôm sau tôi đưa nàng đi chơi
Vì tôi cũng muốn tìm lại Ðà Nẵng một thời
Bên dòng sông Hàn nước ngập
Mây trời giăng đầy thật thấp
Trên ghế đá công viên
Chúng tôi nói chuyện huyên thuyên
Tôi kể cho nàng nghe sự tích Tiên Sa, Non Nước
Nàng thỉnh thoảng thở dài thườn thượt
Rồi trầm giọng thổ lộ tâm tình
Bảo rằng từ khi mới gặp tôi nàng đã đêm lòng yêu mến
Tôi biết câu này trước sau gì cũng đến
Và nên trả lời thế nào?
Nàng làm tôi xôn xao
Tôi thấy tội nghiệp cho nàng quá đỗi
Nhưng yêu? Tôi yêu tôi còn chưa nổi...
Giả lãng, tôi hỏi nàng có muốn đi chơi Tam Kỳ
Nàng gật đầu, "Ờ, thì đi..."
Quốc lộ Một trời mưa lấm tấm
Gió muà đông lạnh căm căm
Ðường dài xa xăm
Hai chúng tôi khép nép
Sánh vai nhau như nhân tình thứ thiệt
Chung một chiếc dù
Mây giăng mịt mù...
Nhìn những tháp Chàm thiên cổ
Tôi chẳng thấy gì đẹp quá độ
Chỉ thấy lòng buồn thiu
Nhìn sang bên kia đường hắt hiu
Tôi tưởng tượng mình đang đi với Diễm
Hình như lúc ấy tôi cầm tay nàng âu yếm
Ðôi mắt nàng xa xôi
Có thể nàng mơ về Trịnh Công Sơn đó thôi
Như tôi mơ về nhân tình trong nhạc ông tả
Tự nhiên tôi có một cảm giác khó tả
Tôi thắc mắc về nàng
Và ghen vội vàng...
Tôi dẫn nàng đi thăm mộ Mẹ
(Tôi thường làm vậy những khi lòng không được nhẹ)
Tôi đặt lên một đoá hoa
Nước mắt ra nhạt nhoà
Trong giây phút tôi hiện nguyên hình thành đứa con nít
Khóc thút thít
Nàng đưa tấm khăn luạ vàng
Tôi nhận lấy, bừng tỉnh, ngỡ ngàng
(Và có phần mắc cở)
Ðôi mắt nàng nhỏ vài giọt lệ
"Thôi mình về...", tôi bảo khẽ
Ðêm ấy trên bờ biển buồn tẻ
Sóng vỗ nhè nhẹ
Chúng tôi đi bên nhau
Tôi cầm tay nàng nhìn sao đêm thâu
Lâu, rất lâu không một ai lên tiếng
Cuối cùng nàng nói chuyện
Câu chuyện dài như một thuở xa xăm
Câu chuyện dài như những tháng năm
Và bắt nguồn từ một vùng kinh tế mới
Và bắt nguồn khi người thường đòi lập riêng thế giới
Rồi kết cuộc là nàng làm vợ người ta
Rồi kết cuộc nàng làm mẹ người ta...
Tôi giật mình, rút tay về rất vội
Như người có lỗi
"Lạy Chúa: Con có tội..."
Nàng thở dài thì thầm
Trong giọng nói xa xăm
Ngày mai nàng sẽ rời Ðà Nẵng
Tôi im lặng -
Sự im lặng màu xám -
Nàng cúi đầu thông cảm
Hát rất khẽ và rất lâm ly
"Ngày mai em đi..."
Tôi biết, vâng, tôi biết đêm này rồi ngàn sau không gặp
Biển dẫu nhớ thì đường đời ngăn cách
Chỉ còn chăng tiếng hát ngọt ngào
Và dư âm của một thuở nào...
Hôm nay tôi ngồi ở văn phòng
Nhìn sang khu chung cư đối diện
Cuối chiều lười biếng
Chợt thấy đằng kia nở rộ một cánh hoa vàng
Hình như là đóa Hoàng Lan
Trong lòng tôi bỗng dưng xao xuyến quá
Trong lòng tôi bỗng nhớ nhiều chi lạ
trần thái vân
Sông Hồng Chảy Về Đâu
(Cảm ơn anh đã vẽ cho bức "vô đề")
Anh
Sông Hồng chảy về đâu?
Giòng sông ấy còn thênh thang mùa lũ
Vỡ phù sa lênh láng đôi bờ?
Phù sa ấy có vài khi đỏ thắm
(Sắc phù sa hay sắc máu hở anh?)
Phù sa lay lắt
Thành cơn đau ám ảnh
Ðêm dài
Về một nẻo quê xưa
Còn đong đưa
Nỗi kinh hoàng và mê đắm
(Nỗi đau về bến đợi
Ngóng gọi đò sang sông)
Phù sa
Thành những vệt màu mê sảng
Nặng trĩu
Trên vai anh
Trong mắt anh
Trong tranh của anh,
Trong trang nhật ký em
Ngày ta xa nhau ...
Anh
Em vẫn hỏi sông Hồng chảy về đâu
Và anh bây giờ ở đâu?
Ðã quên chưa màu phù sa năm cũ?
Cỏ May
Căn Phòng
Người ngồi canh giữ căn phòng
nơi sự đe dọa
chính là
chiếc bóng của mình in trên vách
Không có sự tĩnh lặng quanh đây
có tiếng nói của thời gian
không thể không nghe rõ
trong tận cùng hiu quạnh
Hình ảnh hiện trên bờ tường
nói về cái đẹp của khoảng cách
gặp gỡ của bóng tối và ánh sáng là ảo mộng tuyệt vời
hạnh phúc và đớn đau
mông lung như dòng sông mắc cạn
chảy đi sông, cho qua cơn thủy tận
không còn tiếc nuối
Chân người đi trên sàn mây ảo giác
vai mang trĩu nặng gánh muộn phiền
lệch nghiêng trọng tâm cảm thức
phân chia làm đôi - một bên trí một bên tâm
người hôn mê trong vũng lầy dục vọng
Căn phòng không có cửa ra vào
mọi nẻo bế tắc tuyệt vọng
có chăng sự giao cảm với hành tinh thứ ba
cứu vớt người đến nơi chốn thật sự bình yên
nơi sự im lặng tận cùng
trả lời những câu hỏi.
Phạm Chi Lan
Moving On
(in memory of the fall of Saigon)
A packed house had come to celebrate
The event most were accustomed to hate
Like the ever fickle Texas weather and
As usual, everything was an hour late
The room was framed with broken paint
Children's laughters rubbed against
Cemented walls two stories high
Screaming brightly in fluorescent stain
The paratroopers made their usual mark
Conducting the ceremony of the flags
With a stern seriousness that still seemed odd
Twenty-one years after the war was lost
The dignitaries all sat up front
In their familiar dress of deference
Quietly chatting with each other before
Being formally introduced, one by one by one
Then came the speeches. Some were long,
Some were boring, some quite strong -
Each one a stab at some wounded past
But none proffered any new solutions
The audience applause was ever polite
Though background noise was (typically) high
And wasn't until the singers came on stage
That the hall became noticeably quiet
As the voices soared above the floor
The large man on crutches led the choir
Through a litany of emotions and spirit
Before retiring, after almost an hour
And thus it ended, another tribute
To losses and life's vicissitudes
To while my Aprils of years away
And heal the pain with efflorescent youth.
96'4'30
Ian Bui
Dừng chân bất chợt lắng nghe,
Tiếng ru mới mẻ gọi về xa xôi.
Ðiệu ru quen thuộc bao đời
Mà xao xuyến, mà bồi hồi tiếng ru.
Một thời thân thiết dạo xưa,
Người con gái ấy bây giờ ru đây.
