vhnt, số 63
22 September 1995
Trong số này:
+ 1 - thơ, Hoài Cảm, Thach Nguyen
+ 2 - thơ, Bài Ca Cô Gái Trường Sơn, Tuệ Sỹ
+ 3 - nhạc, Từ Một Giấc Mơ, Mai Anh Viet / TP Nguyen
+ 4 - thơ, Xuân Lạc Loài, Ðặng Khánh Vân
+ 5 - thơ, Trăng Vui Khi Em Vui, TTTN-KV / Nguyen Van Diem
+ 6 - văn, Thư Cho Bạn, Nguyễn Ðình Thái
+ 7 - phiếm luận, Tiết Phụ Ngâm, Pít Trần
+ 8 - bút ký, Back Home 1995, Lam T. Hy (continue)
Hoài Cảm
Lá vàng rơi, bóng đời hiu quạnh
Ánh dương tà, chiếu lạnh đồng xa
Ngậm ngùi bờ gió thẩn tha
Trông ra bãi vắng ngỡ là chốn xưa
Biết vì sao hoàng hôn quạnh vắng?
Biết khi nao mây trắng ngừng bay?
Hoàng hôn nữa buổi sầu lay
Mây bay đi mãi chuỗi ngày qua nhanh
Bóng trúc thanh, long lanh đáy nước
Cánh nhạn hồng, lươn lướt chiều hôm
Tình tang đàn khảy, tay ôm
Suối reo róc rách đầy hồn ngẩn ngơ
Cảnh sơn thủy, bơ vơ viễn khách
Bóng tà xa, man mác thuyền quyên
Dòng đời trôi mãi truân chuyên
Vượn kêu ai oán, xuyến xao thêm lòng...
Có ai bờ cũ đứng trông...
Hoàng Thạch Thiếu Công
Bài Ca Cô Gái Trường Sơn
Nàng lớn lên giữa quê hương đổ nát
Tay mẹ gầy mà đất sống hoang khô
Ðàn em nhỏ áo chăn không sưởi ấm
Tuổi trăng tròn quanh má đọng sương thu
Những đêm lạnh đợi nàng hương khói nhạt
Bóng cha già thăm thẳm tận u linh
Tuổi hai mươi đêm dài sương phụ
Ngọn đèn tàn tay trắng phủ mênh mông
Suốt mùa đông nàng ngồi may áo cưới
Ðẹp duyên người mình vẫn phận rong rêu
Màu hoa đỏ tay ai nâng cánh bướm
Mà chân mình nghe cát bụi đìu hiu
Vào buổi sáng sao mai mờ khói hận
Nghe quanh mình lang sói gọi bình minh
Ðàn trẻ nhỏ dắt nhau tìm xó chợ
Tìm tương lai tìm rác rưởi mưu sinh
Từ những ngày Thái Bình Dương dậy sóng
Quê hương mình khô quạnh máu thù chung
Nàng không mơ buổi chiều phơi áo lụa
Mơ Trường Sơn vời vợi bóng anh hùng
Từ buổi ấy nghe tim mình rộn rã
Nàng yêu người dâng trọn khối tình chung
Không áo cưới mà âm thầm chinh phụ
Không chờ mong mà ước nguyện muôn trùng
Rồi từ đó tóc thề cao ước nguyện
Nên bàn chân mòn đá sỏi Trường Sơn
Thân bé bỏng dập dìu theo nước lũ
Suối rừng sâu ánh mắt vọng hoa nguồn
Trường Sơn ơi bóng tùng quân ngạo nghễ
Phận sắn bìm lây lất với hoàng hôn
Quê hương ơi mấy nghìn năm máu lệ
Ðôi vai gầy dâng trọn cả mùa xuân
Tuệ Sỹ
Từ Một Giấc Mơ
(ca từ)
em như trái cấm
đậu vườn thiên thai
ngập ngừng chân ai
quên chiều nay
đời du tử
em như tiếng suối
tràn ngập tim tôi
một trời xa xôi
khi bờ môi
còn khô tiếng cười
tôi như nắng cháy
ngoài đồng khô khan
cỏ buồn hoang mang
mong giọt mưa
về thăm hỏi
tôi như cánh lá
rụng vàng quanh sân
chiều nào gió đến
một mình bâng khuâng
bao giờ
mang tình tôi tới người?
