vhnt, số 170
5 April 1996
Trong số này:
thư vhnt..................................... Phùng Nguyễn (guest editor)
T h ơ :
1 - Tâm Hoa ............................................Nguyễn Mạnh Trinh
2 - Tìm Nhau .........................................................lephan
3 - Nhà Nghèo ..................................................Ðức Lưu
Giới thiệu thơ ngoại ngữ / chuyển ngữ :
4 - Heinrich Heine:
Họ yêu nhau say đắm tự lâu rồi .................Duy Mẫn dịch
5 - B.G. Imaginativeness ..................................Nguyễn Kỳ Phong
6 - Tình sử / Love story ...............Pham Chi Lan / Dương Hùng dịch
D i ễ n Ð à n V ă n H ọ c :
7 - Tô Thùy Yên, thuyết trình về Thơ .................Tô Thùy Yên
(Bài đọc buổi ra mắt thơ tuyển, Mar. 9, 96 tại Houston, TX )
T r u y ện N g ắn / S án g T ác :
8 - Ðổi Mới . Những Hội Nghị ......................Phạm Thị Hoài
(trích chương 7, truyện dài "Mari Sến")
Bạn thân mến,
Mỗi tác phẩm văn học nghệ thuật gởi đến giới thưởng ngoạn đều mang một ý nghĩa nào đó mà tác giả đã cố tình gói ghém trong một bài thơ, một đoạn văn xuôi, một bức tranh, hay một bản nhạc. Có người muốn gởi đến chúng ta một "sứ điệp" nghiêm trọng, một vấn nạn quay quắt, một tư tưởng vời vợi, hoặc khiêm nhường hơn, một hy vọng nhỏ nhoi, một giọt lệ âm thầm, hay chỉ một nụ cười lặng lẽ. Và từ đó, đứa con tinh thần của họ bắt đầu cuộc phiêu lưu vào tâm thức chúng ta, có khi "xuôi chèo mát mái," có lúc trắc trở nhọc nhằn. Bởi vì chúng ta, người thưởng ngoạn, có toàn quyền diễn dịch, cảm nhận tư tưởng của tác giả với trạng thái nội tâm và ảnh hưởng ngoại tại ở chính cái lúc ta đang thưởng thức. Và như vậy đó, ta đã mang tâm tư của họ vào trong thế giới riêng của chúng ta, đọc, nghe, nhìn tác phẩm bởi phần hồn sâu kín vài cái kinh nghiệm quá khứ rất riêng tư của mình. Họ, những người sáng tác, vô cùng biết ơn chúng ta, những người thưởng ngoạn, bởi vì ngoài tác phẩm nghệ thuật, còn cách nào khác để chia sẻ tâm tư của họ với những người mà có khi cả đời chưa lần gặp gỡ?
Hãy xem mỗi tác phẩm như một nhịp cầu.
Chúc các bạn một ngày vui.
Phùng Nguyễn
(guest editor)
Tâm Hoa
Cảm ơn hoa đã vì ta nở
Mười ba năm thoảng đã vô cùng
đời theo triền nước Tiền Giang vỗ
Lòng ta Vàm Cống cũng mịt mùng
Sống ta nhành cỏ thành hoang địa
Thời thế phai tàn mấy ước mơ
Kinh sáng mù không thành vô nghĩa
Thần Phù man mác khói thờ ơ
Tâm sự lồng theo bờm ngựa chứng
Mỗi vó trường chinh mỗi đọa đầy
Sóng đông sóng tây trường thành dựng
Còn dòng nước nào cuộn ở đây?
Cảm ơn hoa đã vì ta nở
Còn lại nếp nhà góc lãng quên
Cửa ta xiêu tán bờ rêu lở
Tình đời còn quạnh những oan khiên
Tóc điểm sương trở về ngõ cũ
Ô hay ý nghĩ chợt phù vân
Con chim sẻ đến dường muốn rủ
Dẫn ta tìm lại những bàn chân
Dù hiểu đất trời còn vô lượng
Sống cho qua đành chuyện lần khân
Rán ngăn nắp cho vừa hình tượng
Sầu ta ngủ tạm đã ngàn năm
Nguyễn Mạnh Trinh
Tìm Nhau
Tiếng hát em tiếng bàng bạc tiếng quên
Nốt nhạc tôi nốt hoài mong nốt lặng
Trao gửi rất âm thầm tâm tư
Một nỗi niềm cung bậc vỡ
Trên dòng thời gian uốn nắn
Tàn nhẫn những âm giai lạ lùng
Chờ ngóng
Hỏi rung động nào
đã đến trong mắt của đêm
để em hát về những ngày xưa điên điển
điên điển,
vẫn những mùa điên điển của em trôi
đã vàng bao con nước
mà văng vẳng đâu đây
vẫn tiếng hò xuôi ngược
thơ ấu ra khơi
Ðể tôi sẽ mãi là tôi
phím mỏng lối về
bình minh hy vọng
lạc giọng
ngậm ngùi giòng phượng vĩ
giữ dùm em thưở mắt biếc môi hồng
Nhưng vẫn đêm chập chùng,
những tiết tấu lạ lùng
giăng mắc
Ðể em cứ mãi là em
những nhớ nhung không cùng
dằn vặt
Hạnh phúc hay nỗi đau
Khi ta mãi tìm nhau
tiếng hát...
lephan
Nhà Nghèo
Thựợng Ðế hỡi, mang tình thương xuống nữa,
Vượt không gian tìm đến với muôn loài.
Tắm gội cả những linh hồn thối rữa,
Vẫn ngậm ngùi, hờn tủi nỗi bi ai...
Tập thơ Hiện Thực - Ðức Lưu
Ngoài, mưa lất phất
Gió rít từng cơn.
Trong, chòi lạnh ngắt
Ngọn nến chập chờn.
Co ro, ủ rũ
Kẽo kẹt võng đưa,
Giọng người thiếu phụ
Não ruột ầu ơ!
Thằng bé đói dạ
Cục cựa từng hồi,
Chừng như mệt lả,
Cũng đành im hơi.
Mặt nó tái nhạt
Dưới ngọn nến tàn.
Cặp môi khô, lạt
Chốc... lại ho khan.
Vách nhà xịch mở,
- "Mình hả?"
- "Ừ, về!"
- "Sao?"
- "Như mọi bữa,
Chẳng ma nào thuê!
Khoai không một củ,
Cám cũng chẳng còn.
Cả tuần, mỗi bữa
Rặt lá chuối non.
Thuở làm, vay nợ,
Kẻ còn nhủ lòng.
Nay tời thất nghiệp,
Một hào cũng không.
Phen nay thôi chết,
Biết có sống còn?
Chẳng tiền mua thuốc.
Sao cứu được con!!!"
Vợ nghe ngán dạ
Khơi đống tro tàn.
Chồng quên đói lã,
Cũng ngồi hoang mang.
Võng lạt cục cựa,
Chẳng tiếng ho khan.
Vợ, chồng nỗi sợ
Xâm chiếm, lan tràn.
Thằng nhỏ tái mét.
Dưới ánh đèn mờ,
Bọt sùi nơi mép
Tủi một đời thơ.
Vợ, làn tóc rối
Ghì chặt thằng con.
Chồng, buồn không nói,
Ngậm đắng nỗi hờn...
oOo
Ngoài, mưa sướt mướt,
Gió rít từng hồi.
Trong, chòi lạnh buốt,
Nghèo ơi! Nghèo ơi!!!
Ðức Lưu
Họ Yêu Nhau Say Đắm Tự Lâu Rồi
thơ Heinrich Heine
Họ yêu nhau say đắm tự lâu rồi,
Từng khao khát, từng nhớ nhung khắc khoải,
Nhưng như kẻ thù họ lánh xa nhau mãi,
Lời đổi trao chỉ nhạt nhẽo vu vơ.
Rồi họ chia tay kiêu hãnh thẫn thờ,
Ảnh hình cũng chỉ về trong giấc mộng
Rồi họ chết, dưới suối vàng lạnh vắng,
Họ gặp nhau, nhưng nào nhận ra nhaụ
Chú thích: Bài thơ này của Heinrich Heine được Mikhail Yuryevich Lermontov dịch phóng tác ra tiếng Nga. Lời tiếng Việt ở trên được Duy Mẫn (rất có thể là Khắc Khoa hoặc Thuý Toàn) dịch từ bản tiếng Nga của Lermontov. Nguyên văn của bài thơ bằng tiếng Ðức như sau:
Sie liebten sich beide, doch keiner
wollt' es dem andern gestehn;
sie sahen sich an so feindlich,
und wollten vor Liebe vergehn.