Tròng trành tiếng gió tiếng mây,
Nửa ru bé ngủ, nửa lay gọi lòng.
Con thuyền nói với dòng sông,
Cánh cò nói vơí mênh mông nắng chiều,
Thời gian nói với tình yêu,
Buồn vui lại nói những điều buồn vui,
Xin đừng ai nữa như tôi,
Chuyện không đâu để bùi ngùi tháng năm.
trích đoạn Lời Ru Con Của Người Yêu Cũ - Phạm Ngà
Mỗi khoảnh khắc trong đời mình, ai cũng có "một chút gì để nhớ ": một bài thơ, một nét nhạc, một hình ảnh... Và cái "một chút gì để nhớ " đó luôn luôn gắn liền với một kỉ niệm to nhỏ nào trong kí ức mình.
Tôi yêu một người con gái; chuyện như giản đơn của muôn đời. Người con gái đã đi lấy chồng; chuyện như giản đơn của muôn đời. Gặp lại nàng và nàng đang hát ru con: Có lẽ không còn như chuyện giản đơn của muôn đời nửa. Bài thơ như vậy mà bắt đầu.
Tôi thích bài thơ của anh Phạm Ngà vì cái giai điệu như ca dao này . Tôi thích bài thơ vì bài thơ có tiếng thở của tôi; tiếng thở khi nghe người yêu cũ của mình ru con.
Con thuyền nói với dòng sông,
Cánh cò nói vơí mênh mông nắng chiều,
Thời gian nói với tình yêu,
Buồn vui lại nói những điều buồn vui,
Nói với nhau thật nhiều, thật tha thiết, gần gũi; cả không gian như đang nhắn nhủ với nhau điều gì trong cái khỏanh khắc nghe lời ru của nàng. Xin đừng ai nữa như tôi, Chuyện không đâu để bùi ngùi tháng năm. Tôi thích dừng lại ở đây để giữ cái âm hưởng của lời ru để mà buồn thật sự. Tôi thích như vậy, hơn là đọc tiếp phần còn lại của bài thơ; đoạn kết mà tôi nghĩ nhà thơ muốn có chút "gỡ gạc" .
Chẳng làm con nhện tơ vương,
Bao con đường vẫn một đường quanh nôi.
Lời ru như lửa bừng soi,
Bên nhau ấm những cuộc đời chia xa,
Ðể lòng mãi mãi thiết tha,
Ðể cho ai đó vượt qua chính mình.
Sung Nguyen
Cây Súng Săn
truyện ngắn Nhật Bản 4 kỳ:
Inoue Yasushi (Tỉnh Thượng-Tĩnh)
bản dịch của Y Yên
Lời giới thiệu: Tác giả sinh năm 1907 tại Hokkaido (Bắc Hải Ðạo, một đảo lớn miền Bắc Nhật), cha là một bác sĩ quân y khoa giải phẫu. Ông sống tách biệt với cha mẹ ngay từ thuở còn học tiểu học. Năm 1932 theo học đại học Hoàng Gia Kyoto, sau khi tốt nghiệp, Inoue Yasushi làm việc cho tòa báo Mainichi vùng Osaka rồi nhập ngũ, phục vụ khoảng một năm trên mặt trận Bắc Trung Hoa. Hết chiến tranh, ông trở về nghề làm báo sống ở Ðông Kinh. Truyện ngắn đầu tay Ryoyu - Cây Súng Săn - của ông xuất hiện trên tờ Bungakkai (Văn Học Thế Giới) vào năm một948 đã tạo ngay được tiếng vang. Năm 1950, ông đoạt được giải văn chương Akutagawa, một giải uy tín nhất nước Nhật. Từ năm một95một, ông bỏ nghề làm báo để chuyên về viết tiểu thuyết. Ông là một trong những nhà văn sáng tác hăng nhất với lối hành văn nhẹ nhàng đầy chất thơ (vì đã từng làm thơ trước khi viết văn). Do kinh nghiệm làm báo; lối kết cấu, diễn tả sự kiện trong các truyện của ông cực kỳ chính xác, tỉ mỉ; về già ông xoay qua viết tiểu thuyết lịch s Truyện ngắn " Cây Súng Săn" dưới đây kể lại một câu chuyện tình tay ba hết sức lâm ly, bi đát.
oOo
Cách đây ít lâu, tôi có gửi đăng một bài thơ tựa đề "Cây Súng Săn" trên tờ "Làng Săn", một tạp chí khổ nhỏ do Hiệp Hội Săn Bắn Nhật Bản phát hành.
Chắc quí vị cho rằng tôi là một kẻ ưa chuyện đi săn, bắn giết. Không, không phải đâu! Ngay từ thuở bé, tôi đã được dạy dỗ bởi một người mẹ rất mực hiền lành, chơn chất, bà tối kỵ việc giết chóc; thế nên đời tôi cho đến giờ, chưa từng rờ vào một cây súng săn nào. Số là, một ông bạn học cũ của tôi thời trung học, hiện làm chủ bút tờ "Làng Săn", biết rằng hiện tôi vẫn còn "mần thơ" lai rai cho mấy tờ nguyệt san thơ thẩn; nên đã nhờ tôi viết cho báo của ổng một bài thơ. Không rõ là do sự bốc đồng nhất thời hay vì muốn nối lại tình bạn xưa cũ bấy lâu mất liên lạc mà ổng cứ nằng nặc đòi tôi phải mần thơ cho bằng được. Lẽ ra thì tôi đã từ chối vì tôi chẳng khoái cái tờ báo ấy tí nào; lại nữa, tôi có biết mô tê chi về ba cái vụ đi săn đi siếc đâu. Vậy mà bỗng dưng tôi lại đâm ra nghĩ ngợi cả mấy ngày, tìm ý tìm vần để viết một bài thơ về cây súng săn và nỗi cơ đơn của người đi săn, đề tài này coi bộ "êm", nó sẽ giúp tôi thoát cơn bí.
Một đêm cuối tháng 11, khi mọi người đã an giấc, tôi ngồi vào bàn cặm cụi hí hoáy mãi tới khuya thì mần xong một bài thơ xuôi. Sáng hôm sau tôi bỏ vào phong bì gởi tới ông chủ bút tờ "Làng Săn". Bởi bài thơ xuôi đó có dính líu đôi chút với câu chuyện dưới đây, tôi xin được ghi lại toàn bài: "Cây Súng Săn".
"Trên lối mòn, một người đàn ông miệng ngậm ống vố như mấy tay đi biển, chầm chậm bước xuyên qua cụm rừng thưa dưới chân núi Amagi một buổi sáng đầu mùa đông giá buốt, gót giày ống đạp lên d dám lá thông phủ một lớp mỏng băng sương; con chó săn lông xù lót tót chạy phía trước.
Con người nào đang ôm cây súng săn 2 nòng hiệu Churchill, đeo cái dây lưng to bản gắn 25 viên đạn vậy?
Con người nào đang vác thứ vũ khí sáng loáng có thể lấy mạng sinh vật ấy. Tôi bị thu hút bởi cái vóc dáng cao lớn của người thợ săn vừa đi ngang qua. Rồi từ ấy, tôi cứ suy tư vầng trán thêm gầy ho ài về con người lạ lùng này khi đứng đợi tàu ở ga xe điện nơi thành phố, lúc lang thang trên phố về khuyạ Tôi ước muốn được bước từng bước thầm trong cô liêu băng giá như người thợ săn đó.
Lạ thay, tôi không hồi tưởng lại hình ảnh người đàn ông trong cảnh một mình đếm bước trên sườn núi Amagi một sớm mùa đông mà lại thấy ông ta như đang đếm bước giữa một lòng sông khô cạn, cô đơn buồn bã.
