vhnt, số 218
21 August 1996
Trong số này:
thư vhnt......................................................Phùng Nguyễn
T h ơ :
1 - Nói về tình yêu ............................Nguyễn Phước Nguyên
2 - Giới thiệu và dịch thơ Rabindranath Tagore (1/2) .....Sung Nguyễn
3 - Cuối vần thơ rụng ..........................Nguyễn Hiện Nghiệp
4 - Căn nhà trong Khu Sáu ................................Trần Hoài Thư
D i ễ n Ð à n V ă n H ọ c :
5 - Vũ trụ Phạm Tăng ...........................................Thụy Khuê
T r u y ện N g ắn / S án g T ác :
6 - Hồ nước ...........................Ray Bradbury / Vũ Huy Quang dịch
Bạn thân mến,
Cách đây khá lâu, tôi có dịp đi lại nhiều lần trên con đường đèo 152, bắt đầu từ xa lộ xuyên bang số 5 và chấm dứt ở xa lộ 101 dẫn về thành phố San Jose (California, USA). Con đường đèo lúc bấy giờ chưa được sửa sang, còn chật hẹp, quanh co, và do đó, rất nguy hiểm. Thường thường, khi đến chân đèo thì trời đã vào đêm, và thỉnh thoảng tôi vẫn bắt gặp những chiếc xe hỏng đậu bên đường, những ngọn đèn vàng nhấp nháy từ xa như một lời kêu cứu. Chưa lần nào tôi dừng lại, nhưng lần nào tôi cũng bắt gặp trong kính chiếu hậu hai ngọn đèn vàng nhấp nháy càng lúc càng xa dần. Như một lời trách móc âm thầm...
Thoạt đầu, tôi không biết vì sao mình lại ví von như thế về những ngọn đèn vàng cấp cứu này. Một hôm tôi chợt hiểu vì sao. Tôi đã đọc điều tương tự như vậy trong cuốn bút ký nổi tiếng của Phan Nhật Nam, "Dấu Binh Lửa". Dưới áp lực nặng nề của hỏa lực đối phương, chiếc trực thăng tải thương buộc phải rời khỏi chiến trường một cách tiếc nuối vì không thể đáp xuống để di tản thương binh. Chính là "ngọn đèn đỏ nhấp nháy dưới bụng chiếc trực thăng đang xa dần gởi lại một lời xin lỗi" đã cho tôi ý nghĩa của những ánh đèn vàng nhấp nháy trên con đường đèo tối tăm 152. Vào lúc đó, đã hai mươi năm trôi qua kể từ khi tôi đọc "Dấu Binh Lửa".
Chỉ là một câu chuyện không đầu không đuôi gởi đến bạn đọc vhnt.
Chúc các bạn một ngày vui,
Phùng Nguyễn (viết thay PCL một kỳ)
NÓI VỀ TÌNH YÊU
Ðơn Thuần
Em hãy mặc nhiên
nhìn đời
an phận
Ở những đơn thuần
chấp nhận
mà vui
Ta sẽ yêu em
bằng những bước đi lùi
Cùng đối diện
trong ngọt
bùi
quá khứ.
Em hãy từ bi
thương đời
tha thứ
(Có xót xa nào vô cứ, đâu em?)
Em bước giữa đời,
Ta đứng trông theo
Rồi rụng xuống
con tim mềm
hóa đâ
Và mai nữa
Bước em về
nghe rất lạ
Hòn đá cuội nào
nôn nao dạ
lăn
Theo.
Quên
Sẽ vẫn yêu em
cho tình yêu bật máu
Giọt.
Thấm xuống đường.
Mềm gót chân đi.
Hạnh phúc, thưa em
trong cuộc sống
Sẽ là
Sự có mặt của một người không có mặt.
Và trong từng hơi thở
sẽ đem tim mình
thắt chặt
Tự cắn môi mình
cho nín
bặt
tiếng gọi tên.
Nguyện
Ta yêu em
không phải từng ngày,
từng giây,
từng phút.
Cũng không phải một đời,
mỗi lúc nhớ,
xa.
Ta yêu em
đủ
để biết được là
Mình hạnh phúc
ở những lần nghĩ đến.
Và hạnh phúc là
những khi cần đến
Ðã biết ngay rằng
mình có mặt
trong nhau.
Tâm
Ta.
Em.
Trong lòng.
Hai.
Mà một.
Ta.
Em.
Trong đời.
Một.
Mà hai.
Tuyệt Ðối
Em.
Giữa tháng năm ta
bước em về
nghe rất lạ.
Tháng sáu,
trời tháng sáu mưa mù
Ta
mắt ráo,
mắt khô.
Thôi em,
Mưa gió bây giờ
là giông tố đời sau
Ắt cũng đủ
thừa
cho một ngày nắng mới.
Và em ạ,
Một tình yêu
tuyệt đối
Là khi lìa đời
sẽ gọi thầm
vào hơi thở cuối:
Tên nhau.
Lợi Dụng
Em bảo: Yêu nhau là lợi dụng.
Vợ chồng là sự lợi dụng
giữa hai người
cho cả một đời sau.
Tôi nói: Yêu nhau là mua bán.
Tôi đem tình yêu mình
mua lấy tình yêu em.
Mắc!
Nguyễn Phước Nguyên
Giới thiệu và dịch thơ Tagore
Rabindranath Tagore
Sinh: 7 tháng 5, 1861
Mất: 7 tháng 8, 1941
Là một nhà thơ, nhà văn và họa sĩ nổi tiếng của Ấn Ðộ.
Thơ của Tagore rất được nhiều người yêu thích. Thiếu thời, ông được đã được giáo dục trong chương trình song ngữ Ấn và Anh. Cho nên khi ông soạn và dịch lại những bài thơ của ông qua tiếng Anh, các tác phẩm được đón nhận với rất nhiều khen ngợi.
Năm 1902 tới 1907, ông lần lượt mất vợ và con. Từ niềm đau đó, ông cho ra đời tuyển tập thơ Gitanjali (Offer Songs hay Những Bài Ca Hiến Tặng Cuộc Ðời). Ða số những bài thơ trong đó viết về nhân sinh quan, trạng thái con người, tôn giáo và linh hồn, v.v...) Tập thơ này được thưởng giải Nobel năm 1913.
Ngoài Gitanjali, ông phát hành rất nhiều tác phẩm khác. Trong số đó, có một tập thơ về tình yêu được rất nhiều người tán tụng, kể cả Yeats - The Gardener (Kẻ Chăn Vườn - 1913).
