vhnt, số 206
18 July 1996
Trong số này:
thư vhnt..................................................................PCL
T h ơ :
1 - Hydrangea, tháng bẩy ......................................Vũ Lê Phan
2 - Tampa, thơ và nước mắt ..........................Trần Trung Ðạo
3 - Ý nghĩ ....................................................Sung Nguyễn
4 - Hàng rào ngày xưa ...................................Tôn Thất Hưng
5 - Chiều trên phố lạ ..................................Caroline N Phung
6 - Khoảng trời riêng ................................Trần Nguyên Thảo
7 - Chiều quê ..................................................Ðức Lưu
D i ễ n Ð à n V ă n H ọ c :
8 - Quan niệm về sáng tác của các cây viết trên VHNT ................Nguyễn Phước Nguyên thực hiện
T r u y ện N g ắn / S án g T ác :
9 - Lá thu (tùy bút) ...............................................Cỏ May
10- Ruộng gió ..............................................Phùng Nguyễn
Bạn đọc thân mến,
VHNT số này gửi đến bạn những sáng tác chọn lọc của các cây viết góp mặt thường xuyên, vẫn những bài thơ và những áng văn óng ả, chau chuốt, tâm tình. Ðặc biệt kỳ này còn có phần "cảm nghĩ, quan niệm về sáng tác" của các cây viết sẽ góp mặt trong tuyển tập vhnt sắp phát hành nay mai . Những lời chia sẻ này được gửi đến bạn đọc, như một lời giới thiệu và nhắc nhở, một lần nữa, về tuyển tập mà nhóm chủ trương đang ráo riết hoàn thành. Việc ấn hành đang diễn tiến tốt đẹp, hy vọng trong vòng tháng 8 tuyển tập sẽ đến tay bạn đọc, như một món quà tinh thần để ra mắt các bạn đọc trong và ngoài internet - một món quà hiện hữu từ thế giới văn chương trên siêu không gian vô hình, từ những tài năng tìm đến với nhau qua tình thân và những hạnh ngộ bất ngờ, đặc biệt.
Rất mong quí bạn ủng hộ cho tuyển tập này, đây là một công trình tim óc, là nỗ lực, là hy sinh của rất nhiều người trong nhóm chủ trương đã bỏ công sức ra giúp hoàn thành tập san này.
Anh Trần Thái Vân, thủ quĩ của tuyển tập, sẽ gửi thư đến những bạn có lòng ủng hộ đặt trước tuyển tập trong nay mai, mong bạn hưởng ứng, giúp đỡ, giới thiệu với bạn bè về nhóm vhnt và tuyển tập sắp phát hành.
Mến chúc bạn đọc một ngày làm việc vui và có một cuối tuần thư thả, êm đềm sắp tới.
thân ái,
PCL/vhnt
Hydrangea, tháng bẩy
Nơi tôi ở
Những bụi Tử Dương đã vào mùa
Rộn rã ban mai
Những đóa hoa
Những đóa hoa bây giờ
Ðã nở vượt ra khỏi đôi bàn tay
Ở con nắng chói chang
đổ xuống hiên ngoài
Chừng như có đôi chút lạ lùng
một vọng hoài
Thầm lặng
Tháng bẩy, tháng bẩy người xanh vắt ở trên cao
Niềm vui
Những niềm vui vẫn đến
Ở những thoáng mây tôi
Những miệt mài tìm kiếm
Những con đường đổ dấu chân đi
Những dấu chân in vòng
Như không hề biết đã tự một Hạ nào
Những đóa hoa rực lửa
Vườn lạ lắm những màu chiêm bao
Ðể bây giờ
Tôi không hề ngủ nữa
Những đêm về
Nghe ngoài trời, lòng cây lá lao xao
Vạn vật kể y nguyên
Chuyện đất xưa chưa hề trổ
một đóa Tử Dương đầu
Ðằng sau dải Ngân Hà bất biến
Của riêng tôi
Và chốn kia, chắc cũng đã của riêng người
Nao nao
Những nao nao ẩn hiện
Giữa ngàn sao Hạ mùa
Như đến
Như đi
Cho đôi khi, bước chân vô tình dừng lại
Như muốn hỏi
Người chắc cũng có nghe
Mùa Tử Dương đi qua thầm thì vẫy gọi
Tháng bẩy
Tháng bẩy người
Tháng bẩy
Tháng bẩy tôi
Những niềm vui vốn không cần nói...
lephan
Tampa, Thơ Và Nước Mắt
Có những người, ta chưa kịp làm quen
Mà khi xa lòng chất đầy nỗi nhớ
Có những con đường ta chưa hề tới
Sao nôn nao như có bóng ai chờ
Giọt nước mắt nào nhỏ xuống trang thơ
Ðể ta nhớ một thời lận đận
Chiếc áo mỏng choàng lên đôi vai lạnh
Cho ta nghe hơi ấm tình người
Ta trôi dạt trên đời từ thuở nằm nôi
Những vỉa phố, những con đường bụi bặm
Vẫn hằng đêm gối đầu lên ước vọng
Của tuổi thanh niên trong giấc ngủ lưu đày
Ta vẫn tin rằng sau vũng tối đêm nay
Sông núi Việt một ngày mai sẽ sáng
Người trở lại giữa Sài Gòn rực nắng
Không sợ bóng thù rình rập bủa vây
Ta tin rằng những tủi nhục đắng cay
Chỉ là chuyện mưa chiều nắng sớm
Tất cả sẽ qua khi bình minh đến
Từ đau thương nầy lịch sử sẽ sang chương
Tampa ơi, thành phố nhỏ thân thương
Xin nhớ giữ đừng bao giờ để mất
Giọt nước mắt của người ta yêu quí nhất
Ðể giữa quê người ta còn chút quê hương.
Trần Trung Ðạo
Ý Nghĩ
tặng anh Nguyên
Bên cuộc đời, nếu ngồi yên
Hỏi ai đan lòng da diết
Trên
Những cuộc tình đã xa
Bên cuộc đời, nếu ngồi yên
Hỏi ai dệt lời ca say đắm
Cho
Những cuộc tình xanh?
Bên cuộc đời, ta làm thơ
Nói giùm ai nỗi mong chờ
Của đôi tim hồng nồng cháy
Tìm nhau - Nghẹn ngào - Lặng thinh
Bạc tóc một bài thơ
Hồn trẻ xanh nghìn thưở
Có bao giờ ta ngỡ
Tằm khô lệ vì tơ
Sung Nguyễn
Hàng Rào Ngày Xưa
Ai trồng hàng giậu cao cao
Nó ngăn đôi ngã, nó rào con tim
Với ai riêng một nỗi niềm
Ðau con mắt trong lòng nhiều xót xa
Gặp em anh phải qua nhà
Trước chào cha mẹ sau lặ chào em
Lặng im em đứng bên thềm
Ðôi hàng lá ấy như điều trở ngăn
Ðâu rồi chiếc áo chiếc khăn
Băn khoăn ngày đến nhớ thầm đêm khuya
Hàng rào bên nhặt bên thưa
Bên cao bên thấp chẳng vừa đâu em!