Sie trennten sich endlich und sahn sich
nur noch zuweilen im Traum;
sie waren laengst gestorben,
und wussten es selber kaum.
Trong cuộc đời ngắn ngủi của mình (27 năm), nhà thơ Nga vĩ đại này đã dịch nhiều thơ của Goethe, H. Heine ra tiếng mẹ đề Ngoài những bản dịch thơ và thơ của chính mình, tác phẩm: "Người anh hùng thời đại" (Geroi nasego vremenhii == A hero of our time) đã làm Mikhail Yuryevich Lermontov trở nên bất tử trong nền Văn học Nga.
ÐNH
B.G. Imaginativeness
To Berezina G.
Imaginative B.G., ever effervescent,
Renders my imagination to obsolesce.
Orgasmic Berezina, emptying her Lust into
The Dnieper of Imagination.
My Imaginativeness!
Bless me, an obsessed mind, I profess
Bless me, Berezina, more blessings than I've received
My soul for sale; be its proprietress
Upon which land you sow your imaginativeness
Do not seize me; held my mind hostage
Berezina G., I'm obsessed,
I'm enraged; gone is my sage
Orgasmic Berezina, I'm in an imaginated cage.
Oh! Berezina! Imaginative imminence
Where were you in my adolescence?
Nguyễn Kỳ Phong
Tình Sử Love Story
Nàng có mối tình mầu tím She has a violet Love
nhẹ như làn hương trầm as light as incense screen
bay vào chiều dispersing in the evening
tản
mạn
Có sóng Water makes waves
nơi hồ thiên trúc in the bamboo bordered lake
con hạc ngắm trăng A lonely crane comtemplates the Moon
một mình in drunkeness
với cơn say
Sợi khói rưng rưng A string of smoke smears
mắt ai nhạt nhòa some eyes full of tears
tiếng chuông trầm rung The Pagoda bell resonates
gọi hồn ai tỉnh giấc awakening souls
PCL Dương Hùng chuyển ngữ
BÀI ÐỌC TRONG BUỔI RA MẮT THƠ TUYỂN của Tô Thùy Yên
ngày 9 tháng 3-1996 tại Houston, Texas
Kính thưa quí vị quan khách,
Thưa các bạn,
Trước hết, tôi xin trân trọng cảm tạ toàn thể quí vị quan khách hiện diện, các bạn văn nghệ sĩ tham dự cùng quí vị trong Ban Tổ Chức buổi ra mắt sách hôm nay đã dành cho tôi một vinh dự lớn lao được đứng nơi đây trong tư cách một người làm thơ để nói về thơ. Thực sự, tôi hoàn toàn không dám nghĩ rằng tấm thịnh tình của quí vị, của các bạn được dành cho thơ, thơ nói chung, thơ của mọi người làm thơ và đọc thơ, thơ như một điều gì đó rất đỗi thiết thân nhưng cũng cực kỳ xa lạ của đời sống.
Phải, từ bao giờ, có lẽ từ lúc hồn thơ bắt đầu phát sinh trong tâm thức con người cùng với sự sáng tạo thần kỳ của tiếng nói, dường như thơ luôn luôn bị người đời trong một định kiến hết sức oan uổng cho thơ, hoặc rẻ rúng nó đến độ tưởng như nó không hề hiện hữu, hoặc lưu đày quản thúc nó vào một cõi vô thực, hão huyền dành riêng cho một số ít tâm hồn bị nguyền rủa nào đó lui tới. Thơ như một đứa con chẳng trông nhờ gì được của người cha mù lòa quờ quạng, là đời sống không ngừng hoài vọng tìm gặp cho được một lần những giải đáp soi sáng niềm bí ẩn lớn lao đời đời bao quanh nó, ở trong nó. Giữa đời sống và thơ, từ bao giờ dường như đã có một khoảng cách xa vời chẳng thể thu ngắn, người đọc đến với cõi thơ luôn luôn có cảm tưởng mơ hồ đã phải tạm thời tách lìa thế giới thực tại vây bủa, thơ mặc nhiên bị coi như ngày nghỉ xả hơi nào đó của trí não tù hãm, u trệ, như một khác thường đôi lúc xảy ra của đời sống, và ý niệm như vậy về thơ tưởng cũng đã làm một điều ân sủng tử tế lắm lắm cho thơ. Nói cách khác, đời sống trong vận động miên man sinh tồn và phát triển của nó, giữa những chập chùng ngặt nghèo hỗn độn của bao nhiêu là sự kiện thực tế hiển hiện lúc nào cũng chực gây thương tổn và huỷ hoại phẩm cách của con người, vâng, đời sống, trong những điều kiện cực kỳ bi đát như vậy, dường như thường xuyên có phản ứng gần như bản năng chối nhận thơ như một đeo đẳng trì kéo phiền toái có nguy cơ phá hoại trầm trọng chính sự vận đông sinh tử đó của đời sống. Nhưng chính cái phản ứng gần như bản năng chối nhận thơ đó phần nào cũng xác nhận rằng thơ luôn luôn có mặt một cách cơ hữu mật thiết ở trong đời sống, cùng với đời sống. Tất nhiên khoảng cách có tính tưởng chừng đó giữa đời sống và thơ chẳng phải do chính người làm thơ cố tình tạo ra như thông thường hắn vẫn bị chê trách nặng nề như chính đó là lỗi của hắn vậy. Và khoảng cách đó, cuối cùng rồi cũng phải được người làm thơ, để làm tốt công việc của mình là chụp bắt hồn thơ trong cái hình trạng hoàn toàn trung thực vốn biến ảo không lường của nó, bất đắc dĩ chấp nhận như llà điều kiện mặc nhiên của thơ. Thơ như một điều gì đó mập mờ, hư giả, thậm chí lắm lúc còn tối tăm, bí hiểm, và do đó, không những đã vô ích mà còn bị tình nghi là có hại là đằng khác. Nhưng dù thế nào đi nữa, thơ, như vừa nói qua, vẫn đời đời ở lại với loài người như một tình nhân định mệnh thắt buộc, không muốn cũng không được. Và cũng vì tính chất thoạt trông có vẻ phù phiếm vô bổ đó của thơ nhiều lúc có thể tạo thành dễ dàng một mặc cảm nặng nề nơi người làm thơ nên một số không ít những người làm thơ đã muốn dĩ thi tải đạo, làm những bài thơ giáo huấn tuyên truyền luận giải thuyết phục, để thấy mình cũng như thơ có được một mục đích lợi ích xã hội thiết thực. Tất nhiên không hiếm những chế độ chính trị đã tận lực góp thêm phần tạo thành dầy đặc cái mặc cảm vô dụng đó nơi người làm thơ để dễ dàng sử dụng hắn như một công cụ cũng khá cần thiết cho chúng, và khi đã ưng chịu như vậy thì người làm thơ một cách mặc nhiên đã làm một công việc hoàn toàn khác biệt với công việc làm thơ, đã tự mình chối bỏ danh xưng thi sĩ. Một chế độ chính trị bao giờ cũng bắt buộc phải chứng minh bằng cách này hoặc bằng cách khác. Còn thơ tự bản thân nó chẳng nhăm` chứng minh bất cứ điều gì, ngoại trừ chỉ chứng minh nó là thơ, thế thôi. Sự thiết thân gắn bó của thơ đối với con người, cái lý do tồn tại chính đáng cao cả đó của thơ sẽ phải chỉ được tìm thấy ở một nơi chốn nào khác, và nơi chốn đó là hồn thơ của chính người đọc. Ðiều ngộ nhận thông thường của người đời là mặc nhiên coi hồn thơ như cái phần sở đắc trời đất đã ưu ái - hay độc địa? - dành cho người làm thơ mà thôi, và hắn phải cam chịu mịt mùng cô độc vô vọng vì cái phần sở đắc ngặt nghèo riêng tư đó. Sự thật không phải như vậy, hồn thơ luôn luôn là sở hữu chung đều của mọi con người, cả người làm thơ lẫn người đọc thơ, không phân biệt ai ai. Tất nhiên, qua thời gian chung đụng với đời sống, mỗi cá nhân hoặc giả đã đầu tư phát triển ít hay nhiều theo một cách thức nào đặc biệt của mình cái vốn liếng sẵn sàng đó, hoặc giả đã không muốn đá động sử dụng gì đến nó cả. Nói cách khác, hồn thơ ở mỗi cá nhân lâu ngày chầy tháng khuôn thành theo hình dạng tâm tính đặc thù của cá nhân đó. Nhưng cho dù hồn thơ ở một cá nhân nào có tuyệt đối bị bỏ quên trùm lấp chăng nữa, ở cá nhân đó, hồn thơ cũng chẳng hoàn toàn tàn rụi mất biến được.