Ðọc Kẻ Chăn Vườn, ta có thể nghe thấy được tâm trạng băn khoăn về tình yêu của con người . Tình yêu của thơ Tagore là tình yêu có thực; không phải là một tình yêu được thần hóa đến mức không thể tìm ra trên trái đất này. Bạn hãy đọc:
No mystery beyond the present; no striving for the impossible;
no shadow behind the charm; no groping in the depth of the dark....
We do not stray out of all words into the ever silent; we do not raise
our hands to the void for things beyond hope.
để rồi cảm nhận được cả tình yêu của chúng ta ở thời điểm này và tình yêu qua những vần thơ đã gần 100 năm có những đồng điệu vô cùng quí giá. Nhà thơ khao khát tình yêu hạnh phúc đến muôn đời, như loài hưu xạ chạy điên cuồng theo hương của mình để tìm hạnh phuc' không tưởng; để rồi nhận lấy một vành hoa của cô bé mù trong vườn mới biết được hạnh phúc là đây.
Như chuyện của muôn đời, tình yêu xuất phát từ cái nhịp chung ban đầu của hai trái tim xa lạ; từ sự hòa hợp đến ngạt thở của hai tâm hồn trai gái, muốn là một - muốn đập chung một nhịp. Ðó là những khao khát của nhà thơ gởi gấm qua những câu thơ trong Kẻ Chăn Vườn:
My heart, the bird of the wilderness, has found its sky in your eyes.
They are the cradle of the morning, they are the kingdom of the stars.
My songs are lost in their depths.
Let me but soar in that sky, in its lonely immensity.
Let me but cleave its clouds and spread wings in its sunshine.
Như chuyện của muôn đời, tình yêu như bông hoa vừa đượm hương chợt nở, qua tình cờ đời sống của ta, đơn giản như bài ca:
Hands cling to hands and eyes linger on eyes:
thus begins the record of our hearts.
It is the moonlit night of March;
the sweet smell of henna is in the air;
my flute lies on the earth neglected and your garland of flowers is
unfinished.
This love between you and me is simple as a song.
Như chuyện của muôn đời, tình yêu có những tham vọng, khát khao cũng như khổ đau, dằn vặt . Tagore cũng như triệu triệu tình nhân trêm mặt đất này, đội vương miện cho nữ thần sắc đẹp, muốn ôm sắc đẹp riêng cho mình; khi tỉnh ra rồi, chỉ còn lại những cái tầm thường dung tục ở đời. Nhà thơ tự thấy mình là người hái hoa đời, ôm chặt vào tim, và chấp nhận gai đâm.
I pluck your flower, O world!
I press it to my heart and the thorn pricked.
When the day waned and it darkened, I found that the flower had faded,
but the pain remained.
Khi đêm về, hoa đã tàn phai, chỉ nỗi đau còn lại. Nhưng phải chăng hởi nhà thơ trăm năm trước, những nỗi đau kia đã ngưng đọng thành những vần thơ nhức nhối cho những người đọc hôm nay!
Gởi đến bạn đọc VHNT liên mạng vài đoạn chuyển ngữ trích tập The Gardener (Kẻ Chăn Vườn)
oOo
15.
I run as a musk-deer runs in the shadow of the forest mad with his own perfume.
The night is the night of miđMay, the breeze is the breeze of the south.
I lose my way and I wander,
I seek what I cannot get, I get what I do not seek.
From my heart comes out and dance the image of my own desire.
The gleaming vision flits on.
I try to clasp it firmly, it eludes me and lead me astraỵ
I seek what I cannot get, I get what I do not seek.
Dưới bóng rừng già
Như loài hươu xạ
Dong ruổi điên cuồng
Say nguồn hương lạ riêng mình
Ðêm là đêm giữa tháng Năm
Gió là gió từ phương Nam
Nhẹ thổi
Anh lang thang, lạc lối
quay về
Tìm những gì không gặp
Gặp những gì không tìm
Ảo vọng trái tim hiện hình nhảy múa
Những ấn tượng huy hoàng thoáng qua
Cố ghì cho chặt, càng tránh xa
Anh chạy theo lạc lối
Tìm những gì không gặp
Gặp những gì không tìm
16.
Hands cling to hands and eyes linger on eyes: thus begins the record of our hearts.
It is the moonlit night of March; the sweet smell of henna is in the air;
my flute lies on the earth neglected and your garland of flowers is unfinished.
This love between you and me is simple as a song.
Ðôi bàn tay đan chặt vào nhau
Cho ánh mắt dừng lâu hơn trên mắt
Lời đôi trái tim ta bắt đầu ghi như vậy đó
Ôi, đêm tháng Ba, ánh trăng vàng sáng tỏ
Hương sứ ngọt ngào lan tỏa không gian
Chiếc sáo anh chơ vơ nằm trên đất
Và vòng hoa em đan, còn hãy dở dang...
Cuộc tình ta đơn giản một bài ca
Your veil of the saffron colour makes my eyes drunk. The jasmine wreath that you wove me thrills to my heart like praisẹIt is a game of giving and withholding, revealing and screening again; some smiles and some little shyness, and some sweet useless struggles.
This love between you and me is simple as a song.
Khăn che em vàng thắm mắt anh say
Chuỗi hoa lài dệt lời ca tim anh rung động
Ôi,
Trò chơi Tình yêu giữa cho và nhận giữ
Mới lộ ra đã khép kín lại rồi
Ðôi nụ cười,
Những e thẹn nhỏ nhoi
Những kháng cự dịu dàng vô ích
Cuộc tình ta đơn giản một bài ca
No mystery beyond the present; no striving for the impossible; no shadow behind the charm; no groping in the depth of the dark.
This love between you and me is simple as a song.
Không huyền bí hơn những gì hiện tại
Không cố gắng cho những điều không thể
Không dọ dẫm trong bóng đêm sâu thẳm
Và
Không mảng đen nào sau sự quyến rũ đam mê
Cuộc tình ta đơn giản một bài ca
We do not stray out of all words into the ever silent; we do not raise our hands to the void for things beyond hope.
It is enough what we give and we get. We have not yet crushed the joy to the utmost to wring from it the wine of pain.
This love between you and me is simple as a song.
Anh không gởi hư ngôn vào cõi vĩnh hằng im lặng
Chẳng với hai tay ngoài hy vọng trống không
Cho và nhận, chan hòa ý nghĩa
Cũng chưa ép hân hoan cho đến tận cùng
Ðể vắt cạn đời từng giọt rượu đau thương
Cuộc tình ta đơn giản một bài ca
(Còn tiếp)
cho mình ta thôi
có lần cùng thức khuya.
em hỏi:
sao đêm dài quá ngắn?
ta lặng ngồi
nhìn tia nắng ban mai,
nhìn mặt trời sắp tắt,
nói với em:
đêm.
ngày.
lẫn lộn.
mộng.
thực.
