vhnt, số 114
11 December 1995
Trong số này:
T H Ơ
1 - Thoảng Nghe Tiếng Động Xa Xôi....................Chinh Dinh
2 - Giới thiệu thơ trẻ Saigon: Dung Nguyen gửi
Phan Bá Thọ: Biến mất..................................Phan Bá Thọ
Nơi đây trở lại một chiều...............................Phan Bá Thọ
Ly khúc...........................................................Phan Bá Thọ
3 - Thơ Võ Ðình Tuyết...Trần Mạnh Hùng giới thiệu
Những người mẹ từ nơi xa............................Võ Ðình Tuyết
4 - Nói với em lớp sáu..........................................Trần Bích Liên/LQ
V Ă N H Ọ C
5 - Rushdie lại khiêu chiến...Hồng Lĩnh/Dung Nguyen gửi
Đ I Ệ N Ả N H
6 - Phỏng vấn diễn viên Lê Văn Lộc trong "Cyclo"...Ngô T. Kim Cúc/Dung Nguyen gửi
B I Ê N L U Ậ N
7 - Tìm hiểu thơ Haiku Nhật Bản (phần 2)...Nhật Chiêu
T R U Y Ệ N N G Ắ N
8 - Giới thiệu Milan Kundera: Chúa ở trong lòng (đoạn 1)...Trịnh Ðình Tường dịch
Thoảng Nghe Tiếng Động Xa Xôi
gởi BN, cám ơn tao ngộ
Ðêm phủ sập,
giấc mơ khan
Ðoá hoa tuyệt vọng
phai vàng
nỗi đau
Mùi hương cũ,
đoá mộng đầu
Bay theo nhánh gió,
u sầu
nhân gian.
Ðêm thẳm xa.
Ðêm rã rời.
Khói sương từ một
mùi hương,
nhớ về
Nhớ từ
cuộc ấy
chia ly
Sao đêm buồn quá,
lấy gì
vui cho?
Ðêm nhạt rơi.
Giọt vô thường.
Mùi hương cũ đã
phai nhoà trong ta?
Ai ngồi ru khúc ly tao
Cho ta đệm một
khúc nào,
vu vơ.
Ðêm im lặng.
Ðêm hư hao.
Tro than
đã nguội
Chiêm bao xa, gần.
Ly bôi ai nhắp
cạn rồỉ
Thoảng nghe tiếng động
xa xôi,
của người.
12.5.1995
Chinh
Phan Bá Thọ, một gương mặt sinh viên, đọat giải cuộc thi thơ trẻ của báo Tuổi Trẻ vừa qua. Thơ Phan Bá Thọ đã ra khỏi không khí của sân trường như một số cây bút đồng tuổi cũng là điều đáng mừng. Thơ anh mang hơi thở của thơ trẻ, dịu dàng và lãng đãng.
Dung Nguyen
Biến Mất
Chẳng có gì là tồn tại vĩnh viễn
Tất cả sẽ vào hàng và rồi trật tự
biến mất trên đời này mãi mãi
Ðêm hôm qua biến mất
Và đêm nay cuối cùng rồi cũng sẽ biến mất
Có điều gì vừa lặng lẽ ra đi
Nên đêm nay không còn như đêm qua
Vâng, cả những bí mật em gái em luôn
canh phòng cẩn mật
Cũng đã vơi cạn dần dà đó sao!
Có lẽ một ngày mai đây không xa
Những cuồng nhiệt si mê rồi cũng êm đềm lịm tắt
Ta đối với nhau chẳng là gì nữa
Và tình yêu, như ánh sao băng tan biến thật buồn!
Tất cả rồi cũng sẽ vào hàng và trật tự A, B biến mất
Ðêm huyên náo và tình em dịu ngọt lúc nào cũng vậy
Vâng. có thể là anh sẽ giữ tất cả ở lại trong thở!
Nhưng cả anh, thơ và tình em nồng nàn...
Rồi sẽ một ngày biến mất mà thôi!
4-1995
Nơi Đây Trở Lại Một Chiều
Huơ hoắc trống như hồn anh vậy
Bạn bè ơi xa vắng những phương nào?
Căn phòng chiều nay trở mình xanh xao
Bất chợt mưa, mưa buông mình trên mái
Mưa bay vào cửa nhỏ
Mưa, cún con hốt hỏang tìm vào góc xó
Ấm, tối
Rên hư hử nằm im
Căn phòng giờ đây đơn chiếc ngập chìm
Dăm cuốn sách mốc meo bạn ra đi bỏ lại
Lớp bụi xám ngủ quên trên nền gạch
Cún con đói ăn nhiều ngày ốm nhách
Nó rướn đôi mắt mờ đục nhìn anh xót xa
Chiều rơi mưa lếch thếch đi vào đêm
Dường như cô độc có gương mặt tối sầm méo mó
Con cún giờ đây hầm hừ lê mình khỏi xó
Nó chậm chạp tiến đến
Chia phần cùng anh bữa tối vội vàng
Căn phòng lặng vắng lạnh tanh, mưa thu
Ðêm nay nó được soi mặt bằng thứ ánh
sáng nhợt nhạt của những ngọn nến
Những bức vách rùng mình sột sọat!
Dường như chúng đang kể lại những
câu chuyện ngày qua nơi này
Chúng đang vẽ lại những gương mặt
bạn bè anh một cách thật thà, vá víu
Và trong bất giác cái ớn lạnh gió thổi
Những tiếng cười sang sảng vang lên nghe rợn óc...
9-1995
Ly Khúc
Hát lên lần này nữa thôi
Hát cho bước em nhẹ về phía xa ấy
Hò hát hay im hơi cũng vậy
Rồi cũng thế, xa xôi...
Hát lên lần này nữa thôi
Hát lên để gió cuốn chút buồn vương sót lại
Hát tiễn em dẫu buồn thêm chẳng ngại
Giờ lối đi chung mịt mù sương rồi!
Em đi về phía nào xa
Phía vung vít chân em hoa cỏ dại?
Phía ngập trời vọng ảo?
Phía mùa thu không buồn vương mênh mông?
Hát lên lần này tiễn em
Hát đưa sang sông son sáo
Hò hát
Ta dối lòng mình không đau.
