vhnt, số 200
26 June 1996
Trong số này:
thư vhnt..................................................................PCL
T h ơ :
1 - Thơ trẻ SàiGòn: ..................................Nguyễn T Dũng p/t
- Ðám cháy ...................................................Thanh Thảo
- Van xin ...................................................Lê Minh Quốc
- Ðường thi nhân .....................................Thái Thăng Long
2 - Giới thiệu Xuân Quỳnh & Lưu Quang Vũ ...............Ðinh Nho Hào
- Lại bắt đầu / Thơ tình cho bạn trẻ .................Xuân Quỳnh
- Sợ mưa / Và anh tồn tại .............................Lưu Quang Vũ
3 - Chiều qua Bồng Sơn .................................Trần Hoài Thư
4 - Êm dịu .............................................Trần Nguyên Thảo
5 - Ðoản khúc ........................................................Chinh
D i ễ n Ð à n V ă n H ọ c :
6 - Marie Sến: Tự Truyện của Một Thế Hệ Hàng Xén ......Nguyễn Thạch Miên
T r u y ện N g ắn / S án g T ác :
7 - Ngược chiều gió cuốn .............................Bùi Thanh Liêm
Chúc bạn đọc một ngày thoải mái để thưởng thức những sáng tác trong vhnt, và tìm thấy chút vui qua hoạt động tinh thần này.
thân ái,
PCL/vhnt
Ðám Cháy
Tâm hồn em một đóa hoa nở chậm
anh sung sướng đến nghẹn thở
khi một mình trở về trong đêm
một mình gặp ánh lửa
bao nhiêu năm
những cánh hoa khép chặt
trong nhàm chán
lãng quên
cay cực
xin biết ơn đám cháy
cô đặc thành ngọn nến
mãi mãi nguyện cầu
tan dần
tan dần
trong đêm sâu
bao nhiêu năm
đóa hoa tu viện tâm hồn em
chợt bùng đám cháy
Thanh Thảo
Van Xin
Giấc mơ tôi hồi bé
Mời em cứ bước vào
Những tâm hồn chìm sẻ
Xin hãy đến bên nhau
Tôi đang chờ đấy nhé
Ðêm dài sắp qua mau
Tiếng gà đừng vội gáy
Lỡ làng cõi chiêm bao
Tôi van xin con mắt
Ngủ ngoan ngủ ngoan nào
Từng ngôi sao đột ngột
Sắp vĩnh biệt trời cao
Tôi đợi chờ hoảng hốt
Ôi mắt môi ngọt ngào
Sao em không cúi xuống
Vỗ về trái tim đau
Tôi nằm đơn độc quá
Biết chống chọi làm sao
Gió gào ngoài khung cửa
Lạnh buốt tựa gươm đao
Mắt trừng xuyên bóng tối
Thầm hỏi em nơi nào
Trăng mọc ngoài cửa sổ
Tái nhợt đến xanh xao
Lá cây buồn bã rụng
Bay giữa trời lao đao
Tôi van xin con mắt
Ngủ ngoan ngủ ngoan nào
Giấc mơ tôi nhỏ bé
Sao em không bước vào
Lê Minh Quốc
Ðường Thi Nhân
Lặng lẽ một đêm cuối năm Hà Nội
Gió như ai hỏi
Cây như gương mặt người xưa
Hồ trong veo sương khói lơ mơ
Giá rét căm căm lá vàng rơi run rẩy
Thơ mấy trăm năm sưởi lòng mình ấm lại
Nàng Kiều ở tít cõi xa
Nàng Kiều thấp thoáng bên ta
Nàng Kiều đêm kinh thành tìm Nguyễn Du mà khóc.
Mả Ðạm Tiên đang chờ độ xuân về
Thôi một mình ta mê
Thôi một mình ta đêm nay đi dạo
Gió rét về như bão
Cây bên đường lẩy bẩy dáng ai kia?
Con đường Thi nhân * tìm mình lắng nghe
Một chút buồn với thời gian của Nguyễn
Ðể bừng lên như sắc lá rừng câỵ
Con đường Thi nhân
Ai rưng rưng phố vắng?
Ðêm cô đơn
Thả ánh đèn vàng thăm thẳm trời xa
Thái Thăng Long
* Ðường Nguyễn Du, Hà Nội
Dũng Nguyễn sưu tầm
Vài Bài Thơ Của Xuân Quỳnh Và Lưu Quang Vũ
Nhân Hoàng Anh Tuấn giới thiệu về thơ Xuân Quỳnh (VHNT 197) tôi cũng muốn giới thiệu tiếp vài bài thơ của chị và của chồng chị là nhà viết kịch nổi tiếng đã khuất Lưu Quang Vũ.
Lưu Quang Vũ sinh năm 1948. Nguyên quán ở Quảng Nam. Hội viên Hội Nhà văn Việt nam, hội viên Hội nghệ sĩ sân khấu Việt nam. Làm thơ, viết văn, viết kịch. Tác giả của 53 vở kịch, trong đó có "Tin ở hoa hồng", "Ðiều không thể mất", "Tôi và chúng ta", "Hoa cúc xanh trên đầm lầy", "Ông không phải bố tôi", "Chim cầm sâm không chết" và "Hồn Trương Ba, da hàng thịt".
Xuân Quỳnh xuất thân là văn công, chị trẻ hơn chồng độ âm dăm bảy tuổị Trong "Chân dung nhà văn", Xuân Sách viết về Xuân Quỳnh và Lưu Quang Vũ như sau:
Mãi hái hoa dọc chiến hào
Bỏ quên chồi biếc lúc nào không hay
Thói quen cũng lạ lùng thay
Trồng cây táo lại mọc cây bạch đàn.
Cũng muốn tin vào hoa hồng
Tin cả vào điều không thể mất
Cả tôi và cả chúng ta
Ðứng trong đầm lầy mà hát:
Ông không phải là bố tôi
Con chim sâm cầm đã chết
Ông không phải là bố tôi
Con chim sâm cầm ai giết?
Sau đây là một vài bài thơ của Xuân Quỳnh và Lưu Quang Vũ. Một số bài thơ khác có thể tìm thấy ở home page http://www.math.uni-siegen.de/~hao/
Những bài thơ sau và những bài ở trong home page kể trên chỉ là một sưu tập rất nhỏ về thơ XQ và LQV của một kẻ xa xứ không có đủ sách vở, thông tin về đất nước của mình. Vì những lẽ đó, nên rất có thể chúng chưa phải là các bài tiêu biểu của các tác giả này.
Ðinh Nho Hào
oOo
Lại Bắt Đầu
Lại bắt đầu từ những trang giấy mới.
Lại ngọn đèn màu mực những câu thơ
Lại nhịp đập bắt đầu tim rạo rực
Trước biết bao náo nức với mong chờ
Một đoàn tàu chuyển bánh vào ga
Làn nước mới trời xanh và mây trắng
Ngô non mướt bãi cát vàng đầy nắng
Như chưa hề có muà lũ đi qua
Như chưa hề có nỗi đau xưa
Lòng thanh thản trong tình yêu ngày mới
Một quá khứ ra đi cùng gió thổi
Thời gian trôi ký ức sẽ phai nhòa
Những mùa sen mùa phượng đã qua
Trên kháp nẻo lại bắt đầumùa cúc
Rồi hoa đào lại tươi hồng nô nức
Như chưa hề biết đến tàn phai
Tay trong tay tôi đã đến bên người
Tôi chẳng nói điều chi về vĩnh viễn
Và mỗi sáng khi mặt trời hiển hiện
Là một ngày tôi lại bắt đầu yêu...
Xuân Quỳnh
Thơ Tình Cho Bạn Trẻ
Vẫn con đường vạt cỏ tuổi mười lăm
Mặt hồ rộng gió đùa qua kẽ lá
Lời tình tự trăm lần trên ghế đá
Biết lời nào giả dối với lời yêu
Tôi đã qua biết mấy buổi chiều
Bao hồi hộp buồn lo và hạnh phúc
Tôi trăn trở nhiều đêm cùng hoa cúc
Ðợi tiếng gà đánh thức sự bình yên
Dòng sông này! bãi cát cánh buồm quen
Hoa lau trắng suốt một thời quá khứ
Tôi đã đi đến tận cùng xứ sở
Ðến tận cùng đau đớn, đến tình yêu
Buổi chiều này sặc sỡ như thêu
Muôn màu áo trong hoàng hôn rạng rỡ
Bàn tay ấm, mái tóc mềm buông xoã
Anh mắt nhìn như chấp cả vô biên:
Không có không gian, không có thời gian
Chỉ tuổi trẻ, chỉ tình yêu vĩnh viễn.
