vhnt, số 146
11 February 1996
Trong số này:
thư vhnt................................................................PCL
T h ơ :
1 - Trên hồn nhiên ta ..........................Nguyễn Hiện Nghiệp
2 - Sinh nhật tháng 2 ...............................Nguyễn S Lộc Quy
3 - Còn lại chiến tranh ...........................................Chinh
D i ễn Ð àn V ăn H ọc / Ð ọc T h ơ :
4 - Nhìn lại phong trào thơ mới ...........................Hoài Chân
5 - Phạm Công Thiện: Ngày sinh của rắn (2/2)....Ng~ Phước Nguyên
T r u y ện N g ắn / S án g T ác :
6 - Gỗ mun và hồn ma bóng quế .....Andrew Lâm / Mai Kim Ngọc dịch
trà mới và không gian cũ
Buổi sáng, tách trà và quyển sách mở ngỏ. Ðó là ý nghĩ đầu tiên đến trong ngày khi vừa thức giấc. Uống một ngụm trà và một ngụm không gian trong lành, mở quyển sách tôi - bắt đầu qua một trang mới. Ở giữa ngày hôm qua và hôm nay là chiêm bao. Trong chiêm bao có trận mưa những vì sao rơi vãi đầy ngân hà, long lanh như những giọt mưa thủy tinh (nhìn kỹ giống những giọt nước mắt.)
Tỉnh dậy từ chiêm bao, không có những giọt thủy tinh (hay những ánh tinh cầu hay những vì sao hay những giọt nước mắt), chỉ có nắng lấp lánh và tiếng chim báo hiệu xuân. Lại uống thêm một ngụm không gian nhắp với ngụm trà, thấy lòng nhẹ tênh hệt như trẻ thơ.
Hương trà mới lọc cảm giác từ một không gian cũ, trong cái tinh khiết của ngày, độc ẩm với thiên nhiên, đối ẩm với riêng mình, mới thấy cái thanh thản nhẹ nhõm không ở đâu xa. Quyển sách tôi không biết còn lại bao nhiêu trang, những trang kế tới sẽ đọc được những gì (hẳn có những điều lý thú?), những trang hôm trước đã quên, trang hôm nay trước mặt mở trắng, như ý nghĩ trắng và nhẹ như hương trà mới !
Xin chúc một ngày bình an, nhẹ nhàng.
thân ái,
PCL/vhnt
trên hồn nhiên ta
vung tay,
vẽ
một càn khôn
vẽ em.
nằm.
đứng.
trên hồn nhiên ta.
từ trăng khai hội đèn hoa
ta -
minh nguyệt lạc thùy gia. *.
nửa vời.
đôi tay chưa thể vá trời
nhưng em,
cũng đủ đắp đời.
mai sau.
đưa em qua những niềm đau
chân cao.
chân thấp.
dẫm nhầu đời nhau.
em mang hài mới.
qua cầu.
ta về mặc lại áo
màu
vô thanh
nguyễn hiện nghiệp
tranh: Đinh Trường Giang
Sinh Nhật Tháng 2
Gió chạy vào đây ghé thư phòng
hỏi thăm cô bé có nhà không
tường vôi thanh thoát màu tranh nhã
nhè nhẹ len vào mớ nắng trong.
Mành động, rèm thưa, dạ vắng nhà
cô chủ chưa về chợ đường xa
bài thơ buổi sáng còn dang dở
ghép thoảng hương nồng mấy khóm hoa.
Cơn gió là tôi suốt dặm dài
dừng chân thăm hỏi mỗi tháng 2
em là cô bé thường hay dỗi
phòng vắng như hờn tôi cứ bay.
Cỏ Nhớ
Còn Lại Chiến Tranh
ngàn hoa đồng cỏ nội
cúi xuống nhìn con tim...
tcs
Đi qua những dấu vết chiến tranh,
nghĩ đến em.
Nghĩ đến một sớm mai không còn la hét.