Thị Nghè 9-1995
Phan Bá Thọ
TT 3-10-1995
1
Sáng ra thăm hỏi khu vườn
Còn thơm mùi cỏ hạt sương nõn nường
Chao ơi loài gió vô thường
Về ngang lay động cõi hương xa vời
Thoáng thầm mình với cuộc chơi
Còn bao lâu nữa giữa đời hoang liêu.
2
Không gian đầy một tiếng chim
Bay về ngang giữa trưa chìm giấc mơ
Lòng ta tịnh nhớ thuyền chờ
Bến sông quê cũ Mẹ giờ về đâu
Sân vàng xưa có u sầu
Kên kên làm tổ trên đầu nhân gian
Bụi mù khắp, kiếp lầm than
Bước chân ngày tháng theo tàn hư hao
Bến xuân còn lại nơi nào
Hay môi người héo, mai đào phôi pha
Buổi trưa hè, lạnh mình ta
Tiếng chim động thức căn nhà hoang vu.
Những Người Mẹ Từ Nơi Xa Xứ
Tôi gặp nhiều bà Mẹ già buồn trong hiu quạnh
Tóc rụng bạc vai gầy, hiu hắt quanh năm
Nhìn lũ con mỗi ngày vươn vai lớn mạnh xứ người
Và như giòng sông, Nước có bao giờ quay về lối cũ
Tôi gặp nhiều Mẹ già
Cúi đầu im lặng
Vai nghiêng nghiêng trĩu nặng niềm đau thế kỷ
Nhìn con cháu lớn lên xứ người
Chẳng nói được tiếng quê Cha!
Nguồn cội càng xa
Nỗi sầu thành núi
Tôi gặp nhiều Mẹ già
Trong shopping, dưới hiên hè thành phố
Chicago
Houston
California
Boston
Chiều mưa New York
Ðôi mắt vẫn mang bóng hàng cau, vườn trầu,
vườn ổi, vườn xoài
Tôi gặp nhiều Mẹ già
Trong nhà Thờ, trong Chùa, đám cưới, đám xin,
đám tang, đám hội
Ngồi bơ vơ điệu ru đơn, như tiếng đàn bật lên
một nốt trầm buồn
Ôi! Những bà Mẹ già Việt Nam
Mang một trời văn hóa
Lẻ loi trên con đường nhiều màu sắc rực vàng
Biết ai còn, ai mất
Khi loài người đang lần đi vào thế kỷ mới
Võ Đình Tuyết
Hai bài thơ trên của Võ Ðình-Tuyết, trích từ Giúp Ích Số 6, phát-hành Mùa Thu-Mùa Ðông 1995. Ngoài thơ và truyện ngắn,Giúp Ích còn có nhiều bài biên-khảo giá-trị về văn-hóa và truyền-thống Việt.
Lâu lắm, dễ chừng là 7,8 năm về trước, tôi đã đọc bài thơ dưới đây trong báo VNTP. Người ta bảo tác giả tên Trần Bích Liên ( có người ghi Trần Bích Tiên). Cũng có huyền thoại tác giả là 1 nữ sinh, đăng bài thơ trên báo tường, vào khoảng 1972. Bài thơ hay, xôn xao trong giới sinh viên, kể tâm sự 1 cô nữ sinh lớp 12 mất mát nhiều trong thời chiến với 1 cô bé con lớp 6. Tôi đã học thuộc lòng ngay hôm đọc. Mỗi lần nhớ lại vẫn thấy hay. Tôi ghi lại theo trí nhớ.
Nói Với Em Lớp 6
Nầy em lớp 6, nầy em nhỏ
gặp em rồi muôn thuở không quên
chiều nay hai đứa về qua phố
rất tự nhiên mà mình quen nhau.
Em chạy tung tăng không mắc cỡ
chị thì bước, bước chậm theo sau
tuổi 12 chị xa vời quá
chị bảo em chờ, em chạy mau.
Nầy em lớp 6, nầy em nhỏ
em hãy dừng chân một chút lâu
chị vuốt tóc em rồi chị nhớ
tóc em thơm ngát mùi hương cau.
Hương cau vườn chị xa như tuổi
ba má chị nằm dưới mộ sâu
vườn cũ nhà xưa tàn với lửa
chị đi về hai buổi âm u.
Gặp nhau ngòai phố mình như bạn
thời mộng trong bàn tay nắm nhau
chị ngắt cho em hoa cúc nhỏ
em cười cái miệng mới xinh sao.
Ngày xưa chị cũng như em chứ
cũng rất ngây thơ rất ngọt ngào
chị nhớ những chiều tan học sớm
bạn bè đuổi bướm thật xôn xao.
Những con bướm lượn trên bờ cỏ
chị cũng như em chạy đuổi mau
bây giờ bướm biệt trên đường phố
chị đuổi sương mù chơi chiêm bao.
Nầy em lớp 6 nầy em nhỏ
gặp em rồi muôn thuở không quên
trời ơi, câu nói ngày hôm trước
ai rót vào hồn chị hỡi em.
Sách vở trên tay nghe chừng nặng
sao cặp em đầy vẫn nhẹ tênh
thôi nhé em về con phố dưới
giữ hoài cho chị tuổi hoa niên ./.
Trần Bích Liên
Cỏ Nhớ sưu tầm
Gương mặt văn học nổi tiếng nhất của mọi thời, nhà văn Anh gốc Ấn Salman Rushdie lại một lần nữa lên tiếng gây bão tố bằng tác phẩm mới xuất bản hồi cuối tháng tám vừa qua -The Moor's Last Sigh (Tiếng thở dài cuối cùng của người Moor).
Hơn sáu năm sau ngày cố giáo chủ Ayalullah Khomeini của Iran công bố fahwa (án tử hình) dành cho Salman Rushdie bởi tác phẩm "The Satanic verses" (Những vần thơ quỉ) của ông được coi là báng bổ đạo Hồi, nhà văn thường xuyên sống dưới sự bảo vệ của cánh sát Anh và phải đổi chỗ ở liên tục để không bị phát hiện, nhưng ônbg vẫn không ngừng sáng tác. Hai tập truyện ngắn đã được xuất bản trước khi tiểu thuyết "The Moor's last sigh" ra đời.
