vhnt, số 214
12 August 1996
Trong số này:
thư vhnt ................................................................PCL
T h ơ :
1 - Thơ trẻ Sài Gòn: Người khách tháng giêng .........Ðàm Hà Phú
2 - Tựa ..................................................Tôn Thất Hưng
3 - Tôi về .....................................................Thu Hồng
4 - Chỗ ngồi ....................................Nguyễn Hiện Nghiệp
5 - Lời cám ơn cho tình yêu .......................Trần Nguyên Thảo
D i ễ n Ð à n V ă n H ọ c :
6 - Lại biện hộ cho tiểu thuyết .........Salman Rushdie/Thạch Hãn dịch
T r u y ện N g ắn / S án g T ác :
7 - Tác phẩm ....................................Nguyễn Phước Nguyên
8 - Thầy tôi (tâm bút) ...............................Trần Trung Ðạo
vhnt số này gửi đến bạn đọc những sáng tác chọn lọc của những người viết quen thuộc. Ngoài những bài thơ truyện ngắn tùy bút của các cây bút quen tên, còn có bài biên luận gây nhiều chú ý của văn giới: "Lại biện hộ cho tiểu thuyết" của Salman Rushdie, một nhà văn Anh gốc Ấn Ðộ gây nhiều tranh luận và sóng gió.
"Salman Rushdie là môt tên tuổi quen thuộc trên văn đàn thế giới. Ngoài tài năng chứng minh bằng các tác phẩm đoạt nhiều giải thưởng, Salman Rushdie còn nổi tiếng nhờ bản án tử hình của Khomeini vì ông đa ~ xuất bản cuốn The Satanic Verses. Gần đây, ông lại gây thêm sóng gió khi xuất bản cuốn tiểu thuyết mới nhất, The Last Moor's Sigh. Sau nhiều năm lẩn tránh nguy cơ có thể bị giết bất cứ lúc nào, Salman đã lần hồi xuất hiện trướ c công chúng, tham dự những cuộc tham luận văn học, hay nhận lời phỏng vấn của giới truyền thông, báo chí, v.v... Bài viết sau đây đăng trên tạp chí The New Yorker, Số ra ngày 6/24 - 7/1, 1996, bàn về hiện tình tiểu thuyết. Xin giới thiệu đến bạn đọc thêm một cái nhìn khác về hiện thực và tưởng tượng trong tiểu thuyết, bổ túc thêm những ý kiến nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng nêu lên từ Văn Học số 121, cũng nh ư những hồi đáp của văn hữu và bạn đọc về đề tài này" (trích lời giới thiệu của Thạch Hãn, dịch giả bài viết)
Xin chúc bạn đọc một ngày thứ hai đầu tuần êm ả và nhiều hứng khởi cho một tuần làm việc trước mặt.
thân ái,
PCL/vhnt
Người Khách Tháng Giêng
Thoáng vườn hoa trái giêng hai
Quán một mình với những hoài ức xưa
Anh dong tay chờ mùa
Gọi thời gian tính tiền một vòng trái đất
Kẻ rảnh rang cuối cùng cũng thành tất bật
Chỉ còn anh ngồi nhâm nhi tháng giêng
Em bay đi trên đôi cánh muộn phiền
Dự báo bất an cho nụ hôn
Anh trầm ngâm hát nhữnbg lời sóng nổi
Hỏi thuê linh hồn đám mây đang tìm về núi
Chở che giùm chút thánh thiện đầu năm.
Quán một mình anh gọi một dòng sông
Uống cho anh và uống cho bè bạn
Cho những ngược xuôi đường đời gió nắng
Khát cháy một câu hò một đám rong trôi
Thoáng vườn hoa trái xanh ngời
Quán một mình với những lời bóng câu
Không thương thì đã ví dầu
Bằng thương một chén cùng nhau cũng tình...
Đàm Hà Phú
Tựa
Ngày lấy đêm làm tựa
Con ong tụ mật cho mình
Cây đời mặt đất giữ mầm xanh
Sóng triều lên lấy trăng làm tựa
Vì thể yêu hoa nên phải vin cành,
Yêu đời nên lụy màu xanh,
Bởi mắt ai thắm màu vậy,
Trái đất tròn căng bầu sữa ngọt lành
Con về thăm mẹ mang gì đấy?
Một tấm lòng thương nhớ tràn đầy
Ðau khổ, tình thương làm tựa
Nỗi mừng con ôm lấy mẹ già nua
Vì thể thèm ăn một miếng dưa,
Ðợi trái trên cây chín lúc mùa
Vì thể cho đời hương trời ấy,
Gió cũng mang hoa rắc khắp ngã đường
Vì thể thương em nên anh tựa,
Anh tựa đời em, em tựa anh
Ðất rộng trời cao chim vỗ cánh
Như ánh trăng vàng chờ tựa đêm lên.
1986
TTH
Tôi Về
Tôi về qua sông nhỏ
Dòng nước đục phù sa
Lục bình hoa trôi nổi
Mong manh cánh thân ngà
Tôi về qua Thành Nội
Lăng cũ vắng người qua
Một thời ai vang dội
Phai nét dưới chiều tà
Tôi về thăm Thiên Mụ
Tường ngã, phủ rong rêu
Hoang tàn đường xưa cũ
Phượng đỏ đưới mưa mù
Sông Hương buồn muôn thưở
Cô gái Huế sầu mơ
Trường Tiền qua mấy nhịp
Ðông Ba vẫn đợi chờ
Chân về ngang trường cũ
Vắng bóng bạn thân thương
Thầy cô nào xa lạ
Cho đau nỗi đọan trường
Tôi về nơi biển vắng
Không có bóng tình nhân
Chiều buông trong tĩnh lặng
Nghe thương nhớ muôn phần...
Thu Hồng
chỗ ngồi
thưa em, cái gọi là quên
là khi nỗi nhớ đã quen thuộc rồi
thưa em, hạnh phúc trong đời
là bên trong chỗ tôi ngồi có em
tiếng câm
mai này, dù có bể dâu
cũng đành im tiếng gọi nhau suốt đời
hiện hữu
có tôi trong cuộc sống nầy
có em trong cuộc-sống-nầy-của-tôi
nghĩa là vốn chẳng có tôi
mà em có nghĩa là tôi có mình
bất ngờ
thưa em, trong trái tim tôi
nhiều khi hạnh phúc làm tôi bất ngờ
thưa em, hạnh phúc bây giờ
là trong cuộc sống tình cờ có em
làm ngơ
đôi khi nhìn nhau bất chợt
đau lòng lắm, phải không em?
phấn son trên môi hời hợt
cho nụ cười xót xa thêm
nhìn nhau, ánh mắt không quen
mà nghe lòng vẫn đau
mềm.
vết thương.