Nghĩ đến một chiều trăng lên.
Lênh láng cả con đường
Nghĩ đến em - tuổi thơ tuyệt vọng.
Những trò chơi buồn một muà chiến chinh.
Bỗng dưng từ đâu đến...
Tôi đã về thăm từng dấu vết chiến tranh.
Giữa vườn tược trần gian u ám.
Hay chiến tranh chẳng để lại điều gì?
Chỉ còn lại, một chia tay bất tận.
Bàn chân đi, để lại nhánh lau buồn...
Ði qua những dấu vết chiến tranh,
nghĩ đến em. Nghĩ đến những gì không còn nữa.
Những trò chơi buồn một muà chiến chinh.
Bỗng dưng từ đâu đến.
Làm nát đi sân bãi nghiệt ngã một thờị
Chỉ còn đâu đây từng dấu chân bé dại.
Chạy quanh sân.
Đinh Chinh
2.7.1996
Phạm Công Thiện, tập thơ Ngày Sinh Của Rắn
(phần 2)
VII
tôi nuốt nọc đen giữa đường guillaume apollinaire
từ xóm saint-germain-des-prés
mọc lên giáo đường hang động
cà phê biến hồn đầu thai
hoá thành một triệu con ma đen
nhảy múa trên núi lửa đầu tôi
tôi mặc đồ xanh
và mang đồng hồ da đen
tôi chứa chấp sáu ngọn lửa điên
trong sáu diêm quẹt còn rớt lại
tôi gọi hương và tôi chết giấc
tôi chạy lên trời làm rắn thâu đêm
máu đổ mưa đen
ồ cây mồng tơi
của thời trẻ dại
tôi gọi thầm
rắn cuộn tròn
tương lai
VIII
mười năm qua gió thổi đồi tây
tôi long đong theo bóng chim gầy
một sớm em về ru giấc ngủ
bông trời bay trắng cả rừng cây
gió thổi đồi tây hay đồi đông
hiu hắt quê hương bến cỏ hồng
trong mơ em vẫn còn bên cửa
tôi đứng trên đồi mây trổ bông
gió thổi đồi thu qua đồi thông
mưa hạ ly hương nước ngược dòng
tôi đau trong tiếng gà xơ xác
một sớm bông hồng nở cửa đông
IX
rắn trườn vỡ trứng chim rừng
tôi nghe tiếng hát hoang đường nửa đêm
khuya buồn tủi nhục môi em
mưa bay nhỏ nhẹ qua thềm bơ vơ
tiếng ru chín đỏ điện thờ
hoang vu tôi đứng đợi chờ chim kêu
tay còn ôm giữ tình yêu
tôi về phố động những chiều hư vô
đời đi trên những nấm mồ
đau tim em hát cơ hồ khăn tang
phố chiều tôi bước lang thang
nuôi con sông nhỏ mơ màng biển xanh
nửa đêm khói đốt đời anh
yêu em câm lặng khô cành thu đông
lời ca ru cạn dòng sông
trọn đời chạy trốn mống vòng cầu điên
bỏ mình nước chảy đồi tiên
theo con chim dại lạc miền thiên hương
về đâu thương những con đường
lê thê phố cũ nghe buồn hè xưa
X
mùa xuân bay thành khói
tôi ca hát một mình
suốt đời không biết nói
nước chảy tràn con kinh
quá khứ bay lên trời
biến thành cánh chim non
tôi quì hôn lá mới
đau khổ trắng linh hồn
hư không đổ ra khơi
kỷ niệm trôi qua cầu
bãi chiều chưa người tới
tình nhỏ quên từ lâu
xuân bay trắng núi đồi
tôi nằm ngủ mơ chim
bỗng hét lên trong tối
ngồi thức dậy bảy đêm
trời cuối năm gác trọ
đèn tắt suốt đêm dài
con chim mười năm nhỏ
bay về đậu nơi đây
hơi thở giết thời gian
bướm nằm chết thang lầu
tiếng chim ru ngày tháng
máu chảy về sông sâu
suốt đời không biết nói
tôi ngồi thức một mình