đâu?
là một.
đã nhiều lần ta chết
để hồn mình bay lên
đậu trên đôi bàn tay em chắp lại
sám hối với cuộc đời,
sám hối với con tim.
ôi, em!...
lời kinh nào
siêu độ
hồn ta
vào cõi an nhiên,
nơi
ta
chôn vùi bản ngã
hòa mình vào
sắc
không.
xưa.
có kẻ ngắm mai
nâng chung trà lên miệng
nhưng không uống.
tưới trà lên gốc mai
rằng:
hoa đẹp!
đọc trang sách cũ:
đạo khả đạo, phi thường đạo
danh khả danh, phi thường danh.*
gẫm lại mình trong nhân thế
(và nhân thế trong mình).
mỉm cười.
gối sách kê đầu mà ngủ.
ôi, em!...
em đã sống và đã hát
đã chết và đã nín.
hơi thở.
lời ca.
rồi cũng đều tro xương
hóa kiếp.
hôm nay.
ngày mai.
là một khối
miên
miên
trùng
điệp.
và em,
trong đó
không hiện hữu
nhưng muôn đời rất thật.
từ cái chết bước vào
em đã hồi sinh.
ôi, em!...
ta ngồi
giữa
chốn
lặng thinh
để nghe em
hát
cho mình
ta
thôi.
Nguyễn Hiện Nghiệp
(*) Lảo Tử
Căn nhà trong Khu Sáu
tặng Phạm v Nhàn sau hơn 22 năm xa cách
Khi chuyến xe sáu giờ khởi hành
Hôm nào ta bỏ Nha Trang lên miền cao
Nhớ Nh., và nhớ vô cùng người ở xa
Ðiếu thuốc mồi chung, ướt nhòa con mắt
Ngươi trao ta chiếc jacket
Xe lên đèo mù, mặc áo rưng rưng
Có phải ngươi đỡ ta như chiếc phao
Khi ta bấp bênh biển đời nổi sóng
Khi cơn bệnh và hầm tôn nóng
Lăn lộn cùng đời. Mảnh sống tang thương
Muỗng cháo nào miệng đắng cổ khan
Ðể ta hiểu thêm về tình bạn hữu
Vâng. Nh. ơi, đời cũng đôi lần khó hiểu
Việt Nam thì xa, lại gặp xứ người
Giọng nói tiếng cười vẫn thuở rong chơi
Nhắc nhở chuyện trò huyên thuyên bất tận
Kể lại một thời giang hồ áo trận
Căn nhà xưa, bạn cũ quây quần
Chiếc chiếu cơ hàn bao đứa đặt lưng
Nghe như đâu đây mùi hôi ẩm mốc
Phòng không cửa, mùa đông tối đặc
Ðêm về khuya nghe sóng vỗ Qui Hòa
Có những thằng về từ mặt trận xa
Có những thằng đứng bên lề cuộc chiến
Có thằng đêm nào dấu hình ẩn tích
Về vội vàng, bỏ đi nửa đêm
Căn nhà lúc nào cũng như chùa hoang
Một góc phòng mấy bao gạo trắng
Những khách hàng không bao giờ ghi sổ tháng
Ngày thanh xuân như những áng mây trôi
Bạn nhớ gì không, Nh.?
Chiếc cận thị trệ xuống của P C Hoàng
Những chén cơm khô chưa rửa
Và cửa đôi khi mở ra
Một gương mặt ló vào
của L V Trung
Ðể không bao giờ tìm gặp lại
Như đêm trăng trên Gành Ráng
Như chuyến xe lam qua trường Sư Phạm
Như cơn mưa giông nào Qui Nhơn
Như tóc em sũng mềm đội mưa xuống phố
Ôi đôi giày trận bết bùn bỏ lại ngoài hiên
Nhớ không Nh. những ngày ở Phan Rang
Ta trở về để râu để tóc
Những toa tàu đen, và con đường sắt
Bỗng nhớ vô cùng hoa quì Ðơn Duơng
Thương tội tình toa sắt trống trơn
Dưới chân đèo trong mùa tiêu thổ
Khi núi sông đau màu cách trở
Thì sá gì những kẻ xa nhau
Nhưng cuối cùng, phép lạ nhiệm mầu
Ta gặp lại ngươi, bên này quả đất
Qua đường dây xa, rưng rưng nước mắt
Thì ra núi sông trở lại trùng phùng
Hỏi thăm gia đình, bạn hữu vợ con
Hỏi và thương căn nhà khu Sáu
Ngươi chúc mừng ta mấy lần sống sót
Ta chúc mừng ngươi lấy vợ Dạ Lê
Thầm thì cho nhau chuyện cũ chuyện quê
(Cô bé ngày xưa giờ đây có cháu
Lê văn Trung thì nghe tin bị bắt
Ra pháp trường sau ngày 30 tháng tư ...)
Những L., A, C., thất tán xác xơ
Ðứa bán chợ trời, đứa về chân núi
Thương một căn nhà không người gìn giữ
Thương một nơi tình nghĩa cơ hàn
Hỏi ngươi làm gì - đóng tủ đóng bàn
Ðóng thêm mấy bài văn thơ bỏ dở
Ðể chuyền cho con em chút lửa
Tấm lòng từ một cõi cha anh
Trần Hoài Thư
Vũ Trụ Phạm Tăng
Hội họa và thi ca, hai ngành nghệ thuật có những tương quan mật thiết, nhưng hiếm hoi là những nghệ sĩ làm sáng tỏ được mối tương quan đó trong tác phẩm của mình, từ Vương Duy.
Họa sĩ Phạm Tăng vào thơ, theo lời ông "chỉ để trò truyện tâm sự với mình." Ông làm thơ tài tử. Sau hành trình hội họa dài của một họa sĩ Việt Nam, gây nhiều tiếng vọng bên trời Tây, tập thơ Phạm Tăng đầu tiên ra đời, với lời giới thiệu thơ của Trần Lê Văn và bạt của Hữu Ngọc về họa, như một món quà muộn.
Tác phẩm do nhà xuất bản Văn Học phát hành tháng 8 năm 1994 tại Hà Nội, và đây là một trong những tác phẩm thơ có giá trị của một tác giả sống ở nước ngoài, lần đầu tiên in ra trong nước.
Thơ Phạm Tăng gồm 47 bài, làm từ những năm 45 đến ngày nay. Chia làm ba phần. Phần đầu 26 bài: quê hương và tự sự.
