vhnt, số 185
13 May 1996
Trong số này:
thư vhnt..................................................................PCL
T h ơ :
1 - Thân từ bụi đá mênh mông .................................L.T.Pham
2 - Dâng Mẹ ...........................................Nguyễn Ðức Mậu
3 - Xergei Exenhin: Gửi Mẹ ............................Ðinh Nho Hào dịch
4 - Vọng nguyệt ....................................................Y Khanh
5 - Trầm nguồn huyền thoại ...................Nguyễn Phước Nguyên
D i ễ n Ð à n V ă n H ọ c :
6 - Sử liệu: tông tích họ Lý (p1/2)....Hương Giang Thái Văn Kiểm
T r u y ện N g ắn / S án g T ác :
7 - Như khói lam buồn (phần 2/2) .............................Hồng Lan
Chúc bạn một sáng thứ hai êm dịu, có tiếng chim ríu rít gọi ngày, bình minh rực rỡ mở vầng đông và cảm giác nhẹ nhàng thanh tịnh như làn sương sớm.
Chúc thêm những phút thoải mái thưởng thức các sáng tác của bạn văn gửi đến chia sẻ cùng vhnt.
thân ái,
PCL/vhnt
thân từ bụi đá mênh mông
sông sâu ném hạt bồ đề
hóa sen dạt sóng nẻo mê lộ hình
sang sông từ độ chúng sinh
xem kinh vô tự thấy tình vô ngôn *
trăm năm,
cõi mộng,
mất còn
ghé chơi,
để tiếng thơ son cho đời
mùa xuân gánh cỏ lên đồi
bện căn chòi nhỏ giữa trời hát rong
áo rơm,
gậy trúc,
thong dong
câu thơ,
bầu rượu,
hư không cợt đùa
say trăng,
theo tiếng gọi mùa
luân hồi mấy bận,
chưa vừa giấc mê
vô minh trong cõi đi về
chẳng qua một sợi khói chiều về tây
tìm chim,
lội tám tầng mây
chiều ra đón phật,
xá cây bách già
đêm về niệm khúc di đà
xem đời vọng ngã,
chẳng ngoài sắc không
thân từ bụi đá mênh mông...
tượng hình,
đi dạo,
một vòng tử sinh.
L.T. Pham
5/96
* 4 câu trong bài thơ tôi đã viết từ lâu.
Dâng Mẹ
Xin gió bấc đừng rối bời tóc bạc.
Mưa đừng rơi ướt vạt áo mẹ già
Xin mùa xuân dài thêm, mùa đông ngắn lại
Mẹ tám mươi rồi, con vẫn còn xa...
Nguyễn Ðức Mậu
Gửi Mẹ
Mẹ già ơi, biết có còn không?
Con vẫn sống gửi lời chào tạ mẹ
Mái nhà cũ, ôi mái nhà nhỏ bé
Ánh chiều tuôn như suối nhạc không lời
Có phải không, mẹ ơi, như người ta bảo
Mẹ vẫn buồn lo khổ mãi về con
Có phải mẹ vẫn ra đường mọi buổi
Choàng trên vai chiếc áo cũ bông sờn?
Có phải mẹ trong bóng chiều chập choạng
Trong áo xanh lơ trông ngóng bồn chồn
Tưởng ai đó trong cơn say quán rượu
Cắm mũi dao vào tận trái tim con?
Con van mẹ, mẹ đừng lo, mẹ nhé
Cơn mơ đè nặng trĩu sẽ đi qua
Con chẳng phải hạng người điêu đứng thế
Phải chết khi chưa gặp mẹ dãi dề.
Con vẫn thế như xưa mềm yếu lắm
Chỉ một điều mơ ước không nguôi
Là mau thoát cơn đau buồn dằng dặc
Về bình yên dưới mái nhỏ yêu đời
Con sẽ về khi cành tơ bén lá
Mảng vườn quê lại trắng xóa màu xuân
Nhưng mẹ đừng như tám năm xưa mẹ nhé
Cứ bình minh lại đánh thức nửa chừng
Ðừng đánh thức mẹ ơi, cơn mơ đã tắt
Ðừng khơi những nôn nao đã lạnh ngắt rồi
Từ sớm lắm, nỗi chán chường mất mát
Ðã buộc đời con thử thách khôn nguôi
Cũng chớ dạy con nguyện cầu, mẹ ạ
Ích chi đâu, dĩ vãng khép lâu rồi
hỉ có mẹ là niềm vui và cứu giúp
Chỉ mẹ là ánh hào quang chói lọi không lời
Thôi hãy quên đi nỗi buồn lo mẹ nhé
Và cũng đừng đau khổ mãi về con
Ðừng buổi mai lại ra đường lắm thế
Choàng trên vai chiếc áo cũ bông sờn.
Xergei Exenhin
1924
Vọng Nguyệt
Trăng tuổi Xuân thì, Trăng thắm tươi,
Ðắm Trăng, liễu rũ lả lơi người,
Mây Thu âu yếm hôn làn tóc,
Gió thoảng quyện đưa tiếng Trăng cườị
Mở rộng vườn thơ, tôi đón Trăng,
Cùng Nàng tôi dạo khắp Cung Hằng,
Vần thơ tôi đếm: ngàn sao lẻ
Lẻ nhịp tình tôi, Trăng biết chăng?
Pha ấm rượu nồng, pha chút say,
Mời nàng Tiên nữ ghé qua đây,
Duyên cười, nét tú, thanh như ngọc
Chửa uống đà say men ngất ngây...
Dệt gió thêu hoa kết lời ca,
Dây chùng hôn phím bật cung ngà,
Thẹn thùng, bẽn lẽn, Trăng cúi mặt
Ửng hồng đôi má, nét kiêu sa.
Trăng sáng ngoan hiền bỗng vỡ đôi,
Nửa về bên ấy; nửa theo tôi,
Giật mình tỉnh giấc gà gọi sáng,
Còn đó bên mành, mảnh Trăng côi!
Ykhanh
trầm nguồn huyền thoại
chiều hong giòng đời tất tả
hạnh phúc quyện màu da tay
thoáng hương trầm nguồn huyền thoại
ươm trời tóc xõa mây bay
chân trần huyên thuyên phố vắng
tháng ngày con gái chắt chiu
mùa ly hương sầu kết nu.
ngục tù trổ nhánh tịch liêu
phấn son chở chuyên kỷ niệm
mặt trời ngủ liệm trên môi
trần gian nôi trời nở rộng
ngát hồn sông núi lên ngôi
mai đây một chiều tóc điểm
bạc mùa nắng nhạt màu vôi
bật hôn lên ngày con gái
buông chùng cung điệu vàng rơi
quê hương chung giòng máu quyện
lên màu da, vẫn đẹp thôi
nguyễn phước nguyên
Tông Tích Họ Lý
( Phần 1/2)
Gần đây báo chí quốc nội và hải-ngoại nhiều lần loan tin con cháu họ Lý ở Ðại Hàn, hậu duệ nhà Lý thời Ðại Việt (1010-1225) đã tìm về Việt Nam với đầy đủ gia phả và nghi lễ của một cuộc hành hương bái yết tiên tổ tại ngôi đền thờ họ Lý thuộc làng Ðình Bảng, tỉnh Bắc Ninh; cũng là nơi có lăng mộ nhà Lý.