từ một giấc mơ
tôi gặp em
niềm vui vỡ bờ
từ một giấc mơ
tôi về trên ngõ cũ ngày nào
trông vời em
dáng áo nhạt màu
cho lòng thấy
đời tôi
còn em
như giấc mơ
em
nhung với gấm
về từ xa xăm
làm đẹp nhân gian
nên vườn tôi
còn xanh mãi
tôi ôm phiến đá
ngồi chờ trăm năm
ngày ngày khắc dấu
thành từng câu ca
trên đồi son
tình tôi đã già
tôi mơ thấy
dáng người về trong tranh
huyền hoặc
mong manh
hương từ hoa
là hơi thở
yêu em đã hoá thành tù chung thân
chiều chiều vui chân
đợi chờ không lâu
tôi và em
tình yêu
bắt đầu
Mai Anh Việt
(TP sưu tầm)
Xuân Lạc Loài
Xuân sang, cây lá thì thào
Anh đào e ấp bên rào đươm bông
Cánh hoa đượm thắm tình nồng
Ép vào trang vở...
máu hồng thấm tim!
Xuân sang, hoa cỏ im lìm
Anh đào thiếp ngủ bên thềm hoang mơ
Ðoá hoa ươm mộng bâng quơ
Thoảng cơn gió nhẹ...
ý thơ dạt dào!
Xuân sang, lạc bước vườn đào
Bâng khuâng lay gót chạm vào nhánh gai
Vô tình lệ đẫm mắt nai
Long lanh ngàn giọt...
mộng say lạc loài!
Xuân '95
DKV
Trăng Vui Khi Em Vui
đêm qua có lẽ em vui
nhìn trăng anh thấy trăng cười với anh
đêm nay đợi ánh trăng vành
cầu mong trăng đến nhìn anh trăng cười
mây ngang đang phủ lưng trời
chiều thu không nắng nhớ người anh thương
nhìn mây dạ thấy vấn vương
mây bay đi nhé dọn đường trăng lên
TTTN-KV
(09/21/95)
Thư Cho Bạn
Bạn thân mến,
Sắp bắt đầu tháng 10 rồi đó! Không muốn biết đến thời gian trôi qua, nhưng những cơn gió nghiệt ngã, lạnh lùng cứ kéo đến lôi con người vào hiện thực. Mùa thu đang đến! Mùa thu với những cơn mưa vội vã, xua đi cái nắng hạ, cái hơi ấm qúi giá và hiếm hoi trên vùng Bắc Mỹ. Mùa thu làm lòng người lạnh se sắc, và có lẽ có cả cái nhớ nhung những kỷ niệm vui buồn đã qua kéo đến. Có ai mà không có những kỷ niệm bỏ lại quê hương khi ra đi viễn xứ phải không bạn?
Chuyện vui có, chuyện buồn có, nhưng bây giờ tất cả đều trở thành một nỗi tiếc nhớ. Lòng mọi người ai cũng thế "nuối tiếc, thương yêu những gì đã qua (quá khứ); hy vọng, ước mơ ở tương lai và thất vọng, chán chường cho hiện tại". Nhưng ít khi mình nghĩ đến cái hiện tại bây giờ, qua ngày mai sẽ thành quá khứ, vài năm sau đó sẽ thành kỷ niệm như bao kỷ niệm luyến lưu khác mình đang tiếc nuối!
Tôi đang ngồi đây (ở sở làm), nhìn những cơn gió cuốn bay vài chiếc lá xa xa vào những đám cây bụi cỏ, ở đó mình nghĩ có một khung trời thơ mộng lắm, đẹp lắm. Nhưng khi mình rời bỏ chỗ ngồi đến cánh rừng chỉ thấy lá khô bay rào rạt, hàng cây khẳng khiu và hơi gió rét lạnh, làm tôi rùng mình và muốn trở về không gian hạn hẹp thường ngày ngồi thu mình trong hơi ấm nhìn lá vàng bay bay.