Phần hai: 12 bài, nói chuyện với người vợ đã khuất và một bài trào phúng: Rỡn Trời. Phần ba: bảy bài thơ gửi bạn. Sách kèm phụ bản: hai bức tranh tiêu biểu hội họa Phạm Tăng, tượng trưng quan niệm sống và sáng tạo nghệ thuật. Bức thứ nhất, họa sĩ đặt tên là Vũ Trụ, và bức thứ nhì, xin tạm gọi là Hữu Hình Vô Thể.
Phải nói ngay: Ở Phạm Tăng, người đọc sẽ không tìm thấy những khám phá mới lạ về hình thức, ông nói những chuyện đã cũ, cũ như trái đất, như hành tinh, như vũ trụ, như hạt cát, hòn sỏi, con người. Nhưng thơ ông có những tia "mắt sao" dõi buồn về một cố nhân xa:
Quê nhà từng mảnh con con
Khâu khâu vá vá đã mòn đường kim.
(Bài ca Quê hương, trang 13)
Hiếm có hình ảnh nào xa xót quê hương đến thế. Mảnh đất Việt Nam, nhìn từ máy bay xuống, rất khác nhiều nơi: làng xóm, ruộng đồng san sát, lỗ mỗ như ô ăn quan, không khác gì những mảnh vá trên tấm áo nâu sồng của người làm ruộng. Ngày đi, Phạm Tăng đã chụp được tấm hình kỷ niệm ấy, đem may thành áo. Quê hương không còn xa xôi nữa, mà trở thành lớp da thứ nhì, đắp lên mình, mang đi cùng trời, cùng đất. Ở những bước dừng, ngơi nghỉ, chiếc áo da vàng ấy đã sứt chỉ, sờn vai. Người nghệ sĩ tìm kim, lại vá thêm lần nữa, khâu những đường mòn vụn rách, ráp những thửa ruộng, mảnh vườn, bờ tre, bụi nước... Từ tấm áo da nhầu nát của quê hương, ông sống, ông đi.
Thơ ông vẽ con đường nghìn trùng hải lý về những chuyến đi "Nửa phiêu lãng, nửa lưu đầy". Không hành khách. Không hành lý. Không cả con người:
Hành trang: đến cả linh hồn cũng dư!
(Mừng hai bạn thơ đến thăm, trang 83)
Hành trang hữu cơ và tâm cơ không cần thiết, nhưng hành trang thơ có họa. Họa làm sáng thơ và thơ khơi mạch cho họa. Cả hai giao ứng trong đồng thuận và nghịch lý như một trắc họa nghiệm sinh những triền miên trăn trở của con người: Từ cái không đến cái có, cái riêng đến cái chung, cái hữu hình đến cái vô thể.
Từ niềm đau riêng của một Phạm Tăng lưu vong gần trọn cuộc đời, toát ra cái đau chung của cõi người lưu vong trong chính bản thân mình. Từ nỗi đau riêng của một mối tình đứt đoạn, rạng nở bình minh những mối tình miên viễn, thực thụ hiện hình sau cái chết.
Những đối cực ấy, Phạm Tăng thể hiện song song trong họa và thơ. Dường như trong thơ đã có họa và trong họa đã có thơ như lời Tô đông Pha nói về Vương Duy ngày trước.
Phạm Tăng họa như thế nào?
Xé mây làm vải vẽ
Chấm mực nghiên mặt trời
(Mây ngũ sắc, trang 41)
Khi phấn khởi thì như thế. Và cũng có khi
Năm đầu tay xé rách không gian
(Anh đến thăm em, trang 54)
Về bức tranh Vũ Trụ, Phạm Tăng đề:
Trông lên thiên thể bao la
Nhìn vào sâu thẳm trong ta mịt mùng
Xác thân: vạch nối đôi vùng
Khoát tay một nét: cuộn vòng càn khôn.
(Ðề bức tranh Vũ Trụ, trang 42)
Một vũ trụ ngông trong thơ, trong họa, trong chuyển động và tư tưởng. Ngoảnh lên nhìn tranh, người xem không biết tranh minh họa thơ hay thơ phụ đề tranh. Cả hai tạo thành một chủ đề, một cơ cấu, một "càn khôn ngông," thách đố giữa con người và vũ trụ, giữa cái nhỏ vô song và cái lớn vô cùng.
Hội họa Phạm Tăng khởi hành từ những vi phân, vi bản, từ những nguyên tử, những tế bào của sự sống để đi đến cái vĩ mô trong vũ trụ phổ quát. Tất cả vận hành trong không gian thiên di, thời gian biến động: Dòng đời cuồng lưu, vũ trụ càn khôn. Giữa cuồng và càn, con người truân chuyên, vận chuyển, bức tranh Hữu Hình Vô Thể , phác họa hành trình của luân hồi:
Trăm, ngàn, vạn, ức, cái Ta
Chết trong lúc trước thành... Ta lúc này
Ngừng đây, nhưng vẫn vần xoay
Nằm đây, nhưng vẫn tung bay khắp trời
(Cũng một nước cờ, trang 26)
Con người khởi hành trong vũ trụ như một tinh thể, giống như tếbào vận chuyển trong cơ thể con người, và như con người luân hành trong dĩ nghiệp tử sinh truyền kiếp:
Ði từ đâu? Ðể về đâu?
(Cũng một chuyến đi, trang 20)
Trong vị trí thiên di ấy, con người tự bản chất đã mang dư vị "lưu vong" Ði hoài saỏ Liệu có chăng đường về:
đêm đêm ngẩng mặt tìm Quê
Hỏi thầm Sao rụng Sao về nơi đâu?
(Kim Dung, trang 32)
Lạc loài trong vũ trụ càn khôn, trạng thái lưu vong gắn liền với số phận, vận mệnh, trở thành một định mệnh, một thiên thể, một hằng sáng. Trước Phặm Tăng, Thanh Quan đã "lưu vong" trên đất nước: Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc. Và cùng Phạm Tăng, đặng đình Hưng đã sống "lưu vong" trong quản thúc suốt đời: Những chiếc va-li cứ về bến lạ. Lưu vong, do đó, đối với nhà thơ không phải chỉ là sự "ra đi" hiện thực và lý tính, mà còn ẩn những viễn du trong tâm linh, trong nội tại:
Nghe trôi, không biết trôi mình về đâu?
(Dòng sông, trang 18)
Về "lưu vong," người Việt hải ngoại đã tốn nhiều giấy mực, bàn cãi, sáng tác... Nhưng mấy ai viết được ngắn gọn và sâu xa như thế:
Nửa trời, nửa nước chênh vênh
Thấy mình trôi giữa mông mênh... cũng Mình!!