Nguyễn Hiện Nghiệp
Lời Cám Ơn Cho Tình Yêu
Xin cám ơn những con đường ven biển
Ðã trăm lần còn in dấu tình nhân
Chim thảng thốt, hàng dừa nghiêng xao xuyến
Khi tình yêu đâu đó đến thật gần
Xin cám ơn những đêm dài mộng mị
Ðược cùng người san sẻ nhịp tình lơi
Ðắm men đời, đưa nhau về phố thị
Và không còn trăn trở chuyện xa vời
Xin cám ơn những lời yêu dịu ngọt
Nói một lần, lòng nhớ tận thiên thu
Như lời ru đêm đêm dâng hương mật
Ðưa cuộc tình năm tháng chẳng bến bờ
Xin cám ơn những vần thơ nhung nhớ
Viết trong chiều êm ái nhẹ như mơ
Lời ngập ngừng gửi đôi lời duyên nợ
Về người yêu, trời bên ấy trông chờ
Và cám ơn đời bên nhau có thật
Mỗi ngày qua như một giấc chiêm bao
Không cần biết đời quanh ta bẩn chật
Mình cho nhau hương say đắm ngọt ngào
trần nguyên thảo
8/01/96
Lại Biện Hộ Cho Tiểu Thuyết Salman Rushdie
Nhà văn Anh gốc Ấn độ Salman Rushdie là môt tên tuổi quen thuộc trên văn đàn thế giới. Ngoài tài năng chứng minh bằng các tác phẩm đoạt nhiều giải thưởng, Salman Rushdie còn nổi tiếng nhờ bản án tử hình của Khomeini vì ông đã xuất bản cuốn The Satanic Verses. Gần đây, ông lại gây thêm sóng gió khi xuất bản cuốn tiểu thuyết mới nhất, The Last Moor's Sigh. Sau nhiều năm lẩn tránh nguy cơ có thể bị giết bất cứ lúc nào, Salman đã lần hồi xuất hiện trước công chúng, tham dự những cuộc tham luận văn học, hay nhận lời phỏng vấn của giới truyền thông, báo chí, v.v... Bài viết sau đây đăng trên tạp chí The New Yorker, Số ra ngày 6/24 - 7/1, 1996, bàn về hiện tình tiểu thuyết. Xin giới thiệu đến bạn đọc thêm một cái nhìn khác về hiện thực và tưởng tượng trong tiểu thuyết, bổ túc thêm những ý kiến nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng nêu lên từ Văn Học số 121, cũng như những hồi đáp của văn hữu và bạn đọc về đề tài này. Bản dịch Việt ngữ của Thạch Hãn.
oOo
Tại hội nghị lần thứ một trăm của Hiệp hội các nhà xuất bản Anh, Giáo sư George Steiner đã lắm lời về tiểu thuyết: Càng ngày chúng ta càng mệt mỏi với tiểu thuyết... Thể loại này thăng, thể loại khác trầm, trường thi, bi kịch thi, tất cả đều có những thời cao điểm, rồi lại thoái trào. Người ta vẫn còn viết tiểu thuyết một thời gian lâu dài nữa, nhưng càng ngày người ta càng gia tăng nỗ lực tìm kiếm một thể loại lai giống, mà ta tạm gọi là thể loại hiện thực/tưởng tượng... Có cuốn tiểu thuyết nào ngày nay có thể ganh đua được với những thiên phóng sự hay nhất, hay những bài tường thuật gần gũi với hiện thực nhất không?... Pindar là người đầu tiên từng cao hứng bảo rằng "bài thơ này sẽ còn được người đời ngâm nga mãi ngay cả sau khi chính cái đô thị đặt mua bài thơ đó tan biến khỏi mặt đất". Thật khoác lác vô cùng khi cho rằng văn chương chống được cái chết. Ngay cả một đại thi hào thời nay cũng thấy bẽn lẽn khi nói như thế. Tôi tin chắc như vậy.
Cái huyênh hoang lớn lao xưa nay (một thứ huyênh hoang đáng yêu) của văn chương là cho "Văn chương mạnh hơn cái chết. Ta có thể bàn đến cái chết ở trong thi ca, trong kịch, trong tiểu thuyết, bởi vì ta vượt lên trên cái chết, bởi vì ta gần như là vĩnh hằng..." Cái huyênh hoang đó bây giờ không còn nữa.
Một lần nữa tôi lại đem chuyện cũ rích đó ra bàn, gói ghém trong những lời văn hoa mỹ: Ý tôi là bàn chuyện Cái Chết của Tiểu thuyết. GS. Steiner còn nói thêm khá dài dòng đến Cái Chết của Người đọc, (hay, ít ra, nếu không chết thì cũng đã biến thể toàn diện để trở thành một kẻ đam mê máy điện toán) và Cái Chết của Cuốn Sách (hay là biến thể thành một hình thái điện tử). Cái Chết của Tác giả thì lại được loan báo từ nhiều năm trước ở Pháp, (còn Cái Chết của Bi Kịch cũng đã do chính tay Giáo Sư Steiner khai tử trước đây), tất cả đều để lại hiện trường la liệt xác chết, thây ma ngổn ngang hơn cả hồi kết cuộc của vở bi kịch Hamlet. Nhưng giữa cảnh ngổn ngang những thây ma đó, vẫn còn một kẻ đứng sừng sững, cô đơn, mà tất cả chúng ta, người viết của những tác phẩm không tác giả, người đọc thời điện toán, công nghệ xuất bả n (thứ công nghệ vốn có sẵn nhiều thối tha) và ngay cả chính những cuốn sách cũng phải khép nép cúi đầu: đó là Nhà Phê bình.
Một nhà văn lớn, cách đây mấy tuần cũng loan báo sự phá sản của chính thể loại đã làm cho ông ta nổi danh. V. S. Naipaul lên tiếng là chẳng những ông ngưng viết tiểu thuyết, mà ngay cả từ "tiểu thuyết" k hông thôi cũng đủ làm ông phát đau. Giống như GS. Steiner, tác giả của A House for Mr. Biswas cho rằng tiểu thuyết đã sống hết số phần của nó, nó không còn làm trọn được một vai trò hữu ích nào nữa, và sẽ bị thay thế bằng những sáng tác sát với hiện thực hơn. Vì thế chẳng có gì ngạc nhiên khi nói Sir Vidia Naipaul đang làm lịch sử khi ông tìm cách tạo dựng nền văn chương hậu giả tưởng (postfictional) này.
Một nhà văn lớn khác của Anh đã nói: "Không cần phải chỉ rõ thì ai cũng biết là uy tín của tiểu thuyết ngày nay xuống thấp cùng cực, thấp đến nỗi những lời như "tôi không hề đọc tiểu thuyết", chừ ng mươi năm trước thường được nói bằng một giọng phân bua, nhưng bây giờ người ta lại luôn luôn nói bằng một giọng kiêu hãnh.... Nếu những bộ óc sáng giá nhất của văn chương không quay lại với tiểu thuyết thì thể loại này sẽ dở sống dở chết dưới một hình thái hèn kém hơn, rẻ rúng và thoái hoá hơn, như những tấm mộ bia thời nay hay trò múa rối Punch và Judy ngày trước". đó là lời của nhà văn George Orwell, viết năm 1936. Như thế thì hình như văn chương chẳng bao giờ có được tương lai, và chính GS. Steiner cũng đã thừa nhận như vậy. (Ngay cả các đại thi phẩm như Illiad và Odyssey lúc đầu cũng đã bị chê bai.) Xưa nay, ngay cả những tuyệt phẩm cũng đã bị chính những nhà văn có tài công kích.. Chỉ nhìn sơ qua lịch sử văn học cũng đủ thấy là không một đại tác phẩm nào thoát khỏi búa rìu khi vừa mới xuất bản, không một n hà văn uy tín nào không bị người đương thời công kích: Aristophanes gọi Euripides là "một kẻ tuyển truyện theo khuôn sáo,... tạo ra những hình nộm nhếch nhác"; Samuel Pepys thì cho rằng A Midsummer Night Dream là "khô khan và khôi hài"; Charlotte Bronte chê những tác phẩm của Jane Austen; Zola khinh miệt Les Fleurs du Mal; Henry James coi rẻ Miđdlemarch và Our Mutual Friend. Ai cũng cười mũi Moby Dick. Lúc Madame Bovary được xuất bản, Le Figaro viết: "Ông Flaubert không phải là một nhà văn." Virginia Wòolf lại cho Ulysses là "đẻ non"; còn nhà phê bình của tờ Courier thì viết Anna Karenina "là một thứ truyện tình rẻ tiền...Có trang sách nào chứa được một ý tưởng gì đâu."