Người mới đến, những nơi tôi từng đến
Vẫn con đường vạt cỏ tuổi mười lăm
Lại hàng cây nghe tiếng thì thầm
Lời thành thật, dối lừa trên ghế đá...
"Nào hạnh phúc nào là đổ vỡ ..."
Tôi thấy lòng lo sợ không đâu
Muốn dãi bày cùng ai đó đôi câu
Về tất cả những gì rồi sẽ trải
Mong rút ngắn dặm đường xa ngái
Ðể cho người tới đích bớt gian truân
Bao khổ đau sung sướng đời mình
Xin tặng bạn làm bước thang hạnh phúc
Nhưng tôi biết chẳng giúp gì ai được
Những vui buồn muôn thủa cứ đi quạ
Xuân Quỳnh
Sợ Mưa
Em chỉ sợ rồi trời sẽ mưa
Xoá nhòa hết những lời anh hứa
Mây đen đến trời không còn xanh nữa
Nắng không trong như nắng thuở ban đầu.
Cơn mưa rào nối trận mưa ngâu
Xóa hết dấu chân anh về buổi ấy
Gió phai lạt mùi hương bối rối
Lá trên cành khô xao xác bay.
Mưa cướp đi an'h sáng của ban ngày
Ðường chập choạng trăm mối lo khó gỡ
Thức chẳng yên dở dang giấc ngủ
Hạnh phúc con người mong manh mưa sa.
Em chỉ sợ rồi trời sẽ mưa
Thương vườn cũ gãy cành và rụng trái
Áo anh ướt để em buồn khóc mãi
Ngày mai chúng mình sẽ ra sao, anh ơi?
Lưu Quang Vũ
Và Anh Tồn Tại
Giữa bao la đường sá của con người
Thành phố rộng, hồ xa, chiều nổi gió
Ngày chóng tắt, cây vườn mau đổ lá
Khi tàu đông, anh lỡ chuyến đi dài
Chỉ một người ở lại với anh thôi
Lúc anh vắng người ấy thường thức đợi
Khi anh khổ chỉ riêng người ấy tới
Anh yên lòng bên lửa ấm yên thương
Người ấy chỉ vui khi anh hết lo buồn
Anh lạc bước, em đưa anh trở lại
Khi cằn cỗi thấy tháng ngày mệt mỏi
Em là sớm mai là tuổi trẻ của anh
Khi những điều giả dối vây quanh
Bàn tay ấy chở che và gìn giữ
Biết ơn em, em từ miền cát nhỏ
Về với anh, bông cúc nhỏ hoa vàng
Anh thành người có ích cũng nhờ em
Anh biết sống vững vàng không sợ hãi
Như người làm vườn, như người dệt vải
Ngày của đời thường thành ngày-ở-bên-em
Anh biết tình yêu không phải vô biên
Như tia nắng, chúng mình không sống mãi
Như câu thơ, chắc gì ai đọc lại
Ai biết ngày mai sẽ có những gì
Người đổi thay, năm tháng cũng qua đi
Giữa thế giới mong manh, nhiều biến đổi
"Anh yêu em và anh tồn tại".
Em của anh ơi, đôi vai ấm dịu dàng
Người nhóm bếp mỗi chiều, người thức dậy lúc tinh sương
Em ở đây, đời chẳng còn đáng ngại
Em ở đây, bàn tay tin cậy
Bàn tay luôn đỏ lên vì giặt giũ mỗi ngày
Ðôi mắt buồn của một xứ sở có nhiều mưa
Ngọn đèn sáng rụt rè bên cửa sổ
Đã quen lắm, anh vẫn còn bỡ ngỡ
Gọi tên em, môi vẫn lạ lùng sao.
Lưu Quang Vũ
Chiều Qua Bồng Sơn
Chiều qua quận Bồng Sơn
Núi bên cầu xám sậm
Rừng dừa sáo gọi đàn
Khói hiu buồn xóm thẩm
Quận lỵ đóng sáu giờ
Cột rào che tầm mắt
Ðâu là cây đa già
trong bài văn tập đọc
Người lính bắn bâng quơ
Ðám bè xanh trôi dạt
Chiếc xe qua, cuối cùng
Bánh lăn rền vỉ sắt
Ðây trường Tăng Bạc Hổ
Xin một khoảnh dừng chân
Người qua đường áo trận
Tìm ai ở trong sân?
Anh tìm ai, ai đấy?
Giữa hoàng hôn rưng rưng
Lớp nào hiu hắt trống
Dãy bàn nào xiêu chân
Anh tìm ai, bóng cũ
Những học trò năm xưa
Các em giờ bỏ lớp
Như tôi đây, bây giờ
Cô giáo còn ở lại
Thầy giáo thì bỏ đi
Trò nữ thì thui thủi
Trò nam thì phân ly
Xin cô ly nước lọc
Tôi uống mắt Bồng Sơn
Pháo vang ầm căn cứ
Chào mi, Công trường Năm
Trần Hoài Thư
Êm Dịu
Gió trưa hè vu vơ
Hương nhẹ nhàng êm dịu
Bay đến em bài thơ
Lời thương, tim mềm yếu
Trưa vàng lung linh nắng
Mơ màng trên võng nghe
Ðưới tàn thưa im lắng
Ve kêu, phượng nở, hè
Con chim khuyên nho nhỏ
Nhìn qua chiếc lồng tre
Ðời xoay nghiêng, nắng đỏ
Em hong tóc trưa hè
Gửi cho mây một sợi
Tóc dài thương nhớ ơi
Tình thênh thang vời vợi
Sao em bỏ bầu trời ...
Tiếng đàn bầu khoan nhặt
Ai hát bài ru con
Gió lùa, cơn nắng gắt
Thổi tràn, hồn miên man
Con đường vòng đất đỏ
Ðưa em đến cuối làng
Nơi tim anh để ngỏ
Tre xanh, bướm lượn vàng
Trước nhà hoàng anh nở
Vàng một trời bơ vơ
Loài giây leo bỡ ngỡ
Treo trên nhánh tình mơ
Giờ tháng hè nhớ phượng
Ðong đưa tuổi ngây thơ
Áo bay, tình muôn hướng
Tập vở hiền ngu ngơ
Anh đưa tay đón nhẹ
Cánh phượng hồng trong mưa
Tim run run nói khẽ
Lời yêu dấu vu vơ
Nhốt tình trong êm dịu
Bằng khúc thiên tình thơ
Chiếc lồng tre nhỏ xíu
Chao đảo... chìm trong mưa
Con chim khuyên cứ hót
Trong chiếc lồng tre thưa
Bài thơ nào dịu ngọt
Gió bay, tình xa đưa...
trần nguyên thảo
6/18/96
Đoản Khúc
(gửi Q.Tr)
(1)
Mưa khắc khoải, cuối mùa.
Em ngủ,
kín vòng lưng?
Rượu còn đọng trong mắt em.
Ðêm hôm qua.
(2)
Rũ tóc ướt sau cơn giông
Em nằm trong tôi, một hàng nến phố.
Tấu khúc vỡ đêm sương muối.
Âm điệu giải hoàng.
Luân lạc ai bước về đây?
Rượu chờ. Tóc trắng.
(3)
Rã chiêm bao, trên trời.
Rã hoa tàn, mùa vắng nhạt.
Rồi em đi không từ biệt.
Rồi em đi.
Như thời gian.
(4)
Mưa ngọt ngào rơi quanh
Tôi làm hòn đảo nhỏ
Ðầy trong bàn tay mưa
Tóc em, run rẩy. Gió.
(5)
Rồi em mãi là một ngày rất xa.
Tôi mãi là một đời rất vắng.
Thời gian là ai?
Khuôn mặt ai?
Tôi thắp cho tôi nến lay lắt nhớ.