(Vui với hiện giờ, trang 30)
Lưu vong, đối với Phạm Tăng, dường như không những là sự vận chuyển con người trên trái đất, trong không gian tinh cầu, mà còn là hành trình du lịch trong thời gian, từ thuở sơ sinh đến lúc bạc đầu:
Lang thang khắp mặt địa cầu
Thịt xương: áo đã ngả màu hoàng hôn
(Mừng hai bạn thơ đến thăm, trang 83)
Với người lữ hành đặc biệt ấy, những chuyến đi ngoài trùng lấp những chuyến đi trong:
Chỗ đâu chứa cả thế gian trong lòng.
Với người lữ hành đặc biệt ấy, đi nhiều, bụi trần cũng
đã ngấm vào lục phủ ngũ tạng:
Trong ta cũng bụi, rũ hoài chưa ra
(Là Một hay Hai, trang 22)
Ði mòn mỏi mãi, nhưng sau cuộc hành trình hỏi rằng:
Chép lại gì chăng? Một chữ: Không.
(Gương thề mặt đá, trang 66)
Thế còn tranh?
Vẽ bao nhiêu mộng không đầy khoảng không.
(Ngày kỷ niệm, trang 74)
Và như thế, hư vô trở thành một định mệnh thứ nhì mà người nghệ sĩ đem vào cuộc sống lưu vong trường cửu của mình:
Thôi chuyến đi này, đi tay không
Tội chi tay xách với vai gồng
Thịt xương trút gánh hành trang nặng
Xóa cả linh hồn: con số không
Không cái Tôi này - không xác thân
Không sau, không trước, chẳng xa - gần
Không đi, không đến, không còn mất
Vũ trụ và tôi một, bất phân!!!
(Trút lại hành trang, trang 89)
Tại đây, vũ trụ quan và nhân sinh quan của người thơ, người họa đã giao hòa thành một khối hư vô:
Soi gương, bóng Ảnh, bóng Mình... đều không.
(Nói với ảnh, trang 67)
oOo
Giữa Phạm Tăng và lưu vong là một tiệc cưới linh đình, nẩy sinh quý tử: cô đơn. Cô đơn trở thành "thế hệ thứ nhì," là con đẻ của nỗi đau thơ và họa. Và là bản thân của sáng tác:
Sống cô đơn, chết một mình
Trí tâm thác loạn - Xác hình quặn đau!
Xé từng chữ - Nghiến từng câu
Xoáy từng nét bút, khoan sâu từng lời!
(đọc Solo, trang 33)
Niềm đau của họa sĩ không còn là nỗi đau trừu tượng nữa, mà đã trở thành vật thể, một kết tinh máu thịt, xương da, toát ra từ tinh lực của cây cọ, ngòi bút:
đục sầu, khoét khổ, đầu tay.
(đọc Solo, trang 33)
Từ hoàn cảnh riêng tư của tác giả, nỗi đau trở thành một sinh linh, có tâm thức, tri thức và hành động. Nỗi đau tự tạo:
Trăm năm khơi một Nguồn đau tự mình.
(Là Một hay Hai, trang 22)
và trở thành một đời sống thứ nhì, trong cuộc đời hiện hữu:
Ði vơ vất giữa đêm trường ngơ ngác
Tìm xương thịt để trở về nhập xác
Ta rùng mình hun hút gió tha ma
Trong mê cuồng ta gặp chính "Hồn ta"!
(Ngõ hẹp, trang 45)
Ðã Hàn Mạc Tử, rồi một đinh Hùng, giờ đến Phạm Tăng, kết tinh niềm đau đến mức thượng thừa, thác loạn:
Ôi Thượng đế! Tôi vô cùng đau khổ
Sao sinh tôi cùng một thuở sinh em.
Thổi linh hồn, cát bụi chắp nên duyên
Yêu tuyệt đối, nên căm hờn vĩnh viễn.
(Ngõ hẹp, trang 45)
Từ sự cách biệt âm dương, xa lìa thân xác, phát xuất niềm đau. Tuyệt đối. Nhưng cũng chính từ niềm đau tuyệt đối đó, người nghệ sĩ khám phá chân lý. Chân lý lóe sáng như một trực giác, một niết bàn:
Anh chợt hiểu ra
Mộ cũ ngày xưa
Chỉ là nơi em trút bỏ thân hình
để sát nhập vào anh
Kết tình thương làm "Một"
"Chết" có nghĩa là thay hình bỏ lốt
Cho tâm linh nhẹ gánh thịt xương
Hình hài ta nay là cát bụi vướng trên đường
Làm mờ ám chân tâm thanh khiết.
Giũ thân xác để linh hồn hợp nhất
Em còn đây
và sát nhập trong anh ...
(Bài thơ dài chưa dứt, trang 61)
Sự thức tỉnh kể như toàn diện, vì từ nay, không cần tìm nữa: em chính là Tâm, mà Tâm chính là em:
Ði tìm đâu nào biết ở trong Tâm?
Sự thức tỉnh không chỉ ở mức độ âm dương sát nhập, giao hòa, mà còn đến cả với vũ trụ vi tinh, vi thể. Hình ảnh giao duyên "mắt sao" lạ và đẹp. Họa sĩ lồng sao trong mắt, lồng mắt trong vũ trụ, tỏa cái nhìn phổ quát, hòa đồng tinh thể và con người, hòa con người với bao la vũ trụ. Trong bối cảnh tâm - thân - vũ - trụ hợp nhất, không rõ đâu là vật thể, đâu là khách thể. tất cả bật ra một dấu hỏi: Sao? Âm vang phiếm định, hư vô, huyền bí, mà chung nhất, bởi trong - ngoài - có - không, từ thuở tiên thiên vẫn chỉ là một:
Tưởng đâu vũ trụ vô tình
Cớ sao thao thức như mình trắng đêm?
Vòm cao thăm thẳm vô biên
Có sâu hơn chốn u huyền trong ta?
Trong - Ngoài cách một lần da
Sao hơi thở vẫn chan hòa chuyển thông?
Bên ngoài lẫn với bên trong
Mắt sao hay mắt mình trông lại mình?
Ta - Sao, đồng cảm đồng tình
Cả hai chung một cái mình bao la.
(Mắt sao, trang 21)
Tuy nhiên sự xác định không có trong thơ. Trong thơ chỉ có phiếm định. Và những dấu hỏi. Người nghệ sĩ đặt những câu hỏi từ đầu đời đến cuối đời. Không lời giải đáp.