Vì thế nên ngày nay, khi các nhà phê bình đức công kích Gunter Grass, khi mà toàn văn giới Ý phải "ngạc nhiên" trước sự nổi danh trên văn đàn quốc tế của Italio Calvino và Leonardo Sciascia, như lời của tiểu thuyết gia và phê bình gia Guy Spartella của Pháp đã nói, khi mà những quy luật về việc xử lý sao cho hợp thời hợp cảnh của người Mỹ quay mũi dùi tấn công Saul Bellow, khi Anthony Burgess coi rẻ Graham Greene chỉ một thời gian rất ngắn sau khi nhà văn này qua đời, và khi G. S. Steiner - lúc nào cũng đầy tham vọng - không chỉ công kích một vài nhà văn riêng lẻ mà lại chê bai toàn bộ công trình văn học Âu châu thời hậu chiến, tất cả đều đã vướng phải một cơn bệnh truyền nhiễm: lòng tôn thờ một thời đại vàng son, lòng hoài niệm bất diệt về một quá khứ văn học mà ngay cả vào thời của nó cũng chẳng khá hơn gì tình trạng văn học thời nay.
G. S. Steiner nói, "Hầu như là một định đề khi nói rằng ngày nay, các đại tác phẩm đều xuất phát những những vùng đất ngoại biên, từ Ấn độ, từ vùng đảo Caribbean, từ Châu Mỹ La Tinh," và có người se ~ ngạc nhiên khi thấy tôi đặt vấn đề với cái nhìn về một trung tâm đã cạn kiệt và một ngọai biên đầy sức sống đó của G. S. Steiner. Tôi có đặt vấn đề cũng chỉ vì quan niệm đó quá chú tâm vào Âu châu mà thôi. Chỉ có người trí thức Tây Âu mới than vãn như thế, mới khóc than toàn bộ một hình thái nghệ thuật chỉ vì các nền văn học của Pháp, Anh, Ý, đức, Tây Ban Nha không còn là những nền văn h ọc đáng đuợc chú ý nhất trên quả địa cầu. Tôi không rõ GS. Steiner đặt Hoa Kỳ nằm ở đâu, ngay chính trung tâm hay ở ngọai biên; vì chính cái địa lý văn học mặt bằng này cũng còn khó tin. Nhưng từ nơi chỗ tôi ngồi thì văn học Hoa Kỳ hiện rất sung mãn.
Tiểu thuyết từ đâu đến thì có quan hệ gì, miễn là chúng vẫn tiếp tục xuất hiện? Cái quả đất mặt bằng mà GS. Steiner đang sống trên đó có hình thù như thế nào? Ở ngay chính trung tâm là những ngư ời La Mã ngọc ngà, còn ở ngoại biên thì lại thấp thoáng những bộ tộc tài ba khiến ta phải sửng sốt chăng? Cái tấm bản đồ trong đầu G. S. Steiner là một thứ bản đồ đế quốc, mà đế quốc Âu châu thì lại tan rã từ lâu. Nửa thế kỷ văn học mà Steiner và Naipaul dùng làm bằng chứng cho sự suy thoái của tiểu thuyết cũng là tiền bán thế kỷ của thời hậu thuộc địa. Có thể nào nói một cách giản dị là khi một cuốn tiểu thuyết mới đang hình thành - tiểu thuyết hậu thuộc địa, một thứ tiểu thuyết ly tâm, liên quốc, liên ngữ, đa văn hoá - và trong thứ trật tự - hay thiếu trật tự - thế giới mới nà y, chúng ta tìm được một lời giải thích khác hợp lý hơn về tình trạng của tiểu thuyết ngày nay, khác với cái nhìn mang tính biện chứng của G. S. Steiner cho rằng sở dĩ có sức sáng tạo sung mãn ở các vùng "ngọai biên" vì "các vùng đó đang ở trong những giai đoạn tiên khởi tiến đến một nền văn hoá tư sản", vì "các vùng đó hiện đang ở trong những hình thái tiên khởi, thô kệch và cam go" chăng?
Xét cho cùng thì cũng do chính sách áp chế trong suốt hàng chục năm của chế độ Franco đối với văn chưong Tây Ban Nha mà ta đã chuyển hướng chú ý đến các nhà văn tài ba ở Châu Mỹ La Tinh. Do đó, Sự Bùn g Nở của Châu Mỹ La Tinh một phần là hậu quả của sự rữa nát của thế giới tư sản ngày trước, một phần do khả năng sáng tạo còn nguyên thủy của tân thế giới. Còn những lời nhận định cho rằng nền văn hoá lâu đời và đa dạng của Ấn độ ngày trước hiện hữu "trong một dạng thức thô kệch hơn, non nớt hơn" những nền văn hoá phương Tây thì hoàn toàn không chính xác. Ấn độ, với những giai cấp thư ơng buôn, với nhũng guồng máy hành chánh ở khắp mọi ngõ ngách, với một nền kinh tế đang bừng nở, lại là nơi đã có những nền văn hoá tư sản lớn lao và năng động nhất trên thế giới, và những nền văn hoá đó cũng đã lâu đời không kém những nền văn hoá Tây phương. Ấn độ không xa lạ gì với những nền văn chương lớn lao và những người biết thưỏng lãm văn chương. Có mới chăng là sự xuất hi ện của một thế hệ nhà văn có tài sáng tác bằng Anh ng điều mới là ở chỗ "trung tâm" buộc lòng phải ghi nhận "ngoại biên" bởi vì "ngoại biên" đã bắt đầu cất tiếng qua vô vàn hình thái của một t hứ ngôn ngữ mà Tây phương có thể hiểu được một cách dễ dàng.
Ngay cả cái nhìn của G. S. Steiner về một Âu châu tới hồi cạn kiệt, theo ý tôi, cũng là một cái nhìn sai lầm. Năm mươi năm qua để lại cho chúng ta những tác phẩm của - tôi chỉ kể một số ít thôi - Albert Ca mus, Graham Greene, Doris Lessing, Samuel Beckett, Italo Calvino, Elsa Morante, Vladimir Nabokov, Gunter Grass, Aleksandr Solzhenitsyn, Milan Kundera, Danilo Kis, Thoams Bernhard và Marguerite Yourcenar. Ai trong chúng ta cũng có thể ghi ra được một danh sách cầ Nếu kể luôn các nhà văn nằm bên ngoài biên cương của Âu châu, ta sẽ thấy ngay là thế giới hiếm khi có được một số lượng phong phú các tiểu thuyết gia tài ba, sống và sáng tác trong cùng một thời gian. Và chúng ta cũng thấy ngay là cái nhìn bi quan của Steiner và Naipaul không những làm chùn lòng mà còn vô căn cứ. Nếu như V. S. Naipaul không còn muốn hay không thể viết tiểu thuyết được nữa thì đó là một mất mát cho chúng ta. Nhưng không phải vì vậy mà tiểu thuyết đi đến chỗ chết.
Theo tôi, nghệ thuật tiểu thuyết chẳng có gì khủng hoảng. Tiểu thuyết đích thị là thứ "thể loại lai giống" mà G. S. Steiner tìm kiếm: tiểu thuyết bao gồm một phần tìm hiểu xã hội, một phần giả tưởng, một phần tự thú; nó vượt qua biên giới của kiến thức và biên giới địa hình. Tuy nhiên, giáo sư đã nói đúng khi ông cho rằng tiểu thuyết gia có tài là người xoá mờ được biên giới giũa hiện thự c và tưởng tượng. Cuốn tiểu thuyết vĩ đại của Ryszark Kapuscinsski có nhan Vị Hoàng đế viết về vua Haile Selassie là một trong những thí dụ về khả năng xoá mờ biên giới giữa hư và thực đô Trường phá i Tân Báo Chí ở Mỹ do Tom Wolfe và những người khác khởi xướng và phát huy cũng là một nỗ lực mượn chiếc áo của tiểu thuyết, và trong trường hợp tác phẩm của chính Wolfe có nhan Radical Chic and Maù-Maui ng the Flak-Catcher, hay The Right Stuff, thì nỗ lực đó lại rõ ràng và thành công hơn hết. Loại "du ký" cũng phát triển để chứa đựng luôn những suy nghiệm sâu xa về văn hoá như trường hợp Danube của Claudio M agris hay Black Sea của Neal Ascheson. Hay như trường hợp của Roberto Calasso với tác phẩm The Marriage of Cadmus and Harmony, trong đó mọi sự tái thẩm định thần thoại Hy Lạp cũng đã gây cho người đọc nhiều căng thẳng và kích thích trí tuệ không kém một cuốn tiểu thuyết xuất sắc nào. Thế thì chúng ta chỉ còn việc nghênh đón sự xuất hiện của một thể viết mới: vừa tiểu luận, vừa có tính tưởng tượng. Hay nói đúng hơn, đây chính là sự quay trở lại với lối đùa giỡn có tính bác học của Diderot hay Montaigne mà thôi. Tiểu thuyết vẫn có thể đón nhận những thể loại mới như thế này mà không hề cảm thấy bị đe dọa. Vẫn còn rộng chỗ đủ cho mọi người, mọi thể.