TTH
Chiều Trên Phố Lạ
cũng vàng nắng, cũng mây xanh
nhưng sao lòng chợt manh nha chút sầu
phải chăng tình đã ươm màu
em về phố lạ, tơ sầu đã vương
vẫn thoảng gió, vẫn sáng trăng
đêm nay ngồi đếm sao giăng ngang trời
đi theo tiếng gọi, câu mời
em nằm nghe tiếng sóng đời vội dâng
còn nỗi nhớ, còn hoài mong
liễu sầu nghiêng bóng bên sông đợi chờ
nước trong trôi mãi hững hờ
tưởng chừng như đã biến thành phù sa
những kỷ niệm, những ân tình
thôi thì trao lại kết thành sương đêm
giọt sầu những chẳng có tên
làm sao em nhớ nỗi sầu chiều nay?
cp
7/9/96
Khoảng Trời Riêng
Khoảng trời riêng nho nhỏ
Tôi với trời bơ vơ
Tình yêu như ngọn cỏ
Trôi trên nhánh sông hờ
Biết người yêu thầm lặng
Tôi chìm vào cơn mơ
Như loài chim lãng mạn
Hoài hót khúc mong chờ
Ngó lên trời biển rộng
Tôi thấy tình mênh mông
Bỗng giận hờn con sóng
Ru tình mãi bềnh bồng...
Tôi gửi tình câm nín
Lời u uẩn niềm riêng
Hoá thành chim yến biển
Ðùa trên sóng muộn phiền
Biết ngày mai giông bão
Tôi trốn tình hư hao
Nhưng tình như thác lũ
Làm mưa bể dạt dào
Xoè tay chôn kỷ niệm
Tôi thấy tình hư không
Hoài khôn ngoan tìm kiếm
Người toan phút bạc lòng
Tôi đốt tình trên giấy
Tàn tro hóa thơ bay
Tôi bỏ tình theo khói
Khói thành áng mây trời...
Ừ, mảnh đời còn lại
Cũng chỉ là mưa mau
Ừ, thì đời có vậy
Quen... để rồi xa nhau...
trần nguyên thảo
5/19/96
Chiều Quê
Này em hỡi, có về thăm quê cũ
Hãy nhớ hàng dừa bóng rũ ven đê,
Gió vi vu man mác mỗi chiều về
Bầy thôn nữ buông tay chèo ẻo lả...
Chiều xuống chậm, vừng hồng trông đẹp quá,
Tiếng tiêu đưa nghe êm ả khoan thai
Từng đám cò con hối hả sải dài
Ðôi cánh trắng lướt mình qua sóng lúa.
Lũ trâu đen soài mình trên cỏ úa
Ngẫm nghĩ nhai bên đám trẻ ngây thơ
Còn thao thao nhắm mắt đọc i tờ
Hoà cùng nhịp những giọng hò đưa lại.
Trên dốc hẹp ngó xuống đồi thoai thoải
Thoáng xa xa kìa những vạt vải nâu
Kẻ lom khom tay khoác nước, tát gàu
Người lúi cúi nhặt mau từng nhánh lúa
Ðằng cuối bãi nơi những bờ ruộng thửa
Lũ quạ đen tua tuá nhặt thóc rơi
Vừa mổ nhau, vừa oang oác gọi mời
Theo tiếng gió chơi vơi trên sóng lụa
Nơi giữa bãi thằng người còn đứng đó
Vẫy đều tay theo hơi gió rì rào
Vừa doạ thầm đàn sẻ nhỏ xôn xao
Vừa gục gặc thì thào cùng gió nổi
Chiều xuống thấp, vừng hồng trông le lói
Cuối chân mây tiếng ơi ới gọi về
Lũ trâu buồn lững thững bước ven đê
Như luyến tiếc một buổi chiều qua lẹ.
Từng bó lúa nằm thu mình lặng lẽ
Trên những cỗ xe kẽo kẹt về làng
Những chiếc áo nâu, hàng nối tiếp hàng
Tay quảy gánh, tay vắt ngang vành nón.
Phía xa xa vài chú diều thấp thỏm
Gục gặc đầu đáp xuống bãi mạ non
Túa trong sân, kìa những chú vàng con
Ðuôi ngoe nguẩy, miệng sủa dòn khắp xóm.
Ở cuối sân vài chú gà ăn lóm
Ðống lúa vàng vừa ướm nắng phơi khô
Mà những mẹ quê chưa trút vào bồ
Vì mê mải mớm cơm bầy cháu nhỏ
Ôi quê nhỏ, buổi chiều quê ta đó
Nắng ươm hồng, mây đỏ rực phương Tây
Chiều, hỡi chiều, hãy dừng nán lại đây!
Ta muốn khẽ ru hồn vào tiếng gió
Ôi quê nhỏ, buổi chiều quê ta đó
Này hỡi em có nhớ hãy quay về
Thăm hàng dừa rũ bóng dọc ven đê
Bầy thôn nữ buông tay chèo ẻo lả
Chiều xuống chậm!
- Buổi chiều quê đẹp quá!!!
Ðức Lưu
QUAN NIỆM VỀ SÁNG TÁC Của Các Người Viết trên VHNT
1.
Sáng tác là một hoạt trao đổi chất, như hoạt động, hô hấp của cơ thể. Quá trình hô hấp của cơ thể giúp dưỡng khí cho các hoạt động khác nhằm gạn lọc dòng máu đen chết bầm và đem giòng máu tươi đỏ về tim. Tương tự như vậy, sáng tác giúp con người có khả năng trao đổi từ những ý niệm đời thường đến vấn đề tâm linh vô vi, và quan trọng nhất là sáng tác đem một sức sống mới, đẹp về lại Tâm . "Những gì xuất phát từ trái tim sẽ đi đến trái tim" - Ðó không phải là chuyện thần thoại hay cổ tích .
2.
Tự do trong tư tưởng và phương thức diễn đạt, trách nhiệm với ngòi bút.
3.
Theo tôi, có 2 yếu tố cần thiết trong sáng tác: tưởng tượng và tự do. Trí tưởng tượng chính là ranh giới của mộng thực, hư ảo, có, và không. Sự tự do đóng vai trò hổ tương để kết tạo một công trình nghệ thuật. Tưởng tượng và tự do là nguyên nhân và cũng là kết quả của sáng tác, của những phơi bày, bộc bạch những sự thật phũ phàng, những điều ít ai dám nói đến.
4.
Sáng tác chỉ là 1 nhu cầu tinh thần cho 1 cá nhân... Lúc cần lúc không. Ðến rồi đi rồi đến.
5.
Mỗi khi nói đến vấn đề viết, tôi lại nghĩ đến câu "văndĩ tải đạo". Có một cái gì đó "thật" trong văn người viết khiến người đọc "hiểu" người viết hơn là người viết có thể diễn tả bằng bất cứ môi giới nào đó khác.
6.
Giản dị, nhẹ nhàng. Nhà văn lý tưởng theo tôi nghĩ sẽ có những nhân vật đầy sáng tạo của G. Marquez, ngòi bút tả chân điêu luyện của Tô Hoài, sự giản dị của Sơn Nam, tính nhân cách trong văn Võ Hồng, cảm giác trong sáng từ văn Thạch Lam, và nhẹ nhàng như ngàn cánh hạc của Y. Kawabata.
7.
Thử khả năng chính bản thân, nhìn lại mình từng khoảng thời gian.
8.
Ủng hộ cả hai trường phái: nghệ thuật vị nghệ thuật và nghệ thuật vị nhân sinh. Riêng cá nhân: Tôi thích viết về vị nhân sinh - Ðặc biệt là giới nghèo.
9.
Nếu không chuyên chở ý tưởng, tâm niệm thì cũng phải có một nội dung. Hoặc giả hình thức, ngôn từ tinh tế có cái gì mới.
10.