Ðời sống khắt khe thế đó, mình khó mà thoả mãn hiện tại, nhưng cũng tạm chấp nhận hiện tại để đi đến tương lai, và tạo niềm vui tự mãn: "rồi những ngày hôm nay sẽ là kỷ niệm khó quên sau này!" Một năm nữa, hai năm nữa hay ba bốn mùa thu tới, rồi ta có còn cảm giác như ngày hôm nay:
Bữa nay lạnh, mặt trời đi ngủ sớm
Anh nhớ em, em hỡi! anh nhớ em
Không gì buồn bằng những buổi chiều êm
Mà ánh sáng mờ dần cùng bóng tối.
Gió lướt thướt kéo mình qua cỏ rối
Ðêm bâng khuâng đôi miếng lẩn trong cành
Mây theo chim về dãy núi xa xanh,
Từng đoàn lớp nhịp nhàng và lặng lẽ.
Không gian sám tưởng sắp tan thành lệ
Thôi hết rồi! còn chi nữa đâu em!
Thôi hết rồi! gió gác với trăng thềm,
Với sương lá rụng trên đầu gần gũi.
Thôi đã hết hờn ghen và giận dỗi,
Ðược giận hờn nhau, sung sướng bao nhiêu!
Anh một mình, nghe tất cả buổi chiều
Vào chầm chậm ở trong hồn hiu quạnh.
Anh nhớ tiếng. Anh nhớ hình, nhớ ảnh
Anh nhớ em. Anh nhớ lắm. Em ơi!
Anh nhớ anh của ngày tháng xa khơi,
Nhớ đôi môi đương cười ở phương trời,
Nhớ đôi mắt đương nhìn anh đăm đắm.
Em xích lại rồi đưa tay anh nắm...
Gió bao lần từng trận, nhớ thương đi
Mà kỷ niệm, Ôi! Còn gợi ta chi?
Buổi chiều rồi cũng qua, để màng đêm len đến. Màn đêm phủ kính những hoạt náo nhộn nhịp của ban ngày. Mình trở về với yên tịnh cho một ngày mệt mõi. Nhưng ô hay! Sao ta chẳng thể nào chợp mắt được, một cái gì quen quen len lén đến: một hình ảnh, một cảm giác, có lẽ là một âm thanh quen thuộc khi xưa, một đêm mưa buồn:
Ðêm mưa làm nhớ không gian,
Lòng run thêm lạnh nỗi hàn bao la...
Tai nương giọt nước mái nhà,
Nghe trời nặng nặng, nghe ta buồn buồn.
Nghe đi rời rạc trong hồn
Những chân xa vắng dặm mòn lẻ loi...
Rơi rơi... dìu dịu... rơi rơi...
Trăm muôn giọt nhẹ nối lời vu vơ...
Tương tư hướng lạc phương mờ
Trở nghiêng gối mộng, hững hờ nằm nghe.
Gió về, lòng rộng không che
Hơi may hiu hắt bốn bề tâm tư...
Thu đến rồi đó! và thu sẽ đi. Hy vọng mùa thu này sẽ đem đến cho bạn nhiều màu sắc, thú vị và kỷ niệm sau này. Thời gian vẫn trôi, mây vẫn bay, mùa hè sẽ đến, tôi sẽ không viết ướt át như vầy cho bạn nữa. Hy vọng mình sẽ gặp nhau (will we ???) "vui đi cho thoả những ngày nắng tươi."
Chúc các bạn và gia đình hạnh phúc.
Thân mến
LTN Nguyễn Ðình Thái
Kính chào Qúy Bạn Đồng Hương: Sau đây là phần cuối cùng về đề tài chung thủy.
Tiết Phụ Ngâm
Trương Tịch tự Văn-Xương, người đất Tô-Châu, thi gia thời Trung Đường (766-827), đậu Tiến sĩ dưới triều vua Đức-tông, Năm 799, được Hàn Dũ tiến cử làm Quốc tử bác-sĩ, cuối cùng lên đến chức Quốc-tử tư-nghiệp.
Trong nước lúc bấy giờ lại diễn thành cuộc phiên trấn cát cứ. Mỗi Tiết-độ-sứ chuyên chế mỗi phương. Trấn nào, Tiết-độ-sứ còn tuân mạng triều đình thì cho là thuận đảng. Trái lại, Tiết-độ-sứ nào đem binh đối kháng lại triều đình thì cho là nghịch đảng. Trương Tịch hiện làm một tân khách trong mạc phủ của một Tiết-độ-Sứ thuộc về thuận đảng. Ông muốn giúp triều đình mong đạt được cuộc thống nhất đất nước.