Cách đây vài năm, nhà văn Anh Will Self cho xuất bản một truyện ngắn khá ngộ ngĩnh, có nhan là Lý Thuyết đại Lượng về điên Rồ, gợi ý là tổng số tình trạng tâm trí bình thường dành cho loài người là một hằng số, vì thế mà mọi cố gắng chạy chữa bệnh điên nơi con người đều hoài công. Lý do là khi người này lấy lại được sự quân bình tâm trí cho mình thì người kia phải mất đi sự quân bình tâm trí. Chúng ta có thể ví tình trạng đó như cảnh mọi người đắp chung một chiếc chăn: khi người này kéo chăn lên che đầu thì người kia phải lòi chân. Ý nghĩ đó quả thật ngộ nghĩnh, và cũng ý nghĩ đó lại xuất hiện trong cái lý lẽ kỳ cục GS. Steiner đưa ra một cách ngay tình: ông cho rằng ở bất cứ thời điểm nào, luôn luôn có một tổng lượng tài năng sáng tác cần có, và hiện thời, sự thu hút của phim ảnh, của truyền hình, và ngay cả các bài viết dùng trong quảng cáo thương mại, tất cả đều kéo chiếc chăn ra khỏi tiểu thuyết, khiến cho tiểu thuyết bị hụt chăn, trơ ra bộ đồ ngủ trên người nằm run rẩy trong cái giá lạnh cực độ của mùa đông văn hoâ
Cái sai của lý thuyết này là ở chỗ nó giả định mọi tài năng sáng tác đều cùng một loại. đem ý nghĩ này áp dụng vào lãnh vực thể dục điền kinh thì ta sẽ thấy ngay điểm vô lý của nô Số người tham dự các cuộc đua đường trường (marathon) không bao giờ giảm sút chỉ vì người ta thích những cuộc chạy đua nước rút hơn. Thành quả của người nhảy cao hoàn toàn không liên hệ gì đến những tranh đua của cuộc thi nhảy sào.
Sự xuất hiện của một thể loại sáng tác mới lại thu hút được những nhóm người mới nhập cuộc. Tôi chỉ biết có một số rất ít nhà làm phim tài ba có khả năng trở thành tiểu thuyết gia tài ba: Satyaji t Ray, Ingmar Bergman, Woody Allen, Jean Renoir, và chỉ có bấy nhiêu đó thôi. Bạn sẽ đọc được mấy trang khô khan về Quentin Tarentino, hay chuyện bọn băng đảng rủ nhau đi ăn Bic Mac ở Paris như thế nào, nếu không có Samuel L. Jackson hay John Travolta nói hộ cho bạn? Những nhà làm phim đã nổi tiếng chỉ vì khi làm phim, họ nghĩ đến việc làm phim chứ không phải viết tiểu thuyết. Nói vắn gọn, tôi không lo âu nhiều như GS. Steiner đã lo âu về mối đe dọa tiểu thuyết của các hình thái nghệ thuật mới có tính kỹ thuật cấp cao này. Mà có lẽ cũng chính ở chỗ viết tiểu thuyết thuộc vào kỹ thuật cấp thấp mà tiểu thuyết không bị đe dọa. Các phương tiện diễn đạt nghệ thuật đòi hỏi một số tiền lớn và kỹ thuật tân kỳ - làm phim, diễn kịch, thâu đĩa - sẽ dễ bị kiểm duyệt và kiểm soát do chính sự lệ thuộc quá nhiều vào các phương tiện đó. Nhưng những gì một nhà văn viết ra trong một căn phòng vắng vẻ thì chẳng có thứ quyền lực nào kiểm soát hủy diệt được.
G. S. Steiner còn tung hô tính sáng tạo của khoa học hiện đại: "Bây giờ, đó là niềm vui, đó là hy vọng, đó là năng lực, cái khả năng tột bực khai mở hết thế giới này đến thế giới khác". Tôi hết sức t án đồng ý kiến này. Nó phản bác ngay cái lý thuyết "tổng lượng tài năng sáng tạo" như trên của GS. Steiner.
Ý nghĩ cho rằng tiềm lực những tiểu thuyết gia tài ba lần hồi bị các ngành nghiên cứu vật lý nguyên tử hay "lỗ đen" chiếm đoạt không những không đáng tin cậy mà còn ngược lại nữa là khác. Những nha ` văn tài ba nhất trong lịch sử như Jane Austen hay James Joyce chẳng hạn, nếu muốn, họ đã có thể trở thành những Newton hay Einstein của thời họ. Khi đặt nghi vấn về phẩm chất của tính sáng tạo trong tiểu thuyết hiện đại, GS. Steiner đã chỉ đường sai. Nếu quả có một sự khủng hoảng trong văn chương hiện nay, thì sự khủng hoảng đó phải mang một tính chất nào khác kia.
Mới đây, tiểu thuyết gia Paul Auster nói với tôi rằng tất cả các nhà văn Mỹ đều phải chấp nhận việc họ đang làm chỉ thu hút được một thiểu số, lấy ví dụ như bóng đá chỉ thu hút được một số rất ít người Mỹ. Nhận xét này trùng hợp với than phiền của Milan Kundera trong Testaments Betrayed, tuyển tập tiểu luận mới nhất của ông, khi ông viết: "Âu châu đánh mất khả năng biện hộ và giải thích (giải thích cho chính mình và cho người một cách kiên nhẫn) hình thái nghệ thuật tiêu biểu nhất của Âu châu, đó là nghệ thuật tiểu thuyết; nói một cách khác, Âu châu đánh mất khả năng giải thích và biện hộ nền văn hóa của mình" Kundera luập luận "Chính 'những đứa con của tiểu thuyết' đã từ bỏ hình thái nghệ thuật đã tạo ra chúng. Âu châu, xã hội của tiểu thuyết, đã lột bỏ bản ngã của mình."
Auster muốn nói đến việc độc giả ngày nay không còn quan tâm đọc tiểu thuyết; Kundera lại nói Âu châu đánh mất ý niệm liên hệ văn hóa với những sản phẩm văn hoá thuộc thể loại tiễu thuyết. Cộng thêm vào đó là hình ảnh con người ngày mai, không chuộng văn học mà chỉ đam mê chiếc máy vi tính. Chúng ta thấy ngay là đang bàn đến Cái Chết của Việc đọc Văn.
Nhưng cũng có thể không phải vậy. Bởi vì văn chương - văn chương có phẩm chất cao - thì bao giờ cũng chỉ là mối quan tâm của thiểu số. Tầm quan trọng về mặt văn hoá của văn chương không nằm ở nơi các bảng sắp xếp thứ hạng mà là ở chỗ nó có nói được gì về chúng ta cho chúng ta hay không, có nói được những gì mà ta không thể tìm thấy ở nơi khác. Và thiểu số này - nhóm thiểu số sẵn sàng đọc sách và mua sách hay - trên thực tế chưa bao giờ lớn lao hơn lúc này. Vấn đề của chúng ta là phải đạt được sự quan tâm của họ.