Khi chưa xương thịt, nơi nào ngụ?
đến lúc tàn tro, có chốn bay?
(Hỏi mình, trang 23)
Mà nghệ thuật cũng chỉ là một dấu hỏi. Nói thế không sợ phật ý Phạm Tăng, bởi chính nhà thơ báo trước với chúng ta:
Những lời thơ, thực là Thơ
Chưa từng viết, chẳng bao giờ viết nên
Như lời nguyện ước không tên
Ở ngoài sự vật, bên trên cuộc đời...
(Bài thơ chưa thành, trang 28)
Phải chăng đây là một trong những định nghĩa sâu xa nhất của thi ca nói riêng, và của nghệ thuật nói chung? Mà chỉ những nghệ sĩ đã "xoáy từng nét bút" "khoan sâu từng lời" mới cảm thấy những bấp bênh, chênh vênh, vô thường trong sáng tạo.
Thụy Khuê
(Trích báo TK21 số 88 tháng 8/1996)
Hồ Nước
Ray Bradbury
Khoa học giả tưởng, trường phái sáng tác văn chương mới nhất, hình thành ở Tây phương, mạnh mẽ với ẩn dụ do các ý niệm về không gian, thời gian và các bộ môn khoa học thực nghiệm đem lại - còn xa lạ và ít được khai triển, cống hiến trong lãnh vực văn chương Việt - hiện đang chi phối trên lãnh vực sách báo, điện ảnh, truyền hình, hoạt họa đương đại toàn thế giới... không những chỉ ảnh hưởng trên hàng trăm triệu thiếu nhi, sinh viên, học sinh; mà còn tác động trên mọi văn hóa phẩm, trên kỹ nghệ giải trí cho hàng trăm triệu người lớn... đặc biệt, là tại các nước tiên tiến kỹ nghệ nữa.
Trong thế giới của văn thể khoa học giả tưởng, các tên tuổi hiện thời của Anh Mỹ là Robert Heinlein, Isàac Asimov, và Arthur C. Clarke... nhưng, lừng lẫy, là Ray Bradbury, một tác gia từng xuất hiện trên 50 năm nay. Tác phẩm quan trọng: The Martian Chronicles ('50), The Illustrated Man ('51), Fahrenheit 451 ('53)... các kịch bản phim (Moby Dick), các tác phẩm điện ảnh (It Comes from Outer Space)... là các sản phẩm có ảnh hưởng và lôi cuốn lớn trong số 29 cuốn sách ông đã viết về truyện khoa học giả tưởng - đặc biệt thu hút khi các biến cố về khoa học không gian xảy ra, như khi phi thuyền Sputnik phóng lên mặt trăng, hay như khi phi thuyền Viking đáp trên Hỏa tinh. Người mà chuyên tạo ra những cú sốc cho độc giả ấy, nay đã 75, vẫn bình dị sống trong khu trung lưu ngoại ô Los Angeles - và nhất định không lái xe hơi (!).
The Lake (Hồ Nước) là truyện ngắn đầu tay của ông - để khởi đầu văn nghiệp khoa học giả tưởng về sau - được chú ý ngay về hành văn cùng lối dựng truyện, đã lập tức được tán thưởng - cứ được in đi in lại - cho đến tận bây giờ... trong các tuyển tập thuộc khoa học giả tưởng hoặc kinh dị.
Truyện này viết ra khi R. Bradbury mới 22 tuổi.
oOo
Người ta cắt bầu trời bé lại cho đến bằng thân hình tôi rồi liệng trên hồ Michigan, xong rồi để lên ít đứa trẻ la chạy trên bãi cát vàng cùng vài quả bóng nhún nhẩy, một hai con hải âu, một bà mẹ cằn nhằn, còn tôi, thì tôi bước khỏi mạng lưới sóng để thấy rằng cái thế giới này vừa ẩm ướt vừa bợt bạt.
Tôi chạy trên bãi.
Má thấm người tôi bằng tấm khăn bông có sọc. "Ðứng đó cho nó khô," Má nói.
Tôi đứng đó mà ngó nắng hút bớt các giọt nước đọng nơi cánh tay, da đang săn lại, lần lần hiện ra các vệt chân ngỗng.
"Chà, gió quá," Má la. "Mặc áo thun vào đi nào."
"Ðể con xem mấy cái vết chân ngỗng tím nắt này đã," tôi đáp.
"Harold!" Má lại la.
Tôi chuồn người vào cái áo thun và ngó sóng nước nhấp nhô chỗ bờ đất. Sóng nó không đần. Nó biết mục tiêu, lại mang màu xanh lơ đẹp đẽ. Ngay ông nào say sưa tới đâu cũng không nỡ ngả ngớn được trước vẻ thanh cao của sóng.
Ðấy, là vào tháng Chín - những ngày cuối tháng mà mọi chuyện đều có vẻ buồn không cần lý do. Bờ cát dài và trơ trọi có sáu nhân mạng. Vài đứa trẻ ngưng thảy bóng vì gió chắc cũng làm chúng chán, với tiếng gió réo rắt, làm chúng ngồi xệp xuống, cùng nhau cảm thấy mùa thu đang phủ lên bãi cát dài.
Tất cả các quầy bán dồi Hot-dog đứng sững với các tấm chóp vàng óng, bên trong đầy mù tạc, hành, thịt... của mùa hè dài. Y như mùa hè đang bị đóng dính vào một dẫy quan tài. Từng quầy hàng, mái che hạ, cửa liếp khóa nghiến, và gió thổi cát lùa bay hết mọi dấu vết của tháng Bảy, tháng Tám. Nay là tháng Chín, không còn gì ngoài dấu giầy ten-nít bằng cao su của tôi cùng dấu chân thằng Donald và thằng Delau Shabold, và ba tụi nó đang ngâm mình trong hõm nước ngoài kia.
Cát thổi tung những tấm màn ngăn lối vệ đường, khung vải trùm khu chơi của trẻ con thì phủ toàn thể các con ngựa cóng rúm, giơ vó trên không trung, lủng lẳng với các cột kim loại bằng đồng, lũ ngựa vừa nhe răng, vừa phi nước kiệu. Chỉ còn tiếng gió reo thay nhạc, vi vu khi len vào màn vải. Tôi đứng sững. Giờ này trẻ con đi học cả, trừ tôi ra.
Ngày hôm sau tôi đi về phía tây, băng nước Mỹ bằng tàu lửa.
Má với tôi ra chơi hồ nước lần cuối. Tôi cảm như có gì níu lấy mình. Tôi bứt rứt.
"Má, con thích chạy trên cát," tôi nói.