Cây súng săn được lau sáng bóng như toát ra một vẻ đẹp sắt máu, gợi nỗi kích thích bí ẩn lạ kỳ - vẻ đẹp không đời nào có nổi lúc nó chĩa vào một sinh vật - dường như trĩu nặng trên vai và trên tâm hồn cô đơn của người đàn ông tuổi trung niên nọ..."
Khi lật số báo có đăng bài thơ trên, tôi mới nhận thấy rằng quả thật tôi đã làm thơ thẩn! Trừ cái tựa ra, bài thơ ngớ ngẩn của tôi coi quá lạc điệu giữa những bài vở khác với những chủ đễ: "Tìm hiểu thuật săn bắn", "Ði săn, một thú chơi lành mạnh"...
Ðiều tôi trình bày trong bài thơ chẳng có gì khác hơn là phẩm chất của cây súng 2 nòng mà cái đầu óc vớ vẩn thơ thiếc của tôi đã tưởng tượng ra. Cũng còn may là tôi đã nói lên được điểm này,nhờ vậy tôi mới khỏi viết vài lời... tạ tội cùng độc giả "Làng Săn". Nếu nó được đăng trên các báo khác, tất không sao cả, nhưng kẹt cái nó lại nằm chình ình trên một tờ tạp chí chuyên đề của Hiệp Hội Săn Bắn Phù Tang, tờ báo đương cực lực cổ động cho môn "thể thao vui tươi lành mạnh, bổ ích nhất trong mọi môn thể thao!" Do đó, những tâm tư, tình cảm của tôi gởi gấm nơi bài thơ đã không "hơ .p rơ" lại còn có vẻ như một th "dị giáo". Tôi tưởng tới cảnh bối rối của ông bạn cũ lúc nhận và đọc bản thảo bài thơ, hẳn ông đã phải lưỡng lự, đắn đo ghê lắm trước khi quyết định cho xếp chữ.
Nghĩ lui nghĩ tới về lòng ưu ái của ông bạn ấy, tôi ân hận quá, tôi cứ lo rồi mình sẽ nhận được vài ba lá thư "ý kiến" từ mấy ông thợ săn, nhưng chỉ là lo sợ hão huyền vì ngay cả đến một tấm th iệp thơ vắn tắt đôi lời "góp ý" cũng không thấy tớị Thiệt là may (hay chẳng may), bài "thơ thẩn" ấy đã được mấy tay thợ săn cả cõi Phù Tang bỏ qua, nói đúng hơn, họ đằ.không buồn ngó tới. Bất ngờ, 2 tháng sau - lúc tôi đã quên đi cái "tai nạn" đó - tôi nhận được một lá thơ có gắn xi rất kỹ lưỡng từ một ông độc giả tên Tam Lang, cái tên hoàn toàn xa lạ đối với tôi.
Nhác trông thấy nét chữ viết tay của ông Tam Lang trên bao thư làm bằng loại giấy tốt Nhật Bản màu trắng, tôi sực nhớ tới câu nhận xét của một nhà viết sử nọ: Những nét văn tự khắc trên tấm bia đá cổ ở ngọn núi Thái Sơn sáng rực lên như ánh bạch quang khi ngọn gió heo may đã vờn qua.
Dù thời gian đã làm mòn hẳn đi những nét văn tự ấy, chỉ còn trơ lại tấm bia chữ lờ mờ như một nhắc nhở tới những nét hoành tráng, hoa mỹ xưa. Nét chữ viết tay của ông ta khiến tôi ngờ ngợ rằng ắt chúng cũng mang những nỗi buồn u uẩn nào đó, sẽ bộc lộ ra khi gặp cơn gió gợi cảm xúc tương tự. Không thể sai được, nét chữ trải che gần hết mặt phong bì kia, khiến tôi cảm nhận được nỗi cô đơn trống rỗng tiếp nối từ hàng này xuống hàng kia, khiến tôi liên tưởng đến tấm bia cổ trên ngọn Thái Sơn, chắc phải chứa đầy tâm sự. Cái địa chỉ hình như được viết thật vội vàng với một lần nhúng đầu bút lông vào mực duy nhất, thế nhưng nét bút vẫn cho người ta thấy sự lạnh lùng, lãnh đạm. Nó hơi kh ác một chút với cái trò thời thượng cố làm ra vẻ bất quan tâm, bất cần đời của đám người ngày này. Nói cách khác, tôi vẫn cảm thấy nó toát ra một kiểu bộc lộ, phô diễn bản ngã mà con người hiện đại đang cố tâm theo mốt dẫu tôi đã xem kỹ không thấy một nét thô thiển nào chứng tỏ chữ được viết bởi bàn tay của kẻ tầm thường.
Cho nên, thoạt nhìn những chữ viết tay trên bì thơ, tôi đã tưởng là thơ ai đó bị đi lạc vào cái thùng thơ của nhà tôi.
Mở bì thơ ra, tôi thấy một tờ giấy tàu loại to bản với 5, 6 cột viết theo lối đọc từ trái qua phải, từ trên xuống dưới, cùng một kiểu chữ "buông thả" ở phong bì. Lá thơ bắt đầu với những dòng sau:
"Ði săn là sở thích của tôi. Mới rồi có được đọc bài "Cây Súng Săn" của ông trên tờ "Làng Săn". Tôi là một kẻ phàm phu chẳng biết gì về thơ phú. Ðó là lần đầu tiên tôi đọc một bài thơ. Tôi cũng thưa thật với ông là lần đầu tiên tôi được nghe biết bút hiệu của ông, nhưng vừa đọc xong, tôi liền bị chấn động cả tâm thần".
Vừa đọc đến đấy, tôi bèn nhớ lại bài thơ tôi đã gần quên, à thì ra đây là điều tôi đã e ngại một thời gian, đợi chờ một lá thơ "úy kiến" từ một ông độc giả thợ săn khó tính gửi đến. Nhưng t iếp tục đọc, tôi hiểu là không phải vậỵ
Với vẻ lịch sự và tự tin, ông Tam Lang viết:
"Không biết có sai lầm không khi tôi tưởng ra rằng những vần thơ ấy viết về con người tôi? Tôi cho là ông đã nhìn thấy bóng dáng to lớn của tôi nơi cụm rừng ven Sơn Thôn dưới chân núi Amagi hồi đầu tháng 11 vừa rồi. Tôi rất hãnh diện về con chó săn lông xù đen trắng 2 màu, con chó đã được huấn luyện chuyên đi săn gà rừng, về cây súng săn 2 nòng hiệu Churchill, quà kỷ niệm mà ông thầy dạy săn bắn đã tặng tôi ở Luân Ðôn; và về cái ống vố thân quen của tôi mà ông đã tả ra. Tôi cũng vô cùng hân hạnh khi cái tâm trí của tôi, một tâm trí ngu muội lại được ông chọn làm chủ đề cho thơ ca. Tôi lấy làm xấu hổ về nó, và thực tình ngưỡng mộ cái tài năng thơ phú tiềm ẩn của ông".
Hết sức cố gắng, tôi hồi nhớ lại về cái nhà thợ săn mà tôi tình cờ gặp một buổi sáng cách đây 5 tháng ven khu rừng thưa gần núi Amagi. Lúc đó tôi đang ở tại một lữ quán để tắm suối nước nóng ở tỉnh Izu. Tôi chẳng còn nhớ được chi nhiều ngoại trừ cái dáng vẻ cô đơn lầm lũi của ông ta lúc bước qua mặt tôi. Tôi chỉ mang máng là ông ta tuổi trung niên khá cao lớn.