Tuyệt đối tránh dùng cliche. Làm nghệ thuật phải có mục đích hẳn hòi thì hãy làm và phải có can đảm nói lên sự thật dù đẹp hay xấu.
11.
Như Bùi Giáng nói "để vui thôi mà"
12.
Thi ca như con đò để chở tâm trạng của một người. Tôi làm thơ như viết nhật ký vậỵ Ngôn từ làm người bạn đời. Bởi vậy đời sống mãi là cứu cánh của thi ca.
13.
Là một phương pháp hóa giải cho tâm hồn.
14.
Thơ văn phản ảnh cuộc sống, nội tâm, và kinh nghiệm của người viết. Sáng tác là dịp để trí tưởng tượng vượt qua giới hạn không gian và thời gian của cuộc sống.
15.
Vạn sự tùy duyên giai hữu vị,
Khắc lạc thiên chân thất mã đề
16.
Không nên nhắm mắt trước nỗi đau khổ của quê hương và đồng bào hay thế hệ của mình khi mình là kẻ được may mắn. Viết văn khác phóng tác. Ðừng lừa mị độc giả khi họ không biết những điều anh viết. Giá trị tác phẩm không những ở văn chương mà còn ở sự trung thực, chính xác của nó.
17.
Thực tình tôi không có một quan niệm gì cả vì nghĩ mình chả bao giờ có thể trở thành nhà văn. Hứng thì viết, mục đích giải trí mọi người trên net và cho các bạn trẻ ôn lại tiếng Việt. Không hứng thì... thôi. Nhưng lúc viết thì hay viết về bất cứ những gì liên hệ đến quê nhà.
18.
Thích làm thơ từ hồi trung học, nhưng chỉ viết trong sách và chưa bao giờ dám gởi đăng... sợ lắm. Thích tuổi học trò và nguồn cảm hứng từ những truyện đọc.
19.
Nói lên, ghi lại những bất công xã hội, người đàn áp và bóc lột người, đọa đày áp đặt lên con người vì thù hận.
20.
Làm thơ hay viết văn cũng tương tự như làm cách mạng. Tác phẩm phải có tính nhân bản và khai phóng. Con người không thể tách rời khỏi hoàn cảnh và lịch sử và do đó phải có trách nhiệm với lịch sử và hoàn cảnh mà mình đang sống.
21.
Viết lên những cảm nghĩ thật trong tâm tư như là một sự chia sẽ, tâm sự cùng bạn đọc.
22.
Là một cách biểu hiện những bức xúc trong, về cuộc sống.
23.
Chỉ thích viết những gì mà mình có thể cảm thấy được. Những chuyện vui, buồn đã làm cho tâm hồn mình rung động, mơ màng và đang tìm lối bộc phát...
24.
Văn chương trước hết phải phục vụ hay nói lên một cái gì đó để làm tốt đẹp hơn xã hội, gia đình, cá nhân...
25.
Một tác phẩm hay phải có hồn, chuyên chở được những cảm xúc thực, không gò ép của tác giả. Chẳng hạn như khi đi thăm chùa Hương, sợ nếu chỉ thấy sự dập dìu, ồn ã của dòng người trẩy hội mà không nghe được sự lặng lẽ sâu thẳm của núi rừng, sự trầm mặc, thoát tục nơi cửa không chùa Hương...
26.
Viết là khi tác giả muốn tâm sự với chính mình, đôi lúc hầu như là viết chỉ để cho một mình mình đọc, nhưng lại khao khát muốn chia xẻ với người dưng.
npn thực hiện
Lá Thu
Viết cho anh Sơn như một lời cảm ơn
Làm sao ru được tình vơi
À ơi, nỗi đau này người
TCS
1.
Hôm qua là ngày lập thu. Mùa thu bắt đầu với bầu trời sũng nước, với những cơn mưa mê man như không bao giờ dứt. Ði học về, em thất vọng vì không có thơ anh, không có thơ bạn bè, không có thơ của ai cả. Lẩm bẩm: "một ngày như mọi ngày" rồi lao vào học hành, và hôm nay em bị cúm.
2.
Ðã bao lâu rồi em không có tin tức gì của anh nhỉ? Lần cuối anh viết cho em là lúc em đang nghỉ hè ở Saigon. Lần cuối nhận được e-mail của anh là một sáng thứ hai nào đó cách đây nữa tháng thì phải, và lần cuối mình gặp nhau là một ngày nào đó của tháng chín, cách đây sáu năm! (Hôm đó là ngày lễ, anh và em đứng trước sân nhà em, anh báo tin là anh sẽ đi xa, còn em thì chỉ mỉm cười rất ngu ngơ). Có điều em không hiểu là vì sao em chưa quên anh được nhỉ.
3.
Cũng như bao lần trước, em tự nhủ "không còn gì, không còn gì tất cả". Rồi em ngồi tỉ mẩn xếp thơ anh vào một cái rổ lớn, có lẽ cũng gần 70 cái, chưa kể vài trăm e-mails của anh mà em đã in ra và để lẫn đâu đó khắp nơi trong sách vở. Em tự đi mua vài cái cards để thay những cái đang để khắp nơi trong phòng (phần lớn đều là của anh!).
Nói tóm lại là em đang "thu dọn chiến trường", giải quyết những "hậu qủa chiến tranh". Cuộc chiến này không có những napalm, B52 hay chất độc màu da cam, nhưng có lẽ sức tàn phá của nó cũng khốc liệt không kém. Em tự thấy mình buồn cười, ai lại đi ví tình yêu với chiến tranh bao giờ nhỉ. Nếu anh mà đọc đoạn này, thế nào mà anh chẳng cau có bảo: "lại sai lầm". Mà với anh thì em có bao giờ đúng đâu, phải không anh.
4.
Nhớ hồi trước, anh luôn nói với em về những "níu kéo", "thông cảm, đồng cảm", những "tình yêu cần sự xa vắng"... Còn bây giờ, anh lại hay nói về những tật xấu của em, nào là hay "hiểu lầm", "trách móc, đỗ lỗi"... Sự đời là vậy, thương thì củ ấu cùng tròn, ghét thì bồ hòn cùng méọ Anh đã rắp tâm bỏ đi thì bất cứ cư xử nào của em anh cũng bắt lỗi được cầ Em đã chán cái trò đó rồi. Yêu anh lắm nhưng em cũng đã mệt mỏi lắm rồị Ði đi anh, không còn yêu đâu phải là cái lỗi? Tình yêu là con dao mà người nắm phần lưỡi luôn là người đàn bà, em hiểu điều đó.
5.
Hôm trước có ai đó lịch sự hỏi về chuyện của mình, em ngượng ngịu bảo "hết rồi". Họ rối rít thương xót làm em thấy buồn cười, không biết là họ xót thương hay chỉ làm ra vẻ xót thương lấy lệ?
Ðôi khi ngồi trước computer, tim buốt thót với cái ý nghĩ là không bao giờ em nhận được một cái gì đó từ anh nữạ Tỉnh lại, em phì cười vì thấy mình vẫn còn đang chờ đợi, chờ đợi một cái gì đó sẽ không bao giờ đến.
6.
Trời trở mưa to. Ở đây nhà kín đáo qúa, không nghe được tiếng mưa rơi trên mái nhà như ở Việt Nam. Cây ở đây đã bắt đầu úa lá. Lá đỏ, lá vàng thi nhau rụng. Có những cái lá hình sao, có những cái lá hình năm ngón tay. Em lẩn thẩn nhặt lên, ép vào một cuốn sách nào đó như mọi năm vẫn làm. Có một điều hơi khác, những chiếc lá đó sẽ chẳng bao giờ đến tay anh như năm ngoái, năm kia, hay những năm trước nữa...