Bởi lẽ hồn thơ vĩnh viễn tàng ẩn bàng bạc trong tận cùng sâu thẳm của tâm thức con người giăng mắc mạng lưới phức tạp những xúc cảm tư duy cực kỳ tinh vi trong tương phùng chuyển hoá sinh động miên man của ngôn ngữ hàm xúc trùng trùng những huyền nhiệm bất khả tư nghị, nó trường kỳ nghi phục bất đông đâu đó, để rồi trong những thoáng cơ duyên nào bất chợt nhất, nó lại xuất đầu lộ diện ngự trị, điều động con người theo những luật tắc riêng biệt vừa rộng rãi mà cũng vừa nghiê, nhặt của nó. Và kinh qua những lần chứng nghiệm thơ như vậy, con người bỗng nhận thức được như một đốn ngộ về nghịch lý: thơ, với tất cả những gì mà người đời cho là những khuyết phế vốn dĩ của thơ, lại cũng là một phương thức nhận thức đặc biệt cùng với những phương thức nhận thức khác của con người triền miên theo đuổi công việc tìm kiếm những sự thật lẩn khuất chung quanh mình, ở trong mình. Và thơ, tội nghiệp thay, cũng là đứa con nhờ vả được đã dẫn dắt người cha mù loà đi sâu vào những cõi u ẩn huyền nhiệm tuyệt vời mà chính những đứa con sáng sủa hằng được trọng vọng khác của trí tuệ con người chẳng tài nào tiếp cận. Phải, ở những lằn ranh cuối cùng mà tôn giáo, triết học, khoa học đã phải đứng lại, thơ, vâng, chỉ có thơ, vẫn nhẹ nhàng tiến bước, xông pha, bay lượn, vùng vẫy. Lúc đó, những lúc đó, con người chợt cảm nhận rằng mình phơi phới nhẹ nhàng như đã được giải phóng khỏi những nặng nề đè ép thường nhật, rằng mình đã thật sự sở hữu được cái đời sống mà mình vẫn lầm tưởng là duy nhất chính đáng, một đời sống khác nữa không hẳn là không xác thực, một đời sống khác nữa ở ngay trong cõi sâu cùng thăm thẳm nhất của chính đời sống. Những lúc đó, con người nương thả theo thơ, sống trọn vẹn là con người với đầy đủ các tính cách kỳ diệu lạ lùng mà bình thường chưa từng nghe thấy có, tưởng chừng chẳng thể có. Bởi lẽ hồn thơ chính là cái phần u uẩn lẩn khuất mênh mông tuyệt đối của hồn người, nó chính thị là hồn người trong ý thức sau cùng hết của hồn người. Người đọc thơ, những lúc đó, mặc nhiên trở thành thi sĩ theo định nghĩa cao cấp nhất của danh xưng: kẻ tạo dựng một thị cảm, một cách thức nhìn thấy độc đáo về cái thế giới vừa ngoại quan và cũng vừa nội quan mà chính mình đang sống. Thơ chính là một thị cảm dù được thể hiện theo kỷ luật riêng biệt của bất kỳ trường phái hay khuynh hướng thi ca nào, và nếu như bài thơ nào không truyền đạt được những khêu gợi phải có nhằm đánh thức thôi thúc được một cách mãnh liệt cái hồn thơ ẩn náu bất động nơi người đọc để hình thành một thị cảm nào đó, chắc chắn bài thơ đó là một thất bại, bài thơ đó đương nhiên không phải là thơ. Tất nhiên, khi làm bài thơ, phần người làm thơ tận lực cố gắng đã đành, mà cả người đọc, khi đọc bài thơ đó, cũng phải tận lực cố gắng phần mình nữa trong việc thể hiện được trọn vẹn cái hồn thơ chung chạ của cả đôi bên. Một cách thông thường, con người ù lì bất động trước những quen thuộc nhàm chán nhưng lại sẵn sàng có phản ứng tức thì xô chối phủi xua những điều đầu tiên còn xa lạ ngỡ ngàng. Người làm thơ thành công dường như bao giờ cũng phải là người vừa có vẻ là cố tri, lại vừa thật sự là sơ ngộ đối với người đọc. Ðó cũng là yếu tố chung của mọi nỗ lực sáng tạo, phải trông thấy quen quen để được đón nhận, rồi sau đó mới có thể trưng bày được những khác biệt phải có. Trong nghệ thuật không có niềm tự hào vô lối về một sự làm mới tuyệt đối. Có thể quả quyết rằng mọi sáng tạo đều phải phát xuất từ một gia sản có tính truyền thống nào đó. Mọi sáng tạo, trong giai đoạn đầu tiên ngắn ngủi thôi, là một mô phỏng, một lặp lại. Kể cả những người khai phá làm mới táo bạo nhất trong nghệ thuật cũng ít nhiều để lộ nơi họ những vết tích nào đó của một quá khứ xa xôi. Không có một thứ gì không có cội nguồn. Cái quá khứ xa xôi tồn đọng, đó chính là cốt tủy khuất ẩn của hồn người. Thơ không ở ngoài lề luật chung đó, bao giờ nó cũng khởi đi từ lớp lớp quá khứ truyền thống của ngôn ngữ. Cũng như mọi sáng tạo khởi đầu vốn là công việc của một con người đơn độc để rồi sau đó, chỉ có thể hoàn thành trọn vẹn với sự hợp tác gia công của một người khác nữa, người thưởng ngoạn. Lẽ đơn giản rõ ràng là nghệ thuật bao giờ cũng mang nặng trong bản chất của nó niềm mong mỏi chia xẻ. Cả lúc khởi đầu cũng đã là sự chia sẻ ngay trong tự thân, với chính mình, của người làm nghệ thuật.
Thế kỷ mà chúng ta đang sống đây càng lúc càng hiển lộ một hiện tượng tách biệt trầm trọng lạ lùng giữa thơ và đời sống. Tách biệt dến mức tưởng chừng bây giờ thơ đã trở thành một công việc riêng tư hết sức chuyên môn như trong một hội kín giữa các người làm thơ với nhau thôi. Tách biệt đến mức tưởng chừng bây giờ hồn thơ của loài người đang hồi cạn kiệt rồi vậy, nòi giống của những người làm thơ và những người đọc thơ đang lâm vào nguy cơ tuyệt diệt rồi vậy. Trước đây trong lịch sử, cũng đã có những thời đại suy thoái cùng khốn vất vưởng của thơ, nhưng dường như chưa từng có một thời đại nào mà thơ đã bị dồn đẩy thảm thương tuyệt lộ vào một xó góc tùm túng bí thở tăm tối lãng quên như trong thời đại của chúng ta. Ngày nay, số người thật sự đọc thơ càng lúc càng hiếm hoi, và người làm thơ càng lúc càng bị quy kết một cách nghiệt ngã, hoặc oan hoặc ưng, đã chẳng có đủ tài năng và cả thiện chí thực hiện mỹ mãn công việc của mình. Lý do viện dẫn thông thường là sao thơ bây giờ khó khăn bí hiểm quá, sỗ sàng thô trọc quá, xa lạ kỳ cục quá, nó thế nào ấy, nó không còn giống như thơ nữạ Từ những nguyên nhân nào và phần lỗi thuộc về ai, ở đây chúng ta không đề cập đến bằng một phân tích chi li và rốt ráo. Ở đây chỉ ghi nhận là hiện có một chênh lệch rất đỗi lớn lao tưởng chừng khó thể trùng nhập được nữa giữa hai mạng lưới xúc cảm tư duy đã bắt đầu khác biệt về khuôn khổ cũng như về cấu trúc của người làm thơ và của người đọc thơ. Một chênh lệch như vậy đôi khi cũng được bắt gặp trong giai đoạn khởi đầu của những thời kỳ văn học nghệ thuật được canh tân nhưng nó không đến nỗi trầm trọng vô phương điều chỉnh như là sau đó không lâu, may mắn thay, đã điều chỉnh được, thông thường từ phía quần chúng đã có đủ thời gian kết thân thích nghi. Khác hẳn với sự chênh lệch có tính chia lìa chẳng thể còn quay về, được ghi nhận hôm nay và được nhìn thấy như một hậu quả đương nhiên của tính gia tốc khốc liệt của lịch sử đã làm nẩy sinh tính tức thời vụn nát và tính thực tiễn đáp ứng tối thiết yếu của đời sống. Ðược nhìn thấy như một mối đe dọa bị huỷ hoại càng lúc càng trầm trọng bức bách của con người.