Chinh
24 tháng 6 1996
Marie Sến: Tự Truyện của Một Thế Hệ Hàng Xén
Mãi cho đến sau này, mỗi khi luận bàn về xã hội nước ta có lẽ nhiều nhà xã hội học vẫn sẽ nói tới Marie Sến của Phạm Thị Hoài, như người ta dẫn 1984 của George Orwell hay Le Zéro et L'Infini của Arthur Koets ler khi nói về một số điển hình của xã hội cộng sản Âu Châu.
Nhìn từ khía cạnh văn chương, nhiều nhà phê bình mực thước có thể đánh giá khác vì tác phẩm của Phạm Thị Hoài không dễ đọc hay dễ chuyển ngữ thành một tác phẩm mang nhiều biểu trưng lớn của nhân loại. Cái xã hội xứ ta cũng vậy mà thôi. Ngoài một số sắc thái chung của nhiều xã hội bị vùi trong chuyên chính hay của một xã hội nông nghiệp Á Châu muốn nhẩy vọt khỏi sự lạc hậu, nó có những đặc tính riêng không hẳn là giống với Liên Xô hay Trung Quốc, những đặc tính mà chỉ người mình mới thấy thấm thía. Nước ta lạc hậu nghèo đói đã đành, lại còn tiêm nhiễm ha*`u hết những thói tật của Tây Ta*`u Mỹ Nga, nhưng lại vẻ vang đánh thắng mọi kẻ thù Tây Tầu Mỹ Nhật và đang hối hả đổi mới để moi tiền các kẻ thù cũ và một bước tiến lên thành nước văn minh công nghiệp xã hội chủ nghĩa. Những đặc tính éo le này dường như ít thấy trong các xã hội khác, kể cả miền Nam xưa kia khi lính Mỹ đổ vào làm rối tung kỷ cương. Có khi chỉ người miền Bắc hay người Hà Nội xã hội chủ nghĩa mới thấy thấm thía sự éo le này. Và vì càng thấm càng đau, họ sẽ khó đọc Marie Sến với sự thưởng ngoạn bình thường.
Dù vậy, tác phẩm vẫn có chỗ đứng đặc biệt trong giòng văn học Việt Nam. Ðây là một tác phẩm văn chương hải ngoại đích thực vì được xuất bản ở bên ngoài (1), với rất ít hy vọng được tái bản ở trong nước, ít ra trong điều kiện hiện thời. Ðây cũng là một tác phẩm viết khá chính xác về xã hội Việt Nam, đến độ làm nhiều người trong nước đau rát. Trong khi nhiều độc giả hải ngoại lại t hấy bải hoải về những sự thật đó, nhất là những ai còn mơ mòng về một sức mạnh cứu rỗi nào đó của văn chương, của trí thức, của phản kháng, của những philosopher king.
Trong những năm sau 75, một số văn nghệ sĩ miền Bắc di cư thời 54 và bị ca*`m tù sau khi được "giải phóng", đã bị nhiều "đồng nghiệp" miền Bắc mạt sát là vào Nam ăn cơm Mỹ Ngụy rồi chửi ngược ra Tổ quốc miền Bắc, chỉ vì họ viết ra một số điều không đẹp của chủ nghĩa xã hội. Nếu cứ theo tiêu chuẩn đó thì Phạm Thị Hoài sẽ chịu chung số phận và còn bị công kích nghiệt ngã hơn. Tác giả sinh trư ởng từ chủ nghĩa xã hội miền Bắc và ngồi tại Âu Châu nhìn về quê hương mà viết ra điều kinh tởm còn hơn những gì từng được nhiều cây bút miền Nam viết ra về miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Nhưng, nếu cứ bị bó trong lối nhìn trên - nói ra một số sự thật xấu xa về đất nước là chửi ngược về tổ quốc - người ta khó thấy ra tác dụng giải phẫu, cái phép trừ tà trục quỷ của Marie Sến.
Tác giả có thể không viết trong mục tiêu đó, nhưng dân mình có lúc phải làm cuộc giải phẫu đớn đau, trước hết bằng cách tự đánh thức mình dậy khỏi cơn đồng bóng viển vông. Nhất là khi xứ sở còn ở trong hoàn cảnh mà muốn viết thật nói thật về quê hương, người cầm bút phải rời xa quê hương: một tác phẩm như Marie Sến không thể nào có hy vọng được trong nước cho phép xuất bản.
Không nên có một ấn tượng tiên thiên nào về Phạm Thị Hoài (kiểu "phản kháng hay không", "đối lập thật hay giả", v.v...) xin cứ đọc Marie Sến một mạch, theo đúng nhịp văn tuôn trào thác đổ, để vừa đọ c vừa rùng mình gai ốc. Rồi nhẩn nha ta đọc lại la*`n thứ nhì, để thưởng thức, như người ấn sâu vào vết thương cho nó tê dại đi, cho bớt đau. Những ai đã đọc một số tác phẩm của những nhà văn lưu vong tại Âu Châu viết về xã hội cộng sản Xô viết thời 1960-1970, có thể thấy ngay rằng Việt Nam mình làm gì cũng có nét hơn người. Với Zinoviev hay Haraszti, Boukovski, ta có thể cho là họ tả thực quá d dáng cái xã hội xã hội chủ nghĩa của họ, quá đáng đến độ siêu thực và kết luận là trong phạm vi đó, họ vượt xa rất nhiều tác giả gọi là chống cộng trước và sau họ. Mặc dù vậy, mình vẫn thầm mong rằng xã hội ta có khác, nghĩa là có đỡ hơn, vì bề gì cũng còn những rào chắn tinh thần hay văn hoá nào đó của dân tộc. Trong Marie Sến, Phạm Thị Hoài đã dữ dằn rút luôn mảnh ván tháo lui đó, và tác phẩm hết sức cô đọng mà lại bọc kín mọi ngả, làm mình tuyệt đường mơ mộng.
Những người sexist sẽ cho rằng khi phái nữ thịnh nộ bước lên chiến hào thì máu chảy có ba bước mà cả nước phải bịt tai vì sức công phá của ngòi bút nữ thường nổ hơn tạc đạn của phái nam. Ðiều đó có thể đúng, nhưng ở đâu đó cơ. Chứ ở trong xã hội xã hội chủ nghĩa từ Tây sang Ðông, ta có thấy ra một hiện tượng không biết có gọi là "vô tính phái" được hay không, vì đàn bà dễ thô lỗ và hung bạo còn hơn đàn ông, và đàn ông thì lại nhẫn nhục mềm nhũn như sợi bún. Cứ xem hình ảnh hai chú bộ đội xanh lướt dắt tay nhau đi ven hồ như hai cô gái, trong khi một phụ nữ hiên ngang văng tục qua d dường và ngồi ngay xuống bãi cỏ làm nhiệm vụ bài tiết, thì ta có thể thấy rằng những lý luận duy tính phái đều có thể sai. Một trong những đặc tính xã hội chủ nghĩa là nhiều người không còn tính phái nữa. Ðây không phải trường hợp của Phạm Thị Hoài, qua Marie Sến.
Kết luận khách quan thì tác giả là một người có tài, sâu sắc và sòng phẳng.
Cách Phạm Thị Hoài dàn dựng bố cục của một truyện dài có 160 trang đặc quánh phản ảnh sự tài hoa đó. Trong 15 chương viết thật chặt, với tiêu đề cho từng chương, tác giả sâu sắc và rất công bằng tr ình bày những dạng thức lên đồng khác nhau của một xã hội khép kín khi đụng với một thực tế phàm tục, rất phàm và rất tục, của một nhân vật Marie Sến.