đốt thuốc lên nhìn khói
đêm rạng niềm hư linh
XI
tôi lái ô tô buýt giữa thành phố new york
mỗi ngày tôi lái ô tô buýt đi trên những con đường không
người những con đường chim chết
những con đường của mỗi ngày
từ riverside drive đến broadway đến đại lộ thứ năm đến
washington square
công trường nghệ sĩ tóc bay hương hát
từ greenwich village tôi đi về chinatown
mười lăm xu mỗi chuyến
xa hay gần hay mau hay chậm
tôi vẫn lái cuộc đời tôi trên những con đường quen thuộc
không mây
mùa lá hay mùa kèn nửa đêm
dong buồm thổi đến honolulu lặng gió
xa việt nam đà lạt và cà phê tùng cuối năm
tôi cúi đầu trong hầm cà phê figaro nữu ước
chuyến ô tô buýt của đời tôi vẫn chạy hoài
trên những con đường mỹ châu trống rỗng
chuyến xe không về harlem đói lửa
vì mỹ châu trống rỗng trên chuyến ô tô buýt chiều nay tóc bay
hương khóc
tôi vẫn lái chuyến xe này đi về đêm tối
đêm tối nữu ước là đêm tối nhà xác
tôi đốt đèn cầy để nhìn xác tôi giữa nhà mồ mỹ châu lạnh
lẽo mưa đen
đêm qua tôi thấy máu đổ trong hầm xe điện irt
giữa con đường 42nd hay times square
tôi thấy việt nam ngang tàng cho mặt trời vẫn mọc trên rắn
lửa
trên mái ô tô buýt chiều thu
XII
buổi chiều mưa đụng tim
mưa đụng máu
đèn đường đổ xuống nước xanh
xin hét lên rừng u minh đầu đông
tử hình trong ngục
nhốt vào trong ngục
suốt đời trong ngục
khói vóc lửa núi
nhóm nước đầu thu
xin đừng nói
lá chuối
lá me non
xanh nhà thương
ngồi trong thành phố
hoa trắng không còn
con chó đứng nhìn xe lửa mỗi ngày
chùm hoa trắng rụng một hai bông rất nhỏ
bông trắng quá nhỏ
buổi chiều ích kỷ
con đường quá dài
những cây trắc bá chùi đầu lên nghĩa địa
một người họa sĩ thất tình
nhân loại đều thất tình
nói đi thật nhiều
khoai tây
lang thang ngược vòng những vũ trụ
anh nói gì
tôi không nghe
xuống phố và lên phố
chạy hun hút qua hai nghĩa địa
cây trắc bá
chôn vùi con chó nhà ga
Phạm Công Thiện
Khi giới thiệu tác phẩm, tôi biết mình rất ư là chủ quan, không phương pháp, kém khoa học. Nhưng làm sao đây, khi mình chỉ nói đến những tác phẩm mình thích - Chủ quan là điều khó tránh.
Tôi cũng không biết con rắn của Phạm Công Thiện trong Ngày Sinh Của Rắn tượng trưng cho cái gì. Chỉ có điều đọc xong cuốn thơ, tôi mường tượng ra con rắn trong vườn địa đàng của Adam và Eve ngày xưa - là hiện thân của tục lụy trần gian. Trái táo cám dỗ trong tích xưa là trái đu đủ trong thơ Phạm Công Thiện ngày nay. Tâm trạng một sinh viên từ một Việt Nam chậm tiến đi du học sang Tây Phương, là địa đàng của văn minh máy móc, của tiến bộ tư tưởng, của khai phá nghệ thuật. Ấy vậy mà ồ cây mồng tơi, của thời trẻ dại, tôi gọi thầm, rắn cuộn tròn, tương lai... Tôi thương quá những lời thơ đọc mà nghe quê hương bật khóc trong lòng.