Ngôn ngữ, công cụ tư duy duy nhất của con người, thành tựu cao cả tuyệt vời của con người càng lúc càng giảm n nhẹ uy thế lâu đời của nó trong đời sống, lần lượt bắt buộc phải nhường chỗ cho một ngôn ngữ khác cụ thể hơn, gọn gàng hơn, dễ nhận hơn, nhanh chóng hơn, ngôn ngữ của những dãy dãy tiếp chuyển hình ảnh tới tấp chồng chất. Thơ bây giờ sẽ phải như thế nào đây? Có lẽ không một người làm thơ nào không trăn trở vì câu hỏi đó. Ngôn ngữ đích thực đã bị sàng sẩy giản lược vào mỗi chức năng đầu tiên thô sơ là trao đổi giao thiệp xã hội thuần tuý. Phần huyền nhiệm sâu thẳm vốn ôm ấp ẩn chứa bao nhiêu là tình tự tích lũy nghìn đòi của ngôn ngữ đã bị chính đời sống xã hội một cách không thương tiếc tước bỏ, lãng quên không cần dùng tới nữa. Nhiều thể loại văn học cáo chung. Sách vở bị truất phế. Thư viện có nguy cơ bị trở thành hầm mộ của những xương cốt cổ thời. Và rồi theo cái đà đó, điều gì sẽ xảy đến với con người? Hẳn cũng chẳng khó khăn gì mà chẳng tiên cảm được điều này: đó sẽ là thời kỳ khô hạn, héo rụi khác thường của con người cằn cỗi, rã rời, thời kỳ đáng sợ nhất trong suốt dòng lịch sử nhân loại. Có lẽ vậy. Việc đánh mất cái phần trừu tượng của con người hiển nhiên sẽ dẫn đưa đến việc đánh mất toàn thể con người. Sự tắt lụi của ngôn ngữ đích thực cũng đồng nghĩa với sự tắt lụi của chất lửa tồn trữ trong phiến đá sống là con người. Và rồi sau đó nữa thì sao? Mong mỏi thay cho con người sẽ vì niềm luyến nhớ ám ảnh day dứt khôn nguôi về chính hồn mình từ lâu lạc loài thất tán, lại phải đem thân dầu dãi vào một cuộc phiêu lưu khác nữa, một cuộc phiêu lưu chắc chắn cực kỳ gian truân để tìm gặp cho bằng được chính hồn mình giữa cảnh giới bao la trù mật thanh sắc của ngôn ngữ đích thực mà ở đó, bao giờ thơ cũng là hình dáng biểu hiện cao diệu nhất. Và như vậy, cho dù ở vào tình huống nào đi nữa, càng thách đố càng phải nỗ lực, chúng ta đã chẳng muốn để mất đi lòng tự hào được làm người, chúng ta sẽ còn tiếp tục vun dưỡng cái thần siêu đẳng của ngôn ngữ, còn tiếp tục đọc thơ, làm thơ, nếu như chúng ta còn có một phẩm giá nào đó cần phải bảo trọng. Bởi lẽ thơ chính là phần sinh lực dự trữ tối hậu mãnh liệt hất của con người không bao giờ khứng chịu bị hủy hoại vong thân. Ðó là lý do tồn tại chính đáng cao cả của thơ để cho con người cùng tồn tại với. Khoảng cách cho là có giữa đời sống, và thơ sẽ chẳng còn là khoảng cách nữa nếu như hồn thơ trong con người đã thức dậy, đã hiển minh. Thơ là con đường trải dài của thời gian, nối liền quá khứ với hiện tại nhằm hướng đến tương lai, không gián đoạn, trong nỗ lực mô tả những diễn biến cụ thể của thời gian thì thơ, một cách khái quát, là lịch sử trừu tượng của thời gian, là phần hồn thiêng linh của lịch sử. Nhìn thấy thơ như vậy mới thật sự nhìn thấy đầy đủ thơ.
Xin chân thành cảm tạ sư quan tâm của quí vị, của các bạn.
Tô Thùy Yên
*thân gửi đến bạn đọc vhnt của PCL , TTY.
Lời Giới Thiệu:
Bài dưới đây được trích từ chương 7 của "Mari Sến," truyện mới nhất của Phạm thị Hoài, một cây viết quốc nội hiện đang định cư tại Berlin, Ðức quốc. "Mari Sến," theo Văn Học, "là một tác phẩm đề cập đến những xáo trộn của giới trí thức Hà Nội," và được viết bằng một bút pháp khinh bạc, quyết liệt, và dữ dội tột cùng" nên không có cơ hội được xuất bản trong nước. Cũng theo Văn Học, truyện sẽ được nhà Thanh Văn và tạp chí Văn Học phối hợp xuất bản trong tháng 4/96.
Cũng xin nói thêm, người viết lời giới thiệu đã "phải lòng" nhà văn nữ "dữ dội" này ngay từ lúc hắn đọc truyện ngắn "Chín Bỏ Làm Mười" của nàng, viết trong năm 1988. Ai bảo "tiếng sét ái tình" là chuyện chỉ xảy ra trong tiểu thuyết? :) Xin trân trọng giới thiệu đến các bạn chương 7 của "Mari Sến."
Phùng Nguyễn
oOo
Chương 7 - Đổi Mới. Những Hội Nghị
Cho nên tôi không mấy ngạc nhiên khi Sến xuất hiện trong một hội nghị ở Viện. Ông hàng xóm xế bên phải tôi hôm ấy đọc một tham luận sau ba chục năm im lặng. Sến đến, áo dài tóc buông bước chân lịch duyệt, một người nữ quá hoàn hảo để có mặt giữa chúng tôi, trận mạc này không có cao bồi bắn súng hai tay, buồn tẻ lắm.
Trận mạc này bày binh như sau:
Sát bàn chủ toạ là thượng đẳng khách, toàn những ông mặt mũi béo tốt hết sức vui tính, cười hề hề vào camera, tự nhiên như ở nhà mình. Nếu ngồi chỗ ấy chắc tôi cũng không làm gì khác hơn là vui tính. Ông Viện trưởng Viện Lớn, ông giám đốc Học viện Nguyễn Ái Quốc, ông Viện trưởng Viện Mác-Lê, ông thượng tướng Giám đốc Học viện quân sự, hai ông trung tướng, ông phó Ban Tư tưởng Văn hoá trực thuộc trung ương Đảng, ông phó Ban Khoa giáo trực thuộc trung ương Đảng, ông phó Ban tuyên giáo trực thuộc trung ương Đảng, ông đại diện Thành uỷ, ông đại diện Văn phòng Hội đồng chính phủ, ông đại diện Văn phòng tổng bí thư, ông đại diện Văn phòng cố vấn chính phủ, ông phó Ban Tôn giáo chính phủ, ông Giám đốc nhà xuất bản Sự Thật, và một ông đại diện cho Bộ nội vụ không xưng chức. Viện trưởng của chúng tôi thấp thỏm đứng lên ngồi xuống giữa họ, ông bị lây sự vui tính của họ, thậm chí ông còn đánh bạo châm một điếu thuốc cầm tay và đánh rơi tàn vào áo ông Bộ nội vụ. Thế là họ cười ầm cả lên và vỗ vai nhau. Hội nghị sẽ thành công tốt đẹp.
Kế đó là trung đẳng khách: giáo sư đầu ngành, chuyên viên cao cấp, nhà báo lão thành, cán bộ tuyên huấn tỉnh xa, chánh văn phòng Viện Lớn, đại diện các Viện nhỏ trong Viện Lớn, trông họ nghiêm trang hơn các vị ở tuyến trên nên Viện phó của chúng tôi và một vị giáo sư đội nhà lượn tà tà như trực thăng bà già để tăng cường không khí. Viện phó mặc quần bò và để râu con kiến, vị giáo sư đội nhà thì nhún nhảy rất hề, môi chúm chím một câu pha trò cực đắt như chủ hôn đám cưới làng. Hai vị ấy là chuyên gia cứu nguy. Xác suất tai nạn trận này dự tính là lớn, nên cả hai phải rất sẵn sàng.
Kế nữa là hạ đẳng khách: nghiên cứu viên các Viện nhỏ, đại diện Công đoàn, đại diện phụ nữ, đại diện thanh niên và đại diện phòng an ninh của Viện Lớn, biên tập viên một hai tạp chí… Xin bạn đọc đừng ngạc nhiên, khoa học của chúng tôi luôn là một Mặt Trận, nguyên tắc tối cao là không được thiếu tuyến quân nào.