Cỏ May
Mùa thu '95
Ruộng Gió
Lúc Điền đến nơi, trời vừa mới bừng sáng. Cánh cửa cao nghệu màu vàng nhạt làm bằng tôn uốn của cái hangar vẫn còn đóng kín. Anh đưa tay nhìn đồng hồ. Sáu giờ ba mươi lăm. “Lẽ ra David phải có mặt ở đây rồi,” Điền nghĩ. Anh mở cửa xe bước xuống, nhìn quanh quất. Phi trường tỉnh lẻ vào buổi sáng sớm cuối Đông trông thật hiu quạnh. Phía bên phải, một dãy máy bay tư nhân đậu san sát, lưng cánh đóng đầy sương giá. Hai phi đạo, một lớn một nhỏ, nằm im lìm như hai con rắn xám mai phục trong vuông cỏ úa vàng, chờ đợi những chuyến bay đầu tiên trong ngày. Vượt lên trên trạm hành khách là đài kiểm soát không lưu màu nâu đậm với ngọn đèn đỏ trên nóc chớp tắt một cách uể oải.
Cánh cửa hangar bỗng đi động, bánh xe kim khí lăn trên khe trượt phát ra những tiếng ken két. Một anh chàng người Mỹ trạc ba mươi ngoài, cao lớn, tóc nâu, từ trong hangar bước ra. Hắn tiến lại phía Điền, đưa tay ra. “Chào ông buổi sáng. Tôi là David, tôi sẽ đi với ông hôm nay,” hắn cất tiếng. “Chào anh, David. Gọi tôi Denny.” Điền bắt tay hắn, trả lời. David quay lại, mở rộng cánh cửa cao lớn rồi ra dấu cho anh đem xe vào. Điền soát lại mớ giấy tờ bừa bộn trong chiếc cặp da, khóa cửa xe rồi hấp tấp bước ra cửa. David đang lúi húi kéo chiếc máy bay nhỏ một động cơ ra khỏi hangar. “Có cần tôi phụ một tay không?” Điền hỏi. “Không cần đâu,” David trả lời.
Lúc này chiếc máy bay nhỏ năm chỗ ngồi đã vượt lên khỏi tầng mây thấp. Ánh nắng sớm trải lên biển mây bát ngát, phản chiếu những tia ngũ sắc vào chân trời xa phía trước. Gỡ chiếc ống liên hợp ra khỏi tai, David quay sang phía Điền. “Còn khoảng một tiếng đồng hồ nữa mình sẽ đến Las Vegas,” hắn nói, “cũng may là mình bay thuận chiều gió.” Điền rời mắt khỏi tờ Information Week, nhìn lên. Từ lúc máy bay cất cánh đến giờ, anh và David chưa trao đổi với nhau tiếng nào. Tối hôm qua, anh rời sở làm rất trễ, sáng nay lại phải thức sớm trong cái lạnh giá của mùa Đông. Anh ghét mùa Đông, cũng may mà chỉ còn có vài tuần nữa. Bây giờ, anh ở trên chiếc máy bay mỏng mảnh với tên phi công lạ hoắc. Không để ý đến vẻ uể oải của anh, David nói tiếp sau một lúc im lặng.
“Anh biết không, chính tôi đã tu bổ chiếc máy bay này. Anh có để ý là màu sơn của nó trông hay hơn chiếc kia không?”
Màu sơn? Anh chẳng để ý đến màu sơn của chiếc “210” này, và cả chiếc kia nữa! Trước đây hãng chỉ có một chiếc máy bay nhỏ dùng để đưa đón nhân viên đi công tác trong vòng năm trăm dặm đường bán kính. Gần đây, do nhịp độ đi lại bỗng gia tăng, có lẽ do sự lạm dụng của đám nhân viên quản trị hơn là nhu cầu thực sự của công việc, hãng quyết định tậu thêm một chiếc nữa. Điền nghe nói hãng có mướn thêm một phi công mới tên David để chia sớt công việc với John, người phi công giàu kinh nghiệm vẫn thường đưa đón anh trong những chuyến công tác vội vã. Điền cười tủm tỉm trả lời người phi công trẻ anh mới gặp lần đầu:
“Đúng vậy. Trông nó ‘hay’ hơn thật.”
“Cả bộ máy của nó nữa, lúc mới kéo về không ai nghĩ nó có thể bay được.”
“Kéo về?”
“Hãng mua đấu giá chiếc này mà! Chủ cũ của nó gặp trục trặc khi đáp xuống phi trường John Wayne, cánh quạt và máy bị vỡ, cũng may ông ấy chỉ gẫy có ba cái xương sườn!”
“Anh là phi công mà cũng biết chữa máy à?”
“Tôi học ‘cơ phi’ trước, rồi mới học lái sau này.”
David nói tiếp, vẻ tự hào:
“Tính cho đến hôm nay, tôi đã có khoảng hai mươi giờ bay.”
Hai mươi giờ bay! Máy bay hỏng bán đấu giá! Thợ máy và phi công tập sự! Tự dưng Điền bỗng thấy tiếc mấy chiếc “bùa hộ mạng” đỏ loét có những hàng chữ Tàu nhăng nhít bà nội anh ép buộc anh phải đeo đi học lúc anh còn nhỏ xíu. “Tổ cha mày Bob,” Điền lẩm bẩm chửi thầm, “hết chuyện rồi mày giao sinh mạng tao cho thằng này.” Bob là thượng cấp của anh. Ngày hôm qua hắn gởi cho anh bức điện thư yêu cầu anh đi dự buổi họp với ban quản trị của ICS, một hãng nhỏ chuyên cung cấp cơ phận và nhu liệu cho hệ thống trả tiền bằng thẻ tín dụng ở các trạm xăng. “Tao phải đi Florida. Mày thế tao đi gặp thằng Larry. Báo cáo của mày sẽ đóng phần quyết định trong việc hãng có nên ký giao kèo với ICS hay không. Tom rất quan tâm về chuyện này.” Anh biết Bob… lạnh cẳng. Tom chủ tịch hãng, có vẻ không tin tưởng mấy tên salesmen của ICS cho lắm. Bob kéo anh vào không ngoài mục đích dựa vào kiến thức kỹ thuật của anh để tìm cách đánh tháo những lời hứa hẹn của hắn với ICS.
Điền quay đầu ra phía cửa, nhìn xuống. Biển may đã thưa đi một chút. Ở những khoảng trống hiếm hoi của tầng mây thấp. Điền đã có thể nhìn thấy những chỏm núi phủ đầy tuyết trắng bên dưới. Phía trên, nắng sớm rực rỡ và bầu trời xanh ngắt. Anh nghiêng đầu nhìn qua phía người phi công. David đang lúi húi ghi chép gì đó trong cuốn nhật ký phi hành. Lúc hắn đóng cuốn sổ lại, một mảnh giấy rơi ra, lọt xuống khoảng trống nhỏ hẹp giữa hai hàng ghế. Điền cúi xuống nhặt lên. Đó là bức ảnh của một cô gái trẻ. Tóc đen, mắt đen, lông mày cong vút, dáng dấp Nam Mỹ, Trung Mỹ gì đó.
“Ảnh vợ tôi đấy.” David lên tiếng.
“Cô ấy đẹp lắm.”