"Ôi dào, cũng được, nhanh nhanh lên, chớ đến gần nước đấy."
Tôi chạy. Cát thì xoáy dưới chân, gió thì thốc tôi lên. Bạn biết đấy, khi mà chân chạy, tay dang, bạn tưởng như giữa kẽ các ngón tay có tấm màng mỏng do gió dệt. Như mọc cánh.
Bóng Má lùi xa. Rồi từ xa, Má nhỏ lại thành một đốm nâu bé, thế là tôi trơ trọi. Cô đơn là điều hoàn toàn mới với đứa trẻ tuổi mười hai. Luôn luôn có người bên cạnh trẻ con. Muốn được riêng biệt một mình, con nít chỉ còn cách tưởng tượng. Ðó, là lý do sao mà bọn con nít hay tưởng tượng ra lắm thứ rất diệu kỳ. Quá nhiều người vây quanh một đứa bé, luôn luôn nhắc nó điều này, bảo nó điều nọ, thúc nó sớm lên bờ, đâm ra bờ hồ chỉ có trong trí nó, cùng với cái thế giới riêng biệt của đầu óc nó thu gọn lại.
Tôi hoàn toàn đơn độc.
Bước xuống, nước ngập tới bụng tôi. Trước, khi có ai bên cạnh, nào tôi có dám nhìn. Nay, tôi thấy người tôi bị cắt làm đôi. Thật như làm xiếc. Nước làm ra thế. Làm người chúng ta bị cưa đôi ra, nửa phần kia tan loãng như đường bị ngâm trong nước. Nước mát rượi, lâu lâu sóng gờn gợn, và tôi tưởng như có một chuỗi dây nào quấn nhẹ quanh mình.
Khe khẽ, tôi kêu tên con bê Thì thầm cả chục lần.
"Tally! Tally!... ới... Ơi Tally!"
Có lạ gì nào, bởi khi bạn còn nhỏ, mỗi khi bạn kêu tên ai, bao giờ bạn cũng mong ngóng có tiếng đáp lại. Bạn cứ cho là bất cứ gì trong đầu bạn tưởng tượng cũng là có thật. Ðôi khi, điều ấy cũng không sai cho lắm.
Tôi mường tượng Tally, đang bơi trong nước mới tháng Năm rồi, tóc vàng thắt bím sau ót. Con bé vừa bơi vừa cười, ánh mặt trời rơi trên đôi vai bé bỏng của đứa bé mười hai tuổi. Thế rồi tiếng nước khua ngưng, rồi viên cứu cấp trên bờ nhào xuống nước, rồi tiếng la rú của Má Tally, rồi bé không bao giờ trở lại.
Viên cứu cấp dùng đủ cách năn nỉ bé trở lại mà không được. Anh ta lên bờ cùng rong rêu bám trên các đốt tay, và Tally thì cứ thế đi luôn. Cô bé không còn ngồi ngang dãy bàn học với tôi trong lớp nữa, không chơi bóng trên con đường lát gạch trong mùa Hè với tôi nữa. Cô bé đi đâu xa lắm rồi. Mặt nước hồ không được đón bé chơi với nữa.
Rồi vẻ cô quạnh của bầu trời mùa Thu như rộng thêm, mặt hồ cũng rộng ra, bờ cát cũng dài ra, trong cái lần cuối cùng này, ở đây, với mỗi mình tôi.
Tôi thầm gọi tên cô bé, gọi mãi.
"Tally, ới... Tally?"
Gió dịu dàng, lướt qua tai, như kiểu vẫn luồn vào các vỏ sò rỗng làm thành tiếng vi vu mơ hồ. Nước dâng tới ngực, vờn quanh đầu gối tôi, dập dình, sau rồi giống như nước níu gót tôi.
"Tally! Lên đây nào, ới... ơi... Tally!"
Tôi mười hai tuổi. Nhưng tôi biết tôi yêu cô bé đến thế nào. Cái tình yêu có trước khi thể xác với luân lý nhận biết. Cái tình yêu không tốt xấu nào dính dáng đến được, như sóng như gió, như biển cả, như cát trên bờ muôn đời nằm cạnh nhau, vĩnh viễn. Nó sinh ra bởi những ngày nắng ấm trên bờ, những rì rào trong lớp học. Bởi những ngày dài mùa thu, những năm tháng mà tôi ôm cặp sách cho bé từ nhà đến trường.
"Tally... ơi!" Tôi gọi lần chót.
Rồi bỗng tôi rùng mình, sao mà nước ướt đẫm mặt tôi. Sóng đâu có đập nước văng lên đấy. Sóng dâng trong tôi mới làm tôi ướt mặt như thế.
Tôi quay bước lên bờ, rồi lặng đứng nửa giờ đồng hồ, một mình lắng chờ bất cứ động tịnh nào, một dấu hiệu nhỏ tí nào cũng được, một chút xíu gì về Tally để ghi trong trí nhớ. Sau rồi, quỳ xuống, tôi vốc cát, đắp một tòa lâu đài sát bờ nước, như đã đắp biết bao lần trước kia đã cùng đắp chung với Tally. Lần này, tôi cũng đắp một nửa. Xong, tôi đứng lên.
"Tally, ra mà làm nốt nào."
Rồi tôi đi về cái đốm nâu đàng kia, chỗ Má ngồi. Mặt nước hồ gợn gió, thành những vòng tròn lăn tăn, rồi tan dần, với một vẻ êm ả bình yên.
Tôi thừa biết chẳng tòa lâu đài đắp cát nào mà không bị sóng xóa đi. Tôi bước đi, lầm lũi. Xa xa, khu chơi con nít có tiếng nhạc reo khe khẽ, nhưng là gió làm.
Tôi lên đường rời vùng hồ nước bằng chuyến xe lửa ngày hôm sau. Xe lửa băng ngang cánh đồng bắp Illinois. Xe lửa giữ ký ức rất tồi. Chả mấy chốc nó bỏ lại sau hết thảy. Nó bỏ lại cả các con sông thời ấu thơ, các cây cầu, các hồ nước, thung lũng, lều gió, các nỗi đau buồn lẫn vui sướng. Nó rãi ra sau các kỷ niệm lăn lóc, nơi chân trời.
Rồi xương tôi dài ra, thêm da thêm thịt, tâm hồn già đi, quần áo cũ không vừa phải vứt bỏ, lớp học thì chuyển, từ tiểu học, lên cao đẳng, rồi các sách đại học, rồi các sách luật. Rồi một thiếu nữ ở Sacramento, những lời cam kết, tỏ tình và các nụ hôn.
Tôi theo ngành luật. Khi hai mươi hai tuổi, tôi như quên hết về miền Ðông.