Ðúng ra, tôi đã không quan sát người thợ săn một cách cẩn thận. Vai đeo súng, miệng ngậm ống vố, ông ta nom có bộ khá dị kỳ, không giống như các tay thợ săn khác. Trông ông rất chững chạc, đường hoàng và bắt mắt vào sáng sớm đầu mùa đông ấy nên tôi đã phải quay nhìn sau khi chúng tôi đi ngược chiều chạm mặt nhau. Ông ta quẹo vào một lối mòn dẫn lên sườn núi. Tôi ngắm nhìn mãi khi ông chầm chậm leo dốc, rất thận trong như sợ bị trợt té, chẳng hiểu tại sao, hình bóng ấy gợi cho tôi niềm cô đơn và tôi đã đưa vào bài thơ đăng báo. Ngoài con chó săn tôi biết là loại chó khôn ngoan ra, tôi chẳn g hiểu gì nữa về việc săn bắn, vậy mà trong thơ tôi lại tả rõ về cây súng săn ông ta đeo theo như một kẻ am tường lắm. Thưa quí vị, hồi đang nghĩ ngợi để cố rặn ra một bài thơ đi săn đáp lại tấm thịnh tình của ông bạn chủ bút tờ "Làng Săn", tôi có nghe người ta nói 2 hiệu Richard và Churchill là 2 loại súng tốt nhất. Thế là tôi viết bừa cái "mác Churchill" vào, ai dè cây súng ông Tam Lang đeo lại đúng là hiệu Church ill, ông Tam Lang kỳ thực là người tôi không hề biết. Lá thơ viết tiếp như sau:
"Có lẽ rất kỳ quặc khi tôi thưa với ông là hiện tôi có giữ 3 lá thư. Tôi đã tính đốt chúng rồi nhưng sau khi đọc bài thơ của ông, tôi nảy ra ý định gởi 3 lá thư đó tới ông đặng ông đọc qua cho biết. Tôi xin lỗi trước vì sẽ làm phiền ông, nhưng mong ông bỏ chút thì giờ quí báu để đọc 3 lá thơ đó, tôi bỏ chúng trong một phong bì gởi sau. Tôi muốn ông hiểu tường tận hơn về tâm tư tôi, cái tâm tư mà ông đã gán cho là "lòng sông khô cạn, cô đơn buồn bã.
Con người vốn là một sinh vật điên rồ, xuẩn động cứ muốn thượng cao lên để cho kẻ khác biết đến mình. Ðọc xong, ông cứ việc đốt bỏ chúng đi, thật đáng buồn, tôi nhận chúng chỉ ít bữa sau hôm ông nhìn thấy tôi dưới chân núi Amagị Vâng, tôi đã có cái thú đi săn từ vài năm nay, cây súng săn trở thành người bạn đường và là tất cả đối với tôi lúc ấy. Quãng thời gian đó là quãng đời an bình hạnh phúc nhất trong đời tư cũng như đời công của tôi, trái ngược hẳn lại với cuộc sống sầu buồn cô đơn hiện tại".
Hai hôm sau, tôi nhận thêm một phong thơ khá dầy cũng đề tên người gởi là Tam Lang, khách sạn X, tỉnh Izu. Nó đựng 3 lá thơ gởi cho ông Tam Lang, 3 lá do 3 người đàn bà khác nhau viết. Tôi sẽ chép lại ngay dư ới đây để quí vị xem, tôi hoàn toàn không phê bình, thêm thắt ý kiến nhưng tôi chỉ muốn phụ đề thêm cho rõ: Ông Tam Lang dường như là một người có máu mặt, có địa vị xã hội, tôi đã cố lục tìm tên ông trong mấy cuốn niên giám rồi chịu thua không tài nào tìm ra nổi. Chắc đến 99% là ông ấy xài tên giả. Trong phần tiếp theo đây, tôi chỉ để tên Tam Lang, cái tên ông tự xưng với tôi, còn những tên khác tôi xin phép được xóa đi, thay bằng tên tự đặt để tránh gây phiền toái cho đời tư người khác, mong quí vị thông cảm.
(còn tiếp)
Đà Lạt Chiều Buông
Hơn nửa năm qua, kể từ ngày di chuyển về thành phố nên thơ Ðà Lạt, cuộc sống Mỹ Hạnh đã hoàn toàn thay đổi hẳn, cuộc đời nàng như thật sự đã sang trang. Từ một nơi chan hòa nắng ấm đến một nơi lạnh lẽo sương mù. Từ một thời vui vẻ, xông xáo chuyển sang u buồn, khép kín. Có phải chăng đời là thế, có những khi hạnh phúc tràn đầy và có những lần khổ đau sầu thảm? Thể hiện bằng những nụ cười nối tiếp với những giọt nước mắt thành một chuỗi luân hồi mầu nhiệm, mãi mãi trôi không ngừng nghỉ!
Trong ngôi biệt thự cổ kính nằm ven đường Bùi thị Xuân, từ cửa sổ nhìn ra, Mỹ Hạnh thấy những tia nắng chiều như đang nghiêng mình chạy song song với con dốc, xoai xoãi theo sườn đồi, biến những cành thông thường ngày xanh um màu ve chai thành những nhánh cây óng ánh vàng, lấp lánh hào quang theo từng cơn gió nhẹ. Lẩn khuất trong đồi thông trùng điệp, ngút ngàn đó thỉnh thoảng hiện ra một ngôi nhà ngói đỏ, một mái tranh màu nâu đậm, tạo nên những nét chấm phá nổi bật trên bức tranh thủy mặc. Xa xa phía chân đồi, cũng vậy, mặt hồ Xuân Hương phản chiếu ánh nắng chiều, chói lọi như chiếc gương mạ vàng, chiếm một khoảng không rộng lớn trên bức bình phong. Năm bảy con bồ câu, trắng có xám có, không khác gì những cánh hải âu hay chim yến ngoài biển khơi, bay lên đáp xuống tìm mồi gợi nhớ những chiều Vũng Tàu, Nha Trang xa lắc xa lơ.
Rồi sừng sững một bên bờ hồ là chợ Mới trong khu Hòa Bình, có lối kiến trúc tân thời giống giống như dinh Ðộc Lập, vì do cùng một kiến trúc sư vẽ kiểu, kiến trúc sư Ngô Viết Thụ. Men theo triền dốc qua bên phía kia bờ, độ một khoảng khá cao, ngọn tháp nhọn của nhà thờ Ðà Lạt vươn mình chĩa thẳng lên không như một mũi tên màu hồng thật lớn. Ở nơi đó, hằng tuần mỗi sáng chủ nhật, những con chiên miền núi trong số có cả Mỹ Hạnh, đã từng sum vầy dưới đấng Công bình - Bác ái để nguyện cầu hạnh phúc, trước hết cho riêng mình và gia đình, và thứ đến, cho đất nước quê hương, cho dân tộc Việt Nam ba miền Trung Nam Bắc, sớm thoát khỏi cảnh điêu linh tàn khốc của chiến tranh đã triền miên diễn ra trên một phần tư thế kỷ nay.