Nếu như tiểu thuyết trước đó gây nên nỗi giận dữ trong thế giới đạo Hồi, nhất là với những thành phần cực đoan, thì tiểu thuyết mới này lại khiến những người theo Ấn giáo quá khích điên tiết. Lý do: một nhân vật trong tiểu thuyết được cho là hình ảnh châm chích một chính khách đầy quyền lực ở Ấn Ðộ: ông Bal Thackeray, thủ lĩnh của đảng Ấn giáo cực đoan Shiv Sena, người chi phối đời sống chính trị ở Bombay, thủ phủ bang Maharashtra đồng thời là một trung tâm công nghiệp, thương mại, văn hóa quan trọng của Ấn Ðộ và cũng là nơi Rushdie chào đời. Cuốn sách nhạo báng những đạo dân quân Ấn giáo dưới sự lãnh đạo của các thủ lĩnh kiểu Thackeray, đã tấn công các ngôi đền và các khu dân cư đạo Hồi từ năm 1990, giết chết hằng trăm người dân vô tội và khiến cuộc xung đột tôn giáo trở nên đẫm máu ở Bombay cũng như nhiều nơi khác trên xứ Ấn.
Cần nói thêm về nhân vật Bal Thackeray nguyên là một họa sĩ vẽ tranh châm biếm chính trị, khi bước vào chính trường ông ta đã phát triển sức mạnh của đảng Shiv Sena bằng cách đề cao quyền lực của người theo Ấn giáo trước sự gia tăng số người di dân tới Bombay, tạo nên một cộng đồng người theo Hồi giáo rộng lớn ở thành phố nàỵ Thackeray không giấu giếm sự ngưỡng mộ của ông ta dành cho Hitler, cũng như đã công khai trả lời một cuộc phỏng vấn rằng, những người Hồi giáo không thể được "đối xử" mà số phận của họ sẽ chỉ tương tự như người Do Thái dưới thời Hitler. Ông ta còn tuyên bố trên một chương trình truyền hình rằng: "Tôi là Hitler của cả bang Maharashtra và muốn làm Hitler của cả nước Ấn Ðộ."
"The Moor's last sigh" được coi là phần kế của tiểu thuyết "Mignight's children" (Bọn trẻ giữa khuya), cuốn sách đã mang về cho Rushdie giải thưởng Booker (giải thưởng văn học quan trọng nhất của nước Anh), và cuốn tiểu thuyết mới này được coi là tác phẩm xuất sắc nhất từ trước tới nay của Rushdie. "Midnight's children" là bức tranh tòan cảnh về xứ Ấn từ cuộc phân chia đau thương Ấn-Hồi (Pakistan) năm 1947 để dẫn tới nước Ấn độc lập, được nhìn bởi chú bé Saleem Sinaị Còn trong "The Moor's last sigh", xứ Ấn độc lập được mô tả trong sự đa dạng mà bất ổn về nhiều mặt văn hóa, sắc tộc và tôn giáo, và là câu chuyện kể của một đứa trẻ-đã-già, nó mới chỉ lên mười nhưng đã trưởng thành trong một môi trường như vậỵ Chú bé đó là Moraes Zogoiby hay được gọi là "người Moor"(một sắc dân ở Bắc Phi, theo đạo Hồi, đã tiến công nhiều nước ở châu Âu từ thế kỷ thứ 8 (LTS) bởi cha chú có cội nguồn là người Moor đã bị trục xuất khỏi Bồ Ðào Nha từ thế kỷ 16, sau đó di cư sang Ấn Ðộ. Kết hợp giữa những sự kiện lịch sử và nhu cầu văn học, Rushdie đã khảo sát những mối liên hệ giữa cái bản sắc dân tộc và tính cách con người thông qua nhân vật "người Moor" và một nhân vật nữ là linh hồn của tác phẩm, người được gọi một cách ẩn dụ là "mẹ xứ Ấn."
Giám đốc xuất bản Jonathan Cape đã mô tả cuốn sách như là "một kỳ tích về sức tưởng tượng, đầy khát vọng , hài hước , châm biếm và đam mê đến bất ngờ. Ðó là một bài ca tình yêu dành cho một thế giới đang tan biến nhưng vẫn còn nghe thấy tiếng hoan hô cuối cùng của nó." Hàng lọat báo, tạp chí đã dành cho cuốn tiểu thuyết những lời khen ngợi. Song chính quyền bang Maharashtra đã ra lệnh cấm lưu hành nó. Và có nhiều khả năng nó sẽ bị cấm ở cả Ấn Ðộ để ngăn ngừa những phản ứng giận dữ của những người cực đoan theo Ấn giáo.
Hồng Lĩnh
TTCN 17-9-1995
Dung Nguyen sưu tầm
Tôi type bài phỏng vấn sau đây để các bạn trên vhnt hiểu thêm về nhân vật Lê Văn Lộc, một trong những diễn viên chính trong phim "Xích lô" được giải Sư tử vàng Mostra Venise lần thứ 52 của đạo diễn trẻ Trần Anh Hùng. Tuy là diễn viên mới diễn lần đầu, chưa trải qua trường lớp nào, nhưng Lộc đã vào vai rất đạt.
Dung Nguyen
Tầm thước, gầy ốm, da ngăm đen, Lê Văn Lộc (vai anh xích lô trong phim Xích lô) không có phoọc diễn viên theo quan niệm thông thường. Nhưng Lộc đã bắt mắt Nicolas Cambois, trợ lý đạo diễn, và Nguyễn Trung Bình, cố vấn về nội dung, của Trần Anh Hùng khi từ quán cà phê ở một góc ngã tư Ðà Nẵng họ nhìn thấy Lộc phóng xe ngang qua. Họ đã phải vất vả đuổi theo Lê Văn Lộc nhưng mất hút, cho đến lần sau mới "tóm" được anh. Thế là Lộc trở thành diễn viên chính, đánh bại hàng nghìn ứng cử viên từ Nam chí Bắc. Cho đến tận lúc ấy, mối quan tâm của Lộc không hề là điện ảnh. Công việc của một phụ xe tải đường dài Lào-Ðà Nẵng không cho anh thì giờ và điều kiện để thưởng thức các món ăn tinh thần, cho dù là món ăn bình dân.
- Bạn có thích một diễn viên Việt Nam nào không? Hoặc là diễn viên Hồng Kông?