Cái tên Marie Sến có thể gây ngộ nhận (2), nhất là ở những người sắc mắc ưa lật ngửa mặt chữ để vạch ra những hàm nghĩa hay ẩn dụ phía sau. Chẳng hạn như người đa sự sẽ hiểu rằng nàng là biểu tượng của Sàigòn đồi trụy, và chẳng có gì đáng làm người Sàigòn phải hãnh diện, nhưng đã làm cả một xã hội đạo đức giả và đồi trụy hơn của Hà Nội phải đảo điên vì cách sống thẳng sống t hực và rất sống sượng của của nàng. Nói theo lối cũ mèng, mà ít ra cũng đúng một lần, Marie Sến "chỉ là cái cớ". Nàng là hòn đá bẩn được quăng giữa mặt Hồ Gươm, làm nổi lên biết bao rác rưởi bên dưới vẻ cổ kính đạo mạo mà ba*`n cùng và ba*`n tiện của thủ đô. Phạm Thị Hoài không nhẹ tay trong cú ném, và cách tác giả mô tả những vẩn đục cuồn cuộn nổi lên tất phải làm nhiều người cau mặt. Không thể không nghĩ tới một Hồ Xuân Hương, người đọc sẽ phải đau lòng vì bức tranh vân cẩu vẽ ra một cảnh quá tang thương của xã hội, có nhiều cẩu hơn vân.
Câu chuyện xảy ra tại một chung cư chật chội, một khu tập thể gồm có bốn hộ, trong đó có sáu người đàn ông thì đến năm người rưỡi cùng làm việc trong một cơ quan lớn có trách nhiệm về khoa học nhân văn ở thủ đô và đều phải lòng một ả giang hồ chẳng rõ từ đâu tới. Mỗi người lại ứng xử theo một cách, với quán tính ù lì của lý lịch thành pha*`n, của so đo kinh tế và những ẩn ức được cởi tung khi xã hội đi vào cơn sốt đổi mới. Tác giả không xác định vị trí của chung cư và mơ hồ gọi cơ quan văn hoá nói trên là Viện, cho nên chỉ ở trong cuộc mới suy đoán ra "ai là ai". Việc suy đoán đó, thực ra cũng vô ích. Tác giả không có nhu cầu thấp kém là thanh toán nợ na*`n với một số người còn lại trong nước, vì những điều viết ra phản ảnh trạng thái chung của quá nhiều loại người trong xã hội.
Phạm Thị Hoài tỉ mỉ và chính xác đưa nhát dao giải phẫu vào từng thớ gân của xã hội và phơi ra quá nhiều nét tiêu biểu, cho nên viện lớn viện nhỏ, viện nào cũng thấy mình bị điểm trúng huyệt tới tóe máu. Vì thâu tóm bối cảnh rộng của nhiều hạng người chung đụng ở một chung cư (người có học lẫn cán bộ thoát ly rất nông dân tụt hậu, kẻ có chức có quyền lẫn thanh niên đánh quả ngoài chợ, và bà cụ lên chùa lẫn nữ triết gia trong viện vân vân) tác phẩm là tự truyện của một vương quốc trẫn gian bé tí của trí thức xã hội chủ nghĩa, một thế hệ hàng xén (chữ của tác giả) trong ý nghĩa tủn mẩn, sản xuất nhỏ, chạy vặt và sống vặt cho qua ngày.
Chỉ có nét đạo đức giả thì rất lớn, rất thật, đĩnh đạc như sợi chỉ đỏ xuyên suốt cuộc sống, chạy lên tim lên óc. Trong khung cảnh đó, mỗi chương có thể là một phân cảnh cô đọng của một bộ phim xã hội với tiêu đề viết theo hai nhịp. Nhịp một là một từ kép có chấm câu, nói về một khía cạnh của cuộc sống (Hàng xóm. Ðồng nghiệp. Hành động. Dấn thân. Ðổi mới. Phản kháng. Tín ngưỡng. Ðạo đức. Vân vân.) Nhịp hai là một mệnh đề giải ý, thường thì ý nhị, nhiều khi châm biếm.
Theo đúng nghệ thuật của người kể truyện có tài, tác giả giới thiệu từng nhân vật và gia cảnh, với những chi tiết sống động về nơi chốn họ sống, cơ quan họ làm việc, tác phong và lý lịch cũng như những bản năng của mỗi người. Giữa cái hợp chất khăm khẳm mùi hoa nhài, khói xe bình bịch và nước tiểu đó, tác giả thả vào một nàng có tên Nguyễn Thị Sến. Từ đó, vũ trụ xoay vần co giật, mỗi mẩ u chuyện là một trái phá, mỗi câu viết là một nhát dao, mỗi cụm mây lãng đãng là một vệt nước thải vàng ố trên trần nhà...
Viết về cái xã hội tí tẹo sáu người đó, chưa kể vợ con và hàng xóm, Phạm Thị Hoài giới thiệu ngay ở chương hai: "Năm thằng cùng câu cơm ở một Viện và thằng thứ sáu cũng suýt như vậy". Lãnh đạo n hóm người hàn lâm chạy hàng vặt và viện sĩ ngáp dài đó là một ông Viện trưởng. Ðôi nét về ông ta: "Ông Viện trưởng có thể tiếp khách trong quần pijama phía dưới, áo len phía trên, mà không thấy gì bất tiện. Ông Viện trưởng ở nhà phố lớn, trên lầu cao, đến được với ông phải men theo giường ngủ của một gia đình tầng dưới, nhảy qua vô khối thùng nước gạo và chậu rác ở sân trong, sờ soạng một cầu thang xoắn, băng qua mâm cơm của một gia đình tầng hai và sờ soạng tiếp một cầu thang xoắn".
Và đây là khung cảnh khai mạc một hội nghị của Viện, về "Di sản và Ðổi mới":
"Sát bàn chủ tọa là thượng đẳng khách, toàn những ông mặt mũi béo tốt hết sức vui tính, cười hề hề vào camera, tự nhiên như ở nhà mình... Ông Viện trưởng Viện Lớn, ông giám đốc học viện Nguyễn Ái Quốc, ông Viện trưởng Viện Mác Lê, ông Giám đốc Học viện quân sự, hai ông trung tướng, ông phó Ban văn hoá và tư tưởng thuộc trung ương Ðảng, ông phó Ban khoa giáo trực thuộc trung ương Ðảng, ông phó Ban tuyên giáo trực thuộc trung ương Ðảng, ông đại diện Thành ủy, ông đại diện Văn phòng hội đồng chính phủ, ông đại diện Văn phòng tổng bí thư, ông đại diện Văn phòng cố vấn chính phủ, ông phó Ban tôn giáo chính phủ, ông Giám đốc nhà xuất bản Sự Thật, và một ông đại diện cho Bộ nội vụ không xưng chức. Viện trưởng của chúng tôi thấp thỏm đứng lên ngồi xuống giữa họ, thậm chí ông còn đánh bạo châm một điếu thuốc cầm tay và đánh rơi tàn vào áo ông Bộ nội vụ. Thế là họ cười ầm cả lên và vỗ vai nhau. Hội nghị sẽ thành công tốt đẹp".
Đấy mới chỉ là thượng đẳng khách, còn trung và hạ đẳng khách nữa, mỗi người một vẻ, và chẳng ai nhường ai về nét khẩn trương rất hề. Người đọc đừng nên thắc mắc về không khí đình đám của một hội nghị quan trọng như vậy, trong khi chính quyền thường xuyên nín thở nghiêm ngặt với dân đen. Tác giả giải thích:
"Thế đấy, xin bạn đọc đừng ngạc nhiên, chuyên môn hóa không phải sở trường của người Việt, mỗi khi có dịp hội họp là chúng ta tập hợp anh tài như khai trương một siêu thị đủ mặt hàng. Chúng tôi lục tung kho người của nền khoa học quốc gia, nhặt cho đủ quân số để xếp một đội danh dự thổi kèn thật to vào công cuộc đổi mới. Người nào đứng chỗ nào, phùng mang trợn mắt ra sao đã phân cảnh ổn thỏa".
Trong khung cảnh uy nghi đó. "Bỗng dưng Sến tiến vào... khoan thai tài sắc vẹn toàn thêm vương miện quyền uy. Kìa Viện phó của chúng tôi (mặc quần bò và để râu con kiến) đã bỏ rơi các giáo sư, bay vù đậu xuống bên em, trời ơi anh ta sắp nhấc em lên, đặt cạnh lẵng hoa khổng lồ trên bàn chủ tọa, và hội trường sẽ vỗ tay nhiệt liệt".