Sến khoan thai tiến vào, tài sắc vẹn toàn đội thêm vương miện quyền uy, Ngọc Hân chăng? Ỷ Lan chăng? Kìa Viện phó của chúng tôi đã bỏ rơi các giáo sư, bay vù đậu xuống bên em, trời ơi anh ta sắp nhấc em lên, đặt cạnh lẵng hoa khổng lồ trên bàn chủ toạ, và hội trường sẽ vỗ tay nhiệt liệt. Ôi, mĩ nhân, mĩ nhân vô danh, em cần gì đâu một giấy mời, một danh thiếp, em quả là thứ duy nhất chúng tôi không trù bị nổi. Nửa năm trời, ba mươi sáng thứ hai cộng ba mươi mốt sáng thứ năm là sáu mươi mốt cuộc ngồi, chúng tôi không làm gì khác, chỉ tính toán và lo âu vấn đề nhân sự của hội nghị. Phái Ấu Cơ đầu này không được nói chuyện riêng và phái Việt Bắc đầu kia không được tự tiện lẻn ra ngoài, chúng tôi tả hữu ở giữa cố mà nhớ những thông tin khẩn mật về danh sách khách dự hội nghị: Một vị không được mời thì chửi vung lên. Một vị để tán phét cho vui. Một vị chắc chắn sẽ phá thối nhưng không ăn thua. Một vị hơi cực đoan nhưng như thế mới dân chủ. Một vị chuyên tung ra các vấn đề mà không chịu giải quyết, nhưng không sao, hội nghị này chính là để đặt ra các vấn đề càng nhiều càng tốt. Một vị nhạt thếch nhưng điềm đạm nho nhã, vả lại hội nghị nào cũng mời chẳng lẽ hội nghị này không? Khảo cổ đâu rồi? Vị khảo cổ này hay quên lắm đấy, thỉnh thoảng phải thúc. Môi sinh ở ta tay nào khá? Chết rồi, tay này đang ở nước ngoài, có khi tếch hẳn cũng nên! Văn hoá dân gian mời hai hay một nhỉ, bên ấy những hai phe? Thư viện quốc gia cho qua, dạo này thư viện ăn mày! Huế hết sức quan trọng, xin nhắc lại Huế hết sức quan trọng, có thể họ mời ta cố vấn cho cái festival sang năm có Liên Hợp Quốc tài trợ…
Thế đấy, xin bạn đọc đừng ngạc nhiên, chuyên môn hoá không phải là sở trường của người Việt, mỗi khi có dịp hội họp là chúng ta tập hợp anh tài như khai trương một siêu thị đủ mặt hàng. Hội- nghị-siêu-thị nào cũng giống nhau. Chúng tôi lục tung kho người của nền khoa học quốc gia, nhặt cho đủ quân số để xếp một đội danh dự thổi kèn thật to vào công cuộc đổi mới. Người nào đứng chỗ nào, phùng mang trợn mắt ra sao đã phân cảnh ổn thoả. Bỗng dưng Sến tiến vào!
Từ đám tào lao đứng ngồi lộn xộn tranh thủ hút thuốc của công dọc tường tôi khâm phục Sến và cũng nể ông hàng xóm xế bên phải: mĩ nhân cứ khoan thai nhẹ bước tới chiếc ghế để trống bên ông. Trong bộ com lê của ba mươi năm trước và chín nhừ vì xúc động, suýt nữa thì ông lảng đi, không dám nghĩ phần mình trong cái vinh dự thơm ngát đang mỉm cười sát lại. Ông còn nhìn trộm ra sau để quyết rằng Sến nhắm vào ai khác chứ không phải mình. Cái tích tắc ấy tổng kết chớp nhoáng thói quen nhún phận của ba mươi năm khiến tôi nổi gai khắp người. Bao giờ cũng là kẻ khác được may chứ không phải mình. Mặc cảm về bất hạnh cũng bóp chết tâm hồn như mọi mặc cảm. Ở người trí thức Việt, kèm theo đó là mặc cảm bị theo dõi và kiểm duyệt, và ảo tưởng về trọng lượng xã hội của cá nhân mình. Ông sẽ chỉ là chiếc quan tài chưa đóng nắp nếu quả thực có một cuộc đời tốt hơn mở ra. Vinh quang của ông hẳn là đủ hắt lờ mờ khi xung quanh đen ngòm, nhưng vô nghĩa trong ánh sáng của một ngày bình thường. Ôi các cụ, những ngôi sao cuối mùa chỉ nhấp nháy trong đêm ba mươi!
Nhưng tôi đã hồ đồ. Có lẽ ông Thân đã đưa vội mắt tìm thằng con trai, hi vọng của ông, vô vọng của ông, lúc này đơn giản chỉ là con trai ông, nó đang hầu chuyện một giáo sư ăn mặc sặc sỡ. Thằng nghịch tử đó, đồng nghiệp trẻ tuổi của ông đó, muốn độn thổ nên đánh rơi bật lửa. Khi nó ngẩng lên thì vấn đề cha con không còn thời sự nữa. Cũng trong một chớp mắt, ông Thân lấy lại toàn bộ phong độ nổi tiếng của ông ba mươi năm trước: phong độ của một trí thức Tây học xuất thân Nho gia quý tộc và phải lòng cuộc cách mạng của Việt Minh, một kết hợp lịch sử độc đáo tài tình. Thời ấy, những người như ông nổi bật giữa đám đông. Họ có cái cốt cách điềm nhiên tự tại mà lớp trí thức tân kì nguồn gốc tạp nham không thể có: hai ngàn năm sách thánh hiền cổ kính và mũ cao áo rộng kết thúc ở họ. Họ có cái tinh thần học giả tinh vi thuần khiết mà chúng tôi công chức của một nền khoa học vờ vịt nhố nhăng không thể có: tám mươi năm văn minh Pháp thuộc và Viễn Đông Bác Cổ cũng đến họ là hết. Họ có cái khí phách lãng mạn kiêu hùng của thuở ban đầu, tráng sĩ một đi nào có mong chi đâu ngày trở về, tráng sĩ hôn lên ý trung nhân của chàng là cuộc cách mạng còn vô cùng trinh tiết cái hôn mù quáng say lòng, hôn rồi chết cũng xong. Cho nên tất cả những người được văn hoá, lịch sử, tiến bộ, và tình yêu ùa vào cắt rốn như ông, sau này dù mỗi kẻ một lí tưởng một phương trời, cũng dễ cảm thông nhau hơn là lứa chúng tôi. Đến lứa chúng tôi thì việc khoác ba lô lên đường đã thành nếp, thành luật và lệnh, cái hôn của mối tình đầu đã thành cuộc chung chạ quá lâu ngày, chúng tôi và cách mạng, đôi bên đều nhẵn mặt nhau. Đến lượt những cậu ấm Tân ấm Đủ thì nàng cách mạng rực rỡ thuở nào chỉ còn là một mụ mãn kinh điêu toa và sợ già sợ chết, mụ ấy trát son phấn lên người như hề, hiện nguyên hình là một gái hạ lưu, và mỗi dịp sinh nhật lại đào bới trong kho ảnh lưu trữ cuống cuồng tuyệt vọng hơn. Ôi chúng nó những cậu ấm thời đại biết trút tinh lực hào khí nam nhi vào đâu!
Sến hẳn cũng sững sờ như tất cả chúng tôi: người đàn ông phút trước em vừa gắng nâng đỡ vừa lo bại cuộc, phút sau đã vươn hết chiều cao che chở đàng hoàng lịch thiệp ngời ngời, Sến và ông ấy làm thành một cặp nhìn không chán mắt. Vừa ngắm ngẩn ngơ tôi vừa được biết cái ghen ngầm mất dạy của tôi không ăn thua gì bên cạnh những thằng khác. Thằng Hồng gầm gừ “Hừ, Comeback!”, tôi dịch là “Hãy đợi đấy!”. Thằng trẻ trai này cũng con một ông đồ, đồ xứ Nghệ hẳn hoi; cũng nếm một chút mùi chiến khu, chiến khu 79; cũng Tây học, Tây Liên Xô; lại có chín mươi chín ngọn Hồng Lĩnh yểm sau lưng và làng tổ Kim Liên làm bệ đỡ. Phong độ của y không để cho người ta ngắm mà để cho người ta gờm. Nhiều tháng sau y sẽ làm một người hùng, đánh bạt hào quang của ông Thân lúc này. Nhưng chuyện còn dài… Thằng Tân bây giờ xán lại từ phía sau, một tay đặt lên thành ghế bố nó, một tay ghế Sến, chen vai vào giữa và the thé thốt lên: “Enchanté!”, tôi dịch là: “Mẹ kiếp!” Bạn đọc có thể thấy là tôi đã thu lãi lớn từ những buổi trò chuyện tay bảy trong những tổ chim xì xồ và véo von giọng mũi.