David đưa tay nhận lại bức ảnh, ngắm nghía vài giây rồi trả lời với giọng trầm đục:
“Adela hồi đó là một cô gái rất xinh đẹp.”
“Hồi đó?”
“Cô ấy đã mất cách đây hơn ba năm trong một tai nạn máy bay.”
“Ồ, tôi rất tiếc…”
Điền ngập ngừng, không biết phải chấm dứt câu nói như thế nào.
Trung úy Biệt Động Quân David Walker dùng mũi súng vẹt đám cỏ voi cao nghệu tìm lối ra. Trước mặt anh là phi trường quân sự Tocumen ở vùng phụ cận Panama City. Trung đội do anh chỉ huy có nhiệm vụ lập một đầu cầu ở phần phi đạo tiếp giáp với sân bay quốc tế Omar Torrijos để bảo vệ cho chiến hữu của anh tiến chiếm các mục tiêu trọng yếu của cứ điểm này. Cơn mệt mỏi, ngầy ngật trong anh sau gần bẩy tiếng đồng hồ “chèn cá hộp” trên chiếc C-130 cất cánh từ căn Cứ Hunter, Savanah thuộc tiểu bang Georgia đã tan biến trong tiếng động cơ phành phạch của mấy chiếc trực thăng Ô Đen ném bọn anh xuống trận địa.
Trận đánh diễn ra nhanh và gọn, gần đúng như dự tính. Các đơn vị phòng thủ cứ điểm Tocumen trực thuộc PDF, Lực Lượng Quốc Phòng Panama, hoặc bị tiêu diệt, hoặc nhanh chóng đầu hàng. Trung đội của David Walker nhận được lịnh di chuyển về hướng phi trường dân sự Omar Torrijos. Nhiệm vụ: tiến chiếm và kiểm soát khu vực trạm hành khách vãng lai. Trước đó, các đơn vị Biệt Động Quân khác đã xâm nhập và tràn ngập các ổ kháng cự của lực lượng phòng thủ. Có khoảng hai trăm năm mươi thường dân run rẩy, khiếp đảm nằm ngồi la liệt trong trạm vãng lai. Phần đông là hành khách của hãng Eastern Airlines và thân nhân của những người này. Chuyến bay từ Rio De Janeiro, Ba Tây đến muộn chín mươi phút, khoảng nửa tiếng trước khi những chiếc trực thăng Ó Đen đổ những toán xung kích xuống vòng rào phi trường Tocumen.
Trung úy David Walker đưa mắt quan sát toàn khu trong khi thuộc hạ của anh đang xét hỏi và trấn an những thường dân xui xẻo bị kẹt giữa hai lằn đạn. Có tiếng nức nở vọng ra từ một góc xa của trạm hành khách. David ra hiệu cho một người lính gần đó đi theo anh. Cô gái trẻ người Panama đang ôm mặt khóc nức nở bên xác một người đàn ông đứng tuổi. Hai tay đè chặt lên lổ thủng vẫn còn rỉ máu trên lồng ngực của xác chết, một thanh niên khuôn mặt lạnh tanh ngẩng đầu lên nhìn hai người lính ngoại quốc mặt mày vằn vện, võ trang tận răng đang bước đến gần. Đó là lần đầu tiên David gặp gỡ Adela. Người chết là cha của nàng, một nhân vật đối lập của chính quyền Noriega vừa trở về từ Rio De Janeiro trên chuyến bay định mệnh. Một nhóm người lạ mặt đã chặn ông lại, kéo ông vào góc vắng này, và dùng súng hạ sát ông trước sự kinh hoàng của hai người con và sự thờ ơ của những người lính Panama lúc bấy giờ vẫn còn làm chủ khu vực này. Roberto, con trai của người chết, bỗng lên tiếng, “Tôi biết ai giết cha tôi.” Tiếng Anh của Roberto rất sõi, và lạnh tanh.
Có tiếng ồn ào, tiếng chân chạy rầm rập ở những lối vào của trạm hành khách, rồi tiếng quát tháo quen thuộc bằng Anh ngữ. Những người lính đầu tiên của sư đoàn 82 Nhảy Dù vừa đến từ không trung. Bấy giờ là hai giờ sáng ngày 20 tháng mười hai năm tám mươi chín, sáu mươi phút sau khi Chiến Dịch “Just Cause” chính thức bắt đầu. Nhiệm vụ tiên khởi của Chiến Đoàn 75 Biệt Động Quân, chiếm đóng và bảo vệ khu sân bay chiến lược để làm bàn đạp cho các đợt tấn công vào tổng hành dinh quân đội Panama, đã hoàn tất mỹ mãn.
Trong năm kế tiếp, David trở lại Panama hai lần. Sáu tháng sau lần gặp gỡ, David làm lễ thành hôn với Adela tại Panama City. Cũng trong dịp này, anh đựơc Roberto cho biết đã trả được mối thù nhà. “Tên giết cha tôi đã đền tội.” Roberto kéo anh ra nói nhỏ, giọng đã bớt âm hưởng lạnh lùng. David không biết được thêm chi tiết nào khác. Adela có vẻ bứt rứt mỗi khi David tò mò hỏi nàng về cuộc “vendetta”. “Chuyện của người Panama anh đừng nên can dự vào,” nàng luôn trả lời như vậy.
Sáu tháng kế tiếp của đôi vợ chồng mới cưới là một chuỗi dài hạnh phúc. Họ đưa nhau đi Las Vega để hưởng tuần trăng mật, quay về thành phố nhỏ Tehachapi ở miền Trung tiểu bang California, nơi gia đình của David có một nông trại nhỏ. Buổi chiều, hai người thường kéo nhau ra khu vườn sau nhà, sóng đôi đứng nhìn lên “Ruộng Gió”, nơi có những cánh quạt kim khí màu trắng xám quay tít. Trở về Front Benning, Georgia, David lại lăn xả ngay vào với công việc huấn luyện đám tân binh của chiến đoàn 75 Biệt Động Quân. Anh dự định xin giải ngũ vào đầu năm tới. Đời sống quân ngũ nay đây mai đó có lẽ không thích hợp với những kẻ yêu nhau đến độ không muốn rời xa nhau dù chỉ một phút.
Nhưng rồi họ cũng xa nhau, mãi mãi. Adela qua đời trong một tai nạn máy bay trên đường về thăm quê hương vào dịp đầu năm Dương lịch 1991. Trung úy David Walker trở lại Panama City lần thứ ba như một tên chiến bại. Một lần nữa, định mệnh tàn khốc đã thắng. David rời quân đội không lâu sau đó với cấp bậc Đại úy. Anh trở về phố núi Tehachapi, với căn nông trại nhỏ, ở đó mỗi chiều anh vẫn thường ra sau vườn ngắm ngọn đồi gió, quay những cánh quạt màu trắng xám quay mãi quay hoài. Trong túi anh lúc nào cũng có một bức ảnh nhỏ bọc nhựa cẩn thận. Thỉnh thoảng anh lại lấy bức ảnh ra ngắm, như vậy đã mấy năm trời…
Điền cũng đã có dịp nhìn thấy Wind Farms, những “ruộng gió” như nguời bản xứ thường gọi – thật ra là những ngọn đồi cao với hàng ngàn cánh quạt gió dùng để phát điện – mỗi khi anh đi ngang qua thị trấn sa mạc Mojave hay Tehachapi. Những cánh quạt kim khí quay tít như chiếc chong chóng máy bay mà David đang lái. Phải chăng điều này có liên quan đến quyết định trở thành phi công của hắn? Hay cái tai nạn hàng không thảm khốc đã cướp đi người vợ yêu dấu? Hay cả hai? Điền đặt tay minh lên vai viên cựu Đại úy Biệt Động Quân, nói nhỏ:
“David, cám ơn anh đã chia sẻ cái kinh nghiệm buồn thảm của anh với tôi. Tôi cũng không muốn nói với anh những lời an ủi sáo mòn. Anh có thừa nghị lực để vượt qua giai đoạn khó khăn trong đời anh, và tôi nghĩ anh đã chứng minh được điều đó.”