Gốc tích nhà Lý
Sử ta chép rằng vị khai canh nhà Lý tên Lý Công Uẩn, quê quán làng Cổ Pháp, huyện Ðông Ngạn, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, nay là Hà Bắc. Xưa kia, vùng này là thủ phủ miền Bắc thời Bắc thuộc (111 trước Tây lịch - 939 sau Tây lịch) đồng thời cũng là trung tâm văn hoá và Phật giáo.
Tục truyền rằng Công Uẩn không có cha, mẹ là Phạm Thị đi chơi chùa Tiêu Sơn, nằm mộng giao du với thần nhân, về có thai, sinh ra Công Uẩn. Bà mẹ chờ con được ba tuổi thì mang lên chùa Cổ Pháp, nhờ sư Lý Khánh Vân nuôi dưỡng. Lúc đó sư mới đặt tên và cho họ là Lý Công Uẩn.
Công Uẩn được sư Khánh Vân, cha nuôi, hết lòng dạy dỗ, văn ôn võ luyện, trở thành một thanh niên anh tuấn. Ông xin phép dưỡng phụ vào Hoa Lư làm quan nhà Tiền Lê, lên đến chức Tả thân vệ Ðiện tiền Chỉ huy s Khi Lê Long Ðĩnh, một hôn quân hoang dâm tàn ác băng hà, lúc ấy Lý Công Uẩn đã ngoài 35 tuổi. Trong triều, tướng Ðào Cam Mộc hợp với Thiền sư Vạn Hạnh (họ Nguyễn) tôn Lý Công Uẩn lên làm vua, hiệu Lý Thái Tổ (1010-1028).
Chính Thiền sư Vạn Hạnh đã khuyến dụ Lý Thái Tổ dời đô Hoa Lư về La Thành (thành Ðại La), là nơi khang trang và địa lý tốt đẹp hơn. Tháng 7 năm 1010 thì khởi sự dời đô. Lúc gần đến La thành thì vua thấy rồng vàng xuất hiện, từ sông hồ bay lên cao, bèn đổi tên là Thăng Long. Tháng 6 năm Mậu Ngọ (1018), vua sai hai quan Nguyễn Ðạo Thành và Phạm Hạc sang Trung quốc thỉnh kinh Tam Tạng (Phật, Pháp, Tăng) đem về nước Ðại Việt, tàng trữ nơi kho Ðại Hưng.
Nhà Lý trong văn chương truyền khẩu
Dưới đời nhà Lý, dân gian truyền tụng nhiều câu ca dao liên hệ đến các triều đại Ðinh, Lê, Lý, Trần... kế tiếp nhau trị vì đất nước. Chúng ta thử tìm hiểu ý nghĩa ẩn dụ trong các câu ấy:
Con ai đem bỏ chùa này?
Nam mô di Phật, con thầy thầy nuôi.
Câu này nhắc lại việc bà Phạm Thị viếng cảnh chùa Tây Sơn, nằm mộng thấy đi lại với thần nhân có thai, sinh ra Công Uẩn, đem cho sư Lý Khánh Vân nuôi dưỡng và được sư Vạn Hạnh đưa lên ngôi vua.
Tục truyền lúc Lý Công Uẩn còn là Ðiện tiền Chỉ huy sứ dưới triều Lê Long Ðĩnh, một luồng sét đánh tét cây gạo (mộc miên), trong ruột thấy có bài sấm:
Thụ căn yểu yểu
Mộc biểu thanh thanh
Hoà đao mộc lạc
Thập bát tử thành.
Ðông A nhập địa
Dị mộc tái sinh
Chấn cung xuất nhật
Ðoài cung ẩn tinh.
Lục thất niên gian
Thiên hạ thái bình.
Bài sấm gồm 10 câu: 2 câu đầu nhập đề, 8 câu còn lại ám chỉ bảy họ đã, đang, hoặc sắp làm vua trong tương lai. Dùng phép chiết tự giải đoán, chúng ta sẽ thấy bảy họ là: Lý, Lê, Trần, Hậu Lê, Mạc, Nguyễn Tây Sơn, Nguyễn Thanh Hoá (Gia Miếu Ngoại Trang).
Cụ Tiểu Cao Nguyễn Văn Mại đã giải mã toàn bộ 8 câu sấm ấy như sau:
Nhà Lê: chiết tự chữ hoà cộng với chữ đao, cộng thêm chữ mộc thành ra chữ lê. Câu 3 có nghĩa nhà Lê rụng mất (mộc lạc là cây ngã).
Nhà Lý: chiết tự chữ thập cộng chữ bát, chữ tử hợp lại thành chữ lý. Câu 4 có nghĩa nhà Lý thành thiên tử.
Nhà Trần: chiết tự chữ đông, chữ a hợp lại thành chữ trần (Ðông A) vào đất (xông đất) làm vua.
Các cây khác lại mọc lên (dị mộc tái sinh) ám chỉ nhà Hậu Lê lên làm vua.
Câu 7: Cung chấn (phương đông thuộc mộc là cỏ cây, tức chữ mãng) mọc mặt trời (chữ nhật), nói nhà Mạc nổi lên.
Câu 8: Cung đoài là phương tây, ngôi sao ẩn từ phía núi Tây, Tây Sơn, sẽ mọc lên.
Câu 9: Trong khoảng sáu bảy năm, nếu cộng lại là 13 hoặc 14 năm, sẽ có nhà Nguyễn (chữ lục và chữ thất hợp lại, thành giống như chữ Nguyễn) thì thiên hạ thái bình.
Ngoài ra, theo thiển ý, thời gian trị vì của Tây Sơn, 14 năm (1788-1802) phù hợp với câu sấm:
Ðầu cha mà ghép thân con
Mười bốn năm tròn, hết số thời thôi!
Chiết tự câu trên, ta biết thêm: hai đời vua Quang Trung và Cảnh Thịnh, với hai chữ Quang và Cảnh, đều có chữ Tiểu, một chữ nằm trên đầu, một chữ nằm phía dưới, đầu đuôi ngắn ngủi, chỉ có thế thôi!
Truyền thuyết còn kể, Lê Ngọa Triều một hôm nằm mộng thấy ăn quả mận mà ruột lại là hột quả lý, biết rằng điềm báo họ Lý sẽ lên ngôi vua nên ra lệnh tàn sát những người mang họ này. Công Uẩn thoát chết là nhờ chứng minh được ông không phải là con ruột sư Lý Khánh Vân, họ Lý chỉ là họ cha nuôi. Xin mở một dấu ngoặc ở đây. Trái lý hình tròn, hột rời, cùi mỏng, rất thơm, trông từa tựa quả doi của miền Bắc hay trái mận của miền Trung, miền Nam. Xin đóng dấu ngoặc lại.
Lại còn một câu ca dao khác:
Tiếc thay cây quế Châu Thường
Ðể cho thằng Mán thằng Mường nó leo
mà lâu nay ta vẫn tưởng để chỉ trường hợp Công chúa Huyền Trân bị vua anh là Trần Anh Tông bán gả cho vua Chiêm Thành là Chế Mân; thực ra, theo thi sĩ Cao Tiêu, câu này ám chỉ việc các vua nhà Lý đã gả bán nhiều công chúa cho các tù trưởng thiểu số để mua chuộc họ gìn giữ biên cương.