- Vô đây em mới gặp và biết là anh Hoàng Phúc đã đóng nhiều phim. Em cũng nghe nói Lương Triều Vĩ là diễn viên rất nổi tiếng.
- Bạn có khớp không khi bạn đóng vai chính trong khi họ lại đóng vai phụ?
- Em chỉ đóng phim này thôi. Em có nói với anh Hòang Phúc như vậy.
- Bạn có thấy đóng phim khó hơn so với việc đi theo xe tải?
- Em không biết. Khi anh Hùng bảo em làm gì là em làm theo lời ảnh. Khi ảnh nói chưa được thì em làm lại cho tới khi nào ảnh nói được.
- Bạn có thấy dễ chịu khi làm việc với Trần Anh Hùng?
- Anh Hùng lúc nào cũng như người anh, chỉ biểu em rất tận tình. Em thấy ảnh không giống một người ở nước ngoài về. Ảnh sống rất tình cảm.
Khi làm phim, Trần Anh Hùng muốn lôi kéo cả sự tham gia của khán giả, anh không để khán giả xem phim mình một cách thờ ơ. Những tư tưởng triết học mà anh gửi gắm gặp nhau trên hình và nhạc, trong đó các nhân vật bộc lộ mình theo cách khác nhau. Nhân vật chính-anh đạp xích lô- là kẻ bản năng. Còn nhà thơ, là người làm chứng cho nhiều lọai tội lỗi nhưng vẫn tin vào sự vô tội của con người. Với Lương Triều Vĩ, Trần Anh Hùng không phải tốn công sức lắm. Nhưng cả với Lê Văn Lộc, anh cũng không quá vất vả như trước đó mọi người trong đoàn làm phim đã lo. Nguyễn Trung Bình đã nói về điều đó:
- Lộc không "làm khổ" mọi người. Cảnh nào khó lắm cũng không quá ba, bốn lần. Lộc không khớp, không mặc cảm, không bắt chước, có thể vì vậy nên Lộc vào vai rất dễ dàng, không có vẻ gì là diễn cả. Khi Lộc đạp xích lô trên đường, với chiếc xe có camera đã nguỵ trang kín chạy phía trước, rất nhiều người đi đường đã kêu xích lô lại để đi.
- Với những cảnh đặc biệt khó, đòi hỏi phải diễn xuất nội tâm thì sao?
- Trong cảnh say rượu hoặc bị đánh hội đồng giữa buổi trưa đứng bóng, Lộc đóng rất đạt tuy sau đó mệt phờ ra vì phải chạy giữa trưa nắng SàiGòn. Ngay trong cảnh tưởng tượng về người cha, Lộc vẫn đóng rất tốt. Ngòai khả năng trời phú cho Lộc, phải nói là anh Hùng biết làm việc với Lộc sao cho hiệu quả nhất.
- Sau thành công của "Xích lô", liệu Trần Anh Hùng có tiếp tục mời Lê Văn Lộc cộng tác?
- Ngay khi vừa quay xong phim, anh Hùng đã nói rằng nếu trong những phim tới có vai thích hợp với Lộc thì anh sẽ mời.
Ngô Thị Kim Cúc thực hiện
TTCN 17-9-1995
Tìm Hiểu Thơ Haiku Nhật Bản
(phần 2)
Có người yêu cầu Bashô soạn một bài Haiku về tám cảnh hồ Ômi. Quả là một trò đùa, vì có bài thơ dài vịnh tám cảnh đã kể hết tên ra cùng với trăng thu, tuyết chiếu, hoành hôn, thuyền buồm, bầu t rời, mưa đêm, ngỗng trời và tiếng chuông đền Mii. Hãy thử dồn tất cả những thứ đó vào một bài Haiku ba câu. Thế mà Bashô đã thoát chiếc bẩy giăng đùa nghịch ấy như sau:
Hồ Ômi tám cảnh
Sương mù dấu bảy rồi
Còn chuông đền Mii thôi
Cái một ở đây nói thay cho tất cả. Dường như ta thấy cả thế giới trong tiếng chuông đền Mii. Gần gũi với tinh thần này, Issa nhìn vào đôi mắt con chuồn chuồn:
Thăm thẳm núi non
Ðang hiện hình lấp lánh
Trong mắt con chuồn chuồn
Khi nhà thơ Haiku nhìn thấy núi non trong đôi mắt hết sức nhỏ bé của con chuồn chuồn thì nhà thơ cổ điển Anh William Blake nhìn thấy thế giới trong một hạt cát:
Nhìn thấy thế giới trong một hạt cát
Và thiên đàng trong một bông hoa dại
Giữ vô tận trong lòng bàn tay
Và vĩnh cữu trong một giờ đồng hồ
Ðể diễn tả cái toàn thể đó, cái một đó, ta thấy hai bài thơ khác nhau nhiều trong cách thể hiện. Nhà thơ Haiku sau khi nêu lên hình tượng đôi mắt con chuồn chuồn, đã vội vã rút lui. Chỉ có sự gợi ý. Issa để khoảng trống cho người đọc. Người đọc sẽ tự ý lấp đầy khoảng trống theo cách của mình. Còn giọng thơ Tây phương thì phô ý rõ ràng, khai triển và tăng cấp dồn dập: Thế giới - Thiên đàng - Vô tận - Vĩnh cửu.
Ðem so với thơ ca Tây phương, ta thấy tính cô động hàm súc của Haiku hiện lên rất rõ.
Có khi Haiku cô đọng đến mức chỉ có một chi tiết đếm hoa rơi như trong bài thơ của Shiki:
Một đóa rơi
Hai đóa rơi...
Hoa trà đang rơi.
Không muốn rườm lời, các Haijin muốn dùng niềm yên lặng, âm thanh âm thầm nhất và ngôn ngữ kết tinh nhất để khơi dậy những cảm thức sâu xa nhất ở người đọc.
Lời đã đành là tinh giản, các Haijin còn muốn tinh giản cảm xúc \(đúng ra là sự bày tỏ cảm xúc), và như thế Tagore gọi là "Sự tinh giản của tâm hồn".
Sự tinh giản ấy đem lại cho Haiku một vẻ đơn sơ hiếm thấy trong thơ ca. Vì vẻ đơn sơ lạ thường của nó, có người không nhận Haiku là thơ. Thiếu trang sức, có người tưởng rằng nó không dẹp.