Điền cảm thấy xấu hổ. Những điều anh vừa nói cũng chỉ là những sáo ngữ rỗng tuếch. David nhìn anh, vẻ bối rối hơn là cảm động. Hắn nói:
“Lẽ ra tôi không nên để nàng một mình, dù chỉ một giây, một phút.”
Đôi chân mày hắn cau lại, vẻ đau đớn lộ rõ trên khuôn mặt điển trai. Điền lúng túng quay đi, chúi đầu vào tờ tạp chí một cách vờ vĩnh. Anh vẫn có cái cảm giác khó chịu khi phải nhìn sự đau khổ của người khác. Máy bay hạ dần độ cao, lướt trên những tảng mây trắng rồi cuối cùng lọt thỏm vào biển mây dày đặc. Trước mặt và chung quanh Điền hiện giờ chỉ là một tấm màn khói trắng xám. Chiếc máy bay mỏng mảnh vẫn còn ở trong khu vực núi non trùng điệp của rặng Sierra Nevada. Khuôn mặt David lộ vẻ căng thẳng, mắt dán vào cái hộp nhỏ có đề hàng chữ Global Positioning System, hệ thống định vị toàn cầu. “Cần chi tới toàn cầu, chỉ cần cái hộp nhỏ xấu xí này có khả năng báo hiệu cho David cái mỏm núi đầy tuyết nằm đâu đó trước mũi của hắn là tốt lắm rồi,” Điền nghĩ thầm.
Cuối cùng rồi chiếc máy bay cũng ra khỏi biển mây dầy đặc. Las Vegas hiện ra ở phía dưới, thật gần. Những tòa cao ốc đồ sộ, những khách sạn sòng bài nổi tiếng thế giới, nằm phơi mình hai bên con đường huyết mạch của cái thành phố đổ bác này. Chiếc máy bay nghiêng cánh, đánh nửa vòng tròn, rồi hướng thẳng đến cái phi đạo nhỏ loang loáng nước từ lớp tuyết đang tan. Điền cảm thấy có điều gì không ổn. Phi cơ đã vượt quá một phần ba phi đạo mà vẫn chưa chạm đất. Cuối cùng rồi hai bánh sau cũng chạm vào đường băng trơn trợt. Chiếc máy bay nẩy tung lên, lảo đảo, rơi xuống, rồi lại nẩy tung lên. Lúc này máy bay đã vượt quá hai phần ba chiếc phi đạo ngắn mà tốc độ vẫn còn khá cao. Cuối cùng cả ba bánh xe đã chịu bám vào mặt phi đạo ẩm ướt. Chỉ còn khoảng ba mươi mét là đến cái ngã rẽ cuối cùng trước khi phi đạo chấm dứt. David hét lên: “Coi chừng,” rồi quặt tay lái qua phía bên phải. Chiếc máy bay nghiêng hẳn qua một bên, cánh bên trái gần chạm đất. Điền bíu chặt hai tay vào quai nắm cửa, chiếc nịt bụng siết chặt vào hông anh đau thắt. Chiếc máy bay lấy lại quân bình, chạy thêm một quãng, rồi ngừng lại, cánh quạt chong chóng vẫn quay vù vù.
David thở ra một hơi dài, nhìn Điền với vẻ như bối rối, nửa như xin lỗi. Hắn hỏi anh nhẹ nhàng,
“Anh có sao không?”
Cố giữ vẻ bình tĩnh, Điền trả lời.
“Tôi không sao. Ít nhất chúng ta cũng đã an toàn ở trên mặt đất.”
Anh chàng nhân viên hàng không trẻ tuổi từ trên chiếc xe đón khách màu trắng có sơn hàng chữ to tướng Follow Me bước xuống, tiến đến gần hai người.
“Rough day, heh?”
Hắn lên tiếng, miệng nở một nụ cười tinh quái. Bắt gặp ánh mắt nghiêm khắc của Điền, hắn dừng ngay vẻ cười cợt, quay lại mở rộng cánh cửa xe bên hông. Điền quay lại hỏi David:
“Anh có cùng đi với tôi không?”
“Chắc không được rồi!” David nhăn nhó.
Hắn tiếp:
“Tôi phải ở lại để kiểm tra con chim nhỏ này xem nó có bị hư hại gì không. Người của ICS chờ sẵn ở trạm vãng lai, họ sẽ đưa anh đến chỗ hẹn.”
“Vậy mình sẽ gặp lại ở đây vào lúc hai giờ chiều.”
Mười phút sau, Điền đã có mặt trên con đường dẫn ra ngoại ô thành phố Las Vegas. Anh thích thú khám phá ra một Las Vegas mới lạ. Không đèn màu rực rỡ. Không náo nhiệt ồn ào. Không có tiếng leng keng của những đồng mười xu, hai mươi lăm xu rơi trên chậu kim khí ở những dãy máy kéo tay. Chỉ có những căn nhà với mái ngói đỏ thấp thoáng sau dãy cây xanh trồng ven đường. Bên phải, bên trái, và trước mặt anh là rặng Sierra Nevada màu xanh xám bao vây cái thành phố sa mạc nổi tiếng này. Chiếc xe rẽ vào con đường nhỏ mang hàng chữ Industrial Parkway rồi dừng lại trước cửa một tòa nhà màu trắng. Điền liếc nhìn đồng hồ tay. Chín giờ kém năm. “Không tệ lắm. Mình đến sớm những năm phút,” anh nghĩ thầm. Cô thư ký tóc vàng đàng sau chiếc bàn giấy hình chữ U ngước lên nhìn anh tươi cười:
“Ông Gai-ình?”
“Nguyễn.” Điền cải chính.
Cô gái quay lại nói vào cái intercom:
“Ông Andersen, ông Nu-ình đã đến.”
Điền nhìn thấy Larry Andersen, chủ hãng ICS, đang hấp tấp đi ra, miệng cười toe toét.
“Hello, Denny. How’s your flight?”
“Great, Larry. Great!” Điền trả lời.
Chiếc máy bay nhỏ cất cánh nhẹ nhàng. Chỉ trong vài phút, phi trường Las Vegas đã bị bỏ lại đàng sau. “Con chim nhỏ không bị tổn thất nào đáng kể,” David cho anh biết. Tảng mây dầy đặc buổi sáng bây giờ đã kéo lên cao, phân tán thành những mảng trắng mỏng chói chang dưới bầu trời xanh lơ vùng sa mạc. Những mỏm núi cao của rặng Sierra Nevada phủ đầy tuyết trắng, lấp lánh phản chiếu ánh nắng chiều. David gỡ ống nghe ra khỏi tai, quay lại hỏi anh.
“Công việc ở ICS êm xuôi cả chứ?”
Điền gật đầu thay câu trả lời, nghĩ đến cái Ponytail và chiếc cà vạt diêm dúa của viên trưởng toán thảo chương điện toán của ICS. Anh nói thầm, “Thêm bộ tóc đuôi ngựa của hắn là mình có ngay một hệ thống hoàn hảo.”