Có lẽ muôn người như một, ai ai cũng lấy làm thích thú khi đến miền cao nguyên lần đầu. Nhứt là vào những buổi trưa tà tà dạo phố, lên dốc xuống đèo, dưới cái nắng hanh vàng rực rỡ mà vẫn phải mặc áo len cho đỡ lạnh. Làm sao mà tìm thấy được ở dưới miền biển hay miền đồng bằng những cánh áo sặc sỡ muôn màu như bầy bươm bướm đùa bay trong mảnh vườn kỳ hoa dị thảo. Với những cô gái môi hồng, má thắm như những đóa anh đào nở rộ lúc vào xuân! Những cô gái hầu như trẻ mãi không già vì tâm hồn họ lúc nào chắc cũng hân hoan, thơ thới. Và hiển nhiên cũng không riêng gì con người, trong cái không khí mát mẻ trong lành ấy, những cánh hoa hồng đủ màu, những khóm pensé đỏ tươi hoặc xanh biếc, những chùm mimosa vàng cam lấm tấm đầu cành, những búp tulip no tròn như nhung, những nụ cúc xinh xinh, những đóa thược dược bụ bẫm, những ngọn glaieul, lys đầy búp non e ấp xếp theo cành... vẫn luôn luôn thi nhau khoe hương sắc vì rất lâu tàn. Ðó là chưa kể đến những vườn hoa được trồng tỉa và chăm sóc cẩn thận nhằm gửi bán khắp các tỉnh nhất là thủ đô Sài Gòn, hoặc dưới hình thức những công viên công cộng ngay trong thị xã nhằm mời mọc du khách phương xa dừng chân thưởng lãm. Như vườn hoa Ðà Lạt nằm cạnh mạn bắc hồ Xuân Hương chẳng hạn, với nhiều loại lan rừng hiếm có không những chỉ riêng ở Ðông Nam Á mà luôn cả thế giới này .
Chẳng biết có phải vì địa thế và phong cảnh có một không hai của Ðà Lạt hay không mà có một thời, vào thập niên 40 và 50 thì phải, thành phố này đã mệnh danh là La Petite Paris, một Ba Lê Nhỏ ở Viễn Ðông. Nhưng không hề dùng làm thủ đô văn hóa như Ba Lê thứ thiệt của người ta mà chỉ là một chỗ dành cho ăn chơi hoặc nghỉ mát ba tháng hè! Ðặc biệt, không riêng gì các vua chúa và mệnh phụ phu nhân của Hoàng triều cương thổ, mà luôn cả các hàng quí tộc ở Âu Châu, gồm đủ Công Hầu Bá Tử Nam, vẫn thường xuyên đến đây hội hè đình đám! Ðể bày nhiều trò tiêu khiển đôi lúc không mấy gì vinh dự, tốt đẹp lắm cho những người đứng ra tổ chức! Như những cuộc đi săn thú rừng bản xứ chẳng hạn! Những heo rừng, gà rừng, cọp, beo, hươu, gấu, và cả những con voi to lớn vô tội vạ của Việt Nam, hàng ngàn năm qua đã sống âm thầm trong những khu rừng già đầy gỗ quý như huỳnh đàn, cẩm lai, sao, trắc...
Nào có mấy ai để ý tìm hiểu đến cội nguồn của cái thành phố mang tên Ðà Lạt, rất thích hợp với những cặp tình nhân lén lút hẹn hò cho một chuyến đi xa, hoặc những đôi uyên ương không quên đi hưởng tuần trăng mật sau ngày cưới. Từ đâu mà có hai chữ êm tai, quyến rũ này. Phải nhắc đến công trình khám phá và thành lập thị trấn của ai đây, bác sĩ Alexandre Yersin người nối nghiệp Louis Pateur hay là toàn quyền Paul Doumer? Hoặc một vị đại thần bị bỏ quên nào đó của triều Nguyễn? Chỉ biết rằng cái tên Ðà Lạt có lẽ đã có từ lâu, lâu lắm! Kể từ ngày một sắc dân mang tên Lạt đã cắm dùi dưới chân núi Lâm Viên, một trong những hỏa diệm sơn đã nguội lạnh từ bao ngàn năm qua! Tại vì Ðà có nghĩa là sông là suối và Lạt thì hiển nhiên là tên của bộ lạc Lạt, một sắc tộc người Thượng. Ðà Lạt là con sông của người dân Lạt, ngày nay chỉ còn lại độ năm sáu ngàn người sống quây quần trong một thung lũng nhỏ nhoi cạnh sườn núi Lâm Viên mà thôi. Xa hơn một chút, con sông của dân Lạt đó hiện giờ lại chính là dòng suối Cam Ly, gom góp từng giọt vắn giọt dài rồi đổ trút xuống thác Cam Ly, tiếp tục tuôn chảy về phía nam để trở thành sông Cam Ly, một trong bốn phụ lưu của sông Ðồng Nai, gồm có sông Krong Kno, sông Ða Dung nhen nhúm và xuất phát từ vùng Suối Vàng, sông Cam Ly và sông Ða Nhim .
Mặc dù rất thích thưởng hoa, ngắm cảnh vậy mà từ ngày dời về đây đến nay Mỹ Hạnh chỉ đi vòng vòng thị xã chớ chưa có dịp đi xa. Từ khuôn viên viện Ðại học Ðà Lạt, do người anh cả của Tổng thống Ngô Ðình Diệm tức đức Tổng giám mục Ngô Ðình Thục lập ra vào năm một957, quành xuống vườn hoa và bờ hồ Xuân Hương thì hiển nhiên nàng đã đặt chân tới rồi. Xong, tiện đường vòng lên hướng bắc, băng qua Trung tâm Nguyên Tử Lực Cuộc Ðà Lạt độ bốn năm cây số để đến thung lũng Tình Yêu, với rừng thông vi vu trong gió vậy thôi chớ nàng chưa nghe ai nhắc nhở đến một giai thoại đáng ghi nhớ nàỏ
Kế đến phải là hồ Than Thở, có lẽ vì Mỹ Hạnh muốn viếng những chỗ có tiếng là thơ mộng và hữu tình trước tiên. Cũng không xa lắm, độ dăm bảy cây số về hướng đông. Một vũng nước trong ngay giữa rừng thông, nơi mà huyền thoại của đôi nam nữ ít người biết tới, xảy ra vào thời vua Quang Trung còn ở ngôi, tên là Mai Nương và Hoàng Tùng, đã dần dần khắc ghi trong tâm trí nàng. Ðại khái là chàng vì tiếng gọi của non sông nên đành phải gạt lệ chia tay, xa gia đình tòng quân giết giặc Thanh, còn nàng vì không muốn chàng phải bi lụy theo kiểu Hạng Võ biệt Ngu Cơ, đồng thời cũng muốn chứng tỏ lòng thủy chung giữ trọn niềm yêu của mình đối với người tình, nên đã than thở, thở than cho hoàn cảnh thương đau rồi buông mình nhảy xuống hồ tự tử. Ậy, mà có đến mới biết, tuy tiếng tăm truyền tụng có phần hơi lớn đó nhưng thật sự hồ Than Thở này xem ra nhỏ quá, nhỏ hơn giếng Nước Ngọt ở Mỹ Tho nhiều, nhỏ hơn ao Bà Om ở Trà Vinh nữa là khác. Nhứt là trong mùa khô hạn hán, nước cạn như hiện nay. Ðược một điểm là rừng thông ở đây dầy đặc, tươi tốt che mát rợp cả bầu trời .
Rồi phải vòng qua phía tây, đến xem Cam Ly thác bạc mười mấy thước cao và gần đó là làng Nguyễn Hữu Hào, mộ của nhạc phụ vua Bảo Ðại tức là cha của bà Nam Phương hoàng hậu, người nổi tiếng là giàu có nhứt tỉnh Gò Công thời bấy giờ. Và từ đó, Mỹ Hạnh cũng đã từng đi về mạn tây nam để thăm khu công giáo Du Sinh và vòng qua Viện Pasteur, Biệt Ðiện của Bảo Ðại tức Dinh số 3, rừng Ái Ân. Thêm nữa, nàng cũng đã đi ngang qua để xem các cảnh chùa, bên ngoài thôi vì là người công giáo nên nàng không muốn vào trong. Nhiều lắm, nào là chùa Quan Âm Tự, Linh Sơn, chùa Tàu của người Triều Châu, chùa Linh Phong tức chùa Sư Nữ của mấy bà vãi... nhưng có lẽ chùa Linh Sơn là cổ kính lâu đời hơn hết, xây cất vào khoảng cuối triều vua Minh Mạng, 1938 thì phải, còn các chùa khác đều được thành lập vào đầu hoặc cuối thập niên 50. Trường học cũng nhiều, nếu không kể trường Võ Bị Quốc Gia và trường Chiến Tranh Chính Trị là hai trường quân sự, các trường trung học dân sự rãi rác đó đây là Couvent des Oiseaux, Grande Lycée Yersin, Văn Học, Việt Anh, Bồ Ðề, Bùi thị Xuân, và Trần Hưng Ðạo ..., tức trường mà nhà văn nữ Nguyễn thị Hoàng đã dạy và đã đẻ ra tác phẩm tình cảm rất ướt át là Vòng Tay Học Trò. Còn về "nhà thơ của tình yêu," tức nữ sĩ Lệ Khánh, tác giả Em Là Gái Trời Bắt Xấu thì nàng có nghe nói là quê quán ở Ðà Lạt nhưng không biết chính xác là ở khu nào...