Sự nghiệp nhà Lý
Nhà Lý phát xuất từ chốn thiền môn, được sự giúp đỡ của hai thiền sư danh tiếng là Lý Khánh Vân và Vạn Hạnh nên dưới triều Lý, đạo Phật chiếm ngôi vị độc tôn và phát triển tột bực. Hơn hai trăm năm (1010-1225), nhà Lý đã xây dựng được một sự nghiệp thật lớn lao và hiển hách mà những chứng tích chính yếu còn ghi lại như sau:
Việc dời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) về Thăng Long: Quyết định dời đô về thành Ðại La thuộc trung châu Bắc Việt, nơi có một vị thế chiến lược, nắm vững sông Hồng là huyết mạch của toàn quốc; vị khai sáng triều Lý đã quyết tâm xoay chuyển thể chế, từ những bộ lạc lớn nhỏ kết hợp lại sau thời gian dài chịu sự đô hộ của Trung Hoa, thành một quốc gia độc lập vững vàng, được tổ chức hẳn hoi và trang bị với nhiều cơ chế chính trị, văn hoá, xã hội, kinh tế và quân sự.
Việc dời đô này để lại cho hậu thế một tài liệu quí báu khởi đầu nền văn học Việt Nam, đó là bản Thiên đô chiếu (chiếu dời đô) do vua Lý Thái Tổ biên soạn và công bố ít lâu sau khi lên ngôi năm 1010. Thiên đô chiếu viết bằng Hán tự, dưới đây là bản dịch Việt ngữ (trích trong Hoàng Việt văn tuyển của Bùi Huy Bích):
"Xưa nhà Thương đến vua Bàn Canh năm lần dời đô, nhà Chu đến vua Thành Vương ba lần dời đô. Há có phải các vua thời Tam Ðại, theo ý riêng mình tự càn bậy dời đổi hay sao? Ấy chỉ vì muốn đóng nơi trung tâm, mưu toan nghiệp lớn, tính kế lâu dài cho con cháu về sau.
"Do đó trên vâng mệnh trời, dưới theo ý dân, thấy tiện lợi thì đổi dời, cho nên vận nước dài lâu, phong tục giàu thịnh. Thế mà hai nhà Ðinh Lê, theo ý riêng của mình, quên có mệnh trời, không noi theo dấu cũ Thương Chu, cứ đóng yên đô ấp ở đây, khiến cho triều đại không bền, vận số ngắn ngủi, trăm họ thêm hao tốn, muôn vật không thích nghi. Trẫm rất đau xót về việc đó, không thể không dời đô.
"Huống chi Ðại La là đô cũ của Cao Vương, ở chính giữa bờ cõi đất nước, được cái thế rồng cuộn hổ ngồi, vị trí thích nghi với bốn phương đông tây nam bắc, tiện cho chiều hướng thuận nghịch của núi sông. Ở đó địa thế vừa rộng vừa phẳng, vùng đất vừa cao vừa sáng, dân cư không lo nạn lụt lội, đắm đuối, muôn vật cũng rất phong phú tốt tươi. Ngắm nước Việt ta, duy đó là thắng địa, thật là nơi then chốt của bốn phương hội lại, và cũng là nơi đô thành bậc nhất của đế vương muôn đời.
"Trẫm muốn nhân cái địa lợi ấy để ổn định chỗ ở, các người cho là thế nào?"
Ðến đời Phật Mã Lý Thái Tông (1028-1054) có loạn Nùng Trí Cao ở Thái Nguyên, nổi lên xưng vương, đặt quốc hiệu là Ðại Nam, bị dẹp tan. Lại có việc vua Chiêm Thành đã 15 năm không chịu triều cống, thông sứ; vua Thái Tông bèn cử đại binh bình Chiêm, tiến tới thủ đô Phật Thệ ở Bình Ðịnh. Có thể nói đó là bước đầu Nam tiến của dân Lạc Việt.
Ðến đời Lý Thánh Tông (1054-1072) có sự khai hoá văn học, lập Văn Miếu, đúc tượng Chu Công, Khổng Tử và 72 tiền hiền để thờ, đặt quốc hiệu là Ðại Việt. Xưa kia, nước ta được gọi là Giao Chỉ quận, rồi Giao Châu. Ðến đời nhà Ðường, họ đặt tên là An Nam Ðô hộ phủ. Nhà Ðinh đổi thành Ðại Cồ Việt. Quốc hiệu Ðại Việt tồn tại suốt sáu thế kỷ, qua các triều Trần, Lê; ngoại trừ một thời gian ngắn lúc cha con Hồ Quí Ly, Hồ Hán Thương (1400-1407) soán ngôi, đổi tên là Ðại Ngu vì tự xem là hậu duệ của nhà Ngu (Thuấn) bên Tàu.
Về kiến trúc, chùa Diên Hựu (chùa Một Cột) ở thôn Thanh Bảo, huyện Quảng Ðức, phía tây Thăng Long nay thuộc quận Ba Ðình, Hà Nội là một danh lam vô song, xây cất năm 1049. Tương truyền vua Lý Thánh Tông nằm chiêm bao thấy Phật Quan Âm ngồi trên toà sen, đưa tay dắt vua lên toấ Tỉnh dậy, vua kể lại việc ấy với bề tôi. Sư Thiền Tuệ khuyên vua nên xây một ngôi chùa, dựng một cột đá lớn giữa hồ sen, làm toà sen trên cột trụ như vua đã thấy trong mộng. Vua cho kén thợ giỏi xây chùa theo kiểu một đoá sen lớn từ hồ sen vươn cao trên trời xanh. Trong chùa thờ Phật vàng sáng chói, hương khói quanh năm. Ngày khánh thành, các sư đi vòng quanh chúc thọ nhà vua. Vì lẽ đó mà vua đặt tên chùa là Diên Hựu Tự, có nghĩa là chùa kéo dài tuổi thọ.
Ðến năm 1080, vua Nhân Tông cho đúc chuông lớn. Vì quá lớn và quá nặng, không thể kéo lên treo được, chuông đành để nguyên tại thửa ruộng cạnh chùa. Sau đó, sức nặng của chuông và mưa làm đất ướt khiến chuông lún dần xuống, rùa quanh vùng kéo đến tụ tập sinh sống bên trong, cứ sớm trưa chiều tối thì lại bò ra nghe kinh. Từ đó người ta gọi nơi này là Ruộng Rùa (Qui điền) và gọi chuông này là Chuông Ruộng Rùa (Qui điền chung). Mãi cho tới năm 1407, quân Minh bị vây nơi thành Ðông Quan, Vương Thông ra lệnh tìm kiếm đồ đồng để có nguyên liệu đúc vũ khí, quân Minh mới hè nhau xeo nạy chuông ra khỏi ruộng, hợp với các đồ đồng cướp giật được, đem nấu chảy ra để dùng. Trong số đồ đồng bị nấu chảy còn có An Nam tứ khí: Tháp Báo Thiên (Thăng Long), tượng Phật chùa Quỳnh Lâm (Ðông Triều), chuông chùa Phả Lại (Chúc Thánh) và vạc chùa Phổ Minh (Nam Ðịnh).
Ðầu năm 1951, người viết bài này đã có dịp du lãm Thăng Long, được thấy tận mắt những thắng cảnh và cổ tích Hà Thành và các vùng lân cận như thành Cổ Loa, Văn Miếu và chùa Một Cột, lòng bùi ngùi xúc cảm.
Năm 1075, nhà Lý mở khoa Tam Trường để lấy người tài giỏi làm quan. Năm 1076 lập Quốc Tử Giám. Năm 1086, mở khoa thi chọn người vào Hàn Lâm Viện. Mạc Hiển Tích đỗ đầu, được bổ làm Hàn Lâm học sĩ.