Chỉ một chương đó, và danh mục hai mươi chín bài tham luận mà tác giả chép lại nguyên văn, cũng là một đề tài xã hội học và đủ nói lên những đóng góp nghiêm túc của các chuyên gia trí thức xã hội chủ nghĩa vào công cuộc đổi mới ở nước ta. Những ai ở ngoài này thường suy luận rất uyên bác rằng cộng sản họ đã tính thế này, có kế hoạch thế nọ, cũng nên đặt vấn đề lớn đó vào kích thước đúng đắn của một gánh xiệc. Về những suy đoán rằng bên trong đang có hai phe quạt nhau ác liệt, đây là lý giải của một người trong cuộc:
"Các nhà khoa học cấp tiến nhất của chúng ta trong khi day dứt khôn nguôi về thực trạng đất nước thì chia làm hai phái. Phái cấp tiến cực đoan thì phang tuốt, Ðảng, Bác, Các Cụ Mác Sờ Lê Nin, chủ nghĩa, cơ chế, hệ thống, vân vân. Ðấy là những thứ đáng bị đánh đòn, đến dân tộc, lịch sử, truyền thống cũng không có cái nào được tha. Hai ngàn năm (phái này chỉ công nhận hai ngàn năm lịch sử Việt N am) kém phẩm chất tuyệt đối. Có nghĩa là tình thế của chúng ta hoàn toàn vô vọng. Muốn tiến bộ canh tân thì chỉ còn cách nhổ tận gốc nước Việt, khuân sang trồng ở Âu Mỹ thôi".
"Phái cấp tiến ôn hoà thì đi giữa ranh giới của những giá trị tích cực và những giá trị tiêu cực, họ có cái vẻ tự tin thót ruột của những nghệ sĩ đi trên dây. Phương châm của họ là phê phán sự phê phán có tính chất phê phán... Họ có thể là những ngòi nổ, đấy là điều không cần bàn cãi, nhưng cái cách họ nổ ra những vấn đề thì hoàn toàn chính thống và cái kiểu họ mân mê những vấn đề thì, xin lỗi, sặc mùi trưởng giả..."
Cứ như vậy, "các nhà cấp tiến cực đoan thì ồn ào bi đát, các nhà cấp tiến ôn hoà thì nghiêm trọng dài dòng". Ta đành thông cảm với những thức giả uể oải với đề tài và ngoái tìm Sến trong hội trường.
"Sến một mình vỗ tay như bé Măng Non của truyền hình, và cần cổ phu nhân vươn như chân Chùa Một Cột, ngực gái một con dào dạt chìa ra đón người hùng (từ trên bục diễn giả bước xuống). Sến lục túi lấy một lát sâm. Cách ba hàng ghế tôi nghe lời em ân cần: 'Nam Triều Tiên xịn đấy anh ạ, không phải sâm mậu dịch đâu, ngậm đi cho lại sức'."
Cứ như vậy, Marie Sến leo lên ban thờ hay bàn chủ tọa và bóc sạch lột trần tất cả.
Từ chuyện tâm linh, ma quỷ đến chuyện đăng ký đề tài hội thảo để moi tiền hãng Toyota; từ chuyện cho con đi học Harvard tới cách hào hùng đốt pháo Tết khói um cả hành lang hai thước vuông để bày tỏ s ự phản kháng của trí thức; từ chuyện xuất ngoại câu cơm, đi Ðức buôn lậu đến chuyện cha con cùng chung đào một lỗ, và biết bao chuyện vui buồn hàng ngày bên cạnh những chuyện làm tình và làm tội nhau... tác giả phăng phăng dao mổ, không cho người đọc một phút ngưng nghỉ để tìm dưỡng khí. Trong cảnh bi hài dúm dó của trí thức xã hội chủ nghĩa, những tình tiết éo le dậm dật của các nhân vật nửa ma nửa người với nàng Marie Sến lại có nét người hơn cả. Cái nét lô gích của những người hầu đồng, tỉnh say lẫn lộn, đồng thăng hay giáng cũng chẳng làm sao thông tỏ.
Người ta có thể nghiệm thấy một điều, chưa rõ đúng sai thế nào, là dường như trong mỗi thời kỳ ẩm ương của xã hội mình lại thấy một đợt văn chương tả thực xuất hiện, đầy tính trào phúng và châm biếm. Từ những Giông Tố hay Số Ðỏ của Vũ Trọng Phụng năm xưa đến các tiểu thuyết phóng sự kiểu Tây Ðực Tây Cái của Hoàng Hải Thủy thời Genève 54, hay những bài phiếm của Duyên Anh, Chu Tử khi cuo ^.c chiến được Mỹ hóa ở trong Nam, mỗi đợt sáng tác lại là phơi bày thói rởm của một số kẻ tiêu biểu trong xã hội. Người đọc có thể cười xằng xặc, cười hể hả, và như kẻ đứng ngoài nhìn vào một vũng bùn của xã hội, còn được niềm vui xa xỉ là tự nhủ rằng dù sao mình vẫn ở ngoài. Rằng bề gì đất nước vẫn còn chỗ ráo, loài người còn có những kẻ thiện lương.
Tới Marie Sến thì dường như đất và nước được giày xéo quá kỹ, nên tất cả đều biến thành bùn.
Vẫn nhìn theo giác độ xã hội học, ta không thấy một chút hy vọng có đóa sen vươn lên từ đống bùn đó. Xã hội được Phạm Thị Hoài phơi bày là một xã hội khép kín, một vùng ao tù đặc quánh. Xã hộ i khép kín là khi một số người vẫn giữ độc quyền chân lý. Chệch ra khỏi chân lý chính thống đó, con người ta vất vả ngay. Trước khi đi vào đổi mới, những chân lý chính thống thường ít thay đổi , mươi năm mới có một la*`n là cùng, nên người ta còn kịp tự điều chỉnh. Từ khi đổi mới, mọi chân lý đều xoay như chong chóng, lằn ranh đúng sai bị xoá nhoà và kẻ vạch lại mỗi ngày, trong khi đồng đô la phất phới bay nhiều hơn và đẹp mắt hơn truyền đơn cổ động của nhà nước. Ðây mới chỉ là một phần của vấn đề thôi.
Phần kia là xã hội có đổi mới mà vẫn khép kín. Nên vẫn bị cột trong cái sự thật như nhất là quyền lãnh đạo và phê phán về lẽ đúng sai của mọi sự vẫn ở ngoài tầm với của đa số. Kết quả là c ơ hội mở ra rất lớn mà rủi ro thì cũng nhiều hơn, việc ứng biến và ứng xử sao cho nhanh và cho đúng đã biến những người có nhiều hiểu biết nhất thành những con rối lăng xăng nhất. Rốt cuộc thì chỉ còn một chân lý duy nhất và nguy hại nhất tồn tại trong xã hội ta. Ðó là tính cynique.
Có lẽ mình không có đủ chữ nghĩa để phiên dịch cái từ oái oăm này cho chính xác. Từ nguyên ngữ gốc Cổ La Hy qua Hán văn vào tới nước ta thì đó là chủ nghĩa "khuyển nho", mà thấy chưa ổn. Những người miền Bắc cao niên có thể hiểu dễ dàng chữ "chó đểu".
Cả một xã hội cư xử với nhau theo lối chó đểu. Tức là trong mọi vấn đề nhân sinh thì chỉ nhìn ra khiùa cạnh xấu, những động lực tồi tàn. Rồi từ đó, nói một đàng làm một nẻo để được an toà n chính trị, nhưng làm gì thì cũng chỉ để tìm phần hơn cho mình, trong khi cười khẩy về mọi điều cao đẹp mà người ta tin là chẳng hề có. Cái chủ nghĩa hềnh hệch cười vào những điều lý tưởng đó xuất phát từ thực tế là lý tưởng chính thống đã phá sản và giữa một xã hội đang đi vào đổi mới như kẻ lên đồng, những lý lẽ tồn vong và phồn thịnh đã xoè ra tứ hướng như những nan quạt. Ðan lượn trên những nan quạt này là những con rối đại sĩ của Hà Nội. Người ta thành vọng ngoại, lý tài, duy vật, trong khi vẫn nói tới truyền thống dân tộc, đạo đức cách mạng và tương lai xứ sở. Khôn vặt với nhau bên trong chứ họ vẫn sợ oai trời và công an của đảng.