Duy chỉ có một điều hơi... bực mình khi đọc cuốn thơ. Phạm Công Thiện nhắc đến hơi nhiều những địa danh đã đi qua. Vài lần không thấy kỳ, nhưng nhiều quá làm cho tôi có cái cảm giác tác giả đang khoe sự lịch lãm của mình với thái độ đã-đến-đã-làm (been there, done that). Xem nào: tây tạng, nữu ước, greewich village, cầu pont\-neuf, sông seine, paris, đường guillaume apollinaire, xóm saint-germain-des-prés, riverside drive, broadway, đại lộ thứ năm, washington square, cà phê figaro, harlem, con đường 42nd hay times square, v.v...
Khi đọc sách hay nghe nhạc, tôi ít khi bị chi phối bởi phần hình thức trước nhất. Vậy mà khi đọc Ngày Sinh Của Rắn tôi cứ bị tác giả bắt đọc đi đọc lại hoài tên các địa danh. Nên có những khi bị... cụt hứng. Nếu không biết các địa danh này vì sao nỗi tiếng thì chắc cũng đành chịu. Và cũng không hiểu tại sao phải liệt kê như vậy thì bài thơ mới vừa ý tác giả. Có lẽ tại tôi mang mặc cảm không đi đây đi đó nhiều bằng Phạm Công Thiện, nên cứ bị khựng vì tự ti.
Nhưng nếu không bận tâm vì những địa danh trong cuốn thơ, đây là một cuốn thơ tác giả viết bằng những rung động rất thật. Tôi nhớ lúc người bạn đọc đoạn sau đây cho tôi nghe lần đầu trên điện thoại - càng đọc, giọng hắn càng nghẹn ngào - càng nghe, tâm tư tôi càng chùng xuống:
bây giờ anh xa hương đến mấy đại dương xanh
mấy phương trời cỏ mọc
mấy phương trời hương khóc
hương còn ca hát
hương còn phơi áo giữa phố buồn
hương còn cười
mười năm rồi cây quế vẫn mọc trên đời anh
trên mắt anh
môi anh
trên bước chân buồn phố mẹ ngày xưa
trên bước chân chiều phố lạ hôm nay
mưa làm tóc anh thơm
mùi cây quế
giữa hồ
mọc giữa hồ quế hương
tóc anh mọc dài
che chở hương
lúc mưa rơi
lúc đông lạnh
lúc chim chiều đi mất
mưa trên phố đêm
trên quán cà phê ý đại lợi
trên chiến tranh
của quê hương
của quế hương
còn anh
Với tâm trạng của một kẻ ly hương hơn mười năm, tôi nghe, mà muốn khóc. Ðây là lý do chính tôi thích cuốn thơ này. Và từ đó mỗi lần đọc các bài thơ theo thể tự do, tôi thường hay đọc thành tiếng những đoạn mình thích. Nếu không với bạn bè, thì đọc nghe lấy một mình. Lời thơ lắng đọng. Cảm nhận dâng cao.
Ðời sống văn minh thường làm cho ta thiếu thốn những món ăn cho tinh thần và tâm linh. Tôi nghĩ sự có mặt của thờ-văn\-nhạc được bắt đầu bằng những nhu cầu đó. Vươn lên từ áp bức. Thoát ra trong khổ đau. Thăng hoa vì hạnh phúc. Cô đọng giữa tịch liêu. Là quay về cùng thương nhớ. Là cất bước với lãng quên.
Tôi cạn nghĩ: Ngày Sinh Của Rắn, là một.
Thăng hoa hay cô đọng.
Quay về hoặc bước đi.
Luôn là của riêng mình bạn đọc.
nguyễn phước nguyên
31 tháng 1, 1996
Nhìn Lại Phong Trào Thơ Mới
Cũng như nàng Kiều của Nguyễn Du, cuộc đời nàng Thơ mới cũng ba chìm bảy nổi. Sau Cách Mạng tháng Tám, trong suốt bốn mươi năm nàng Thơ mới "ở không yên ổn ngồi không vững vàng". Chỉ từ mười năm trở lại đây, dưới làn gió đổi mới, giá trị Thơ mới mới dần dần được nhìn nhận thoả đáng.