Về quân sự, triều Lý có danh tướng Lý Thường Kiệt bắc đánh Tống, nam bình Chiêm, đồng thời cũng là tác giả bài thơ ngắn phấn khích tinh thần tướng sĩ, một văn kiện quan trọng trong lịch sử và văn học Việt Nam:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhất đẳng hành khan thủ bại hư.
Ðến đời Lý Anh Tông (1138-1175), trong hai năm 1171, 1172 nước nhà yên ổn, nhà vua bèn thân chinh du lãm đó đây, xem núi sông hiểm trở, đường sá xa gần và việc sinh hoạt của dân gian, đồng thời sai tùy tùng ghi chép, họa đồ, đem về triều trước tác thành quyển Ðịa đồ nước Ðại Việt. Ðây là quyển địa lý nhân văn đầu tiên của nước ta.
Ðời Lý Cao Tông (1176-1210), Ðại thần Tô Hiến Thành làm phụ chính nên mọi việc đều ổn thỏa. Nhưng khi ông mất (1179) thì việc nước rối ren, quần thần chia rẽ, vua thì ham chơi, tiêu xài, ưa ngao du săn bắn, xây thêm cung điện, làm phiền lụy nhân dân quá mức. Năm 1208 có loạn ở Nghệ An tràn đến Thăng Long, vua phải chạy về ẩn náu ở Tam Nông (Phú Thọ). Thái tử Sảm chạy về Hải Ấp, ngụ ở nhà Trần Lý làm nghề đánh cá, giàu có, người làng Tức Mặc, huyện Mỹ Lộc, phủ Xuân Trường, Nam Ðịnh. Con gái Trần Lý có nhan sắc, được Thái tử Sảm lấy làm vợ. Thái tử bèn phong Trần Lý tước Minh Tự và phong cho người cậu Trần thị là Tô Trung Từ làm Ðiện tiền Chỉ huy sứ.
Năm 1210, Lý Cao Tông mất. Thái tử Sảm lên ngôi tức Lý Huệ Tông, rước Trần thị về phong làm nguyên phi. Từ đó, gia tộc họ Trần kéo nhau vào cung càng lúc càng đông, chiếm hầu hết những địa vị then chốt. Dù bệnh hoạn liên miên, thỉnh thoảng lại nổi cơn điên, Huệ Tông vẫn ở ngôi 14 năm, đến năm 1225 thì truyền cho Chiêu Thánh công chúa rồi vào chùa Chân Giáo núp bóng từ bi.
Từ đó mọi việc trong triều ngoài quận đều do tay Trần Thủ Ðộ điều khiển. Ông ta đưa thân quyến vào nội phủ để phục dịch, đặc biệt là Trần Cảnh (cháu gọi bằng bác) mới 8 tuổi, vào làm Chính thủ, chực hầu cận Lý Chiêu Hoàng lúc ấy mới lên 7 tuổi.
Theo Ðại Việt sử ký toàn thư, tháng 12, ngày 11 Mậu Dần, Chiêu Hoàng mở hội lớn ở điện Thiên An, ngự trên sập báu. Các quan mặc triều phục vào chầu, lạy ở dưới sân. Chiêu Hoàng bèn trút bỏ áo ngự, mời Trần Cảnh lên ngôi hoàng đế, đổi niên hiệu là Kiến Trung năm thứ I, xưng là Thiện Hoàng, sau đổi là Văn Hoàng, phong Trần Thủ Ðộ làm Quốc Thượng Phụ, nắm giữ việc cai trị trong nước.
Sử gia Ngô Sĩ Liên giải thích thêm: Tục truyền rằng Lý Thái Tổ (Công Uẩn), hơn hai trăm năm về trước, khi mới được thiên hạ, xe vua về làng Cổ Pháp (Bắc Ninh) ngự chơi chùa Hương Phù Ðổng, có thần nhân đề thơ ở cột chùa rằng:
Nhất bát công đức thủy
Tùy duyên hoá thế gian
Quang quang trùng chiếu chúc
Mộ ảnh nhật đăng san.
Nghĩa là: một bát nước công đức (của Phật), theo duyên sinh hoá ở thế gian. Sáng rực hai lần đuốc rọi, mặt trời gác núi là hết bóng.
Sư Vạn Hạnh đem dâng bài thơ lên Lý Thái Tổ. Vua xem xong, nói: "Việc của thần nhân thì không ai hiểu được". Người đời truyền tụng, không ai hiểu cả. Ðến khi nhà Lý mất, mới cho bài thơ ấy là hiệu nghiệm. Vì từ đời Huệ Tông trở lên đến Thái Tổ là đúng tám đời (bát là tám, đồng âm với tắm nước). Còn hai chữ nhật và san, ghép thành chữ sảm, tên vua Huệ Tông, có nghĩa là mặt trời lặn sau núi, mặt trời gác núi, chấm dứt nhà Lý, trước và sau đều do mệnh trời cả!
(Còn tiếp)
Hương Giang Thái Văn Kiểm
Trích Làng Văn số tháng 3/1996
Như Khói Lam Buồn
(phần 2/2)
Gần bên mái hiên Tây, nội trồng nhiều bưởi Thanh Trà (có hình dáng giống như bưởi Biên Hòa), vú sữa tím và vú sữa trắng (vào thập niên 40-50, ở vùng An Hóa chưa trồng vú sữa hột gà). Phía sau nhà nội trồng vài cây xoài voi, một vạt trầu vàng, cùng mấy cây cau hòn ruột trắng tươi cho ông bà cố. Xoài voi trái nhỏ, chỉ lớn bằng bàn tay nắm, nhưng khi chín thì rất thơm lại có vị ngọt gắt. Nội còn có mấy gốc quít đường, quít ta và cam sành trồng dọc theo mé hè gần bên nhà tắm. Quít đường có trái rất say, nặng trĩu đầy cành, nội phải dùng nạn chống đỡ lên không thôi sẽ bị gãy nhánh. Khi chưa chín ăn một múi chua tè luôn, nhưng lúc chín nó vàng sậm ăn ngọt hơn đường phèn. Thêm nữa là mít, nội có hai cây mít ướt, và bốn cây mít nghệ. Tuy nhiên, tôi thích nhứt có cây mít nghệ thiệt đặc biệt là đến lúc có trái lại hay cho trái âm ở dưới đất. Cây mít này được trồng gần mương lạng cho nên đất xung quanh ẩm và mềm. Có lẽ vì vậy mà trái mít có thể nẩy nở dưới lòng đất? Tôi đoán như thế! Nó có trái rất ít, nhưng trái nào đáng trái nấy. Múi to, cơm đầy mật ngọt.
Khi có đám tiệc hoặc giỗ quãi trong nhà, hai cô và má tôi hay bày ra món mít chưng để thay đổi hương vị. Món này ăn ít ngán, mà lại lạ mắt. Cách làm cũng không có gì khó, tuy cầu kỳ, lắt xắt một chút. Muốn cho đẹp múi mít thì nên dùng mũi dao nhọn rọc một lằn nhỏ bên hông, lấy hột mít ra phải còn dính cái bọc bao bên ngoài. Xong đem hột mít đi nấu cho chín, rồi quết cho thật nhuyễn, trộn với chút xíu đường, muối, một tí dầu dừa hay mỡ heo, hành lá xắt nhỏ, rồi lấy muỗng cà phê mút từng muỗng nhét vô múi mít trở lại, làm cho nó no tròn như cũ. Sau cùng, sắp vô tô lớn và đem đi chưng.