Vấn đề hiện có không phải là không có người đọc, mà là nỗi hoang mang của họ. Năm ngoái, ở Hoa Kỳ có đến năm ngàn cuốn tiểu thuyết được xuất bản. Năm ngàn cuốn! Nếu chỉ có được 500 cuốn tiểu thuyết đáng xuất bản được tung ra trong một năm thôi cũng đã là một phép lạ. Có được 50 cuốn trong số đó là tiểu thuyết hay lại là một điều ngoại hạng. Tìm ra được 5 cuốn - hay chỉ một cuốn - là đại tác phẩm thì cũng đủ lý do để toàn thế giới ăn mừng.
Các nhà xuất bản tung sách ra ồ ạt như thế chỉ vì những nhà biên tập có tài thì hoặc đã bị các nhà xuất bản lần lượt cho nghỉ việc, hoặc không điền khuyết, và vì quá lo âu về công ăn việc làm, ho . đã không còn khả năng phân biệt sách hay sách d Có rất nhiều nhà xuất bản quan niệm hãy để cho thị trường quyết định giá trị của cuốn sách. Hãy tung sách ra thị trường. Thế nào rồi cũng có cuốn bán được. Và vì thế, sách ào ạt tràn vào các tiệm sách: năm ngàn cuốn sách đi vào thung lũng tử thần, trong khi bộ máy quảng cáo lại không đủ sức bao che. Lối xuất bản sách như thế này chỉ đưa đến sự tự hủy. Như Orwell đã từng nói năm 1936 (bạn lại thấy rằng chẳng có gì lạ dưới ánh mặt trời), "tiểu thuyết đang bị la ó xua đuổi đến chỗ chết." Người đọc lạc lối trong khu rừng tràn lan sách truyện nhảm nhí, lại còn bị những lời lẽ cường điệu rẻ tiền, viết bằng một thứ ngôn ngữ hạ cấp quàng lên mỗi cuốn sách, khiến họ càng cảm thấy ngán ngao hơn, nên họ đành bó tay bỏ cuộc. Mỗi năm họ mua chừng đôi cuốn sách của những tác giả đoạt giải, một vài cuốn của những tên tuổi mà họ thấy quen, thế là xong. Xuất bản sách ồ ạt, rồi lại xưng tụng bừa bãi như thế chỉ làm cho người ta càn g ít đọc sách hơn. đây không phải là trường hợp một số lượng sách lớn lao săn bắt một số người đọc nhỏ nhoi, mà chính là vì số lượng sách quá lớn lao đó đã xua đuổi người đọc. Nếu việc xuất bản một tác phẩm đầu tay, như lời của G. S. Steiner, là "một canh bạc đánh với thực tế," thì phần lớn là do ở việc xuất bản sách vở thiếu chọn lọc và vung vãi như thế này. Thời này chúng ta thường nghe nói đến những cách kinh doanh mới khá tàn nhẫn về phương diện tài chánh của ngành xuất bản. Điều chúng ta cần là có một chủ trương biên tập chọn lọc một cách tàn nhẫn hơn. Chúng ta cần phải dùng đến óc phán đoán.
Còn có một mối hiểm nguy khác đe dọa văn chương mà G. S. Steiner đã không nói đến: những đe dọa nhằm chống lại sự tự do tư duy. Không có tự do tư duy, không có văn chương. Mối hiểm nguy này cũng không phải là mới. Một lần nữa, George Orwell - lần này ông viết vào năm 1945 - có những nhận xét quả hợp thời:
Ở thời đại của chúng ta, tự do tư duy bị tấn công từ hai phía. Một mặt là những kẻ thù lý thuyết, đó là những kẻ bảo vệ những chế độ toàn trị [thời này người ta có thể gọi họ là những kẻ cuô `ng tín], và ở mặt kia là những kẻ thù có tính thực tế: nạn độc quyền, guồng máy thư lại... Trong quá khý niệm phản động và ý niệm tự do tư duy thường lẫn vào nhau. Một kẻ tà giáo - về phương diện chính trị, xã hội, đạo đức hay mỹ học - chính là người đã không chịu làm trái với lương tâm mình...
[Vào thời này]....lại còn có ý niệm cho rằng tự do tư duy là một thứ tự do không ai chấp nhận, và lương thiện trí thức chỉ là một hình thức vị kỷ, phản xã hội.
Những kẻ thù của tự do tư duy thường lấy kỷ luật làm lý do biện hộ cho vị thế của họ, chống lại cái mà họ gọi là cá nhân chủ nghĩa... Một nhà văn từ chối việc bẻ cong ngòi bút của mình thường bị g án cho cái nhãn tự kỷ. Hắn lại còn bị cáo buộc hoặc khép kín trong tháp ngà, hoặc muốn dương oai diễu võ để phô bày cá tính của mình, hoặc cố tình đi ngược dòng lịch sử, cố bám víu vào một vài đặc quyền đặc lợi mà hắn không được phép hưởng.
[Nhưng] muốn viết được những dòng văn bằng một thứ ngôn ngữ trong sáng, vững chải, nhà văn phải suy nghĩ mà chẳng phải sợ hãi điều gì, và một khi được suy nghĩ mà không sợ hãi như vậy, nhà văn đo ' chẳng thể nào là một con người chịu ép mình vào khuôn phép chính trị. Sức ép của nạn độc quyền và guồng máy thư lại, của chủ trương thành lập đại công ty, óc bảo thủ, chỉ giới hạn và thu hẹp số lượng và phẩm chất của những tác phẩm có thể xuất bản được. Bất cứ một nhà văn nào sống bằng ngời bút cũng hiểu rõ điều đô Riêng về sức ép của sự bất dung và chính sách kiểm duyệt, trong mấy năm qua cá nhân tôi đã có quá nhiều kinh nghiệm.
Trên thế giới hiện nay tranh chấp đang xảy ra ở nhiều nơi: Algerie, Trung hoa, Iran, Thổ Nhĩ Kỳ, Ai Cập, Nigeria, nhà văn bị kiểm duyệt, sách nhiễu, cầm tù, có khi còn bị mưu sát. Cái chết của tiểu thuyết thì có lẽ còn lâu mới đến, nhưng cái chết của nhà văn thời nay thì lại rất gần kề. Ngay cả ở Âu châu và Hoa Kỳ, đạo binh của một vài nhóm chống đối vẫn tìm cách giới hạn tự do ngôn luận. Chưa bao giờ việc bảo vệ những giá trị đã khiến cho sinh hoạt văn chương hiện hữu lại quan trọng bằng lúc này.
Dù khó khăn như thế, tôi vẫn không tin là nhà văn phải quay lưng với hậu thế. Cái mà G. S. Steiner đã nói một cách hoa mỹ "cái huyênh hoang đáng yêu" của văn chương vẫn thôi thúc chúng ta, cho dù như ông đã g ợi ý, chúng ta vẫn thấy bẻn lẽn khi nói lên một cách công khai. Nhà thơ Ovid đã viết những dòng thơ đầy tự tin ở cuối bài "Metamorphoses": Nhưng, với những gì tinh hoa nhất của tôi, tôi sẽ đạt tới những nơi còn cao hơn các vì sao; tên tôi, vĩnh hằng, bất biến, sẽ lưu danh. Tôi tin chắc tham vọng đó vẫn ở mãi trong lòng mỗi nhà văn, muốn được người đời nhớ đến như Rilke đã từng nhớ đến Orpheus:
Hắn là một trong những sứ giả còn ở lại chết lâu rồi mà tay vẫn còn bưng mâm đầy hoa trái xứng đáng ngợi ca.
(trích tập san Văn Học, tháng 8, 1996)
tác phẩm
I.
Chàng trở mình thức giấc. Duỗi cánh tay qua bên cạnh.
Lạnh. Và trống vắng.
Chàng bật mình ngồi dậy.
Nàng đã ra đi.
Một tờ giấy nằm dưới bình hoa nhỏ trên bàn.