Trong bài "Một thời đại trong thi ca" đầu cuốn "Thi nhân Việt Nam", chúng tôi -Hoài Thanh và Hoài Chân- đã phác qua lịch sử phong trào Thơ mới, đã phân tích tính chất và nội dung của Thơ mới. Sự phân tích ấy đến bây giờ tôi vẫn thấy là đúng. Nhưng nay sau hơn nửa thế kỷ, nhìn lại phong trào Thơ mới tôi thấy rõ hơn một số điểm. *
Hai bài thơ-tuyên ngôn của phong trào Thơ mới
Cũng như nhiều trường phái thi ca, phong trào Thơ mới có bản tuyên ngôn của nô Mà lại có đến hai bản tuyên ngôn (1).
Bản tuyên ngôn thứ nhất là bài thơ "Cây đàn muôn điệu" của Thế Lữ, người có công đầu trong việc xây dựng nền Thơ mới. Bài ấy nêu cao "tinh thần" của Thơ mới: Thơ mới là tiếng nói của cái tôi. Bài thơ có 36 câu mà có đến 15 chữ tôi. Xin trích 11 câu của bài thơ ấy:
Tôi chỉ là một khách tình si
Ham vẻ đẹp có muôn hình, muôn thể
Mượn lấy bút nàng Ly Tao, tôi vẽ
Và mượn cây đàn ngàn phím, tôi ca
Vẻ đẹp u trầm, đắm đuối, hay ngây thơ
Cũng như vẻ đẹp cao siêu, hùng tráng
Của non nước, của thi văn, tư tưởng...
Với Nàng Thơ, tôi có đàn muôn điệu
Với Nàng Thơ, tôi có bút muôn màu
Tôi muốn làm nhà nghệ sĩ nhiệm mầu
Lây thanh sắc trần gian làm tài liệu
Bản tuyên ngôn thứ hai là bài thơ "Cảm xúc" của Xuân Diệu, nhà thơ tiêu biểu nhất của phong trào Thơ mới. Như tên bài thơ, bài "Cảm xúc" nói về lối cảm xúc mới của nhà thơ. Xin trích ba đoạn (12 câu) trong số sáu đoạn (24 câu) của bài ấy:
Là thi sĩ là ru với gió
Mơ theo tra9ng và vơ vẩn cùng mây
Ðể linh hồn ràng buộc với muôn dây
Hay chia sẻ bởi trăm tình yêu mến
Ta ấp ngực dò xem triều máu lệ
Nghìn trái tim mang trong một trái tim
Ðể hiểu vào giọng suối với lời chim
Tiếng mưa khóc lời reo tia nắng động
Tôi chỉ là một cây kim bé nhỏ
Mà vạn vật là muôn đám nam châm
Nếu hương đêm say dậy với trăng rằm
Sao lại trách người thơ tình lơi lả
Bài "Cây đàn muôn điệu" và bài "Cảm xúc" đều được đăng trên báo PHONG HOÁ trong năm 1933, bài đăng sau (bài Cảm xúc) Xuân Diệu đề tặng Thế Lữ, có thể xem như hoạ lại bài đăng trước (bài Cây đàn muôn điệu).
Một thời đại thi ca phong phú
Phong trào Thơ mới bắt đầu từ năm 1932, năm ông Phan Khôi đề xướng phong trào và kết thúc năm 1941 (2), năm nhà thơ mới Chế Lan Viên đề tựa tập "Mùa cổ điển" của Quách Tấn, một tập thơ cũ được nhiều nhà thơ mới hoan nghênh(3).
Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lần một hồn thơ rộng mở như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kỳ dị như Chế Lan Viên và thiết tha, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu.