Vào mùa hè mấy chị em tôi rủ nhau đi ra vườn hái rau má, lá sâm. Rau má đem vô rửa sạch bỏ vào cối đá đâm nhỏ ra vắt nước, để thêm nước dừa xiêm hoặc dừa Tam Quan (có vỏ màu vàng). Còn lá sâm cũng vậy, nhưng thay vì đâm thì lại lấy tay vò với nước mưa. Chất nước xanh dợt có nổi bọt nhâm nhâm trên mặt, hơi sền sệt. Ðem đi phơi nắng chừng hai ba tiếng đồng hồ, nước lá sâm sẽ đặc lại giống như một loại xương sa, xương sáo ăn với đường thốt nốt thắng chảy ra rất ngon và có công dụng giải nhiệt. Cũng chính vì mục đích giải nhiệt đó mà những lúc trời thật oi ả, má tôi thường đi lên giồng hái rau đắng đất về để nấu nước cho mấy chị em tôi tắm đặng bớt bị nổi sải.
Ở phía trước nhà nội tôi trồng bông, trồng kiểng đủ các thứ cho vui mắt. Dọc theo bờ ao và bờ đìa cạnh lối đi vào nhà, nội trồng dừa xiêm lùn, cây thật thấp đã cho trái, đứa nhỏ chừng ba, bốn tuổi cũng vói tay hái được. Sát hiên nhà có mấy cây sa-bu-chê tàn cao rậm mát che kín một phía góc của hàng dâm bụt bên hông nhà. Mấy lúc rỗi rảnh chị Phượng Vân, chị Hồng Hoa và tôi thường hay cất nhà chòi dưới gốc cây sa-bu-chê đó! Trong lúc chơi nhà chòi, chị Phượng Vân còn hay chiều theo ý tôi đi vớt mấy bụi lục bình ở con rạch trước nhà về làm bánh mì bì. Bì được làm bằng vỏ bưởi, nhét vào bẹ lục bình đã bị moi ruột trống bọc. Món này làm chơi không ăn được . Món ăn được chính ra là món gỏi bưởi. Múi bưởi thiệt tách ra từng mảnh nhỏ bời rời, trộn chung với dừa cứng cạy nạo ra và xắt thật nhuyễn, rắc trên mặt một lớp rau thơm với ớt tươi xắt nhỏ là xong. Làm thêm một chén nước mắm tỏi ớt rồi chan lên ăn thì nhứt hạng.
Tôi mến chị Phượng Vân vì hình như lúc nào chị cũng gần gũi và quan tâm đến tôi. Lúc đi học, lên xuống đò ngang chị luôn luôn dẫn dắt tôi để khỏi bị trợt té xuống bùn non, lấm quần áo, tập sách. Mặc dù là chị em bà con cô cậu, nhưng tôi nghĩ chị thương tôi như đứa em ruột. Còn bà chị ruột của tôi, chị Hồng Hoa, thì trái lại hay xéo xắt đánh mắng tôi mới kỳ.
Có lần, ba chị em đang chơi nhà chòi thì tôi thấy bóng nội đi vườn vừa về tới đầu ngõ. Tôi theo dõi cho đến khi nội đi qua khỏi hai bụi tre gai gần bên mé đìa thì ùa ra mừng nội:
- Nội dìa... nội dìa...
Hai chị Phượng Vân và Hồng Hoa cũng tuôn chạy theo tôi. Lúc gặp nội chị Hồng Hoa bất cẩn, đang cầm con dao chuối trên tay quăng đại xuống đất. Mũi dao không cắm xuống đất mà cắm phập vào bàn chân trái của tôi. Tôi la oải oải và máu ra lênh láng .
Nội vội vàng chạy tới ẵm tôi lên rồi đem đặt ngồi ở ngạch cửa trước nhà. Ổng hối mấy anh tôi chạy vô nhà lấy thuốc rê ra để đắp lên cầm máu. Thuốc rê không có hiệu quả. Rồi ngay cả chuối chát còn non nhai đắp cũng chẳng ăn thua gì hết. Cuối cùng, nội biểu anh Tư Phúc:
- Con ra ngoài vườn leo lên cây dừa tơ, cạo một mớ phấn trên tàu lá dừa đem vô đây cho nội coi!
Quả nhiên phấn dừa đã ngăn chặn và cầm được giòng máu tươi đó. Tôi khóc sướt mướt một hồi nhưng vì nội dỗ lần hồi cũng đã nín.
Tự nhiên cô Hai tôi lại gọi chị Phượng Vân vô cúi nằm dài trên bộ ván mà đánh cho chị mấy roi. Thật là oan cho chị quá, vì chị nào có lỗi chi. Người có lỗi chính là bà chị ruột Hồng Hoa của tôi, nhưng má lại chẳng rầy rà chỉ một câu. Nội tôi thì không biết chuyện, nhưng không muốn cô tôi buồn vì cháu nội cũng như cháu ngoại nên liền lên tiếng:
- Chuyện dĩ lỡ rồi thì thôi, con còn đánh đập nó làm gì, bâỷ Cho tao xin đi! Ðể nó ngồi dậy xin lỗi má rồi đi rửa mặt cho sạch sẽ đi!
Tôi là người biết chuyện mà sao lúc đó tuổi nhỏ lại làm lơ chẳng thèm thốt lên tiếng nào mới lạ...
Thời gian thấm thoát trôi qua thật nhanh, nội đã xin về hưu nghĩ việc ở xã. Rồi sau đó không bao lâu, nội cứ bịnh cầm rai hoài. Công việc nhà trở nên khó khăn hơn vì ông bà cố đã già yếu, một mình nội không làm sao cai quản hết được, nên nội cần đến sự hiện diện trông nom của ba. Cũng như nội, ông bà cố bắt ba phải xin nghỉ việc lập tức. Ba đành vâng lời, dứt khoát bỏ đời công chức, một lần nữa khăn gói trở về sống với thôn xưa. Cũng như tiệc vui nào rồi cũng phải tàn và niềm vui nào rồi cũng phải vơi đi. Hợp rồi tan, tan rồi hợp, đây có phải là số kiếp của con người, tạo hóa đã bày ra cái cảnh trớ trêu?
Năm đó là năm 54, năm đình chiến. Dượng Hai tôi không đi tập kết, nhưng độ một năm sau mới trở về với cha mẹ vợ con. Cô dượng bắt đầu ra riêng, cất nhà riêng ở tại xã Giao Long. Tôi còn nhớ ngày chia tay với gia đình cô dượng thật là buồn vô hạn. Ông bà cố, ông nội cùng tất cả mọi người trong gia đình đều rưng rưng nước mắt. Bao năm tháng cô đã chung sống với gia đình bên ngoại thật đầm ấm, vui vẻ, nhộn nhịp. Bỗng dưng vắng bóng một vài người thân tôi cảm thấy bồi hồi, xao xuyến.