Chỉ ngần ấy thôi Mỹ Hạnh đã tìm hiểu sơ qua về thành phố mà nàng đang trú ngụ trong một thời gian ngắn nhưng trong tương lai rất có thể phải chấp nhận làm quê hương thứ hai! Chớ nàng chưa có dịp ngược đường về phía Ðức Trọng, Sài Gòn dọc theo quốc lộ 20 để viếng thăm thác Dalanta, thác Prenn, thác Liên Khương, thác Gougah, thác Pongour... kể theo thứ tự từ gần ra xa. Nghe đồn là hùng vĩ và đẹp đẽ hơn thác Cam Ly nhiều, nhưng cũng có điều bất tiện là không nằm gần lộ cái, có chỗ phải đi sâu vào rừng vài ba cây số thuộc vùng Việt Cộng kiểm soát, mất an ninh. Và đương nhiên nàng cũng chưa từng đi theo quốc lộ mộtmột hướng về Ðơn Dương, Phan Rang để băng qua đèo Ngoạn Mục, Bellevue nếu muốn nói theo Tây, ắt hẳn phải là chốn tiên cảnh bồng lai!
Tuy nhiên, ngoài những ngày nắng ấm dưới khung trời thiên thanh, xanh biêng biếc điểm chút mây trắng lềnh bềnh trôi... còn phải kể đến những cơn mưa phùn rỉ rả, buồn ơi là buồn! Bầu trời xám xịt màu chì như được kéo xuống thấp, chập chùng ngang tầm mắt. Ðôi ba ngày liên tiếp, nào có khác gì những cơn mưa phùn lất phất lâm râm thúi đất của Huế là bao. Những giọt mưa mơ hồ lúc có lúc không như muốn tăng thêm nỗi xa vắng nào đó cho các đồi thông hai mộ! Những giọt mưa tí tách như những lời thở than u ẩn bên hồ Than Thở của người đẹp Xuân Hương! Những giọt mưa lê thê như muốn kéo dài thêm kiếp sống gầy gò không hề đổi thay của bao nhiêu bóng dáng Thượng với chiếc gùi trên lưng, chôn chặt cuộc đời bên những đồi trà, cà phê trồng thẳng lối như vườn cao su, mút mắt ngút ngàn! Những giọt mưa còm cõi như muốn làm trĩu nặng thêm đôi vai nặng gánh trên chiếc lưng còng của các người lao công ngày ngày chăm lo những luống rau sà lách, bông cải, bắp cải, cà chua, cà rốt, khoai tây, dâu tây, và luôn cả những vườn mận tây, bơ, su hào, hồng dòn, artichaut...
Nhưng đó chỉ là chuyện nắng mưa, chuyện của đất trời, không bằng những giọt mưa len lỏi trong tâm hồn Mỹ Hạnh, chuyện của người, càng lúc càng làm nàng thêm đớn đau, tê tái. Mà hình như chẳng riêng gì nàng, có phải chăng những người ở Sài Gòn hễ ai đó lỡ dở, trắc trở chuyện duyên tình thì hay chạy lên Ðà Lạt này để dấu mặt, lánh thân?
Nhớ lại chuyện mình, đã gần một năm qua rồi mà Mỹ Hạnh thấy dường như còn sờ sờ vừa xảy ra trước mặt. Vì ai mà nên nông nổi. Nàng hay Hiếu, hoặc một người nào khác, là người thực sự phải mang tội lỗi tày trời đất. Trong tình yêu nhục cảm, gì chớ chuyện bầu bì là chuyện của người đàn bà phải tính toán, lo toan! Ðàn ông chỉ biết thèm khát và hưởng thụ mà thôi! Nàng vẫn biết như vậy và vẫn áp dụng kỹ lưỡng phương pháp Ogino-Knauss. Thông thường người ta hay dễ dãi với chính mình nên tính đến mười ngày, nhưng nàng đã ngược lại, khắc khe hơn, bắt buộc phải kiêng cử trừ hao, chỉ trong vòng bảy ngày trước và bảy ngày sau. Thế mà Hiếu nào biết đến thân nàng và lúc nào cũng vậy, hễ muốn là đòi cho lấy được...
- Ðù me, giờ nầy mà nó báo tin ngày mai khởi hành đi Nha Trang đặng chở xác bộ binh bị phản công chết lủ khủ ở mật khu Ðồng Bò mới là khổ đời chớ! Chắc tao phải trở về tàu ngay bây giờ...
Kể ra hôm đó cũng xui thiệt, phải chi anh Phát đừng xuống tàu, không được lệnh nhổ neo bất thình lình thì đỡ cho nàng biết mấy! Với bộ ba thì không sao, đến lúc chỉ còn lại có hai đứa thì nàng không kiềm chế được Hiếu! Nhất là trong một gian phòng ấm cúng, đầy đủ tiện nghi hơn cả phòng hai vợ chồng nàng đang ở trong ngôi biệt thự cũ kỹ nhưng đẹp đẽ này! Âu cũng là số mệnh!
Rồi trong sân trường Ðại học Sư Phạm ngày ấy, than ôi, Mỹ Hạnh không ngờ là mình đã mang bầu! Cái thai hành nàng quá chừng đến nỗi lúc về nhà trong người nàng như bắt nóng lạnh, cảm mạo thương hàn và thân thể bỗng dưng bần thần bãi hoãi, đau lưng nhức xương chịu không thấu. Ba nàng tức tốc chở lên chỗ ông bác sĩ bạn quen, bác sĩ Thiệt có phòng mạch ở gần Ngã Sáu, cho ổng khám bệnh khi thấy nàng nằm mê man, dật dựa cả ngày. Chiều ý ông già chớ nàng nào có muốn lê lết cái tấm thân tàn ma dại, xem như đã lỡ làng rồi đó đi đâu cho mất công! Nhưng lúc đến nơi, rõ ràng là nàng không biết ăn nói làm sao cho phải phép, ổn thỏa mọi bề! Biết là mình đang ụa mửa thèm chua, hôi cơm tanh cá, nhưng nàng nào dám khai thiệt. Thôi thì để ổng khám sao thì khám, vậy mà trời đất ơi, quả là thiên bất dung gian, ổng đoán bệnh trật lấc, chích cho nàng một mũi thuốc gì đó không biết và cho uống một lô ký ninh vàng đắng nghét để phòng ngừa sốt rét!