Bấy giờ có Lý Sư Đạo là một Tiết-độ-sứ thuộc về nghịch đảng, vốn tay quật cường. Biết Trương là người có tài nên họ Lý ân cần viết thư, đem lễ vật đến đón Trương về giúp mình trong công cuộc xây dưng sự nghiệp.
Trương không dám từ khước ngay. Vì tình thế lúc bấy giờ nguy ngập lắm. Thế lực của Lý thì mạnh, nếu ông không bằng lòng thì chắc chắn là hai trấn phải sinh chiến họa to. Do đó, ông phải giả cách cám ơn nhận lễ rồi dần dần tìm cách từ khước. Trong khi hoàn lại lễ vật, Trương Tịch làm một bài thơ kèm theo, nhan đề là Tiết Phụ Ngâm:
Em có chồng rồi, chàng đã biết,
Mà chàng còn tặng cặp minh châu.
Cảm lòng yêu mến khăng khăng ấy,
Em giấu đeo trong yếm lụa đào.
Khốn nỗi nhà em kề ngự-uyển,
Chồng em cầm kích ở hoàng cung.
Lòng chàng trong sạch như băng tuyết,
Mà đạo tùng phu phải thủy chung.
Trả ngọc cho chàng em ứa lệ...
Phải chi gặp gỡ lúc chưa chồng
Mượn thân phận người con gái đã có chồng cần phải "Tùng nhất nhi chung", để nói thân phận mình, một khi đã thờ chúa nầy rồi thì cần phải trọn đạo làm tôi "Trung thần bất sự nhị quân". Ai có thương đến xin cám ơn vậy.
Lý Sư Đạo tiếp được bài thơ xem qua, càng sinh lòng cảm mến mà không còn theo đuổi và sinh sự gì cả.
Nước Việt Nam ta cũng có bài ca dao:
Ba đồng một miếng trầu cay,
Sao anh chẳng hỏi những ngày còn không?
Bây giờ em đã có chồng,
Như chim vào lồng, như cá cắn câu.
Cá cắn câu biết đâu mà gỡ,
Chim vào lồng biết thuở nào ra?
(Viết đến đây tôi nghĩ đến bài hát "Nụ Tầm Xuân" hay nghe thấy lúc còn nhỏ trong radio do Thái Thanh hát vào những dịp Tết.)
Tương truyền bài ca dao nầy do Đào Duy-Từ làm ra. Nguyên lúc bấy giờ, nước Việt Nam chia làm hai miền. Miền Bắc thuộc chúa Trịnh; miền Nam thuộc chúa Nguyễn. Hai họ tạo thành cuộc Nam Bắc phân tranh. Đào Duy-Từ ở miền Bắc, người có tài nhưng không được chúa biết đến và trọng dụng nên trốn sang Nam, được chúa Nguyễn trọng đãi. Rồng đủ vi cánh lại gặp gió to, tài thao lược của họ Đào vang dậy đến Bắc Hà. Chúa Trịnh Tráng bấy giờ lấy làm hối tiếc, cho người lén vào Nam, đem lễ vật qúy báu dâng cho Đào, yêu cầu Đào trở lại giúp mình. Đào từ chối bằng mấy câu ca dao, mượn lời của một cô gái có chồng đã khéo léo từ khước người yêu mình để nhắn gởi chúa Trịnh, như nhà thơ Trương Tịch ở Trung Hoa.
Tuy vậy, chúa Trịnh không nản, vẫn tiếp tục theo đuổi, dụ dỗ. Đào Duy-Từ lại phải gởi nhắn thêm hai câu thơ lục bát về Bắc, ý chí keo sơn cương quyết của mình:
Có lòng xin tạ ơn lòng,
Đừng đi lại nữa mà chồng em ghen.
Hồi xưa, người ta đã lấy sự chung thủy để từ chối khéo mà không bị mích lòng người khác mà còn được cảm mến thì nó đã cho chúng ta biết xã hội nước ta rất quan trọng về đạo đức chung thủy. Vì có chung thủy thì mới có một mái ấm gia đình tốt được.