Tuy gia đình của hai cô dượng vui vầy sum hiệp, nhưng chị Phượng Vân, con cô Hai ở Giao Long, và anh Tư Phúc, con cô Ba ở Sài Gòn, có lẽ vẫn còn lưu luyến quê xưa cảnh cũ nên không chịu đi, mà ở lại với nội cho đến cuối niên học lớp nhứt mới về sau. Niên học qua quá mau và lại một lần nữa chia tay. Ðêm cuối cùng trước ngày giã từ, tôi không làm sao quên được. Vì bốn anh chị em tôi giăng mùng cùng ngủ chung ở dưới bộ ván cây tạp của căn nhà bếp. Bên ngoài hiên, ánh trăng chiếu sáng vằng vặc và gió đêm trong lành man mác thổi khắp mọi nơi. Xuyên qua chòm lá, thỉnh thoảng bóng trăng lay động mờ tỏ, len lén rọi vào chiếc mùng trắng lung linh. Vách nhà bếp đóng thẳng đứng song song, tôi có thể nhìn thấy mọi vật bên ngoài chuyển động dưới ánh trăng. Tiếng côn trùng hòa lẫn tiếng vạc ăn đêm nghe thật não nùng, ai oán. Mấy anh chị em nằm ngang, trở đầu vô mé vách, anh Tư Phúc, chị Phượng Vân, rồi đến chị Hồng Hoa giành nằm kế, bắt tôi phải nằm ngoài bìa bên trái. Tôi không chịu, khóc thút thít một hồi rồi mới lên tiếng:
- Em không chịu đâu! Chị qua bên kia nằm kế anh Tư Phúc đi, không thôi em mét nội bây giờ .
Chị Hồng Hoa cũng lì, nhất định không đổi chỗ qua bên kia với anh Tư Phúc. Chị Phượng Vân với anh Tư Phúc đành phải dỗ ngọt tôi vì sợ nội giựt mình không ngủ được. Anh Tư Phúc liền khuyên giải:
- Nè, em đừng khóc nữa! Cậu mợ Tư mà biết được thì mấy anh em mình phải mỗi người ngủ một nơi. Giỏi đi rồi mai mốt khi nào anh về thăm ngoại, anh sẽ có quà cho em. Thôi qua đây nằm kế anh đi, anh lấy mềm trùm lại khỏi lo sợ gì cả ... có anh đây.
Tôi riu ríu nghe theo người anh cô cậu liền lấy gối mềm qua nằm kế bên. Chị Phượng Vân và anh Tư Phúc rù rì nhắc lại những kỷ niệm vui buồn nơi quê ngoại. Cả hai đều hứa sẽ về thăm chị em tôi vào mùa hè sang năm, và sẽ ở lại chơi cho hết mấy tháng nghỉ hè. Mãi mê nói chuyện cho tới khuya, tôi đã thiếp ngủ hồi nào không hay. Lúc thức dậy, ánh bình minh đã ló dạng, chói chang chiếu xuống mùng những bệch trắng dài xuyên qua song cửa. Tôi quay qua chỉ thấy có mỗi mình chị Hồng Hoa tôi nằm gần đó, lòng buồn khó tả. Tôi vội vàng đi lên nhà trên kiếm nội, rồi hỏi:
- Chị Vân với anh Phúc đi rồi hả nội? Ai đưa hai anh chị đi vậy nội?
- Thì ba con đưa chớ ai! Hai đứa nó lên xe từ hồi sáng sớm lận. Ba con dẫn thằng Phúc ra đón được xe đò Á Ðông của thầy Hài, xe chạy ngang đầu Giồng Quít và thường hay ghé lại bến bắc Cột Dây Thép đó. Như vậy thằng Phúc sẽ về thẳng tới Sài gòn mà khỏi phải sang xe khác. Còn con Vân thì ba con cũng đã đón xe lôi cho nó về Giao Long từ sớm rồi con.
Lòng tôi cảm thấy trống trải buồn tênh, căn nhà của nội bỗng dưng vắng ngắt, lạnh tanh.
Khoảng một năm sau khi ba trở về, má tôi lại có thêm một đứa em gái nữa, đặt tên là Hồng Cúc, nhỏ hơn tôi năm sáu tuổi, năm sáu năm ba tôi ở Sài Gòn. Rồi bây giờ má lại lên nhà bảo sanh An Hóa, phía dưới bến đò ngoài gần Bến Ðáy, để sanh em lần nữa. Nội ở nhà ngóng trông, muốn biết má sanh trai hay gái. Nhưng liền đó có cô Hai tôi về, hối hả đem tin cho nội với ông bà cố mừng. Cô vừa bước vô cửa thì nội hỏi ngay:
- Vợ thằng Lòng sanh con trai hay gái vậy hả Khanh?
- Dạ thưa cậu, mợ tư nó sanh... con gái.
Nội mừng, nhưng vô tình để lộ cái tức cười:
- Sanh chi cái thứ đồ bể đó hoài vậy hà!
Tôi nghĩ nội rất ham có cháu nội trai như để có người nối giòng họ Phan, nhưng xui xẻo cho ông vì anh Hai Tấn của tôi, tức cháu nội đích tôn của ổng, lại bị bịnh rồi mất đi lúc lên năm tuổi. Chính vì thế nên bấy giờ nội rất quan tâm đến cháu trai, nội muốn thấy tận mắt đứa cháu đích tôn khác trước khi ông nhắm mắt. Nhưng số trời đã định, bởi lẽ nội tính sai một chút mà sức khỏe của nội càng ngày càng giảm, và đi đến con đường cùng như sau này. Ba tôi cũng rất hối hận là đã để nội làm theo ý của ổng. Chẳng ai dám nói nội mắc bịnh gì, chỉ biết sau đó không bao lâu, ba chở nội lên trị bịnh ở tận Châu Ðốc do mấy người bạn của nội chỉ giùm. Vắng nội cả tuần qua, lòng tôi nôn nóng không biết nội có bớt bịnh hay không? Thêm một tuần nữa ba đưa nội trở về với một bên quay hàm của nội bị lém đi. Tôi hỏi nội:
- Họ làm gì nội mà bên mặt trái của nội bị méo xẹo vậy hả nội?
- Thì ông thầy người Miên dùng thuốc đốt cục hạch đàm ở dưới cằm nội, cho nên nó mới méo một chút như vậy. Nhưng không sao đâu con, nội sẽ lành bịnh, con đừng lo.
Lời nói trấn an của nội đã làm tôi yên tâm phần nào, nhưng thực sự rất khác xa với điều tôi dự tưởng. Vì bịnh nội lại tái phát và lần này có phần nặng hơn. Nội thường ho liên miên, ho rất nhiều. Tối tối tôi hay đi đào một ánh gừng tươi, gọt vỏ xắt từng lát mỏng, rắc lên một ít muối, đem cho nội ngậm để bớt ho. Hoặc có khi tôi hái lá rau tần dầy lá rửa sạch, cũng rắc chút muối vào để nội ngậm cho thông cổ. Nhưng kể từ dạo đó ba tôi không cho tôi ngủ chung với nội nữa, ba sợ tôi bị lây bịnh. Với lại cần phải để cho nội tịnh dưỡng, ba không muốn tôi nằm choáng chỗ, nửa khuya lăn qua lộn lại, làm mất giấc ngủ của nội.
Vài tháng sau đó ba tôi thấy không xuể bèn đưa nội lên bịnh viện Chợ Rẫy. Ðịnh bịnh xong xuôi, bác sĩ cho ba tôi biết kết quả: "Nội bị ung thư ở quai hàm và bây giờ đã lan xuống ruột. Nếu không mổ thì sẽ chết trong một thời gian rất ngắn. Còn như mổ thì nội có thể sống thêm được một năm hơn ." Ba tôi bàn với hai cô và đồng ý để bác sĩ giải phẫu cho nội, vì thà rằng như vậy nội có thể sống thêm được một ít lâu.