Về điểm này, R.H. Blyth trong bộ sách Haiku vĩ đại của mình có viết:
Ðó là ngón tay chỉ mặt trăng. Nếu nói đó chỉ là ngón tay, và thường không phải là ngón tay lộng lẫy thì đúng thế. Nếu mà bàn tay lộng lẫy và đeo đầy trang sức, e ta quên mất điều mà ngón tay chỉ tới. (3).
Nghe chim hót, nhà thơ nữ Chigetsu viết:
Tay ngưng việc làm
Bên chậu nước
Tiếng chim chích vang
Thử so sánh bài này với tứ tuyệt "Tức cảnh ngày xuân" của sư Huyền Quang đời Trần, ta sẽ hiểu hơn về tính đơn sơ của Haiku:
Nhị bát giai nhân thích tú trì
Từ kinh hoa lạ chuyển hoàng ly
Khả liên vô hạn thường xuân ý
Tận tại đình châm bất ngữ thì
Ðường kim bỗng chậm lại trên tay cô nàng đẹp mười sáu xuân xanh:
Mấy chú oanh vàng thỏ thẻ trong lùm tử kinh hoa lộ
Thương quá đi bao nỗi lòng thương xuân vô hạn
Ðang trút cả vào giây phút ngừng kim im phắc
bản dịch của giáo sư Ðặng Thái Mai
Cả hai bài thơ đều diễn tả cô gái ngừng tay làm việc nghe chim hót mùa xuân \(chim chích uguisu trong Haiku là chim của mùa Xuân). Trong bài Haiku, ta thấy cô gái chỉ là cô gái. Không biết cô đẹp hay xấu, tuổi bao nhiêu và đang làm gì. Còn trong bài tứ tuyệt thì các chi tiết ấy hiện lên rất rõ (đẹp, tuổi đôi tám, đang thêu thùa). Con chim chích của Haiku chỉ hót chứ không phải hót trong lùm hoa tử kinh. Bài Haiku cũng không bộc lộ cảm xúc như hai câu cuối trong bài tứ tuyệt.
So sánh để thấy tính đơn sơ của Haiku là một đặc điểm chứ không phải để rút ra sự hơn kém nào. Vì mỗi thể thơ của mỗi dân tộc có đặc trưng và phong cách riêng. Mỗi bản sắc có cái đẹp của nó. Bài tứ tuyệt của Huyền Quang là bức tranh tuyệt đẹp của mùa Xuân, của tuổi xuân. Bài Haiku không có màu sắc ấy.
Ðơn sơ như vậy, Haiku không phải là thơ quí tộc. Có thể Haiku mang dáng dấp ngưòi nhà nghèo, chỉ giàu sang cái sang giàu của thiên nhiên, cái sang giàu mà ngay cả người ăn xin cũng có thể có:
Người ăn xin hạnh phúc
Có cả đất trời
Làm áo xiêm mùa hạ
Kikaku
Ngay cả các thiên thần mà Swedenborg kể trong "Thiên đàng và địa ngục" thật tình mà nói, không mặc áo xiêm nào. Thì Haiku cũng trần truồng như thế.
Tâm tôi ngời ánh sáng
Vầng trăng hẳn tưởng lầm
Ðây là ánh trăng trong
Myôê
Ðây là sự giàu sang tột bực mà chỉ có tâm hồn con người mới đạt tới, chỉ có Haiku mới thể hiện rõ ràng hơn cả.
Cố gắng nhìn thấy vẻ đẹp trong những sự vật bình thường của đời sống là một trong những nguyên lý thẩm mỹ căn bản của Haiku.
Trong Haiku, nhất là Haiku của Bashô, ta thấy nguyên lý ấy được phản ảnh qua các cảm thức mà người Nhật gọi là Sabi, Wabi và Karumi.
SABI
Ðây là đặc tính mà Bashô lưu ý nhất trong Haiku, là cảm thức về sự tịch mịch sâu xa vô hạn của sự vật, nhìn thấy sự vật tự bộc lộ một cách kỳ diệu. Sabi nghĩa là cô đơn, nhưng là "niềm cô d dơn huy hoàng". Ðây là một cảm thức hùng chứ không phải là nỗi cô đơn cá nhân. Sabi không dính gì đến tính bi lụy cá nhân.
Cảm thức Sabi được thể hiện sâu thẳm nhất trong bài Haiku nổi tiếng sau đây của Bashô:
Cánh quạ ô
Trên cành héo hắt
Chiều thu
Ở đây, sự vật tự bộc lộ đến mức trở thành chính tâm trạng. Có một bức tranh do chính Bashô vẽ, trình bày một con quạ đậu trên cây mùa thu xơ xác tiêu điều. Bài thơ được xem như là kiệt tác của Haiku. Với nó, Bashô được xem như là đã "sáng tạo" ra Haiku. Nghĩa là nói đến Haiku, người ta hình dung nó theo dáng dấp tinh thần của bài thơ này, theo cảm thức Sabi \(sabishisa) của nó.
Cảm thức này cũng thể hiện trong một bài thơ của Ransetsu:
Nửa đêm thăm thẳm
Dòng sông Ngân
Dời đổi chỗ nằm
Nửa đêm thức giấc nhìn lên trời, nhà thơ thấy Ngân hà không còn ở chỗ cũ mà đã dời sang hướng khác. Nhà thơ dưới đất và sông Ngân hà trên trời, cả hai đều chìm sâu vào cái thăm thẳm của đêm khuya.
Tuy nhiên, Sabi vẫn là vẻ đẹp có chất văn chương. Ðề tài con quạ trên cành không đặc biệt mới đối với thơ ca và hội họa. Hình ảnh sông Ngân vẫn còn mang vẻ "quí phái".
WABI
Cảm thức Wabi mới thực sự liên can đến sự vật bình thường. Wabi cũng có nghĩa là cô đơn nhưng nó ám chỉ đến điều kiện sống, đến tình cảnh, trong khi Sabi gần gũi với cảm xúc thẩm mỹ.
Ðấy là sự nhận thức bất ngờ về cái "như thế" của sự vật, những sự vật bình thường nhất.