Có người sẽ hỏi vậy chung thủy có nên có hai chiều không? Đúng vậy, chung thủy phải là hai chiều vì chung thủy là do sự bộc phát của tình yêu chân thật mà ra, mà tình yêu phải có hai chiều, nếu không có hai chiều thì tình yêu này sẽ không có chung thủy. Cũng như một người tỏ lòng yêu một người khắc nhưng không được người khắc tỏ lòng yêu lại thì người kia nên bỏ cuộc là hơn vì sự theo đuổi tình yêu này sẽ không đem lại sự chung thủy. Cũng như khi lấy nhau phải có tình yêu và kính trọng, vì không có tình yêu thìsẽ không có chung thủy mà không có chung thủy thì dễ đi đến ngoại tình.
Tóm lại Đạo Đức Dân tộc Việt Nam cũng như những đạo khác như đạo Phật hay đạo Thiên Chúa giáo điều có cùng một đường lối đi và lấy tình Yêu làm gốc. Từ tình yêu thì mới có sự chung thủy, yêu anh em, yêu bè bạn, yêu sự công bình, nhân ái, yêu kẻ khốn cùng, yêu chuộng cuộc sống ngay thẳng, yêu trọng sự liêm sỉ. Khi chúng ta có đạo đức dân tộc thì sẽ yêu tổ quốc và yêu giống nòi của mình luôn.
Vì thế nếu mọi người Việt Nam chúng ta biết trao dồi và hoc hỏi đạo đức dân tộc thì chúng ta sẽ không bị chia rẽ, sẽ có tình dân tộc, gia đình sẽ đầm ấm, cộng đồng sẽ vững mạnh, đất nước sẽ thanh bình.
Khi gìn giữ được đạo đức dân tộc cho con em của chúng ta thì dó là một cách để bảo tồn văn hóa Việt Nam của mình và gia đình mình dù phải ở chân trời hay góc biễn nào đi nữa.
Xin kính chào,
Pít
Back Home 95
(Part 3 - continued)
I just couldn't sleep. Sweat kept on oozing out of my body even with the windows opened and the fan turned on. I began to count, hoping boredom would exhaust me into sleep... but I got bored before I made it 10. I was wide awake than ever. I turned on the electric light and began to jot down a few details in my note book but I found it hard to write what was on my mind then. I thought about the piece of important paper I lost. It was a temporary travel permit that everyone was given upon entering Vietnam. I remembered on this piece of paper I filled out my identification, passport and visa numbers. I didn't know how I lost it. Was it not given back to me intentionally because I didn't bribe? Without this paper I didn't know if I could travel from one place to another. To avoid trouble later on, I decided to come back to the airport to request for a new one.
Tomorrow, Trí promised to take me to visit one of his classes at a two-year certified college for adults, Trường Ðại Học Mỡ Bán Công, in Saigon. I felt so excited I could hardly wait.
It felt good to be back home again and again for the third time. Now that I quit my job and left my family in the United States without saying a word of goodbye in order to be back home, what would I do? I knew what to do. I had planned it all along for months and now all I had to do was to carry it out when the time came.
The wind created by the fan kept on attacking the mosquito net. Waves after waves of soft tender yet strange feelings began to dance underneath my skin, through my tensed flesh, into my bones and finally reached my brain. Soon I drifted into sleep hoping that I wouldn't wake up tomorrow finding myself in my messy room back in the United States.
I woke up at the noise of early motorists screaming through the street of Sô Viết Nghệ Tĩnh at 5:30 AM. Dawn had already arrived. Daylight rushed through the windows and into my pink eyes, driving away my drowsiness. I lay motionless, trying to listen to the sound of footsteps but all I could hear was traffic noise. The more I listened the louder the sounds grew. I couldn't think of any place that was noisier than Saigon.
At 7:00 Trí came, dressing nice and neat, in his smooth ironed clothes.
"You take me to your class, right?" I said expectantly, hoping he didn't forget.
"Yes," said Trí.
"You think it's okay for me to visit the class without informing the professor ahead of time?"
"The professor wouldn't know. The class is quite big."
I rushed upstairs to change. Change! I emptied my backpack and browsed through the debris looking for something decent to wear. There wasn't much to decide on. Because I planned to walk from Saigon City down south toward Can Tho City, I had to pack light. The lighter the better. I rolled up all my clothes as tight as possible in order to fit everything into my backpack. I estimated the distance to be around 200 Km. I figured if I walked 5 km an hour, 10 hours a day, I would be able to reach Can Tho City, in, uh, say 4 walking days. I would rest at night, outdoors, enjoying the wild, watching the stars.