Bắt đầu từ khi nội về nhà dưỡng bịnh, tôi không còn dịp để đến gần nội nữa. Ba tôi cô lập nội ở một phòng riêng của gian nhà thứ ba. Mỗi sáng có người y tá ở chợ An Hóa đến nhà thay băng và chích thuốc cho nội. Nghe ba nói vết thương của nội được bác sĩ may lại rồi ghim kim vàng ở đó, để ngăn ngừa không cho nước vàng chảy ra. Vì thương nội nên có vài lần tôi lén đứng bên vách phía sau nhà đưa mắt nhìn vào trong. Thấy nội nằm mê man trên giường bịnh mà tôi đau từng khúc ruột nhưng chẳng biết phải làm gì hơn. Có một lần nọ nội mở mắt và bắt gặp tôi đang nhìn vô, nội giơ tay vẫy vẫy vì sau khi mổ nội không còn nói rõ tiếng được nữa, nhưng tôi vẫn đứng yên một chỗ mà không dám đến gần nội vì sợ bị rầy la.
Và đúng như lời bác sĩ đã nói, độ hơn một năm sau, vào dịp Tết năm 1957 thì nội tôi lìa đời, vĩnh viễn ra đi. Tôi đau đớn như thấy đời mình đã mất đi một phân nửa linh hồn. Linh cửu nội được quàng tại nhà ba ngày, ba đêm. Hai ban nhạc thay phiên nhau ngày đêm cúng tế, tiếng trống chầu vang dội từng cơn. Thời cuộc lúc đó hãy còn bình yên nên đám tang của nội được diễn ra với đầy đủ nghi lễ cho một người trong ban hương chức hội tề. Ba tôi không chấp điếu và dân chúng khắp làng trong xóm ngoài đều tề tựu đông đủ để chia buồn.
Ðiều làm tôi cảm động nhứt là gần đến lúc động quan, ban hương chức hội tề xếp hai hàng hai bên linh cửu của nội và một người đứng ra giữa để đọc bài văn tế. Những nỗi niềm quí mến, thương yêu mà họ cũng như dân chúng trong làng đã dành cho nội thật là chân thành. Tôi thấy nhiều người đã chan hòa rơi nước mắt vì mất đi một người bạn hiền như nội. Không một ai than phiền, trách cứ vì suốt cả cuộc đời nội đã tận tụy phục vụ từ trong gia đình cho đến ngoài xã hội.
Với riêng tôi, mất nội tôi như mất tất cả niềm vui trong gia đình. Vì tôi hay chạy đi kiếm nội:
- Nội ơi ... nội đâu rồi?
- Nội ở đây nè, trước sân đây chớ đâu!
Ðó là những buổi chiều nội thường hay ra đứng trước sân nhà ngắm nhìn bầu trời cao mênh mông. Có lẽ nội đang có nhiều tâm sự thương đau trong lòng? Hay nội suy đoán thời tiết cho những ngày kế tiếp? Tôi rất vui mừng khi kiếm nội mặc dù ông hay lên tiếng mắng bâng quơ:
- Mẹ tổ cha nó, mới vắng mặt có chút xíu là nội ơi, nội hỡi om sòm vậy hạ Ai mắc nợ gì bây hả?
Nói vậy chớ rồi khi thấy tôi chạy đến gần, nội cũng đưa tay cho tôi nắm. Nội thích dẫn tôi đi quanh nhà để coi vườn tượt, cây trái để có gì sái ý thì nội sẽ chỉ biểu cho người làm vườn, người cháu kêu nội tôi bằng cậu tên Thiền mà tôi kêu lại là chú Ba Thiền, tu sửa vào ngày mai.
Vào mùa gió chướng, gió hay thổi mo dừa, mo cau rụng tả tơi, vắt vẻo trên cành cây vẹt, cây mù u, cây gòn. Chú Ba Thiền có bổn phận phải trèo lên những cây đó để lấy xuống cho nội. Vì nội thích cắt mo dừa để làm dụng cụ xúc lúa, hoặc hốt rác. Còn mo cau thì cái nào lớn vành nội sẽ cắt tròn rồi khoét một lỗ nhỏ trên đầu, xỏ sợi dây lạt dừa vô làm cái khoen để máng lên trên vách. Mo cau xài rất tiện và lâu hư vì tỉ như mỗi khi nạo dừa, nội thường lấy mo cau để đựng xác dừa thay cho cái thau bằng nhôm. Những vật dụng này về sau mỗi lần khi tôi dùng đến tôi đều nhớ công lao của nội làm ra.
Trên đường mai táng nội, thình lình một cơn mưa nặng hột trút xuống. Gió thổi tạt từng cơn. Sấm chớp như gào thét liên hồi. Nhiều người nói nội có phước, đến lúc ra đi trời đất cũng buồn lây. Tôi chẳng biết có đúng không, có điều nhìn những vầng mây xám tôi thấy cả bầu trời sao mà thê lương ảm đạm.
Ông bà cố tôi vẫn bình thường, mặc dù ông cố lúc đó đã chín mươi hai tuổi. Tinh thần ông bà vẫn còn minh mẫn, không lú lẩn như những người già cả khác. Vì buồn con mất trước, bà cố tuy chỉ nằm một chỗ nhưng cố biết mọi việc xảy ra trong lúc tang chế. Riêng ông cố thì không, nhưng lúc nội mất cố tự nhiên không đi ra khỏi phòng. Hình như có một ma lực nào đó xui khiến, tôi nghĩ. Nhưng tai cố vẫn còn thính, mỗi khi nghe tiếng trống chầu đánh lên lúc cúng tế, ông cố hay hỏi con cháu:
- Tiếng trống gì vậy hả bây?
- Dạ tiếng trống cúng đình... Mấy bữa nay làng mình cúng đình đó cố!
Ai cũng trả lời như vậy!
Vài tháng trước khi ông cố tôi qua đời, hai chân của cố có triệu chứng sưng phù. Bác Ba Liêm, một ông thầy thuốc Nam trong xóm, chỉ dẫn ba tôi như vầy:
- Chú Tư nên đi hái một mớ thuốc cứu đem về rửa sạch xong đâm nhuyễn để dành đó, đợi đến tối đi bắt con cóc lửa lột hết da, dùng cái mẻ rang đốt miểng gáo thành than, bỏ con cóc trên than hồng nướng xông khói, đồng thời đem bả thuốc cứu thoa lên hai chưn cho ông Năm. Bảo đảm thịt cóc cháy bốc lên hòa với thuốc cứu sẽ làm chỗ sưng trên chưn ông Năm xẹp đi .
Ba tôi nghe lời làm theo ý bác Ba Liêm căn dặn, quả thiệt, chỗ sưng trên chưn ông cố xẹp xuống. Nhưng ngặt một nỗi là sau khi chưn ông cố hết sưng chẳng được bao lâu thì ông cố cũng về núi. Rồi trong vài tháng kế tiếp bà cố tôi cũng sức lực hao mòn, ngọn đèn cạn dầu lại tàn lụn qua đêm. Ngôi nhà nội giờ đây rất u buồn, tẻ lạnh với ba cái bàn thờ tang mới lập. Những buổi tối đi đốt nhang tôi thường đi rón rén, sờ sợ vì chung quanh tôi có nhiều tấm tiền, tấm vảng treo đầy hai bên vách.
Ðộ một năm sau, khi sắp sửa xả tang cho ông nội, như thường lệ má tôi thức dậy sớm lo nấu ăn cho ba dằn bụng đặng đi cày. Tôi nghe tiếng chưn má đi ngang qua đầu giường, tiếng kéo cái cánh cửa buồng khép sơ lại. Nằm nướng thêm một chập, rồi tôi nghĩ là trời chắc đã gần sáng, nên cũng ráng ngồi dậy để đi xuống bếp phụ giúp với má một tay. Lần trong bóng tối tôi bước ra khỏi cửa, men theo bộ ván gõ bên trái. Tôi chợt không khỏi ngạc nhiên khi nhìn thấy rõ ràng trên đó có một dáng người bận nguyên bộ bà ba đen, trên tay còn có đóm thuốc đang cháy đỏ, khói quyện lên không, lòng hớn hở, mừng vui tôi cất tiếng:
- Nội hả nội... Có phải nội đó hôn nội?