Cảm thức Wabi này có thể nhìn thấy qua một bài thơ về con ốc của Issa:
Trên cổng bụi cây
nằm thay cho ổ khóa
Con ốc nhỏ này.
Nhà giàu đóng cổng bằng then khóa chắc chắn, còn cổng nhà thi sĩ đã được con ốc nhỏ nhắn "khóa hộ". Thực ra thì nhà thơ bỏ ngõ cho con ốc. Cuộc sống nghèo nàn đơn sơ ở đây hiện ra như một ni ềm giao cảm của con người với vạn vật. Hình ảnh con ốc tự nhiên đối lập với ổ khóa phiền tạp gây ra nhiều ý nghĩa triết học về cuộc sống.
Cảm thức Wabi này cũng có thể dùng để diễn tả linh hồn trà đạo. Trong trường hợp ấy gọi là Wabì-cha.
KARUMI
Từ này bắt nguồn từ chữ Karushi, nghĩa là nhẹ nhàng thanh thoát. Từ này đưọc Bashô nhắc đến nhiều lần trong các tiểu luận về thơ ca của ông. Karumi dung hợp tính chân phương trong trong phong cách và sự tinh tế của nội dung:
Hoa đào như áng mây xa
Chuông đền Uênô vang vọng
Hay đền Asakusa
Bashô
Ta cùng ngồi với Bashô trong ngôi lều của ông ở Fubagawa vào buổi chiều mùa xuân. Những áng mây do hoa đào làm thành bềnh bồng mờ ảo ở cả hai nơi Uênô và Asakusa. Rồi tiếng chuông vọng đến. Có cần gì biết nó phát xuất từ ngôi đền nào? Hoa thì mờ ảo như mây, tiếng chuông thì mơ hồ trong gió, Haiku cố gắng diễn tả cái không rõ, cái không thể diễn tả.
Có thể thấy điều đó đậm nét hơn trong bài thơ sau đây:
Khi nhìn kỹ
Tôi thấy nazuna nở hoa
Bên hàng dậu!
Bashô
Nazuna là loài hoa tím nhỏ khó nhận ra. Nó rất thường bị bỏ quên trong cát bụi. Ðã vậy, nó không hề được ai nâng lên như đóa hoa nào xưa kia đức Phật đã nâng lên trước mắt mọi người. Mà đóa hoa vàng ấy cũng chỉ được một đệ tử nhận ra bằng nụ cưòi im lặng (Thế Tôn niêm hoa, Ca Diếp vi tiếu).
Bashô không chỉ có cái nhìn của đôi mắt mở to trước thực tại, nhìn kỹ, cái nhìn "Lại đây xem lại cho gần", nhìn với một ý thức thường trực mà còn biểu lộ một niềm ngạc nhiên hân hoan trước sự vật.
So sánh thái độ của Bashô với nhà thơ Anh Tennyson trong bài "Bông hoa trong kẽ tường", ta thấy thực khác nhau. Tennyson hái bông hoa trong kẽ tường, cả mình hoa lẫn rễ, rồi giữ trong tay mà triết ký:
Bông hoa nhỏ ơi - nếu như tôi hiểu ra
Em là gì, rễ và toàn thân, tất cả trong tất cả
Thì tôi sẽ biết Thượng đế cũng như con người
là gì.
Với cái nhìn kề cận như khiêm tốn, nhà thơ phương Ðông đạt được tri kiến thực thụ. Còn nhà thơ phương Tây lấy sự chiếm hữu làm trọng, đã đánh mất vẻ đẹp của hoa. Cảm thức chiếm hữu ấy d dưa đến sự khảo sát thô bạo. Bashô chỉ thốt lên tiếng kêu ngạc nhiên hân hoan ở cuối bài (Kanà-a), còn Tennyson thì tìm cách "giải quyết" vấn đề mà rốt cuộc chỉ làm cho bông hoa bị đánh vồng lên như một trái cầu.
Không chỉ nhìn hoa, có khi người Nhật còn lắng nghe tiếng hoa nở. Bên một hồ sen, họ sẽ ngồi chờ búp nở. Cuối cùng một âm thanh nhè nhẹ sẽ bật lên đúng vào khoảnh khắc cánh hoa tách ra và hoa mở mắtt nhìn cuộc sống. Hành động lắng nghe trở thành một kinh nghiệm tâm linh mà trong đó mỗi âm thanh đều có ý nghĩa. Ðể ngăn hoa nở quá sớm, người làm vườn sẽ quấn chặt một mạng nhện quanh búp sen. Khi khách sắp tụ tập bên hồ, mạng nhện sẽ được cắt đứt để sửa soạn cho hoa lên tiếng.
Nhưng nghe hay không nghe, hoa vẫn lên tiếng khi búp sen tự mở cánh ra:
Ðã ra khơi
Ngư phủ - Bên bờ biển
Anh túc nở hoa tươi
Kyôrai
Không còn nhìn hoa, không còn nghe hoa, chỉ còn tịch mịch của sự vật. Nhưng vẫn có sự liên hệ thầm lặng giữa hoa và người. Hoa thì nở, ngư phủ thì ra khơi.
Nhật Chiêu
trích tập san Hợp Lưu số 23
(còn tiếp...)
Chúa Ở Trong Lòng
Phần 1
Ðể cho tiện, chúng ta có thể bắt đầu câu chuyện của Edward trong căn nhà nhỏ của người anh chàng ở miền que. Ông anh đang nằm dài trên đi-van bảo chàng:
- Cứ hỏi con mụ già đó coi. Ðừng sợ gì hết, cứ đến gặp và nói chuyện. Dĩ nhiên con mẹ đó là một con heo, nhưng tao tin rằng con heo cũng còn có lương tâm. Ngày xưa nó chơi tao một cú, có lẽ bây giờ biết đâu nó không ăn năn và giúp đỡ cho mày.