In the United States I had been practiced walking 6 hours a day continuously for a whole week. I ran around Lake Merritt, jogged in the wood, and tanned myself under the sun in the backyard, in Oakland. I got the hang of it. I didn't know if I could make it but I wanted to try. You probably think I was crazy then. Some of my friends were appalled at the thought of me wanting to walk like a wanderer in Vietnam. Some tried to talk me out for my safety but the more they talked me out the more I resisted. I wasn't crazy, I knew. Okay, so I was depressed. Who isn't, at some point along his or her life? But that wasn't the reason for me to do what I did. I was after something I vaguely understood! It was just the need that I felt deep inside me. I just felt it.
For me, life isn't much of being somebody great but being me. And who the hell is me? Gee, I don't know. I wish I do. But it doesn't matter. I just have to do what I feel like doing as long as what I do hurts no others intentionally. I've got a long unknown road to travel in a short life. Therefore I want to continue to experience, to travel the road only to stop temporarily at every turn.
Anyway, Trí was waiting for me. I hoped no one would find out I was a Viet Kieu when I attended the class. I came downstairs wearing a shirt tugged in my good old pant, a pair of old sandals with the edges torn a little, and an old hat with an eagle logo on the front. I left the top two buttons of my shirt unbuttoned so that I would look a bit more like the local Vietnamese. Trí moved the motorcycle outside of the house and started the engine. I climbed on the back. Together off the pavement and onto the street we went.
Outside there were countless of people riding on bicycles and motorcycles trailing one after another heads to tails on ends like two armies of ants heading in opposite directions, left and right, on the street. I had never sat on a motorcycle or rode a bicycle in Saigon before and the sight of people zooming by scared the hell out of me, especially at intersections where no traffic lights ruled the streets. I held on tight to the motorcycle I didn't even dare to spread my knees outward because I might bumped into other people riding on both sides of me. If I'd stretched my arms outward I afraid I would hit others in the face. Every time we approached an intersection, I wondered how we were going to get through with countless of traffics weaving across one another. Nevertheless, Trí drove through without even stopping his motorcycle. In front of us, behind us, and to both sides of us there were motorcycles, bicycles, and sometimes even cars and buses running in such chaotic fashion. When we reached the Bến Nghé bridge, I saw a crowd of people gathered around on the left at the other end of the bridge. When we passed by all I could see was a broken motorcycle lying near a pool of blood on the street. There was an accident. The sight of blood, without corpse, sent a chill through me. I would rather see the injured body so that I did not to imagine how bad it was. I froze and told myself that there was no way I could ride a bicycle or motorcycle on the streets of Saigon. It would be impossible for me not to get hurt.
Soon, we approached the College of Mỡ Bán Công. There were students dressing beautifully and neatly in áo dài, white shirt, slack, leather sandals, and hat. They were standing in group of 2, 3, 4, or even a dozen chatting and laughing noisily. I got off. Trí walked his bike into the parking space where they looked after your motorcycle and bicycle for a small fee of 2 or 5 cents. I stood awkwardly in the middle of the play ground full of students, waiting for Trí. No one paid me any heed!
A few minutes later Trí came back and together we walked toward a 3-story building in front of us. We walked into one of the classrooms on the first floor.
"Button your shirt," said Trí.
Oh, I forgot I was in the classroom! I button my shirt and took off my hat.
Today, Trí studied economics. It was a big classroom with one third of the front seats occupied by mostly young ladies. We sat in the middle of the classroom on the left near the wall. At that moment, the professor walked onto the platform. There were two large pull down blackboards, one on top the other, on the back wall. He adjusted the microphone, tapped his index finger on it, and began to speak.
A few minutes later more students arrived. Half an hour later the room was filled with students ages from 18 through 25, a total of more than 100 students, I concluded. As I listened to the lecture, I constantly let my eyes wander around the room while trying to limit the movement of my head. Those students sitting in the front rows listened more seriously. Half of those sitting in the middle rows buried their face in their hands sleeping here and there! Some looked very sleepy but tried to keep their heads up. Those sitting in the last rows, especially young men, were talking quietly to one another, paying no heed to the teacher.