Tôi tìm thấy Đoài trong một xó phòng với ba xấp phong bì đếm dở, mỗi xấp một hạng khách. Nhiệm vụ của anh ta trong mọi hội nghị là tế nhị phát phong bì cho khách. Không có phong bì thì không có hội nghị. Nghề đi dự hội nghị là nghề nhàn và lương cao. Chúng tôi ngồi im lặng bên nhau rất lâu. Tôi luôn giữ một góc nghiêng nhất định chắn bớt đường anh chàng nhìn về phía Sến. Có trời biết vì sao tôi bỗng lo cho cơn ghen của gã cán bộ thoát li này hơn cơn ghen của chính mình. Ở trung tâm ngoại ngữ, Sến dường như thuộc về tất cả mà chẳng của riêng ai. Ở đây Sến đường hoàng cặp đôi với ông Thân. Ý thức sở hữu của anh chàng tiểu nông thế là bị thử thách đáng kể. Đoài đột nhiên thủ thỉ: “Vợ tôi hồi trẻ xinh nhất nàng, ông ạ. Tôi đi nính về, Quảng Trị ông ạ, hai trên bảy, sơ sơ thôi, nấy được cô xinh nhất nàng. Cũng có mấy thằng, giáo viên cấp ba hẳn hoi, bác sĩ nữa, mới nại thằng cha con trai chủ tịch huyện, nhưng cô ấy chọn tôi. Tôi đáng tin hơn những thằng kia, ông ạ. Thằng con chủ tịch huyện bây giờ nằm khóc dở ở Hồng Kông đợi cưỡng bức hồi hương về ăn cám. Nhưng mà tôi ngốc lắm. Cô ấy đi nàm đồng nửa buổi về, máu đầy ở xà cạp, tôi hỏi đứa nào đánh thì ra báo công an, cô ấy chạy vào buồng cười một mình. Hoá ra đán bà họ hành kinh, khiếp nắm, ông ạ. Nần nào về tôi cũng mang một bánh xà phòng thơm, nhưng mẹ con nó cất hết vào tủ, cho thơm nâu, ông ạ, mang dùng nại sợ phí. Nhà tôi ở quê toàn dùng nước mưa. Xà phòng rửa nước mưa không đi đâu, nhờn tay nắm, ông ạ”.
Tôi chuồn khỏi cơn tâm thần của anh hàng xóm sát vách. Mặc kệ anh ta đếm sai phong bì. Nếu thượng đẳng khách vớ phải phong bì dành cho hạ đẳng khách thì ông Viện trưởng chứ cóc phải tôi lo mất chức. Mặc kệ anh ta sờ soạng trong những xó xỉnh cải lương hạng bét của tâm hồn. Mẹ kiếp, tự nhiên lôi vợ ra để tự an ủi! Đời cán bộ thoát li quả là đời lí tưởng, mất mát chỗ này một tí là có ngay chỗ khác bù vào. Nếu thằng Đủ ngồi đây và nó cũng lên cơn thì hội nghị “Di sản và đổi mới” này kể như bị san bằng. Hậu Thánh Gióng cưỡi mô tô phân khối lớn, nhổ phắt sáu chiếc cột trong phòng này vung lên thì dinh luỹ khoa học xã hội tan tành!
Mới ngày nào tôi còn trêu chọc, nhài ra sao rồi ngọc nan ra sao. Sến là phát hiện của Đoài. Anh ta mởi đầu solo một sớm mùa xuân lãng mạn ở ngoại thành, chúng tôi ùa ra đồng diễn một đàn giữa mùa hè như ve đô thị. Trong tấn kịch này đứa nào cũng có cơ hội đóng kép với đào. Nếu khéo bảo nhau chúng tôi có thể luân phiên. Nhưng Đoài là một anh nông dân. Anh ta không chịu chung với năm nhà hàng xóm một con vịt để nó lần lượt đẻ mỗi nhà một trứng. Mới ngày nào đời chúng tôi thong thả, tim chúng tôi an nhàn, đứa nào thân cư chỗ nào mệnh đóng ở đâu đều đã ổn thoả. Bỗng dưng Sến chen vào!
Bảy người chúng tôi là một tập hợp vô duyên. Nếu tất cả cùng quyết chết vì tình thì chẳng hạn Sến họp với cha con Đoài được một nhóm đầu rau; Sến chết một lần nữa họp với cha con ông Thân được một nhóm trầu cau như trong truyện cổ cho hậu thế tiếc thương; nhưng Sến chết thêm lần thứ ba thì vô nghĩa vì tôi và thằng Hồng quyết không thể quyện vào nhau sống cũng như chết.
Ông Thân lên diễn đàn đầu giờ chiều ngày hội nghị thứ hai. Trước đó chúng tôi đã nghe một diễn văn mở đầu của Viện trưởng dài bốn mươi lăm phút, ba báo cáo chính, hai mươi chín tham luận. Các báo cáo đều ngợi ca công cuộc đổi mới và xác định chỗ đứng vững chắc của nền khoa học xã hội, đồng thời tiết lộ rằng trong tình hình mới rất nhiều vấn đề mới đặt ra, hoặc những vấn đề cũ có thể được xem xét lại.
Các tham luận theo trình tự sau:
Tham luận thứ nhất: “Chủ nghĩa yêu nước, di sản quý báu nhất của dân tộc Việt Nam”.
Tham luận thứ hai: “Chủ nghĩa anh hùng, truyền thống sáng ngời của chúng ta”.
Tham luận thứ ba: “Tư tưởng Hồ Chí Minh trong công cuộc đổi mới hôm nay”.
Tham luận thứ tư: “Vai trò lãnh đạo của Đảng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và sự nghiệp đổi mới”.
Tham luận thứ năm: “Sứ mệnh mới của giai cấp công nhân Việt Nam”.
Tham luận thứ sáu: “Sức mạnh của Mặt trận dân tộc - Từ liên minh công nông đến phong trào hoà hợp hoà giải”.
Tham luận thứ bảy: “Những bài học lớn từ cuộc chiến tranh nhân dân”.
Tham luận thứ tám: “Hai ví dụ về nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh: Từ Điện Biên Phủ đến chiến dịch Hồ Chí Minh”.
Tham luận thứ chín: “Chính sách ngụ binh ư nông - một cách nhìn mới”.
Tham luận thứ mười: “Phương thức sản xuất châu Á, những vấn đề của lịch sử”.
Tham luận thứ mười một: “Nông thôn Việt Nam trong lịch sử. Những bức xúc của công cuộc hiện đại hoá”.
Tham luận thứ mười hai: “Làng cổ truyền. Một vài đề nghị từ khía cạnh phát huy và bảo tồn”.
Tham luận thứ mười ba: “Phác hoạ vài nét về tầng lớp trung nông, tiềm năng và xu hướng mới”.
Tham luận thứ mười bốn: “Có hay không một tầng lớp địa chủ trong lịch sử?”.
Tham luận thứ mười lăm: “Đô thị Việt Nam trong lịch sử và hiện đại”.
Tham luận thứ mười sáu: “Thử giở lại hồ sơ của giai cấp tư sản dân tộc. Một hướng đi mới”.
Tham luận thứ mười bảy: “Chính sách bế quan toả cảng của nhà Nguyễn - Những hậu quả”.
Tham luận thứ mười tám: “Sơ bộ đánh giá vai trò của nhà Nguyễn trong việc thống nhất nước ta đầu thế kỉ mười chín”.
Tham luận thứ hai mươi: “Lại nói về trống đồng và triết học phương Nam”.
Tham luận thứ hai mươi mốt: “Bàn về chữ ‘nhân’ trong truyền thống tư tưởng của người Việt”.
Tham luận thứ hai mươi hai: “Có hay không một tâm thức Việt Nam?”.
Tham luận thứ hai mươi ba: “Tam giáo đồng nguyên, một mô hình lịch sử thuần Việt”.
Tham luận thứ hai mươi bốn: “Tục thờ Mẫu và nguyên lí Mẹ trong triết lí của người Việt”.
Tham luận thứ hai mươi lăm: “Triết lí trầu cau - Bản sắc dân tộc và hiện đại”.
Tham luận thứ hai mươi sáu: “Lược trình phát triển của chữ Việt và vai trò của nó trong công cuộc hiện đại hoá đất nước”.