Đưa tay xoa mặt, chàng ngồi nhìn lá thư. Bất động.
Chàng thả đôi chân xuống giường, bước lại cầm lá thư lên rồi chậm rãi đi ra ngoài lan can của căn phòng trọ nằm trên lầu ba của chàng.
Ánh nắng đang lên cao dần.
Bên dưới, phố xá bắt đầu nhộn nhịp vào một ngày mới.
Chàng ngồi xuống chiếc ghế quen thuộc đặt bên cạnh cái bàn nhỏ và một chiếc ghế nữa - nơi chàng và nàng đã từng ngồi ăn, ngồi nhìn sao mọc, ngồi trò chuyện đến khuya. Và hôn nhau đắm đuối. Chàng đọc lá thư.
Anh yêu,
Chắc chắn sự vắng mặt của em sáng nay
không làm anh ngạc nhiên.
Cám ơn anh đã cho em ba tuần thật hạnh phúc.
Với anh.
Với con tim em.
Với tình yêu mà em muốn có nhưng
chưa hề đón nhận.
Thật trọn vẹn.
Anh đã từng nói trong cuộc sống,
anh không bao giờ đặt câu hỏi với tình yêu.
Với nghệ thuật. Em cám ơn anh đã không hề
đặc một câu hỏi nào về em.
Về sự có mặt của em.
Về cuộc sống của em.
Chúng ta đã không hề có những câu hỏi cho nhau.
Về nhau. Về thời gian. Về tương lai hay quá khứ.
Em phải trở về với những gì em đã sống.
Với cuộc đời, em xem như
sự gặp gỡ giữa chúng ta chưa hề có thật.
Nhưng em biết anh sẽ tin
khi em nói tình yêu giữa chúng ta có thật
trong em.
Đủ cho em niềm vui.
Đủ cho em hạnh phúc, ở mỗi lần nghĩ đến.
Suốt đời em còn lại.
Anh yêu,
Hẳn anh cũng đã đoán ra,
em vì yêu những tác phẩm nghệ thuật
của anh mà tìm đến. Và ở lại.
Cuộc sống có rất nhiều tao ngộ tình cờ.
Cả đời em, em đã ơ hờ với những tao ngộ tình cờ đó.
Cho đến khi mình gặp nhau.
Em đã đón nhận vào từng nhịp tim mình,
từng hơi thở mình lần đầu tiên em gặp anh.
Thật hân hoan.
Thật hồn nhiên.
Thật chân thành.
Cũng như em đã đón nhận
những giây phút đầu tiên trong đời mình
tình yêu hiện hữu.
Em hạnh phúc khi thấy anh đã
một lần nữa hiến dâng
đôi tay, linh hồn và con tim
cho nghệ thuật sau một thời gian dài chối bỏ.
Anh bảo vì tình yêu.
Vì chúng ta yêu nhau. Và anh đã đoán ra,
em đã ở lại với anh lâu hơn thời gian cho phép.
Cho đến khi anh hoàn thành pho tượng.
Em hạnh phúc khi thấy
anh say mê cùng tác phẩm của tình yêu.
Của chúng ta.
Em biết anh sẽ vui khi biết
em đã mang theo pho tượng đó khi ra đi.
Anh đã nói - Hạnh phúc cho người sáng tạo
là ngay khi người ấy đang hình thành tác phẩm
bằng tất cả linh hồn và con tim mình để
đưa tình yêu vượt ra ngoài
những đóng khung của nghệ thuật.
Và vì hiểu như thế,
nên em tin anh sẽ hài lòng
khi em ra đi đem theo pho tượng -
là hiện thân của tình yêu chúng ta.
Và em tin anh sẽ hạnh phúc
khi biết rằng em sẽ nâng niu và gìn giữ nó,
như em đã,
và sẽ mãi mãi
nâng niu và gìn giữ
tình yêu và hạnh phúc của chúng ta cho nhau.
Một lần.
Là một đời.
Trong em.
Chàng xếp lá thư lại. Nhắm mắt và dựa đầu vào bức tường sau lưng, đón từng tia nắng ấm đang lan dần trên từng phần thân thể. Và nụ cười.
II.
Ông trở mình thức giấc. Và nằm lắng nghe.
Đúng là có tiếng gõ cửa.
Ông thả đôi chân xuống giường, bước lại mở cửa. Trước mặt ông là một người thanh niên với một món đồ ôm cẩn thận trong tay. Người thanh niên hỏi tên ông. Ông gật đầu xác nhận. Người thanh niên xin phép được vào nhà để nói chuyện cùng ông. Nhận ra sự ngần ngại của ông, chàng thanh niên mở món đồ ra. Đó là pho tượng cuối cùng ông hoàn thành hơn ba mươi năm về trước.
Ông lùi người vào trong, nhường lối cho người thanh niên bước vào. Và đóng cửa lại.
II.
Suốt khoảng thời gian từ khi lấy nhau, Thuyên biết vợ chàng lúc nào cũng sống với một khoảng trống trong tâm hồn. Nàng muốn đi tìm người cha mà nàng chưa hề gặp mặt.
Trong lần đầu ra mắt phòng triển lãm, vì muốn giúp chồng, vợ chàng đã xin phép mẹ nàng cho trình bày pho tượng mà mẹ nàng chưng trong phòng ngủ của bà. Sau khi bà từ chối, mẹ con nàng đã giận nhau vì những lời nói nóng nãy sau đó. Vì không muốn thấy mình là lý do của sự bất hòa giữa hai mẹ con, Thuyên đã đứng ra giảng hòa. Đó cũng là lúc bà cho vợ chồng chàng được biết tác giả của pho tượng cũng là cha ruột của vợ chàng. Vì hoàn cảnh gia đình, bà đã lấy một người chồng lớn hơn mình rất nhiều tuổi, không có con được với nhau. Người chồng ấy rất yêu thương bà dù biết rằng bà không yêu ông ta. Trong một chuyến đi nghỉ mát một mình, bà đã gặp, đã yêu một người nghệ sĩ tạc tượng nổi tiếng đã từ lâu ngừng sáng tạo. Và bà đã sống thật trọn vẹn cho tình yêu đó. Sau khi biết mình mang thai, bà nói thật cùng chồng. Và người chồng không hề trách móc, vẫn yêu thương bà và chấp nhận nuôi đứa bé như con ruột. Cảm động với tình yêu bao la, không điều kiện của chồng, bà đã chung thủy sống bên ông cho đến ngày ông lìa đời. Vợ chàng lớn lên không hề biết chuyện này cho đến hôm đó. Cũng như cha ruột nàng cũng không hay mình có một đứa con gái đã lớn khôn.
Dù không nói ra, Thuyên biết từ hôm đó vợ chàng ít vui hẳn đi. Mẹ của nàng cũng vậy.
Và chàng đã đi đến quyết định đi tìm người nghệ sĩ tạc tượng đó. Để làm gì, Thuyên cũng không rõ. Nhưng chàng biết hạnh phúc của gia đình chàng sẽ không được trọn vẹn cho đến khi chàng gặp được ông ta.
Sau ba năm tìm kiếm, Thuyên dò ra ông ta đã ngừng sáng tạo rất lâu. Và hiện đang giữ một công việc thật khiêm tốn trong chương trình sưu tầm kiến trúc cỗ xưa ở Hy Lạp. Và chàng trình bày lại những gì mình biết được với vợ chàng và mẹ nàng.
Sau đó, với sự đồng ý của hai người, chàng đã lên đường sang Hy Lạp với pho tượng trong tay.
IV.
Thuyên đứng nhìn phòng triển lãm với niềm vui man mác trong lòng.
Hôm nay là ngày kỷ niệm bốn năm phòng triển lãm nghệ thuật của chàng được mở cửa. Và cũng là ngày kỷ niệm năm năm thành hôn của vợ chồng chàng.