Họ khinh miệt nông dân, và lại mị nông dân vì sự nghiệp ác ôn của cách mạng mà họ không dám nhúng tay vào. Họ miệt thị nông dân mà lại khiếp hãi những nông dân miền Trung nay đã thành cán bộ an ninh và tổ chức. Là nạn nhân của "hội chứng con tin", họ đã tiêm nhiễm trong cõi vô thức cái phản ứng phó lý trương tua*`n của những sai nha bảo vệ chế độ, những kẻ đang kiểm soát và có thể nhúp họ bất cứ lúc nào. Giữa họ với nhau, họ khệnh khạng trong dáng phong kiến cách mạng, nay đã đổi mới thành nét lai căng Tây Tầu Nhật Mỹ, sau khi đã cạo sửa gia phả cho kỹ, gạn lọc lý lịch cho trong. Họ luôn luôn sắp sẵn trong tư thế phản kháng, vì đây là xu thế thời đại, cho tới khi được ông lớn bắt tay thì lại nhũn như con chi chi, vì đấy là quy luật sinh tồn. Họ mới là những kẻ bảo thủ đích thực và đang gìn giữ cái trật tự rối beng của đất nước.
Những người hiểu biết về y học có thể giải thích rằng sống một lúc hai trạng thái trái ngược như vậy là một trường hợp tâm thần. Trong buổi trà dư tửu hậu, một người cynique có khi là một kẻ có duyên và ít ra là thông minh vì kích thích óc phê phán của người khác. Nhưng, cả một viện cynique thì đúng là một viện tâm thần. Cả một xã hội cynique thì tương lai đất nước sẽ khó khá. Ðiều đó kh á đúng với những mô tả của Phạm Thị Hoài, kể cả trong mấy chương cuối khi cuộc tình với Marie Sến nổ ra từ cõi thực hư không tỏ, âm dương nhập nhằng. "Chẳng thằng nào vào được trong em. Cứ đến cửa thiên đường là hết vễ. Những thằng đã ra ma có thể vào đánh lẻ. Những thằng còn làm người đứng ngoài mà làm người."
Dưới ngòi bút Phạm Thị Hoài, những kẻ đứng ngoài làm người đó trông như ngợm. Thảm thương và rách nát. Như tiền đồ nước ta vậy.
Nguyễn Thạch Miên
1 Marie Sến, Thanh Văn xuất bản tại miền Nam California, Hoa Kỳ, năm 1996.
2 Trong phần phụ lục, tác giả có giải thích về cái tên này, nhưng điều đó vẫn không giảm bớt những ấn tượng ngỡ ngàng nơi độc giả gốc miền Nam.
Thực ra, Phạm Thị Hoài đã cho cái danh từ riêng Marie Sến một nội dung mới.
Ngược Chiều Gió Cuốn
Tôi là đứa con gái út, được sinh ra trong một gia đình bao gồm toàn là con gái. Hồi xưa, chỉ vì muốn có được một hoàng tử để nối giỏi tông đường nên mẹ tôi phải ráng nặn mãi, nhưng rồi lần lượt hết nàng công chúa này đến nàng công chúa khác thay phiên nhau ra đời. Cho đến nàng thứ năm, là tôi, thì mẹ tôi quyết định ngưng đẻ.
Chị em chúng tôi sinh cách nhau 2 năm đều, được đặt cho những cái tên mềm mại, ẻo lả, theo thứ tự từ trên xuống dưới là: Hiền, Thục, Dung, Hạnh, và Nhu. Ở nhà, bố mẹ vẫn yêu kiều gọi tụi tôi là "Ngũ Long Công Chúa", nhưng ra ngoài đường lại nghe thiên hạ gọi chị em tôi là "Ngũ Quỷ". Sở dĩ họ gọi như vậy bởi vì mấy bà chị của tôi nổi tiếng phá phách có tiếng ở khu Xóm Vườn, Vũng Tàu. Dân trong xóm họ kháo với nhau rằng: "Nhất quỷ, nhì ma, thứ ba là chị em nhà tụi nó!"
Trước tiên là bà chị cả của tôi. Ðáng lý ra bả đóng vai trò gánh mũi chịu sào, bả phải làm gương cho đám đàn em "hậu sinh khả úy" này. À, mà thật ra thì bả cũng có nêu gương cho tụi tôi, nhưng mà là gương xấu! Bà chị của tôi phá có tiếng ở trường trung học Ðinh Tiên Hoàng. Nội cái vụ bả bò lên tuốt cái trường trung học đèo heo hút gió, nằm ngay trên vùng cát động gần Bãi Sau này cũng là một chuyện đáng nói rồi. Cái thị xã Vũng Tàu này bé xíu mà có đến những 5 trường trung học. Thứ nhất là trường trung học công lập Vũng Tàu, sau đó là công lập Trần Nguyên Hãn, rồi đến bán-công-lập Lý Thường Kiệt (mà chị em tụi tôi gọi là Lý ông kẹ vì giáo sư ở đây chằn ăn có tiếng), rồi đến trung học tư thục Thánh Giu-Se là trường đạo, và cuối cùng mới đến trường trung học tư thục Ðinh Tiên Hoàng. Lý do tại sao bà chị cả của tôi chọn trường Ðinh Tiên Hoàng rất dễ giải thích; thật ra bả chả có sự chọn lựa, chỉ vì ở cấp tiểu học bả ham chơi quá nên thi rớt đệ thất, giờ chỉ còn nước bắt ông bà già bỏ tiền ra cho đi học trường tư. Thậm chí mấy trường tư thục này còn "chê", không dám nhận. Cuối cùng bả được Ðinh Tiên Hoàng "vớt". Sau này tôi mới biết là ông hiệu trưởng trường Ðinh Tiên Hoàng là bạn thân với bố tôi.
Sự kiện bà chị của tôi đổi lên Ðinh Tiên Hoàng đã trở thành một cơn ác mộng cho các giáo sư ở đây. Chỉ cần lên lớp chừng một tuần lễ là chị được đám con gái ở Ðinh Tiên Hoàng phải tôn sùng hàng sư tổ về ăn hàng trong lớp, cúp cua, gian lận và ăn hiếp giáo sư. Mấy ông thầy bà cô nhiều phen bị lãnh nguyên một ghế mắt mèo lên mông trong lớp của bà chị tôi. Họ biết rõ thủ phạm là ai nhưng không có bằng chứng. Tra hỏi cách mấy đám nữ sinh trong lớp cũng không chịu hé môi. Tụi nó sợ bị bà chị của tôi "trả thù".
Có mấy anh giáo sư trẻ mới ra Sư Phạm, thấy bà chị của tôi nhan sắc mặn mà, chưa kịp để ý thì bị bả "dê" tưa lên. Có một anh được bả hẹn đi uống nước, tí tửng bước theo người đẹp vào trong quán cóc. Ðến nơi thì thấy một bầy con gái bạn của bả chờ sẵn ở đô Tội cho anh chàng vừa tốn tiền bao đãi cả lũ con gái, chưa tán tỉnh được gì mà bị họ chọc ghẹo cho đến đỏ cả mặt. Và tuần lễ sau, chàng thầy giáo trẻ này đã độn thổ, xin đổi qua trường khác đi dạy.
Đó là bà chị Hiền yêu dấu của tôi. Kế đến là chị Thục. Chị Thục giống chị Hiền ở chỗ tính tình hoàn toàn trái ngược với tên gọi. Bà chị Thục này của tôi còn nguy hiểm hơn ở chỗ cái tính thù dai và hay âm thầm rửa hận. Ðiển hình là chuyện ông thầy Ru dạy hóa học bị bả trả thù. Thầy Ru là bạn thân của bố tôi , hồi xưa hai người cùng đi lính Truyền Tin. Bà Thục ỷ y chỗ quen biết nên bả vô lớp không thèm học hành và chắc ăn sẽ được điểm tốt ở mỗi kỳ thi. Và rồi bài kiểm đầu tiên bả lảnh nguyên cái trứng vịt to tổ bố. Chị Thục không ngờ lại có chuyện này, từ đó trở đi chị trở nên lầm lì trong lớp của thầy Ru. Hận đời đen bạc, vào lớp hóa học của thầy, chị không còn thiết tha gì nữa, mà còn tìm cách phá rối trật tự.