Tham luận thứ hai mươi bảy: “Tản mạn về công cuộc khai hoang trong lịch sử và chính sách kinh tế mới hiện nay”.
Tham luận thứ hai mươi tám: “Tiền cổ Việt Nam – Vài suy nghĩ bước đầu về kinh tế thị trường”.
Tham luận thứ hai mươi chín: “Phôn cơ lo, một quan niệm hiện đại”.
(Tôi xin chép lại nguyên văn tên các báo cáo khoa học như vậy để bạn đọc ngoại đạo dễ hình dung thế nào là một hội nghị khoa học cấp nhà nước trong giai đoạn đổi mới.)
Ngày hội nghị thứ hai, Sến cuốn tóc cài trâm mặc váy áo đầm, em bảo hôm qua em di sản rồi hôm nay đổi mới. Hôm qua Sến sánh vai ông Thân đi khắp hành lang. Bạn cũ, người quen và học trò của ông ấy chẳng biết ba chục năm qua ở đâu bỗng kéo ra như kiến. Bắt tay vỗ vai giật áo ông ấy, hỏi thăm ào ào, ai cũng tranh thủ đứng một lát gần Sến. Ngửi em, sờ em bằng mắt láo liên, nếm em bằng lưỡi liếm môi khô. Dường như chủ toạ cố tình kéo dài buổi giải lao. Ai bảo các nhà khoa học khô khan chúng ta không đa tình! Một phút nữa hai phút nữa ba phút nữa, tôi phải làm một cái gì đó thật anh hùng hiệp sĩ. Giải phóng mĩ nhân, đưa nàng về chỗ an toàn, lập một vành đai chống đỡ. Ôi các em, sóng gió các em gây ở đời chưa đủ sao mà phải tới đây, tâm trí nào chúng tôi làm bác học! Tôi than thầm một tiếng nam nhi não ruột như thế rồi mọc lên trước mặt Sến. Trước mặt Sến tôi quên khuấy kế hoạch hiệp sĩ. Từ khi biết Sến chưa bao giờ em hiện ra ngọc ngà như thế. Thánh thiện như thế. Hai cái nốt ruồi đầy quá khứ. Ngực cong vời vợi. Môi đầm đìa…
Ông Thân tham luận về truyền thống dân chủ của người xưa. Ông tra về gốc la tinh của cái từ sang trọng đề mô cờ ra xi. Ông dẫn nghĩa theo Từ Nguyên. Ông trích đi trích lại câu thánh hiền “dân vi trọng quân vi khinh” và câu á thánh hiền “nước chở thuyền, nước lật thuyền”. Vua xắn quần lội ruộng và tướng sĩ hoà nước sông chén rượu. Những tấm gương cũ một lần nữa được mang ra soi. Bách gia chư tử từ bên Tàu được kéo sang ta cũng thành một tiềm năng trăm hoa đua nở. Đến chỗ ông diễn giải cái tinh thần ruột rà hoà điệu của nền văn minh “quốc-gia-làng-xóm” và xoáy vào cái đơn vị nổi tiếng là làng với những truyền thống quý báu của nó thì tôi mất kiên nhẫn và quay sang ngắm Sến. Sến ngồi thật thẳng, môi hé trìu mền, đùi khép đoan trang. Quả thật khối tri thức cổ kính tuôn trào trên bục hội nghị kia chẳng liên quan gì đến em. Tôi không muốn khẳng định rằng Sến từ trên trời rơi xuống giữa đám Từ Thức chúng tôi, vì em trần tục lắm. Nhưng Sến là một thực thể phi lịch sử. Quá khứ của em nằm trong tủ áo. Cái sơ mi tím này Sến mặc duy nhất một buổi chia tay mười lăm năm trước, thời ấy màu tím là màu đau tim nên em nhất định may áo tím. Bộ váy áo nhiễu loạn kia Sến sắm đại trong một cơn khùng, mỗi lần lên cơn là em đi mua sắm; cơn khùng năm ấy hẳn say máu lắm, nên áo xống mới đỏ rừng rực lượn lên lượn xuống nhằng nhịt thế kia. Một đống áo mút cổ lọ xếp xó, cái thời áo mút phân phối, một cái cổ lọ màu hoàng yến thò ra ngoài sơ mi ve nhọn đã là bao nhiêu ý thức thời trang! Còn những chiếc slip nữa, không phải chiếc nào cũng bé bỏng thơm tho: chiếc thì nhàu nát chán chường, chiếc thì e ấp trinh bạch, chiếc mỏng tang như áo ma, chiếc cục mịch quăn queo như mo nang chưa ép. Cái đống lá đa nhà chùa ấy cho thấy Sến chẳng ngại dấn thân. Một lòng cầu thị như thế đi suốt những biến cố thời trang, em can trường của tôi, Marie Sến! Tủ áo của Sến với tôi là một bài giảng cỡ thánh hiền. Đức mặc ở em cũng như đức ăn, hai cái phẩm hạnh con nhà bình dân, một tinh thần phơi mở rộng rãi tuyệt đối. Em có thể ăn đất uống sông và mặc mây trời cũng hăng hái tự nhiên như khi lỉnh kỉnh nai nịt bằng những sợi chất dẻo đính kim tuyến. Không kén chọn, không thành kiến, chỉ một lòng yêu sốt sắng mù loà, một nhiệt tình sống ôm đồm rối rít, và có lẽ một chút thiên về những gam đồng bóng phô phang, Sến liên quan gì đâu đến những ông vua hiền vua ngu và những truyền thống không hề có trong hiện tại!
Trên kia ông Thân vẫn tiếp tục mạch tư tưởng. Tôi hân hạnh được biết cái mạch ấy. Đại loại như thế này: các nhà khoa học cấp tiến nhất của chúng ta trong khi day dứt khôn nguôi về thực trạng đất nước thì chia làm hai phái. Phái cấp tiến cực đoan thì phang tuốt, Đảng, Bác, Các Cụ Mác Sờ Lê Nin, chủ nghĩa, cơ chế, hệ thống, vân vân. Đấy là những thứ đáng bị đánh đòn, đã đành, đến dân tộc, lịch sử, truyền thống cũng không có cái nào được tha. Hai ngàn năm (phái này chỉ công nhận hai ngàn năm lịch sử Việt Nam) kém phẩm chất tuyệt đối. Có nghĩa là tình thế của chúng ta hoàn toàn vô vọng. Muốn tiến bộ canh tân chỉ còn cách nhổ tận gốc nước Việt, khuân sang trồng ở Âu Mĩ mà thôi.
Phái cấp tiến ôn hoà thì đi giữa ranh giới của những giá trị tích cực và những giá trị tiêu cực, họ có cái vẻ tự tin thót ruột của những nghệ sĩ đi trên dây. Phương châm của họ là phê phán sự phê phán có tính chất phê phán. Thoạt nghe tương đối rối mù. Nhưng tôi có hân hạnh được nghe đi nghe lại, ông hàng xóm xế bên trái tôi là thủ lĩnh phái này, lâu dần tôi cũng nắm được nghệ thuật giữ thăng bằng trên độ cao trí tuệ của những nghệ sĩ lão luyện đó. Họ đầy tinh thần phê phán, đấy là điều không cần bàn cãi. Và đầy lương tâm. Đạo đức. Tư cách. Trách nhiệm. Đức tin. Tất cả những phẩm chất ấy cùng bảo nhau họp lại trong một biện chứng pháp đứng đắn như trời trồng. Giả sử họ nói sai cũng không ai trách, vì ai dám trách một nhân cách đáng khâm phục nhường ấy! Khi các nhân cách lớn tha thiết tự bày tỏ thì những vấn đề của khoa học và tổ quốc dường như cũng tự động được giải quyết. Thế là tác giả hài lòng, độc giả mãn nguyện. Không nơi nào trên thế giới có một nền khoa học thân tình dễ chịu hơn. Tôi cũng nghe thủng mọi ý tứ của các nhà bác học cấp tiến ôn hoà, cũng chiêm ngưỡng họ thi đua nhân cách, nhưng thú thực nghe nhìn xong ít khi nhớ được điều gì. Có lẽ vì ý kiến họ na ná nhau, nhân cách họ từa tựa nhau, họ lại có tật nói dài, nói rất dài, người này lặp lại người kia và lặp lại chính mình không mệt mỏi, không đếm xỉa đến sức khoẻ của người nghe và dán đầy trích dẫn Đông Tây lên trụ cột tư tưởng như những cột áp phích kín mít. Ai không theo phong cách đó có thể bị coi ngay là thất học, hay chưa chín muồi. Họ có thể là những ngòi nổ, đấy là điều không cần bàn cãi, nhưng cái cách họ nổ ra những vấn đề thì, xin lỗi, sặc mùi trưởng giả. Và bạn đọc chẳng lẩy ra được một xu hài hước nào ở họ đâu, như đã nói, các nhà biện chứng ấy đứng đắn như trời trồng, cười tủm trước mặt họ là thiếu lịch sự hơn đánh rắm. Người nào trong số họ tự cho mình có uy mua thì mủm mỉm cười gật gù: bạch mã phi mã. Đố người Việt nào chỉ biết quốc ngữ hiểu được cái uy mua ấy.