Margaret gợi ý là tụi tôi nên về lại đó, hưởng tuần trăng mật trễ.
Xe lửa lúc về, lại tạo ra ký ức, vì nó có tác dụng hai chiều. Nó ngốn ngấu trở lại những gì mà nó quăng lại lúc đi. Hồ Bluff, với cư dân 10,000 người từ từ hiện ra trên trời cao. Margaret thanh lịch trong bộ y phục mới, cứ đăm đăm nhìn tôi khi tôi trân trân trước cảnh cũ. Tay nàng nắm chặt tay tôi khi xe lửa từ từ vào ga. Rồi hành lý tụi tôi được người ta đem xuống. Thời gian trôi, tác động lên nét mặt, thân hình con người. Tôi không nhận ra khuôn mặt cũ nào khi tụi tôi nắm tay nhau tản bộ trong tỉnh lỵ. Nhưng vẫn có những nét thủa xưa - âm vang vọng lên của tiếng reo cười lúc tan trường, của tiếng kẽo kẹt từ then sắt treo xích đu trong vườn chơi trẻ con.
Tôi không nói gì, chỉ bước đi mà nhìn hầu gom ký ức, như vào mùa thu, người ta vẫn gom lá chất đống để đốt.
Thời gian hai tuần ở đó, tụi tôi rất hạnh phúc. Tôi khá yêu thương Margaret. ít nhất tôi cũng thấy tôi có yêu nàng.
Rồi những ngày cuối. Tụi tôi xuống hồ nước. Khi ấy, thời tiết chưa vào những ngày cuối năm, thế mà cũng có cảnh tượng hoang vắng trên bờ hồ. Thiên hạ vắng hẳn, các sạp bán Hot-dog đã đóng cửa, liếp che đã hạ, đinh lại đóng chặt quanh quầy, và gió lại reo bên tai như thường lệ.
Như tôi lại thấy Má ngồi trên cát phía xa kia. Tôi bỗng lại có cảm tưởng muốn được một mình. Nhưng không dám nói điều ấy với Margaret. Ðành cứ cầm tay nàng mà đợi.
Một ngày tàn. Trẻ con về nhà gần hết, chỉ còn vài người lớn tiếp tục phơi mình trong trời chiều. Chiếc tàu cứu cấp cặp bờ. Viên cứu cấp chậm chạp nhô lên, tay xách cái túi.
Tôi cóng người. Nín thở, tôi có cảm tưởng trở lại của đứa bé tuổi mười hai, nhỏ xíu, câm nín vô vàn cùng nỗi sợ hãi. Gió lạnh. Rồi như tôi không thấy Margaret đâu. Chỉ thấy bãi cát, nhân viên cấp cứu bước đi, tay xách cái túi không mấy nặng, bộ mặt anh ta xám ngoẹt với nhiều nếp răn.
"Margaret, đừng đi đâu cả," tôi nói mà không biết tại sao.
"Nhưng, sao thế?"
"Có gì thế?" Tôi hỏi người đàn ông.
Viên cấp cứu cứ nhìn tôi một hồi, không nói gì. Ông ta để cái túi xám xuống mặt cát, sóng xô vào, vờn cái túi rồi lại rút đi.
"Cái gì thế?" Tôi gặng.
"Con bé chết rồi." Viên cấp cứu nói nhỏ. Tôi đợi.
"Lạ thật," ông ta tiếp. "Rất lạ, tôi chưa từng bao giờ thấy. Con bé chết - đã lâu lắm rồi." Tôi nhắc lại.
"Lâu lắm rồi."
"Dễ đến mười năm, tôi đoán vậy. Năm nay không đứa trẻ nào bị. Mười một năm nay, tất cả mười hai đứa bé chết, nhưng tụi tôi kiếm ra hết, sau vài giờ là cùng. Tìm ra hết, trừ một. Cái xác này không hiểu sao mà dưới nước lâu đến thế, phải đến mười năm. Không - Chả nên xem làm gì."
"Ông cứ mở ra đi," tôi nằn nì mà không hiểu vì sao. Ông ta nắn cái túi. "Tôi cho là, nó là đứa bé gái, vì cổ còn đeo cái dây chuyền có hộp. Ngoài ra có gì đâu mà xem."
"Ông à, mở ra đi!"
"Nhìn làm gì," ông ta trả lời. Rồi chắc tại nhìn thấy mặt tôi lộ vẻ nào đó, "Con bệ. bé lắm," ông ta mở hé cái túi. Thế là đủ.
Bãi cát hoang vắng. Chỉ có bầu trời, gió, nước cùng nỗi cô quạnh của mùa thu.
Tôi cúi xuống. Rồi cứ lắp bắp câu gì đó. Viên cấp cứu nhìn tôi.
"Ông vớt được ở đâu?"
"Phía kia. Chỗ nước nông đằng kia. Con bé. lâu lắm rồi, nhỉ."
Tôi gật gật. "Phải rồi. Trời ơi. Phải rồi." Tôi nghĩ miên man. Tôi đã lớn. Ai cũng lớn lên. Chỉ cô bé thì không. Vẫn bé tí, và tôi yêu con bé tí ấy. Mãi mãi. Trời ạ.
Viên cấp cứu buộc cái túi lại.
Lát sau, tôi đi xuống hồ nước một mình. Tôi tìm lại được một điều không ngờ. ễ nơi người ta vớt được cô bé.
Chỗ mé nước, có một tòa lâu đài cát mới đắp một nửa. Y như cái cách tôi với Tally vẫn cùng chơi.
Cô bé - một nửa. Tôi - một nửa.
Tôi nhìn chòng chọc. Ðây là nơi người ta tìm ra Tally. Tôi quỳ xuống cái lâu đài cát, thấy những dấu chân từ hồ nước bước đến chỗ lâu đài cát, rồi những dấu chân quay trở về hồ nước, mà không thấy dấu quay lại lên bờ.
Rồi - tôi hiểu.
"Anh cùng làm lâu đài cát với cô bé đây," tôi thầm thì.
Bốc cát, tôi tiếp tục đắp phần dở dang chừa lại cho tôi, chậm rãi. Khi xong, tôi quay mình đứng dậy, bước đi khỏi nơi ấy, để không phải nhìn thấy cái lâu đài cát mà tụi tôi vừa cùng nhau làm xong bị sóng xô mất. Bởi sóng cứ xóa nhòa mọi vật.
Tôi trở về chỗ có một người lạ, bỡ ngỡ chờ đợi, mang tên Margaret đang mỉm cười...
Vũ Huy Quang chuyển dịch