Lần đầu tiên trong thế giới nghệ thuật, tất cả mọi tác phẩm của người nghệ sĩ nổi tiếng kia được triển lãm chung một nơi. Trong đó có cả một tác phẩm chưa hề được triển lãm trước công chúng bao giờ. Một pho tượng. Và sau ba mươi năm không sáng tạo, người nghệ sĩ đã trở lại với nghệ thuật một lần sau cùng bằng cách hoàn tất một chân dựa cho pho tượng.
Thuyên cười khi nhìn vợ mình đang bước lại gần. Chàng hỏi: Ba mẹ đâu em? Nàng đáp: Ba mẹ đưa con ra công viên thả diều rồi. Thuyên vòng tay qua vai vợ. Và xiết nhẹ ân cần. Nàng tựa đầu vào vai chồng. Và mỉm cười. Nụ cười người vợ chỉ dành riêng cho người chồng mình yêu thương.
Thuyên đưa mắt ngó về góc bên kia của phòng triển lãm. Nơi đó, những người thưởng ngoạn đang trầm trồ đứng trước pho tượng. Không phải chỉ vì pho tượng đẹp. Mà vì pho tượng, trước giờ vốn được đặt trong tư thế nằm, nay đã được đặt đúng tư thế đứng nghiêng của nó, như ý của tác giả, với chân dựa mới. Người ta thấy từ pho tượng và chân dựa, khi được ánh đèn soi bóng lên tường, hình ảnh một người đàn bà đang ngả vào vòng tay đón nhận của một người đàn ông. Một sự ngả vào đầy hạnh phúc. Một vòng tay đón nhận thật trọn vẹn.
Pho tượng và chân dựa được đặt tên là Ký Thác.
npn
Thầy Tôi
Tôi là đứa trẻ thiếu may mắn. Từ những ngày còn bé tôi đã không có một cái gì để gọi là riêng tư. Ðời tôi đã gắn liền với tập thể. Lớn lên từ tập thể, nương tựa vào tập thể, được giáo dục bởi tập thể và phục vụ tập thể. Không có tập thể tôi không sống được. Không có tập thể, tôi sẽ cảm thấy trơ trọi và lạc lỏng trong rừng đời. Gia Ðình Phật Tử là tổ chức đoàn đầu tiên tôi sinh họat. Hành trang đi vào cuộc đời của tôi là những vốn liếng tôi học được từ Gia Ðình Phật T Tinh thần Bi Trí Dũng là những hạt giống đầu tiên gieo trồng trong tâm hồn tôi từ thuở ấu thời. Hơn ba mươi năm sau, những hạt giống kia đã mọc thành cây xanh, trái ngọt. Từ một mức độ giới hạn và nhiều chủ quan, tôi nghĩ mình đã học và hành theo đúng phần nào châm ngôn của một người Phật Tử.
Tôi gia nhập Gia Ðình Phật Tử rất sớm, từ khi năm hay sáu tuổi gì đó. Sau một thời gian sinh hoạt như một đồng niên trong Gia Ðình Phật Tử Xuyên Châu, quận Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, vào dịp lễ Phật Thành Ðạo năm 1964, cả đoàn chúng tôi được Ðại Ðức Thích Như Vạn từ Hội An về làm lễ quy y. Thầy bổn sư tôi có pháp hiệu là Như Vạn theo nghĩa câu kệ của tổ Minh Hải "Chơn Như Thị Ðồng". Và điều nầy cũng có nghĩa là pháp danh của tôi sẽ bắt đầu ở chữ Thị. Trong lễ thọ ngũ giới, cả đoàn chúng tôi quỳ sát nhau sau lưng Thầy. Mỗi khi Thầy Như Vạn đọc tên một đoàn sinh thì thầy cũng đọc thêm Pháp Danh của người đô Phe tóc bím thì không cảm thấy gì lạ với tên đạo của mình nhưng khi Thầy đọc tên tôi "Trần Văn Nhân, pháp danh Thị Nghĩa" thì cả đám cùng cười ồ dù đang làm lể trước chánh điện.
Lý do là phe tóc bím cứ nghĩ chữ Thị chỉ dành độc quyền dành cho đàn bà con gái dùng mà thôi. Ðàn ông con trai phải được lót bằng những chữ mạnh mẻ như Văn, Tấn, Trung chứ ai đặt chữ lót là Thị bao gi Không chỉ riêng tôi mà cả phe tóc ngắn hôm đó đều bị Thầy đặt tên con gái. Thường thì pháp danh các thầy ban cho xuôi nghĩa với tên thật. Chẳng hạn tên thật tôi là Nhân thì thầy ban pháp danh là Nghĩa, thằng bạn tôi tên là Phước, thầy ban cho pháp danh là Thị Hồng. Hồng Phước thì không sao nhưng Thị Hồng lại càng có vẻ con gái hơn cả pháp danh của tôi. May là trong đám bọn tôi không có đứa nào tên Sắc, nếu có thì cậu ấy biết đâu Thầy lại chẳng đặt cho cái tên là Thị Mầu, xuôi theo chữ "mầu sắc" thì chỉ còn nước bỏ đoàn mà đi. Tôi buồn vì cái tên nầy lắm. Buồn mấy năm trời. Nhiều lần tôi định sẽ quy y lại một lần nữa với một thầy khác, với mục đích duy nhất là được đặt một pháp danh dể nghe hơn là pháp danh Thị Nghĩa quê mùa mà tôi đang có.
Gia đình Phật Tử ở quê tôi coi như tan rã kể từ sau khi Cộng Sản mở cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân. Các anh chị huynh trưởng, một số theo Cộng Sản, một số thì đi lính Cộng Hòa, một số khác bỏ làng ra Ðà Nẵng tìm cách sinh sống, làm ăn. Ðám đoàn viên chúng tôi thì như đám chim non bay tán loạn đầy trời. Tôi bay lạc xuống thị xã Hội An. Tại đây tôi tình cờ gặp lại Ðại Ðức Thích Như Vạn. Công việc đầu tiên là phàn nàn với thầy về pháp danh tôi cho là "tên đàn bà" mà thầy đã ban cho tôi. Thầy cười và giải thích từng chữ, từng câu trong bài kệ của tổ. Tôi hiểu ra một phần nào, nhưng thú thật, đối với một thiếu niên mới lớn, không phải dể dàng chấp nhận tên Thị Nghĩa của mình.
Tôi rời Hội An vào năm 1972 để vào Ðại Học. Ở Sài Gòn tôi tiếp tục sinh hoạt trong nhiều tổ chức thanh niên sinh viên Phật T Có dịp học tập dưới sự hướng dẫn trực tiếp của các tôn đức trong Hội Ðồng Giáo Phẩm Trung Ương. Ðối với nhiều người, việc được làm đệ tử của các tôn đức trong hội đồng lãnh đạo của giáo hội là một điều khó khăn nhưng với tôi có lẽ không phải là một điều quá khô Tuy nhiên, cái toan tính trẻ con thay tên đổi họ ngày xưa cũng đã thật sự chết đi trong tuổi trưởng thành.
Thỉnh thoảng tôi đều đến Trung Tâm Quảng Ðức hay Viện Hóa Ðạo để họp hành. Tôi mang trong lòng một hoài bảo nhỏ nhoi là kết hợp giới trẻ thành một tầng lớp Phật Tử trẻ yêu đạo và có lý tưởng quốc gia dân chủ để đương đầu với Cộng Sản đang hoạt động rất mạnh trong giới sinh viên miền Nam lúc bấy gi Tuy nhiên, phải thành thật mà nói, chúng tôi là những kẻ cô đơn, yếu thế và bị lãng quên nhiều nhất. Chính quyền không hiểu chúng tôi, cha mẹ không hiểu chúng tôi, thầy tổ không hiểu chúng tôi. Chúng tôi lớn lên trong một giai đoạn lịch sử bi thảm, trong đó mọi giá trị đều bị các phe phái quyền lực lạm dụng và nhân danh.