Các nhà cấp tiến cực đoan thì ồn ào bi đát, các nhà cấp tiến ôn hoà thì nghiêm trọng dài dòng. Tìm thầy, kết bạn, xe duyên tri kỉ trong thời buổi này nếu không được số phận bịt mắt dắt tay thì khác nào đi chọn xe máy ở phố Hàng Bông, cuối cùng bạn cũng mất kiên nhẫn mà nhảy đại lên một chiếc. Nếu không, bạn hãy về nhà tự yêu lấy tốc độ di chuyển của mình.
Nhưng hãy trở về chỗ ông Thân trên bục hội nghị. Không phải ông ấy sùng bái quá khứ. Không phải ông ấy phiến diện hời hợt. Các nhà biện chứng vĩ đại thì sâu sắc toàn diện và bao vây con mồi tư tưởng của họ từ mọi phía. Tôi biết ông Thân dài dòng Thi vân Tử viết từ Khoá Hư Lục sang Những bản thảo kinh tế chính trị và sắp sửa cho Trần Văn Giáp ngồi cạnh Trần Văn Giàu, Lê Quý Đôn cạnh Lê Thành Khôi, rồi BEFEO, CEFEO, PEFFEO, những Woodside, Tsuboi, Jamieson, Condominas… được giăng ra như lưới, chỉ để ông khoai thai đứng trên bờ, từ từ, rất từ từ, cất lên mẻ cá gồm một chú cá tư tưởng duy nhất mà ông dày công chăm bẵm mấy chục năm đợi dịp thả xuống để rồi cất lên trước ồ à của toàn thể công chúng mắt sáng ngời. Theo thiển ý của tôi thì cái động tác cất lên thả xuống đó hơi phiền hà, và cái tinh thần ngư ông phương Đông trong trường hợp này rất đáng sốt ruột. Nhưng rút cuộc thì tôi không bịt mồm ba chục năm, tôi chỉ không có gì đáng nói để nói mà thôi. Ở địa vị ông ấy chắc tôi còn rung đùi bệnh hoạn hơn để thưởng thức dài hơi mẻ lưới ăn chắc của mình.
Đã mười lăm phút. Đề mô cờ ra xi chưa gây rắc rối cho ai. Công chúng không phải những con nhà chài thiện nghệ để rung động khi chú cá cưng của ông Thân quẫy đuôi tế nhị. Đấy là công chúng của ngày hội nghị thứ hai, đầu giờ chiều, sau ba báo cáo chính và hai mươi chín tham luận. Đấy là công chúng đã nhận xong phong bì. Hai phần ba thượng đẳng khách đã toạ trong những hội nghị khác: vinh dự này không của riêng ai. Một nửa trung đẳng khách đã biến mất sau ngày hội nghị thứ nhất, họ đã nói xong phần họ và không có nhu cầu nghe ai khác, tôi không nói ngoa, phàm là giáo sư thì biết tỏng nhau. Một phần ba hạ đẳng khách không trở lại nữa. Khách khứa còn non nửa và đội nhà cũng rệu rã lắm rồi. Hai cô cuồng báo thì đã tót đi đọc báo. Bốn chị em khác đang ngồi xổm chọn cá ở chợ Hôm và thêm năm chị em nữa bôn ba đến nhà trẻ. Ba chị em vắng mặt không rõ động cơ. Phái Âu Cơ để lại một nữ phó tiến sĩ trong phòng hội nghị. Nàng tiên trí thức này sẽ đọc tham luận thứ ba mươi mốt. Chúng tôi, đám quần chúng vừa tả vừa hữu, vương vãi trong năm quán nước trà và ba quán cà phê bao quanh Viện. Tám cứ điểm trọng yếu này lập thành một vành đai chất lỏng kì diệu bọc êm thành luỹ của khoa học. Thằng Tân, thằng giẻ rách hoang tưởng, đôi khi cũng biết hóm. Nó chia phương định hướng, gọi tên tám cái tiền đồn ấy là Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Li, Khôn, Đoài. Ai rủ nó ra quán, nó khinh khỉnh chặn trước: ”Phục Hi hay Văn Vương?”. Là những định hướng khác nhau đáng kể. Bạn ngẩn tò te nó sẽ coi bạn là mù chữ, không đáng cùng nó uống một chén trà.
Đấy là công chúng của ngày hội nghị thứ hai, đầu giờ chiều. Muốn chinh phục nó bạn phải đốt pháo đùng. Tiếng pháo tép của ông Thân bật lên từ một cõi lòng thiết tha, nhưng tế nhị quá. Ông đang vùi những suy tư của một đời nín nhịn vào chiếc gối phồng của sự uyên bác. Giữa tiếng ngáy bất tận của các dữ kiện lịch sử, lời tâm huyết của ông rời rạc thảng thốt như lời nói mê mấy ai lưu ý. Rằng đề mô cờ ra xí nằm trong huyết thống dân tộc này. Tôi chua tiếp: Phải trả lại dòng máu sang trọng ấy cho dân tộc, cho xứng đáng với cha ông! Rằng người Việt chúng ta vốn khoan dung với mọi trào lưu tư tưởng khác mình. Tôi chua tiếp: Ôi cái dân chủ đa nguyên! Và ở đâu đó trong cái hội trường mệt mỏi này, thằng con trai duy nhất của ông đang lẩm bẩm câu kinh biết rồi khổ lắm nói mãi. Cái khổ của thằng con là phải nghe. Cái khổ của ông bố là không được nói. Gia đình trí thức hiện đại của chúng ta gồm những chiếc miệng chỉ mấp máy trong mê và những chiếc tai đút nút chăng? Nghe bi đát quá. Vân và Kiều ơi, cha không có gì để nói nhưng sẽ hò hát bông phèng luôn luôn, và các con nhớ đeo toòng teeng cho những chiếc tai xinh luôn sinh động!
Còn Sến, Sến một mình vỗ tay như bé Măng Non trong chương trình Những bông hoa nhỏ của truyền hình, và cần cổ phu nhân vươn như chân Chùa Một Cột, ngực gái một con dào dạt chìa ra đón người hùng, người thả lưới vĩ đại từ bục bước xuống. Sến lục túi lấy một lát sâm. Cách ba hàng ghế tôi nghe lời em ân cần “Nam Triều Tiên xịn đấy anh ạ, không phải sâm mậu dịch đâu, ngậm đi cho lại sức”. Ôi mĩ nhân, mĩ nhân, con người bình thường và trần tục nơi em làm mủi lòng tôi ấm lòng tôi, tôi lại biết phải lòng em là hợp lẽ.
Nàng phó tiến sĩ của Viện tôi đã mào đầu xong về “Phụ nữ Việt Nam, truyền thống và hiện đại”. Nàng đeo kính và để tóc xù, trông cũng ra một hiện tượng. Sến hay trách tôi ác khẩu với đàn bà. Vâng, sự âu yếm của tôi nó nhếch nhác méo mó. Nói chung cái quan hệ đực cái ở ta nó nhếch nhác méo mó trong phạm vi toàn quốc, không chỉ riêng nơi tôi. Đàn ông dương vật buồn thiu, đàn bà cạn khô suối tình. Chỗ nào rào rạt biển tình thì là một biển cải lương chết chìm, một biển cải lương rất sến. Tôi còn một chút âu yếm chưa dùng đến, phải gói ghém vào miệng lưỡi xấu xa độc địa cho dễ bảo toàn. Ngày xưa để thần linh không màng, người ta bọc con yêu vào tên xấu…
Ở địa vị nàng tiên trí thức trên kia tôi sẽ à ơi – ru con cho cử toạ ngủ gật được yên tâm thiếp đi. Ông Viện trưởng sẽ đánh thức họ dậy. Có thể tin vào kinh nghiệm đọc diễn văn bế mạc của ông.
Phạm Thị Hoài
12/1995
(Từ Văn Học số 119 3/96)