Ông anh của chàng sau bao năm sống ở thôn quê vẫn thế: một người tốt và lười. Có lẽ đã vì bản tính lười mà chàng đã ngủ suốt ngày trong khu đại học xá trong ngày Stalin chết, cách đây nhiều năm rồi ( ngày ấy Edward nhỏ xíu ). Hôm sau, không biết ất giáp gì hết chàng vào trường và bắt gặp một cô bạn học, cô Chehachkova đang đứng như trời trồng giữa hành lang giảng đường với vẻ mặt thiểu não lạ. Buồn cười quá, chàng vừa nhảy cò cò chung quanh ả, vừa cười rộ lên. Ngờ đâu ả lại tố cáo chàng là định xách động chính trị, vì thế chàng bị tống cổ khỏi đại học, và phải đi về quê để lao động. Từ ngày đó, chàng tậu được một căn nhà nhỏ; có được một con chó, một cô vợ và hai đứa con. Chàng cũng có một nhà mát nho nhỏ giữa cánh đồng.
Nằm ườn ra trên đi-van trong căn nhà nhỏ này chàng nói với Edward: "Tụi anh thường gọi con mẻ là ngọn roi của giai cấp công nhân đấy. Nhưng chú đừng lọ Bây giờ ả cũng già rồi và khoái mấy câu choai choai lắm. Thế nào ả cũng giúp cho chú. ".
Lúc này Edward còn trẻ. Chàng mới tốt nghiệp đại học sư phạm (chính ông anh chàng bị tống cổ khỏi trường này ), và đang tìm một chỗ dạy. Hôm sau, theo lời khuyên của ông anh, chàng đến phòng giám hiệu xin việc. Sau khi gõ của, một người đàn bà mở cửa cho chàng. Thị cao và gầy, mái tóc đen như dân gypsy ướt nhờn nhờn như bôi mỡ. Ðôi mắt cũng đen và trên mép cũng có hàng ria đen mờ mỡ. Vẻ xấu xí của thị giúp chàng bình tỉnh lại (vì khi nào gặp một cô gái đẹp chàng cũng lúng túng, mắc cở). Chàng bỗng thấy thoải mái,ăn nói gọn gàng và lịch thiệp ra. Người đàn bà xấu xí đó chính là bà giám hiệu Chehachkova; thị ưa ngay lối ăn nói của chàng và nhiều lần nhắc đi nhắc lại với vẻ hứng khởi: "Chúng tôi cần nhiều giáo sư trẻ ở đây." Thị hứa sẽ kiếm cho chàng một chỗ dạy.
Phần 2
Thế là Edward trở thành thầy giáo tại một tỉnh nhỏ. Khi nhận việc chàng không vui cũng chẳng buồn. Lúc nào chàng cũng cố gắng phân biệt những điều quan trọng và những điều tầm thường. Chàng xếp nghề dạy học của chàng vào loại tầm thường; thực ra nó tạo lên lẽ sống của chàng vì chàng biết rằng ngoài nó ra chẳng có nghề ngỗng nào khác. Nhưng chàng xếp hạng nó tầm thường vì nó không do chàng chọn lựa. Nhu cầu xã hội, lý lịch đảng viên, bằng tú tài, kỳ thi tuyển đại học đã chọn nghề này cho chàng. Những sức mạnh này đã cấu kết với nhau để ném chàng (như một món hàng được ném từ xe vận tải xuống) vào đại học sư phạm. Chàng không muốn học sư phạm (gương ông anh làm chàng sợ) nhưng cuối cùng cũng phải im lặng chấp nhận. Chàng hiểu nghề nghiệp này chỉ là một trong những sự ngẫu nhiên khác trong đời. Nhưng nó sẽ dính liền với cuộc đời chàng như một bộ râu giả - đó là một việc rất nực cười.
Nhưng nếu những điều bó buộc là không quan trọng (thiếu nghiêm túc), có lẽ những điều không bó buộc lại là quan trọng. Trong môi trượng mới này chàng gặp một cô gái mà chàng cho là đẹp, và chàng theo đuổi với một sự nghiêm túc chân thành. Tên nàng là Alice và sau buổi hò hẹn đầu tiên, chàng phát hiện ra nàng là một người dè dặt và đức hạnh.
Nhiều lần trong những buổi dạo chơi buổi chiều của họ, chàng thường choàng tay qua vai nàng, và cố tình để tay chạm vào ngực nàng. Mỗi lần như vậy nàng thường đẩy tay chàng ra. Một lần kia, khi chàng thí nghiệm lại động tác này thì (một lần nữa) nàng đẩy tay chàng ra và hỏi:
- Anh có tin Chúa không? Vành tai bén nhạy của chàng bắt gặp một ẩn ý trong âm điệu của nàng và quên béng đi về bộ ngực.
- Anh có tin không? Alice hỏi lại lần nữa, và chàng không dám trả lời. Chúng ta đừng vội kết tội chàng không dám nói thẳng. Chàng cô đơn trong môi trường mới và bị Alice hấp dẫn quá nên chàng sợ sẽ mất nàng chỉ vì một câu trả lời không thỏa đáng.
- Thế còn em? Chàng hỏi lại để câu giờ.
- Em tin chứ. Một lần nữa nàng lại giục chàng trả lời.
Chưa bao giờ chàng nghĩ về chuyện Chúa với Cha. Chàng biết rằng không nên thú nhận như vậy. Ngược lại, chàng có thể lợi dụng cơ hội này đóng vai một tín đồ ngoan đạo (như con ngựa thành Troy) để chui vào trái tim nàng. Có điều khó cho chàng là không thể chỉ nói đơn giản có, anh tin Chúa. Chàng chưa hoàn toàn lì lợm và còn biết mắc cở khi nói dối; bản tính chàng không phù hợp với những lời dối trá. Khi bị buộc phải nói dối, chàng lúc nào cũng muốn nó càng gần sự thật chừng nào tốt chừng đô Vì vậy, chàng trả lời với giọng nói trầm tư:
- Anh không biết nên nói với em như thế nào. Dĩ nhiên anh tin Chúa. Nhưng...
Chàng ngừng lại và Alice nhìn chàng trong ngạc nhiên. Chàng nói tiếp:
- Nhưng anh muốn được thành thật với em.
- Anh phải thành thật. Nếu không, tình cảm chúng mình chẳng có nghĩa lý gì hết.
- Ðôi khi, anh hoài nghi. Không biết ngài có thực sự hiện hữu không? Chàng nói bằng một giọng nhỏ nhẹ.
- Sao anh lại nghi như thế được. Alice cất cao giọng.