Về phía giáo hội, từ ngày được chính thức thành lập vào đầu năm 1964, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, đã trãi qua quá nhiều sóng gió. Số phận của giáo hội và số phận của dân tộc, giống như một quả cầu, đã phải chịu đựng nhiều ngoại lực với dã tâm phân hóa. Bất cứ một thế lực nào muốn chiếm đoạt, muốn thực dân, muốn cai trị Việt Nam trước hết phải nghĩ đến chuyện làm phân hóa Dân Tộc Việt Nam và Phật Giáo Việt Nam. Lý do đơn giản chỉ vì "mái chùa che chở hồn dân tộc, nếp sống muôn đời của tổ tiên" (Thơ Tuệ Không).
Một điều đáng buồn là hàng ngũ cư sĩ Phật Tử trong giai đoạn đó, chẳng những không góp phần vào việc bảo trì chánh pháp và bảo vệ đất nước, trái lại đã góp phần nhiều hơn vào việc làm tan nát đất nước và tan tành giáo hội. Không ít cư sĩ theo chân các thầy chỉ vì thời thế lợi danh, một số khác đi theo thầy để núp dưới bóng chiếc áo vàng của thầy mà làm chính trị, một số không nhỏ theo thầy chỉ để chờ cơ hội hại thầy mà thôi. Các ông quan văn bị thất sủng, các ông tướng võ thất thời, các ông nghị thất thế đi chùa coi bộ còn siêng năng hơn cả những phật tử thuần thành nhất, mặc dù các ông cư-sĩ-mùa nầy suốt đời chắc gì đã học thuộc được câu kinh Phật chứ đừng nói chi đến tâm đạo, trí đạo.
Một buổi chiều tháng mười năm 1973, một người bạn và cũng là ủy viên của một tổ chức sinh viên ghé qua nhà thăm tôi. Cậu ấy rủ tôi vào Mùng Một tháng sau đi làm lễ quy y ở Viện Hóa Ðạo. Cậu đưa cho tôi xem một danh sách những đoàn sinh phát nguyện quy y và khuyên tôi, với tư cách là thành viên của ban chấp hành trung ương, nên quy y để đoàn sinh các cấp noi theo. Ðọc sơ danh sách tôi rất ngạc nhiên vì nó khá dài. Tôi hỏi cậu ấy, "chẳng lẽ chừng nầy Phật Tử chưa một người nào đã quy y trước hay sao ?" Người bạn tôi đáp "dù một số đã quy y nhưng họ xin quy y lại vì đây là dịp may mới có một tôn đức lãnh đạo trung ương của giáo hội làm lễ thu nhận đệ tử".
Tôi cảm thấy một nỗi buồn thấm sâu vào trong từng mạch máu. Tôi tự hỏi, giáo hội Phật Giáo, từ là một giòng suối tình thương đã biến thành một trung tâm quyền lực từ bao giờ thế nhỉ? Phật giáo đã suy vong đến mức độ nầy hay sao? Sự băng hoại trong các thế hệ trước đã truyền nhiễm đến thế hệ trẻ chúng tôi nhanh đến thế hay sao?. Tôi nghiêm khắc trả lời bạn tôi" mình quy y từ hồi nhỏ và không có ý định quy y lần nữa vì làm như thế là không nên". Người bạn hỏi tôi về pháp danh, tôi trả lời cho cậu ấy biết pháp danh của tôi là Thị Nghĩa. Không giống như hồi nhỏ, khi nhắc đến pháp danh là mỗi lần tôi thấy mặt đỏ bừng vì mắc cở, đêm đó tôi nói về pháp danh của mình một cách trang nghiêm và hãnh diện. Tôi kể với người bạn về thầy tôi, một ông thầy tu suốt quanh năm chỉ biết tu hành, làm ruộng, làm tương, gánh nước tưới rau ở Tổ Ðình Phước Lâm thuộc thị xã Hội An. Phật tánh bao giờ cũng bình đẳng, không có trung ương hay địa phương, không có sang hay hèn, không có giàu hay nghèọ Ðức Phật từ bỏ tất cả cung vàng điện ngọc để đi vào cuộc đời khổ đau bằng một chiếc áo vàng và đôi chân đất. Tôi còn nhỏ nhưng cũng ít nhất cũng hiểu được điều đó.
Cách đây ba năm, tình cờ nơi đất khách tôi hân hạnh làm quen với thầy Hạnh Tuấn, cũng là một trong các đệ tử xuất gia của Thầy Như Vạn. Thầy Hạnh Tuấn báo tôi biết rằng bổn sư của chúng tôi đã viên tịch. Tôi cảm thấy buồn. Có thể thầy chẳng hề nghĩ đến tôi, một đệ tử trong hàng ngàn đệ tử tại gia của thầy. Nhưng với tôi điều đó không quan trọng. Với tôi, thầy là một trong Tam Bảo mà mỗi người Phật Tử phải tôn kính. Giữa thầy và trò đã nối nhau bằng một mối dây tinh thần thiêng liêng. Sợi dây đó đứt đi, tự nhiên phải cảm thấy đau buồn. Thầy Hạnh Tuấn tặng tôi tấm hình của bổn sư chúng tôi thời trề Tôi thỉnh bức hình về thờ để nhớ đến thầy, nhớ đến những kỷ niệm không thể nào quên trong những ngày ở Hội An.
Tôi viết lại những điều nầy không phải để ca ngợi đạo tính chung thủy của mình nhưng là để nhắc lại một quá khứ đáng buồn của giáo hội trong một giai đoạn nhiểu nhương của đạo pháp. Phật Giáo, trong cũng như ngoài nước, đang đứng trước một kỷ nguyên mới nhưng với những thử thách và đe dọa cũ, và quá khứ bao giờ cũng là một bài học quý giá cho tương lai.
Hôm 21 tháng 7 mới đây, trên đường từ Philadelphia về sau khi tham dự ngày thành lập Liên Ðoàn Cư Sĩ Phật Tử Miền Ðông Bắc Hoa Kỳ, tôi ngồi chung xe với anh Thiện Hải Ngô Văn Duệ và may mắn nghe anh kể lại vài nét đẹp trong cuộc đời của Ðại Lão Hòa Thượng Thích Giác Nhiên, Ðệ Nhị Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. Câu chuyện đã làm tôi cảm động vô cùng. Một ngày trước 1975, anh Thiện Hải không nhớ rõ ngày nào, phái đoàn giáo phẩm trung ương từ Sài Gòn ra Huế để vấn an Ðức Thăng Thống. Trong lúc chư tôn đức quì ngoài cửa chùa Thuyền Tông, để chờ ngài cho phép vào thì đức Tăng Thống lại đang bận đào khoai lang trong vườn chùa. Mãi một lúc sau ngài mới ra đón phái đoàn, trên tay ngài vẫn còn mang một thúng khoai nhỏ. Ðạo từ của Ðức Tăng Thống dành cho phái đoàn chỉ đơn giản "ra chi mà đông rứa hỉ" và quay lại dặn các đệ tử đi rửa khoai nấu cho phái đoàn giáo phẩm trung ương dùng trai. Năm đó đức Ðại Lão đã ngoài 90 tuổi. Mặc dù là vị lãnh đạo tinh thần của tất cả phật giáo đồ toàn quốc. Ðức Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Viêt. Nam Thống Nhất đã sống cuộc đời của một tăng sĩ như thế đó.
Phật Giáo tồn tại và đi xa bằng những tấm lòng hiến dâng tuyệt đẹp như đức Ðại Lão Hòa Thượng Thích Giác Nhiên chứ không phải bằng những cuộc tranh giành, hơn thua. Tinh thần Phật Giáo không phải thể hiện từ những con số, những khẩu hiệu mà thể hiện từ những củ khoai mà Ðức Ðại Lão Hòa Thượng Giác Nhiên đã trồng.
Trần Trung Ðạo
Boston, Hoa Kỳ ngày 8 tháng 8 năm 1996