Tôi chụp lấy tay nội và lay ổng dậy, nhưng bóng đen vụt biến mất trong tít tắt. Tâm trí tôi đang điềm nhiên không hề nghĩ rằng nội đã giã biệt cõi đời từ lâu bỗng dưng vụt tan biến. Tần ngần vài giây, tôi đưa mắt nhìn quanh quẩn khắp phòng để cố tìm kiếm bóng đen kia. Tìm mãi không thấy đâu, tôi quay lưng trở lại đi thẳng tới cái cũi chén lớn. Rồi đến cái bàn dài, trên đó có bày một lô đèn dầu hôi, mấy lưỡi dao cạy dừa. Tự nhiên đầu óc tôi bình tỉnh trở lại, rõ ràng tôi không thể nằm mơ. Rõ ràng tôi đã thấy nội, chắc chắn là nội, tôi cương quyết như vậy. Tôi nhủ thầm:
- Nội đã trở về để an ủi lòng thương nhớ diệu vợi của đứa cháu thân yêu.
Và nội cũng đã trở về để cho tôi nắm tay nội lần cuối. Vì đã bao lâu rồi từ khi nội lâm bịnh tôi chưa hề một lần đến cạnh bên giường nội để hỏi han, chăm sóc, ngay cả trong ngày cuối tiễn đưa cũng chẳng sờ mó một lần.
Tôi rất hối hận về điều đó! Rồi lại nghĩ thêm:
- Nội cũng muốn nói cho tôi biết rằng từ đây cháu hãy tự lo lấy thân, ông không còn trên cõi đời nầy để bảo bọc, che chở cho cháu nữa. Cháu hãy bảo trọng, giữ gìn.
Tôi đứng đó và khóc thật nhiều cho nội cho nỗi thương đau cho chính cõi lòng mình. Bao nhiêu năm sống kiếp làm người trong cảnh ô trọc này, nội đã phải gánh lấy bao nhiêu sự khổ tâm, trói buộc vì tình thương con cháu để rồi cho tới khi chết vẫn chưa được yên thân. Trong giây phúc đó tôi cảm thấy thương nội tôi vô ngần, không sợ sệt một điều gì cả... Nhưng má tôi đã lên tiếng, cắt ngang niềm nhớ thương:
- Con đó hả Ðào?
- Dạ, dạ... con đây...
Tôi lau vội nước mắt, lánh ra nhà sau súc miệng rửa mặt làm như không có chuyện gì xảy ra cả!
Bẵng đi ba năm sau, bà kế mẫu thứ hai của ba tôi trở về với mục đích tạ lỗi cùng ông bà cố và nội tôi. Nhưng tiếc thay bà đã chậm chưn vì chần chờ quá lâu, ông bà cố và ông nội đều đã hóa ra người thiên cổ. Bà nội ghẻ than khóc phân trần cùng ba má tôi về những việc làm không tốt của bà trong dĩ vãng. Ðối với ba má tôi dù trước kia bà nội ghẻ đã nhẫn tâm phụ rãy tình thương của ông nội, cũng không thương xót gì đến ba đứa con chồng cũng như con ruột, nhưng giờ đây bà đã thật lòng ăn năn hối cải, thì phận làm con ba má tôi cũng không hề phiền trách gì đến bà nội ghẻ mà ngược lại còn thương xót cho bà hơn. Với lại bà đã trở về với tấm thân tàn ma dại, bịnh hoạn đầy người, nhằm mục đích chính là hi vọng đứa con ruột của mình, tức chú Năm Nhẫn chớ không phải là ba má tôi, nghĩ tình mẹ con mà bỏ tiền lo thuốc men cho bà. Nhưng chú Năm Nhẫn vẫn còn hận trong lòng, chú không thèm nghĩ gì đến tình mẹ con hết, người mẹ khi xưa đã không vì tình nghĩa bỏ cha con chú mà đi. Trong hoàn cảnh tấn thối lưỡng nan đó của bà nội ghẻ, ba má tôi lại cầm lòng không đậu, không thể để bà kéo lê tấm thân tàn đi khắp đầu đường xó chợ, nên đã không ngần ngại chấp nhận phụng dưỡng bà. Ba má tôi khuyên bà nội ghẻ:
- Mợ khỏi cần phải đi đâu hết, nếu thằng Nhẫn nó không lo cho mợ được thì còn có tụi con. Trước hết tụi con sẽ cố gắng thuốc thang cho mợ cho đến khi nào mợ hết bịnh, rồi sau đó thì tùy mợ, đi hay ở thế nào cũng được.
Ba má tôi tận tình chăm sóc cho người kế mẫu nhưng vì bịnh của bà nội ghẻ cũng khá nhiều, hơn nữa lại là những chứng nan y cho nên bà không bao giờ hết bịnh, chỉ sống lây lất độ hai năm, tức vào mùa hè năm 62, bà cũng trút hơi thở cuối cùng, muôn đời nhắm mắt trong ngôi nhà của ông nội. Giờ phút lâm chung của bà nội ghẻ cũng là giờ phút quê hương đang hồi giặc giã, chiến chinh. Ngày đó tôi còn nhớ Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 10, thuộc Sư đoàn 7 Bộ Binh, phối hợp với lực lượng địa phương quân đang hành quân tảo thanh diệt địch. Xóm làng đang lúc lo âu, tản lạc khắp mọi nơi để tìm chỗ an toàn tránh lằn tên mũi đạn của hai bên trong lúc giao tranh. Ba má tôi phải tạm đình lại một hai ngày chờ cho tình thế êm xuôi mới trở về tẩn liệm và chôn cất bà nội ghẻ một cách đàng hoàng. Bà nội ghẻ cũng được an táng trên mảnh vườn gần nhà, bên cạnh mồ mã của ông bà cố, ông nội và bà nội lớn.
Kể từ dạo đó ba tôi rời quê để lên Mỹ Tho lánh nạn, chỉ còn có mỗi một mình má tôi ở lại quê hương chịu đựng vì phải còn người chăm sóc, canh tác mới giữ được ruộng vườn của ông bà để lại. Ba tôi đã nộp đơn xin học và tốt nghiệp ngành Viễn Thông ở Thủ Ðức và sau khi ra trường ông phục vụ tại Khu Viễn Thông Tiểu khu Ðịnh Tường cho đến ngày... mất nước .
Giờ đây lưu lạc nơi xứ lạ quê người, nhìn những áng mây chiều lũ lượt kéo nhau về một phương nào đó, tôi vẫn thường âm thầm, lặng lẽ nhớ đến quê xưa. Nơi đó đã hằng ấp ủ bao nhiêu nỗi niềm mến yêu, quyến luyến đối với gia đình thân tộc, đất nước quê hương thắm đượm tình người. Trong những giây phút bâng khuâng, chạnh lòng tưởng nhớ đó, tôi thích hát lên lời ca dìu dặt của nhạc sĩ Trúc Phương:
Quê em nắng vàng nhạt cô thôn
Vài mây trắng dật dờ về cuối trời
Bâng khuâng tiếng hò qua xóm vắng,
Khói lam buồn như muốn ngừng thời gian...
Hồng Lan