Chàng yên lặng trong giây lát và một ý tưởng quen thuộc bỗng hiện ra:
- Khi anh nhìn thấy quanh ta biết bao nhiêu điều xấu xa tội lỗi, anh tự hỏi sao Chúa lại để cho xảy ra như vậy.
Giọng chàng buồn rầu quá làm Alice bỗng cầm lấy tay chàng:
- Ðúng, thế giới đầy dẫy tội lỗi. Em biết rõ điều này chứ. Nhưng vì vậy mà mình phải tin Ngài. Không có Ngài mọi khổ đau sẽ chẳng còn giá trị gì nữa. Mọi sự sẽ trở thành vô nghĩa. Và nếu như vậy, có lẽ em cũng chẳng sống làm gì.
Edward nói với giọng trầm tư:
- Có lẽ em nói đúng.
Và ngày chủ nhật chàng đi lễ với nàng. Chàng cũng nhúng tay vào chậu nước thánh, và khi thánh ca trỗi lên, chàng cũng hát theo những bài có âm thanh quen thuộc; nhưng chàng không thuộc lời nào hết, nên thay vì hát nàng chỉ ê a theo sau mọi người.
Dần dà khi nhớ rõ được, chàng cất cao giọng hát, và đây là lần đầu trong đời chàng mới nhận ra chàng có giọng hát trầm rất hay. Khi mọi người đọc kinh và vài bà già quỳ xuống. Tí nữa, chàng cũng bị một sự khao khát lạ lùng lôi kéo chàng quỳ xuống theo. Chàng hiên ngang làm dấu thánh giá và cảm thấy một cảm giác là lùng khi có thể làm một việc mà trước đây chàng chưa bao giờ làm trong đời, chàng cảm thấy tự do một cách kỳ diệu.
Khi xong lễ, Alice nhìn chàng với ánh mắt long lanh:
- Bây giờ anh còn nói là anh nghi ngờ Ngài không?
- Không.
Alice nói:
- Em sẽ dạy anh yêu Ngài như em.
Họ dừng trước thềm nhà thờ và trong lòng Edward buồn cười quá đỗi. Rủi thay, bà giám hiệu tình cờ đi ngang và trông thấy họ.
Phần 3
Thật là rắc rối. Chúng ta phải nhớ rằng (những ai không biết bối cảnh lịch sử của câu chuyện này) mặc dù luật không cấm đi nhà thờ, nhưng không phải là không nguy hiểm khi đi thờ phụng.
Ðiều này không có gì khó hiểu cả. Những kẻ lãnh đạo cuộc đấu tranh mà họ gọi là cách mạng, thượng tự hào rằng luôn luôn đứng đúng trên mọi trận tuyến. Khi mười năm hoặc hai mươi năm trôi qua sau cuộc cách mạng (có lẽ đúng vào thời điểm câu chuyện này), những trận tuyến đã tan rã, và cũng làm tiêu luôn phe luôn luôn đứng đúng trên lập trường đấu tranh. Những kẻ này phải tìm những mặc trận khác để thay thế, để xác định lập trường của họ. Họ tìm thấy tôn giáo (như những kẻ vô thần chống lại tín ngưỡng) để thay thế và phục hồi lại lập trường vinh quang cũng như sự tiên tiến của giai cấp.
Nhưng thật ra, mặt trận thay thế này cũng hữu ích cho những người khác mà Alice là một. Cũng như " nàng " giám hiệu luôn luôn đứng về phía đúng, Alice muốn đứng về phía nghịch. Trong cuộc cách mạng, cửa hàng của ông già nàng bị quốc hữu hóa và Alice thù ghét những kẻ xâm phạm đến gia đình nàng. Nhưng làm sao nàng có thể tiết hận được? Chẳng lẽ cầm dao đâm chém những kẻ cai trị? Alice tìm được biện pháp khác để bày tỏ thái độ đối kháng của nàng: Nàng tin Chúa!
Như thế Chúa giúp cho cả hai phe và, cảm ơn Ngài, Edward kẹt ở giữa.
Sáng thứ hai hôm sau, bà giám hiệu đến phòng giáo sư gặp Edward. Chàng hồi hộp vô cùng. Chàng không tìm được cách khôi phục lại sự thân thiện buổi ban đầu vì sau đó (không biết vì cảnh giác hay sơ ý) chàng chưa bao giờ nói chuyện lại với cô ta. Vì thế bà giám hiệu nói với chàng bằng một giọng lạnh lùng:
- Chúng ta gặp nhau hôm qua, phải không?
- Thưa, vâng. Edward trả lời.
Bà giám hiệu tiếp tục:
- Tôi không thể hiểu được tại sao một chàng thanh niên lại có thể đi nhà thờ.
Edward nhún vai ngơ ngác trong khi ả lúc lắc đầu:
- Hừ, một chàng thanh niên!
- Tôi đi xem kiến trúc thời Baroque ở trong nhà thờ.
Edward tìm được cớ để lẫn tránh. Ả nói tiếp, giọng mỉa mai:
- Thế à ! Tôi không biết anh có sở thích về nghệ thuật như thế.
Câu chuyện này làm Edward khó chịu. Chàng còn nhớ ông anh chàng lò cò xung quanh nhân vật này và cười rộ lên. Chàng sợ rằng lịch sử gia đình lại có cơ tái diễn nữa. Thứ Bảy, chàng gọi điện thoại cáo lỗi với Alice vì bị cảm chàng không thể đi nhà thờ với nàng chủ nhật được.
Sau ngày chủ nhật, Alice trách chàng:
- Anh thật là hư! Nhưng giọng nói của nàng rất lạnh lùng. Vì vậy chàng phải kể cho nàng nghe (với giọng mơ hồ là vì chàng không dám thú thật là chàng sợ) những rắc rối đang xảy ra cho chàng trong trường, và bà giám hiệu kinh khủng đang canh chừng chàng lom lom. Chàng muốn nàng thông cảm cho hoàn cảnh của chàng, nhưng Alice nói:
- Bà xếp của em lại ngược lại, chẳng buồn dòm ngó ai hết.
Rồi nàng bắt đầu kể chuyện công việc nàng. Càng nghe giọng nói nhí nhảnh của nàng, Edward càng thấy sầu đời.
Milan Kundera
(còn tiếp...)
Trịnh Đình Tường dịch theo bản English: "Edward and God", trong tuyển tập "Laughable Love".