The class ended at 9 AM. Once again I found myself standing in a crowd of students. Trí went to take his bike. My heart began to beat faster. Never before in my life had I since so many beautiful girls in áo dài and the sights of them standing nearby made me tremble.
A few minutes later Trí came and drove me to the airport. There were a man and a woman sitting in the middle of the large gate collecting a fee of 10 cents for a motorcycle, 5 cents for a bicycle. Trí paid a 10-cent fee and then dropped me off. I walked into the crowd full of people waiting in front of the departure entrance gate. Hundreds of relatives of Viet Kieu gathered around in small groups with luggage lying at their feet.
Two men in uniform were standing at the departure check-in door. I approached and waited for the right moment to make contact.
"Excuse me, but, uh, I have a uh problem," I said, didn't know how to start despite the fact that I did rehearse all the questions I planned to ask. "I need to see someone who's responsible for giving out travel permit."
The man on my right stared at me curiously. He wasn't sure what I wanted.
"You seẹ I am a Viet Kieu," I said, flashing my passport for him to see. "I arrived last night but some how they didn't give me my travel permit. I found out when I got home last night. I need a new one."
The man took a look at my passport.
"There is nothing I can do," he said.
"You can't? What do you think I should do?"
"It's your fault. You lost it. I am not responsible for giving out travel permit."
"Well, at least tell me where to go then."
The man thought for a moment.
"You go to the far left at the arrival area," said the man, waving his hand to my right. "It's the custom check counter inside the airport when you first came in."
I walked to the arrival area. I found a post office boot on the right and next to it was another boot with a sign written in English "Foreign Exchange". I approached the boot.
"You take 'TRAVELER'S CHECK'?" I said, with the capital words in English.
"Yes," answered a woman.
"How much you charge for a twenty-dollar bill?"
"Two percent of one hundred dollars or more. Otherwise a minimum of 2 dollar's charged."
I showed my passport, filled out a receipt form, and cashed my 20-dollar traveler's check with the rate of exchange a bit more than eleven thousand Dong per US Dollar.
There were many people waiting along the fence for their arriving relatives. A guard in uniform stood at the entrance with his hands folded behind his back. A short distance from him was a tourist boot with two men sitting inside. I approached the tourist boot from behind.
"Excuse me, could you please help me out?" I said.
"Yes?" said the young man.
"I am a Viet Kieu. I lost my travel permit yesterday when I got out of the airport. Do you know where I can get a new one?"
"Wait one moment please," said the man with a sympathetic smile.
He searched through his desk and then came back.
"Here. This one, right?" he said.
"Oh, yes. Thank you. It's the one," I said and took the paper.
"It means nothing without the custom stamp, you know?"
"Oh. You know where can I get that?"
"In there. But you7're not allowed to go in there."
"Can you help me? Please."
"Sorry, I can't. I can't go in there either."
"What do you suggest I should do?"
"You see the guard, here?"
"Yes."
"Maybe he can help you."
"Thanks."
I filled out the form and approached the guard who was turning his back to me.
"Excuse me, I need some help," I said.
"Yes?" said the man, staring at me.
"I am a Viet Kieu. Here's my passport," I said, handing the man my passport. "I need to go in there to get my travel permit stamped."
"No. No. You can't go in there."
"Then how can I get my travel permit stamped?"
"I don't know," said the man, looking away, unwilling to help.
"Please. You got to help me."
"I don't know. It's not my job. My job is out here guarding."
I didn't know what to do then. He wouldn't let me in. I stood by his side waiting and waiting and waiting. There were hundreds of people waiting along the fence. Yesterday I was inside looking out here. Now, here I was, standing outside looking in. Half an hour later I found myself still standing next to the guard, speechless.
The man moved a few steps away from me. I didn't want Trí to wait for me too long so I returned and found him nowhere in sight. A few minutes later Trí came riding the bike toward me.
"I couldn't park in the airport parking lot," said Trí. "So, did you get the travel permit?"
"No. They wouldn't let me in."
"What are you going to do?"
"I will come back tomorrow by myself."
(To be continued...)
Thank you for reading.
Lam T. Hy
MY OTHER JOURNALS:
Back Home 91 (4 parts)
Back Home 93 (15 parts)
Back Home 95 (part 3 in progress)