Một hôm, vào giờ thí nghiệm, trong khi các học sinh khác đang nghiêm túc trộn hóa chất vào ống nghiệm theo hướng dẫn của thầy Ru, thì bên dưới chị Thục còn đang quậy. Cái chữ "quậy" này đúng theo cả hai nghĩa đen lẫn bóng. Chị đang trộn hầm bà lằng những hóa chất trong tầm tay vào cái bình thủy tinh to lớn, và quậy tơi bời hoa lá lên cho vui mắt. Cái chất lõng dần dần biến đổi từ màu này sang màu khác, làm chị thích thú như một đứa trẻ con đang chơi đồ hàng. Chị tiếp tục pha chế, chị trút tất cả những thứ còn lại vô bình, bất kể là kiềm hay át-xít, hay hy-drô, oxy, nitrogen. Xong xuôi chị bấm nút gas, định nổi lửa lên để nấu.
Bỗng dưng. ÐÙNG. Một tiếng nổ chát chúa vang lên từ cuối phòng. Cả lớp học im phăng phắc, tất cả mấy chục cặp mắt đổ dồn về nơi cuối phòng. Bà chị yêu dấu của tôi nhìn lại mọi người, nét mặt tỉnh bơ, hai hàm răng nhe ra, cười tươi như hoa. Thì ra tiếng nổ xuất phát từ hợp chất hỗn tạp do bả biến chế. Mấy mảnh thủy tinh vụn vỡ văng tung tóe trên bàn, dưới đất. Dung dịch của trái bom của bả chế tạo bắn lên đến tận trần nhấ Cái áo dài trắng của bả đang mặc bây giờ biến thành cái áo dài màu mè hoa lá cành. Nhà chế tạo bom liền lập tức bị mời lên văn phòng giám thị, và bị phạt một lúc 2 cái cấm túc ngay sau đo.
Hôm đó, chị Thục bị bố mẹ tôi dũa te tua, và bố tôi áp dụng kỷ luật nhà binh, thương cho roi cho vọt, và cấm cung không cho bả đi đâu chơi. Mẹ tôi còn nói bả chưa bị "gọt" đầu bôi vôi" là còn may lắm rồi. Chị Thục của tôi dường như đã biết ăn năn hối cải. Bả thay đổi tính tình từ sau cái biến cố đó, bắt đầu chăm chỉ học hành trở lại, làm bố mẹ tôi rất hài lòng. Ai cũng tưởng bả đã biết quy tà cải chánh. Cho đến một hôm.
Hôm đó thầy Ru đến nhà tôi chơi, tiện thể ở lại dùng bữa. Chị Thục gặp thầy trước cửa, chị lễ phép cúi đầu chào. Thầy Ru xoa đầu chị, khen học trò của thầy ngoan. Hôm đó chị Thục ăn chỉ lưng bát là xin phép rời bàn và biến mất qua nhà nhỏ bạn hàng xóm. Cho đến lúc thầy Ru ra về, thì hỡi ôi! trên chiếc xe vespa mới toanh của thầy bị chụp nguyên một thùng thiếc đựng rác. Bình xăng xe cũng bị tháo tung ra, thay vào trong đó toàn là đất với cát.
Dĩ nhiên là hôm đó bà chị Thục bị bố "thương", cho một trận đòn chí tử, bán sống bán chết. Tôi nằm ngủ chung một giường với chị nên tối hôm đó tôi đã nghe chị rên rỉ suốt đêm. Cặp mông của chị bầm tím, còn hằn in vết chổi lông gà, làm chị phải nằm sấp mà ngủ. Nhưng trong cơn đau đớn đó tôi hình dung ra được nỗi niềm thỏa mãn, hiện rõ lên trên khóe mắt của chị. Ðó là sự thỏa mãn của kẻ đã rửa được mối thù.
Kế đến là chị Dung. Chị Dung không giống hai bà chị lớn của tôi. Ở trường chị rất nghiêm túc, học hành đến nơi đến chốn, điểm hạnh kiểm lúc nào cũng cao, cho nên bố mẹ tôi không thể nào chê trách chị về vấn đề học tập được. Nhưng có điều là chị Dung có nhiều nam tính hơn là nữ tính. Tôi nghe kể lại rằng sau khi sanh xong hai chị Hiền và Thục, bố mẹ mót con trai quá nên đặt hết kỳ vọng vào đứa bé thứ ba, phải là con trai. Ông bà mua toàn là quần áo, đồ chơi con trai để chuẩn bị, nhưng rồi thêm một con vịt trời nữa chui ra.
Chị Dung đã không làm phụ lòng bố mẹ, chị đã thỏa đáp lại những kỳ vọng mà bố mẹ đã mong đợi, ở cậu quý tử. Từ hồi bé chị đã như một đứa con trai rồi, từ cách ăn vận, đi đứng, cho đến cách sinh hoạt tham gia các trò chơi của đám con nít, như tạt lon, dích hình, bắn bi, đánh đáo, đá dế, ống dích ống tán, vân vân.
Rồi tuổi thơ của chị cũng qua đi, nhưng cái tính tình ngổ ngáo vẫn còn tồn tại. Ðến năm học lớp nhất tiểu học thì bà chị của tôi đã nổi tiếng là một "nữ tặc" của thị xả. Bọn con trai Vũng Tàu đặt cho bả cái tên là Dung Bụi Ðời. Chiều chiều, sau khi cơm nước xong là bả thường xách chiếc xe đạp mini dạo vòng quanh Bãi Trước để biễu diễn những pha chết người.
Dọc theo con đường Hoàng Diệu chạy từ bãi Trước đến bãi Dâu, vòng qua dinh Ông Thượng có một bờ tường bằng đá được xây cao lên để phân chia mặt đường và mặt biển bên dưới. Cái bờ tường này rất hẹp, chỉ nhỏ chừng hai gang tay người lớn. Qua phía bên kia bờ tường là thụt xuống một khoảng rất sâu, bên dưới đá xanh lổm chổm, bị nước biển lâu ngày xói mòn nên càng nhọn hoắc dễ sợ. Nói chung là nếu bị rớt khỏi bờ tường này, về hướng biển thì chỉ có nước từ chết đến bị thương. Vậy mà bà chị Dung của tôi đã dám xách chiếc xe đạp mini của bả, đặt lên trên bờ tường hẹp này làm một vòng biểu diễn từ bãi Trước ra đến dinh Ông Thượng. Ðám con trai dù gan lì cách mấy cũng không dám giỡn mặt với tử thần kiểu này, thế là bọn chúng phải tôn bả làm sư phụ. Thế là Dung Bụi Ðời đã đi vào huyền sử của người dân thị xã từ đấy.
Sau này lớn lên, có da có thịt chút đỉnh là bả liền ghi danh đi học võ vovinam ở võ đường Lam Sơn. Có thêm tí võ nghệ trong mình bả càng trở nên kiêu căng tự đại. Bả thường nói với hai bà chị lớn của tôi:
- Mấy tên lì lợm đang trồng cây si trước nhà mình đó. Mấy chị muốn em nhổ quách đi không?
Hoặc là:
- Khi nào bạn trai của chị dở trò sàm sở, nói em nghe, em đục nó phù mỏ.
Mỗi lần như vậy là chị Hiền lại toáng lên:
- Cái con này, bộ hết người làm bao cát cho mày rồi hay sao mà cứ đòi kiếm bạn trai của tao mà dợt.
Chị Thục thì:
- Có đứa em như mày chắc tao "ống chề" quá Dung ơi!
Cuối cùng là chị Hạnh. Chị không có cái kiểu phá làng phá xóm như chị Hiền và chị Thục, cũng không nam tính quá như chị Dung, nhưng chị lại là một mối lo lớn nhất của bố mẹ, chị mới đúng là một quả mìn nổ chậm!
Thuở bé chị Hạnh đã biết làm đáng, biết điệu hạnh như người lớn. Tôi còn nhớ mấy lần chị xúi tôi lấy cắp cây son, hộp phấn của mẹ, trốn ra ngoài hiên sau nhà để tự trang điểm.