Phần vì lo rầu đủ thứ nên bệnh tình của Mỹ Hạnh đã không thuyên giảm mà càng ngày càng thêm trầm trọng. Cho đến một đêm, đang mê man bất tỉnh trong cơn sốt trên 40 độ thì nàng nghe loáng thoáng tiếng than khóc của má nàng. Vì cái thai đã sẩy, tuôn tràn ra trong quần nàng, làm ướt hết mặt drap. Thôi, cuộc tình vụng trộm giữa Hiếu và nàng đang đi đến hồi kết cuộc, nàng cũng không còn hơi sức đâu mà bào chữa hay than thân trách phận với ai nữa. Có lẽ cuộc đời của người đàn bà có hẩm hiu thế mấy chắc cũng đến mức độ đó là cùng, trong nổi đau tột đỉnh mà mạng sống của mình lại chẳng khác nào chỉ mành treo chuông!
Ðể che dấu sự nhục nhả cho riêng Mỹ Hạnh đối với mấy đứa em nhỏ của nàng và cho cả gia đình đối với hàng xóm láng giềng, má nàng liền âm thầm gọi xích lô, len lén chở nàng ra đi tức khắc trong đêm hôm tăm tối. May là má nàng có người bạn học cùng lớp khi xưa đang làm mụ ở một nhà bảo sanh tư bên bến Phạm Thế Hiển cho nên họ đã bằng lòng bảo bọc, che chở đủ mọi thứ cho nàng. Thì ra trong thời gian thập tử nhứt sanh đó, nàng đã đến thật gần với Hiếu, chỉ một đoạn đường ngắn mà thôi, nhưng lại cũng rất xa, dịu vợi như... bóng chim tăm cá. Vì chỉ cần một chút không may mắn vô tình xảy đến là Hiếu và nàng có thể ngàn đời vĩnh viễn chia lìa, bởi cái thai đã ra nhưng chiếc nhau còn sót lại. Ôi, còn nỗi đau nhục thể nào nhiều hơn nữa khi cô Mụ Bảy tìm đủ cách để moi móc, níu kéo mà đem nó ra. Ðôi ba lần ngất xỉu, mồ hôi vã ra như tắm, nhưng nàng cũng cố cắn răng chịu đựng, biết thân phận tội lỗi dẫy đầy của mình nên không dám buông một tiếng oán than .
Một lần lầm lỡ đã tởn tới già. Cũng hên là mấy đứa em, trai cũng như gái, của nàng đã dễ tin những gì mà ba má cho biết về nàng, chỉ hiểu lờ mờ là vì cố gắng học hành, thức khuya dậy sớm nên nàng bị lao nặng và đang nằm điều trị ở bệnh viện Chợ Rẫy! Không một ai được đến thăm nom vì đó là bệnh truyền nhiễm! Kể cả... Hiếu, "người bạn học cùng lớp với con," như nàng đã thú thật với ba má nàng. Kẻ đã gây cho nàng một trời thương đau, vậy mà nàng cứ vẫn mong vẫn đợi một cuộc hội ngộ thật bất ngờ trong những giây phút rất là cô đơn, đi biển một mình kia. Nhưng rồi ông trời ác quá, thời gian cứ tiếp tục dần trôi...
- Tại sao con dám liều lĩnh như vậy chớ, hả Hạnh? Thân gái một đời chỉ có một lần, sao con không biết nghĩ suy chín chắn? Gặp đứa thương thiệt tình không nói làm gì, nếu lỡ gặp thằng sở khanh thì thiệt thòi luôn luôn về phần mình, chỉ chuốc khổ vào thân, sao mà con khờ dại quá! Nếu như cái thai không hư, bụng bầu một ngày một lớn thì tao với ba bây biết phải tính làm sao đây, hả?
Ba má nàng thiệt tình cũng dễ tánh, chỉ la rầy sơ sài một vài lời như vậy thôi chớ không hề mắng nhiếc nàng thậm tệ như những người khác đã làm. Vì thương con, bậc làm cha mẹ đôi khi cũng phải hững hờ im lặng, cố nuốt những cay đắng đang đè nặng trong lòng, nên nàng cũng chỉ biết cúi đầu làm thinh chớ biết nói sao hơn! Lạ thay, ba má nàng lại ơ hờ dửng dưng, chẳng màng đá động hay gạn hỏi đến tên lãng tử đã "phá hại đời con gái" của con mình là ai...
Thế mà rồi "phước bất trùng lai, họa vô đơn chí," lúc nàng vừa mới cứng cáp thì tai ương lại đổ ập đến cho cả gia đình, ba nàng nhận được lệnh thuyên chuyển về Ðà Lạt. Ban đầu ba nàng dự trù chỉ lên đó một mình, thỉnh thoảng hoặc hằng tháng về thăm, nhưng cũng may là má nàng tìm được người sang nhà có giá nên sự chia xa, ngăn cách chỉ xảy ra trong một thời gian ngắn. Cuộc ra đi nào cũng vậy, không ít thì nhiều đều có những quyến luyến thân thương, những kỷ niệm êm đềm hằn sâu trong tâm tưởng. Tuy nhiên, bán được căn nhà cũ nằm trong hẻm không có cửa hậu nàng cũng mừng. Nàng hằng ước mơ là nhà mình phải ở mặt tiền trông ra lộ lớn, đằng sau nhà có chút ít vườn tượt, bông hoa lá cành. Và còn sung sướng nào hơn, khi ba nàng cho biết ngôi nhà mới mua ở Ðà Lạt, tuy là hơi nhỏ nhưng có những đặc điểm mà nàng ưa thích .
Những ngày chuẩn bị đồ đạc rồi lên đường di chuyển, ôi thôi, thật là ê hề, phiền toái, nhiễu nhương. Cũng hên là ba nàng mượn được công xa, coi như xe nhà trong một đôi ngày, kể cũng đỡ. Sau hơn mười năm tích trử, bao nhiêu thứ lỉnh kỉnh trong nhà tuôn ra, dồn đống lại từng nhóm, từ góc mới thấy nhiều ơi là nhiều. Má nàng phải biếu xén hoặc bán đổ bán tháo như cho không những món lặt vặt không mấy cần thiết mới có đủ chỗ chất lên xe. Cũng là một bài học, một kinh nghiệm dọn nhà đáng ghi nhớ trong đời nàng .
Vừa lên Ðà Lạt độ vài ba hôm thì Mỹ Hạnh có thêm một người bạn mới, Tâm. Con trai lớn của một sĩ quan cao cấp, giảng viên trường Chiến Tranh Chính Trị, và là bạn thân của ba nàng ở những năm trung học xa xưa. Tâm cao ráo, dáng người tầm thước, nhưng khác với những ai sống lâu ở miền cao nguyên lành lạnh mù sương, nước da chàng hơi bánh mật, ngăm ngăm đen. Ðặc biệt với khuôn mặt vuông vuông chữ điền, cánh mũi thẳng, cặp mắt to và chưn mày rậm trông chàng rất oai hùng trông bộ đồ bay, đội mũ calo, nàng nghĩ vậy. Miệng chàng lúc nào cũng cười tươi như muốn khoe mình tốt bụng, bao dung, rộng lượng. Những ngày đầu mới quen, sau giờ làm việc, chàng hay đến nhà giúp ba má và chị em nàng những chuyện nặng nhọc mà người anh cả trong gia đình hay làm. Vậy mà rồi từ một người bạn, một người anh, không mấy chốc lại đổi thành người chồng khi hai người bạn học cùng lớp ở trường Tây Chasseloup Laubat một dạo nào đòi làm suôi với nhau. Trong khi trong lòng nàng vẫn còn vướng bận hình bóng của Hiếu, nhưng có lẽ phải vì chữ "hiếu" mà quên đi chữ "tình," để đáp đền công ơn sinh thành dưỡng dục cũng như xóa bỏ những tội lỗi, nhục nhã, oan ức mà nàng vừa mới gây ra .