David lại móc túi lấy bức ảnh của Adela ra ngắm nghía. Khuôn mặt anh cau lại, ra vẻ suy tư. Điền thấy bất nhẫn, gợi chuyện:
“Này David, tha lỗi cho tôi nếu anh cảm thấy tôi tò mò thái quá. Việc anh trở thành phi công có liên quan gì đến cái tai nạn hàng không thảm khốc đã làm thiệt mạng vợ anh không?”
Một phút im lặng nặng nề sau câu hỏi, rồi David lên tiếng:
“Thật ra thì có. Nhưng cái đó không phải là một tai nạn thông thường. Tôi nghĩ có điều gì mờ ám trong đó.”
“???”
Mùa Giáng Sinh 1990. Cho đến giây phút đó, Adela là một người hoàn toàn hạnh phúc. Buổi dạ tiệc truyền thống của chiến đoàn 75 Biệt Động Quân đã bắt đầu vào lúc bảy giờ tối. Đã lâu lắm rồi Adela chưa từng hưởng những giây phút tưng bừng như vậy. Nàng đã khiêu vũ gần như không ngừng với David và những người bạn lính tráng dễ thương của anh. Con chim nhỏ Trung Mỹ trong chiếc áo dạ hội màu trắng đã là trung tâm chú ý của khách dự tiệc, những tiếng vỗ tay nồng nhiệt tán thưởng nổi lên khi Adela bước những bước nhảy tân kỳ.
Nghiêng mình chào người bạn khiêu vũ, vị sĩ quan chỉ huy của chồng mình, Adela nhìn quanh tìm kiếm David. Trước đó, anh bảo nàng tiếp tục vui chơi, anh muốn ra ngoài một chốc. Hai người đã dự định cáo lui vào lúc nửa đêm. Họ nôn nóng muốn nhìn thấy món quà của người bạn tình dành cho mình. Chiếc đồng hồ mạ đồng sáng loáng dựng ở một góc phòng thong thả buông ra những tiếng chuông trầm ấm. Mười hai giờ đêm. Adela lần ra phía dãy cửa sổ bằng kiếng trong suốt, ở đó nàng có thể nhìn thấy khu hành lang. Nàng nhìn thấy David. Nàng cũng nhìn thấy người đàn bà tóc bạch kim với chiếc áo dạ hội hở hang phô ra cả phần lưng trắng nhễ nhại. Nàng thấy họ đang hôn nhau, say đắm. Ly rượu chát trong tay nàng rơi xuống thảm, rượu đổ tung tóe. Adela bật hét lên như con cọp nhỏ bị thương, quay đầu lại, đâm sầm chạy ra phía cửa lớn. Có tiếng người lao xao phía sau, nhưng nàng đã không còn nghe thấy gì nữa.
“Đó là Nancy, người tình cũ của tôi. Chúng tôi biết nhau từ lúc còn học Trung học.”
“Highschool sweetheart!”
“Vâng. Chúng tôi sống với nhau một thời gian. Sau đó, nàng gặp một người trong giới kinh doanh ở Fort Benning khi theo tôi đến đây.”
Điền gật gù:
“Tôi hiểu.”
Tôi hỏi tiếp:
“Chuyện gì đã xảy ra hôm đó.”
“Tôi uống khá nhiều rượu, và Nancy thì cố tình muốn chứng tỏ với mọi người là tôi còn nghĩ đến với nàng. Tôi sa vào bẫy một cách ngu xuẩn…”
Thế sau đó anh có giải thích cho Adela mọi việc không?’
“Có, nhưng không đi đến đâu. Nàng không cho tôi cơ hội nào hết!”
Adela khóc sướt mướt suốt cuộc hành trình. “Mình sẽ chẳng bao giờ muốn gặp lại anh ấy nữa,” nàng nghĩ. Bị ngập lụt bởi những câu hỏi cuống quít của mẹ nàng lúc vừa đặt chân vào nhà. Adela chỉ nói vắn tắt, “Anh ấy đã có người khác. Đừng trả lời điện thoại của anh ấy.” Nàng lên phòng đóng cửa lại, nằm vùi trên chiếc giường nhỏ. Thỉnh thoảng có tiếng gõ cửa khe khẽ, tiếng người xì xầm, rồi tiếng chân xa dần. Chỉ còn lại Adela và nỗi cô đơn không rời. Cuối cùng, Adela thiếp đi trong giấc ngủ chập chờn đầy mộng mị, những tiếng nấc nhỏ uất ức thỉnh thoảng vọng lên trong cửa phòng cô tịch.
Buổi chiều ở phi trường Omar Torrijos, Adela biết tại sao mình có mặt ở đây. Nàng đi loang quanh trong trạm vãng lai, cuối cùng dừng lại ở cái góc vắng gần khu nhà vệ sinh. Chính ở nơi này nàng đã gặp David lần đầu. Người lính ngoại quốc súng đạn đầy mình và khuôn mặt vằn vện chất mực hóa trang đã cúi xuống trên thi hài đẫm máu của cha nàng, đã dịu dàng vỗ về nàng bằng thứ tiếng nói đầy âm sắc. Chính ở đây đã bắt đầu một chuyện tình rất nên thơ, một cuộc hôn nhân rất hạnh phúc, như đóa hoa quỳnh đã nở ra trên nấm mộ hoang tàn của chiến tranh. Có tiếng chân người bước đến gần, rồi có ai đó gọi khẽ tên nàng. Nàng quay lại. Juan đứng đó, miệng treo lơ lửng nụ cười buồn thảm. Nàng nghe mình kêu lên thảnh thốt, “Juan! Tại sao lại là Juan!”
Juan có một vị trí đặc biệt trong lòng Adela. Anh đã từng là bạn thân của Roberto, cũng như cha anh đã từng là bạn thân của cha Roberto và Adela. Ai cũng biết Juan đã yêu Adela từ lúc nàng còn là một cô nữ sinh Trung học. Có một dạo hai người đã là đôi tình nhân khắng khít. Cho đến mấy năm gần đây… Mối liên hệ thân thiết giữa hai gia đình bỗng thay đổi một cách đáng ngại kể từ khi cha Juan trở thành một nhân vật trọng yếu và nguy hiểm của chế độ quân phiệt Noriega – ông cầm đầu lực lượng mật vụ của chính phủ. Bất đồng chính kiến ngày càng sâu đậm giữa hai người bạn cho đến một lúc nào đó đã trở nên không còn hóa giải được nữa. Lo ngại cho tính mạng của ông, gia đình Adela dùng mọi thủ đoạn tình cảm để bắt cha nàng đi lánh mặt ở Rio De Janeiro, Ba Tây, cho đến khi “tình hình trở nên sáng sủa hơn.”
Nạn nhân trực tiếp của mối bất hòa giữa hai gia đình tất nhiên phải kể đến Juan và Adela. Họ không còn được phép gặp nhau nữa. Juan bỏ học, trở thành phi công của Không Lực Panama. Roberto trở thành thành viên của nhóm sinh viên chống chế độ, và Adela trở thành một người đau khổ, lúc nào cũng bị giằng xé bởi những tình cảm phức tạp, rối rắm bởi cái quan hệ oái oăm gữa nàng và Juan. Sự sụp đổ của chế độ Noriega không làm cho tình hình khá hơn. Hai người bạn-thân-trở-thành-thù-nghịch đều bị sát hại cách nhau trong vòng vài tháng. Roberto và nhóm bạn của anh đã hạ sát cha của Juan, người mà Roberto quả quyết là đã cho thủ hạ ám sát cha anh tại trạm vãng lai của phi trường Omar Torrijos ngay trước cuộc tấn công của quân đội Mỹ vào thành trì của chế độ Noriega. Adela không biết gì về tung tích của Juan trong một thời gian dài. Khi nàng thành hôn với David, lẫn lộn trong số thiệp mừng sặc sỡ nhận được, có một phong bì màu trắng lẻ loi mà phần người gởi chỉ có vỏn vẹn một chữ “J” quen thuộc. “Chúc em hạnh phúc.” Chỉ có vậy thôi. Vậy mà bây giờ nàng đang đối diện với Juan vào lúc nàng không ngờ nhất.