Năm 13 tuổi, chưa qua cái tuổi kẹp tóc mà chị Hạnh đã biết yêu, và người yêu của chị chính là anh chàng nghệ sĩ sống trọ trong căn gác ở đối diện nhà tôi. Anh chàng này nhìn cái tướng rất là ngầu đời, để tóc dài chấm vai, mặc quần ống loe, áo bó nom rất hippi choai choai. Không hiểu anh có nghề ngỗng gì không mà tối ngày chỉ thấy ngồi đằng trước cửa nhà mà gãy đàn, và tiếng đàn Trương Chi đó đã làm rụng rời trái tim ngây thơ nhưng đa tình đa cảm của bà chị kế của tôi.
Bố mẹ tôi hiểu rõ sự tình rất nhanh, chỉ cần nhìn qua nét mặt thẩn thờ của chị Hạnh là biết liền. Chị chả màng gì đến ăn uống, tối ngày thấy đứng trước cửa, mắt đắm đuối nhìn qua bên kia đường. Thế là bố mẹ lập tức phải có biện pháp, và biện pháp của bố mẹ rất ư là tiêu cực. Ông bà đã mua chuộc chủ nhà đối diện để họ tống khứ anh chàng khách trọ vô công rỗi nghề kia đi.
Bố mẹ tôi đã âm thầm tống cổ anh chàng nghệ sĩ kia đi, chỉ vì muốn bảo vệ con gái cưng của ông bà, đề phòng khỏi xảy ra trường hợp trao trứng cho ác. Nhưng ông bà đâu có lường được cái hậu quả việc mình làm. Mất người yêu, bà chị Hạnh của tôi như người mất hồn. Chị không buồn ăn uống, tối ngày nằm liệt giường, thân thể ngày càng ốm yếu bệ rạc. Mẹ yêu con gái nên suốt ngày túc trực bên giường bệnh. Mặc cho mẹ khóc lóc năn nỉ cách mấy đi nữa, chị nhất định tuyệt thực. Trong lúc mê sảng, nhiều lần chị mớ:
- Mẹ ơi! Hãy mang Trương Chi về cho con!
Bố mời bác sĩ Phúc, cũng là bạn thân trong quân đội ngày xưa, đến chẩn bệnh cho chị. Bác sĩ Phúc xem qua lắc đầu:
- Hết thuốc chữa rồi. Con bé mắc phải chứng bệnh mà y học đành bó tay!
- Bệnh gì?
Bố hỏi, và nghe bác sĩ Phúc trả lời:
- Bệnh tương tư!
ghe vậy cả nhà òa lên khóc. Y học mà còn bó tay thì bây giờ chỉ còn nước chờ Tử Thần đến rước bả đi. Bác sĩ Phúc đi rồi không khí trong nhà bỗng trở nên nặng nề. Bố ngồi trước nhà kéo thuốc lào, chắc ông đang thầm nghĩ: "Uổng quá! Ngũ Long Công Chúa mà mất đi một đứa thì còn gì là Ngũ Long. Không khéo lại thành Tứ Quái thì bỏ bu!". Mẹ đang ngồi bên cạnh giường bệnh, an ủi chị Hạnh:
- Con ơi là con! Khổ thân con tôi chưa? Nếu con có chết thì ráng đầu thai làm con giai, làm con gái làm chi cho khổ tấm thân.
Chị Hiền lắc đầu ngao ngán:
- Con này ngu quá, chết vì một thằng con trai, rõ dại! Mình chỉ yêu tên nào khi biết rõ nó yêu mình trước.
Chị Thục góp ý:
- Bà này ăn nói vớ vẩn. Yêu đương mà còn cân nhắc trước sau. Còn tớ đây ấy à, theo tớ thì yêu là phải có qua có lại, phải sẵn sàng hy sinh cho nhau, vì vậy người yêu của tớ phải sẵn sàng để yên cho tớ xỏ mũi thì tớ mới chịu.
Nghe hai nhà triết gia, chưa hề yêu qua một lần, đang triết lý về tình yêu làm bà chị Dung của tôi nóng mặt. Chị đọc lại câu ca dao:
Ba đồng một mớ đàn ông
Mua về bỏ lồng cho kiến nó tha
Ba vạn một mụ đàn bà
Mua về mà trãi chiếu hoa cho ngồi
Rồi bả giơ cao nắm đấm nói tiếp:
- Còn em đây ấy à, thằng đàn ông nào lạng quạng, em đục nó phù mỏ!
Cái không khí tang tóc bỗng dưng trở nên vui nhộn vì ba bà chị yêu dấu của tôi lời ra tiếng vào.
Cả nhà đang chờ chị Hạnh nói lời trăn trối sau cùng, nhưng sáng hôm sau chị bật giường ngồi dậy, chui vào bếp lục đồ ăn. Nhìn chị từ từ hồng hào và vui tươi trở lại. Và con tim đã vui trở lại, và đúng là:
Người đi một nửa hồn tôi chết
Một nửa hồn kia sửa lại xài
Bố mẹ tôi vui mừng khôn xiết, vì con gái của ông bà đã "sống" lại rồi. Bố mẹ thưởng chị Hạnh bằng cách cho chị tự do tha hồ đi chơi, muốn đi muốn về lúc nào cũng được, vì ông bà nghĩ cứ giam nó ở nhà mãi, nhỡ gặp thêm thằng phải gió dùng tiếng đàn mê hoặc gái tơ nữa thì khốn. Và chị Hạnh vắng nhà liên miên. Năm tháng qua đi.
Cho đến một hôm. Chị Hạnh mang về nhà một tin sét đánh. Trái mìn nổ chậm cuối cùng đã bùng nổ. Chị Hạnh đã có bầu hơn 3 tháng, và thủ phạm của cái ba-lô ngược này chính là anh chàng nghệ sĩ năm nào. Bố mẹ tôi không còn cách nào hơn là tức tốc làm một cái đám cưới cho hai trề Năm ấy chị Hạnh vừa tròn 16 cái xuân xanh.
oOo
Năm 1975, cả gia đình tôi theo dòng người di tản, trôi ra biển Ðông và cuối cùng sang định cư ở Mỹ. Năm tháng tiếp tục trôi đi. Bây giờ đã là 20 năm sau. Thời gian bạc mái đầu. Các chị tôi bây giờ đã chồng con bề bộn. Chỉ còn duy nhất mỗi mình tôi là cô công chúa cuối cùng chưa yên bề gia thất. Bố mẹ tôi cứ thúc giục tôi lấy chồng mãi, để ông bà yên lòng khi nhắm mắt. Các chị tôi cứ tự hỏi: "Cái con bé út này xinh xắn nhất nhà, cớ sao mãi một thân côi cút." Các chị tôi cứ nhắc nhở:
- Mày tưởng còn trẻ dại lắm sao, hở Nhu? Năm nay đã 34 tuổi, đã quá cái tuổi toan về già rồi đấy! Hay là mày mắc chứng bệnh "lảnh cảm"?
Các chị tôi cứ giới thiệu, gán ghép cho tôi hết đám này đến đám khác, nhưng tôi đều gạt phắt ra hết. Có một tâm sự kín, tôi dấu kỹ không cho mọi người trong gia đình biết được. Thật ra thì tôi đâu có bị lảnh cảm như mấy bà chị yêu dấu của tôi vẫn thường nói đùa. Tôi cũng biết xúc cảm yêu đương, nhưng vấn đề là tôi chỉ yêu người cùng phái với mình. Thuở mới lớn tôi cũng đã thử trò chơi ái tình với những đứa con trai chung lớp, nhưng không hiểu sao tôi không hề cảm thấy mảy may xúc động, cho đến khi tôi lên đại học, ở trong "dorm", chung phòng với nhỏ bạn Mỹ. Hai đứa tôi đã "share" phòng và "share" tình luôn.
Nhiều khi tôi suy nghĩ lại, thấy cuộc đời như một cơn lốc. Cơn lốc cuồn cuộn cuốn đi tất cả, trong đó có gia đình tôi, bố mẹ và các chị của tôi. Cuộc đời của họ thật an bình và thanh thản, êm trôi theo chiều gió. Duy chỉ có mình tôi, chỉ có mỗi mình tôi, con ngựa về ngược, ngược chiều gió cuốn.
Bùi Thanh Liêm
Tháng 6, 1996