Sở dĩ Mỹ Hạnh biết được nhiều ngoại cảnh xung quanh thị xã Ðà Lạt cũng là nhờ Tâm chịu khó mỗi cuối tuần hay đưa nàng đi chơi, trong thời gian là bạn, và từ đó có lẽ tình thương đã bộc phát nên Tâm yêu nàng rất mực. Còn riêng bản thân nàng thì tỉ như con chim bị tên nên giờ còn sợ cây cung, đâm ra dè dặt. Nhưng tình trường là vậy, hễ mình càng thờ ơ xa lánh thì đối tượng lại càng nôn nóng chạy tới. Ðể không bao lâu sau đó, đám cưới giữa Tâm và nàng đã linh đình, trang trọng xảy ra. Tâm rộng rãi hào phóng và rất là Tây phương, đã chẳng để ý gì trong đêm động phòng hoa chúc, không hề quan tâm đến sự trong trắng, tiết trinh của nàng, người phối ngẫu sẽ cùng mình chung sống trăm năm đến tóc bạc răng long. Có phải chăng khi thương trái ấu cũng tròn đã rất đúng trong trường hợp của nàng? Ngược lại, càng mang mặc cảm với Tâm, người chồng gương mẫu, càng làm nàng nhung nhớ Hiếu, người tình lý tưởng mà nàng đã trao trọn tin yêu ngay từ thuở ban đầu. Kẻ đã từng đem đến cho nàng một trời khổ đau, vậy mà nàng không thể rời xa, chạy trốn đi đâu được. Cho đến nay và có thể mãi mãi về sau, một cuộc tương phùng giữa Hiếu và nàng, cho dù một lần rồi chết ngay xuống chốn tuyền đài, đối với nàng, vẫn là giấc mơ có thể thành sự thật .
Vậy mà nàng đã tự lừa dối mình, vì trong lá thư vừa rồi, hình như nàng đã nói với Hiếu những lời trăn trối để chấm dứt một cuộc tình giờ đã đến hồi trái ngang! Nàng có tự mâu thuẫn với chính mình không? Dường như người con gái nào cũng vậy, ít nhứt một lần trong đời, đã nói ngược lại với những điều mình đang nghĩ một cách hết sức thành thật? Như "ghét" thay cho "thương," chẳng hạn! Như "quên" thay cho "nhớ," chẳng hạn! Như "vĩnh viễn chia lìa" thay cho "xích lại gần nhau," chẳng hạn. Ôi, quả là con tim có lý lẽ riêng của nó, càng suy nghĩ càng làm tâm hồn nàng thêm hỗn loạn, bệnh hoạn và thân xác nàng thêm oằn oại, xanh xao. Nàng không nhớ đã viết gì trong lá thư vừa qua, nhưng có lẽ những "lời cuối cho một cuộc tình" hết sức thành thật kia của nàng, nghĩa bóng lẫn nghĩa đen, đã làm cho Hiếu khổ đau tột cùng, đến độ thốt lên nỗi lòng tỉ tê ai oán, cô đọng qua mấy vần thơ:
Từ em về với lồng son
Anh, con chim lạnh, lên non hót buồn
Cuộc tình luống những bi thương
Khúc yêu đương khúc đoạn trường, cớ sao?
Trái ngang lệ thấm má đào
Tình em gối mộng đi vào thiên thu
Yêu anh em nói lần đầu
Trái tim rơi rụng khối sầu nặng mang
Bên sông một bóng đò ngang
Người đi kẻ ở muôn vàn đớn đau
Long lanh giọt lệ mắt sâu
Nghẹn ngào tiếng nấc thay câu giã từ
Ôm tròn một mối tương tư
Ngẩn ngơ thơ thẩn chừng như điếng hồn
Còn đây tàn cuộc môi hôn
Mộng mơ đọng lại nụ hồng dấu yêu...
Mỹ Hạnh không cầm được tiếng thở dài... Ánh nắng chiều chỉ còn thoi thóp ngoài hiên. Màu vàng óng ánh nhạt nhòa vì những tia phản chiếu như đã tan biến đi đâu mất, trả lại rừng thông màu xanh thẫm muôn đời. Dưới thung lũng sâu, mặt hồ Xuân Hương như đen lại. Sương chiều dấy lên khắp mọi nơi, đất trời như được bao phủ bởi một màn sữa đục mong manh, nhẹ nhàng như khói như mây. Ngang lưng đồi, một vài tiếng chim kêu não nuột như muốn đưa lòng người lần về với tổ ấm cô liêu...
Hiếu ơi, ôi, người tình yêu dấu của em ơi, một lần nữa chính anh đã làm con tim em thổn thức, lặng lẽ đưa em vào phút giây của điếng hồn, ngơ ngẩn, thẩn thơ! Làm sao em sống nổi với canh cánh bên lòng những nhớ thương anh vàng võ, muộn màng? Anh, em biết làm sao đây trong khung trời cao nguyên đơn lẻ lạnh lùng này, nhứt là những lúc chiều buông đêm xuống như hôm naỷ Em biết làm sao cho anh hiểu được lòng em?
Anh,
Anh đâu biết khi em viết những lời vĩnh biệt anh là cõi lòng em tan nát? Lúc viết xong em lại do dự đôi ba lần không muốn gởi thư đi, vì gởi cho anh là kể như nghìn trùng xa cách! Nhưng rồi em phải lấy hết can đảm để một lần làm khổ anh, một lần rồi thôi! Vậy mà ông trời vẫn còn bắt em phải rơi vào hết nghịch cảnh nầy đến nghịch cảnh khác! Vì em lại tiếp tục viết cho anh, cho mãi đến bao giờ, cho đến hơi thở cuối cùng mới là chung cuộc sao anh?
Em đã tự dối lòng mình vì chỉ mấy tuần qua vắng thư anh là em trông đứng, trông ngồi tưởng chừng như xa anh hằng thế kỷ! Toàn thân em rũ rượi, mất ăn mất ngủ chỉ vì anh! Vẫn biết yêu anh là tội lỗi, tội lỗi rất lớn đối với chồng em anh có biết, nhưng làm sao em giết được tình em yêu anh, hả anh? Nhiều lúc em không hiểu tại sao, tại sao em không chắt chiu những gì em có, mà lại đi mơ mộng viễn vông, mãi mãi yêu anh như yêu một ánh sao trời từ xa dịu vợi, như yêu một bóng mát cuối đời dành cho những linh hồn sắp chết, đêm đêm thao thức gắng sức tìm nơi nương tựa hình hài.
Anh,
Vẫn biết "yêu là chết trong lòng một ít," nhưng em vẫn thèm chết và muốn chết thật nhiều đó anh ơi! Tình yêu là gì anh hả, tại sao quyền lực của nó ghê gớm quã Ðã bắt em phải sống lây lất cho hết kiếp nầy trong gian dối, lọc lừa người chồng khả kính của mình. Trời ơi, sao chồng em thương em quá sức mà vẫn không thể nào chiếm được trái tim em? Thân xác em nằm đây mà tâm hồn em đã gửi trọn cho ai! Ðam mê nầy dành tặng riêng anh nay đã chất chồng ngập hết cả "lồng son," anh có thấủ Anh dấu yêu, anh có thấy vì tình yêu anh em đã bất chấp mọi hậu quả khôn lường đang chực chờ, nằm sẵn ngay trước mắt em? Tại sao em cứ như con thiêu thân, lăn xả vào anh cho thân mình trần trụi cháy xém, hả anh?
Anh,
Có những lúc đêm về, lành lạnh trong vòng tay ôm của chồng em, hôn anh trong mơ mà em xót xa, tủi phận cho riêng mình, nước mắt em ràn rụa! Anh ơi, người yêu trong nghịch cảnh của em, như thế nào mới gọi là tình yêu đây anh? Chắc có ngày em héo hon, mòn mỏi, lịm đi và chết mất với những tình nầy ...
Em.
Nguyễn Tấn Hưng