Chiếc Cessna vòng trở lại không phận phi trường. Trước đó Adela đã nhận lời của Juan đi “tham quan” Panama City trên chiếc máy bay hai chỗ ngồi anh mướn. Hai người có dịp nhìn thấy ngôi nhà của họ từ trên cao. “Mọi việc xảy ra đều vượt quá sự hiểu biết của anh.” Juan buồn rầu nói: “Bỗng dưng chúng ta mất hết mọi thứ chỉ trong một thời gian ngắn ngủi. Tất cả chỉ vì sự đổi thay của thời cuộc và lòng người. Có lúc anh muốn tìm giết Roberto, nhưng rồi thôi. Bởi vì rồi ai sẽ giết anh sẽ trả thù? Em chăng?” “Em không biết, mà em cũng không muốn nhắc đến những sự kiện bi thảm đó nữa,” Adela đau đớn trả lời. Nàng cảm thấy hoang mang, tự hỏi tại sao mình lại nhận lời cùng đi với Juan. Lúc này chiếc máy bay nhỏ đã gần đến phi trường. Adela trông thấy bóng chiếc máy bay lướt trên đám cỏ voi cao quá đầu người ở phía Tây phi trường. Nàng nhớ có lần David kể lại anh đã nhảy xuống đám cỏ này từ chiếc trực thăng “Ó Đen” vào một đêm bi thảm.
Trung úy David Walker hấp tấp bước đến chiếc taxi trống. Sáu tiếng đồng hồ bay từ Fort Benning đến Panama City dài như sáu thế kỷ. Lúc khám phá ra Adela đã bỏ đi, David hoảng hốt gọi cho cấp chỉ huy trực tiếp của anh để xin ông cho phép anh đi tìm nàng. Viên tiểu đoàn trưởng bảo anh, “Anh có ba ngày phép. Qua bên đó, mang nàng về an toàn.” Ông nói tiếp, giọng nghiêm nghị. “Đó là mệnh lệnh.” Nhìn hai gói quà giáng sinh nằm lăn lóc dưới gốc cây thông nhỏ trang hoàng diêm dúa David nghĩ thầm, “Có lẽ mình và Adela sẽ mở quà vào đêm giao thừa tại Panama City.”
Nhìn đám xe chữa lửa, xe cứu thương của phi trường chạy qua hú còi inh ỏi, David hỏi người tài xế, “Có chuyện gì vậy?” “Vừa rồi có một chiếc máy bay nhỏ bị rớt ngoài bãi cỏ voi cạnh phi trường,” người tài xế trả lời bằng thứ tiếng Anh ngọng nghịu. Trên đường ra khỏi phi trường, ông ta tò mò quan sát trong kiếng chiếu hậu ông khách Hoa Kỳ đang săm soi hai gói quà gói ghém cẩn thận bằng loại giấy có in hình những cây thông xanh xinh xắn và những sợi dây đỏ rực rỡ. Lúc đó David không biết là nạn nhân gồm có Adela và một người đàn ông tên Juan. Anh cũng không biết là trước khi chiếc Cessna nổ tung trên mặt đất, đám nhân viên ở đài kiểm soát không lưu ở phi trường Omar Torrijos đã thâu băng được lời kêu cứu thống thiết của Adela. “Trời ơi! Đừng Juan! Anh không có quyền… David! David, cứu em…” Mãi về sau David mới biết được điều này qua lời tường thuật của báo chí địa phương. Còn phần Juan, không ai biết được hắn đã nghĩ gì khi cho chiếc máy bay nhỏ đâm xuống bãi cỏ voi cạnh phi trường với một tốc độ dốc khủng khiếp.
“Nếu không vì chuyện xảy ra ở đêm dạ vũ trước đó, Adela đã không trở thành nạn nhân của vụ tự-sát-giết-người này.”
David chấm dứt câu chuyện với lời than thở. Điền cảm thấy miệng lưỡi mình trở nên thừa thải. Quả thật anh không biết phải nói gì. Hai người im lặng một lúc khá lâu, mắt nhìn chăm chú về phía trước như đang theo dõi một vật gì ở cuối chân mây. Bỗng dưng David phá vỡ sự im lặng ngột ngạt:
“Anh có muốn ghé thăm “ruộng gió” một chút không?”
“Tại sao không? Mình còn thì giờ mà!”
Máy bay nghiêng cánh về phía bên trái, rồi hạ dần cao độ. Những ngọn đồi cao nằm dọc xa lộ 58 hiện rõ dưới mắt hai người. Trên đỉnh đồi mọc lên vô số những cột kim khí màu trắng xám với những cánh quạt cùng màu đang quay đều đặn trong gió chiều.
David đột ngột cất tiếng:
“Quà Giáng Sinh của Adela cho tôi đấy.”
Điền hơi ngỡ ngàng một chút, rồi hiểu ra:
“Nàng tặng anh mô hình của cái “ruộng gió” này hả?”
“Đúng vậy. Để làm chứng cho mối tình của đôi ta, nàng viết trong tấm thiệp.”
David cho máy bay quay về hướng Nam, trở lại phi trình đã định. Hắn đưa con chim nhỏ xuống mặt phi đạo nhẹ nhàng, đúng sách vở như một phi công lành nghề. Không bao lâu, chiếc máy bay đã trở về lại chỗ đậu của mình trong cái hangar. Điền bắt tay David thật chặt, cám ơn hắn về chuyến du hành. David có vẻ không hào hứng cho lắm. Hắn nói:
“Chuyến đi sáng nay thật tệ quá. Tôi đoán những lần sau có vẻ ông thích đi với John hơn.”
Điền nghĩ hắn nói có lý. Lần đáp xuống buổi sáng nay đã cho anh một ấn tượng không hay về kinh nghiệm non nớt của hắn. Anh lúng túng, ậm ừ những tiếng vô nghĩa để trả lời, quay lại chui vào xe lái ra khỏi hangar. Chiếc xe vượt qua chỗ David đang đứng một quãng bỗng dừng lại rồi lùi ngược về cạnh hắn. Điền hạ kiếng xe, nói với David, lúc này đang nhìn anh với vẻ dò hỏi:
“Thứ Năm tuần tới tôi có việc phải đi San Francisco, nếu anh không bận gì thì mình cùng đi. Lúc về mình ghé thăm “ruộng gió” một lần nữa, anh nghĩ sao?”
Khuôn mặt David sáng lên với nụ cười rạng rỡ. Hắn chụm chân lại, đưa tay chào anh theo kiểu nhà binh:
“No problem, sir!”
Điền đưa tay chào trả, nhấn ga cho xe vọt đi. Những viên đá nhỏ trên con đường tráng nhựa cũ mèn dẫn ra khỏi phi trường kêu xôn xao dưới bánh xe lăn nhanh.
Phùng Nguyễn
Tháng sáu 95