Nêu tên tám nhà thơ ấy là nêu tên tám nhà thơ tiêu biểu cho phong trào Thơ mới. Phong trào có chừng năm mươi nhà thơ phong cách khác nhau mặc dù một số có chịu ảnh hưởng lẫn nhau.
Phong trào Thơ mới phong phú không chỉ ở số các nhà thơ mà còn ở số lượng những bài thơ hay. Cuốn "Thi nhân Việt Nam" đã chọn in 169 bài, phần lớn là những bài thơ hay. Nhưng còn biết bao nhiêu bài hay không được đưa vào "Thi nhân Việt Nam": Xuân Diệu chỉ có 15 trong số 72 bài (trong "Thơ thơ" và "Gửi hương cho gió") được chọn in cho trong Tuyển tập Xuân Diệu I, Huy Cận chỉ có 11 trong số 34 bài (trong"Lửa thiêng") được chọn in trong Tuyển tập Huy Cận I, Thế Lữ chỉ có 7 bài, Lưu Trọng Lư 7 bài, Nguyễn Bính 8 bài, Chế Lan Viên 8 bài, Hàn Mặc Tử 7 bài, Nguyễn Nhược Pháp 2 bài, Thâm Tâm 1 bài, thơ Trần Huyền Trân chỉ được bình qua mà không được trích một bài nàọ "Tiếng địch sông Ô"-bài anh hùng ca nổi tiếng của Huy Thông-chỉ được trích mấy câu mà không được in trọn bàị Bài "Ðây thôn Vĩ Dạ-một bài thơ kiệt tác của Hàn Mặc Tử-cũng không được in trong "Thi nhân Việt Nam".
Tôi nêu cụ thể như trên để nói rằng còn hằng trăm bài thơ hay không được chọn in vào cuốn "Thi nhân Việt Nam".
Và để khẳng định: một thời đại chỉ có mười năm mà ta thấy xuất hiện cùng một lần hơn năm mươi nhà thơ với hàng mấy trăm bài thơ hay, đúng là một thời đại phong phú trong lịch sử thi ca Việt Nam.
Về cái buồn của Thơ mới
Về cái buồn của Thơ mới, năm 1941 chúng tôi đã viết ở cuối bài "Một thời đại trong thi ca": "Ðời chúng ta nằm trong vòng chữ tôi. Mất bề rộng ta đi tìm bề sâụ Nhưng càng đi sâu càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử , Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn trở về hồn ta cùng Huy Cận. Cả trời thực trời mộng vẫn nao nao theo hồn ta. Thực chưa bao giờ thơ Việt Nam buồn và nhất là xôn xao như thế".
Ðúng là Thơ mới buồn, buồn nhiều.
Nhưng vấn đề không ở chỗ buồn nhiều hay buồn ít, mà ở chỗ: cái buồn ấy phải chăng là mặt tiêu cực của Thơ mới, phải chăng cái buồn ấy là cái buồn uỷ mị dẫn đến bi quan mất tin tưởng?
Muốn biết cái buồn của Thơ mới là cái thứ buồn gì ta phải tìm trong thơ các nhà thơ tiêu biểu cho phong trào Thơ mới.
Thế Lữ buồn cả khi được thoát lên tiên. "Tiếng sáo thiên thai" dội vào lòng nhà thơ một nỗi buồn mênh mông xa vắng:
Tiếng đưa hiu hắt bên lòng
Buồn ơi xa vắng mênh mông là buồn!
Ở cõi trần Thế Lữ càng buồn. Nỗi lòng của Thế Lữ là nỗi "Nhớ rừng" của con hổ trong vườn bách thú:
Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan
Ðâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn
Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới!
...
Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu!
Nói về cái buồn của Lưu Trọng Lư chúng ta đều biết Lưu Trọng Lư buồn nhiều, đau khổ nhiều vì tình yêu, nhưng Lưu Trọng Lư cũng có những nỗi buồn khác, tiêu biểu là nỗi buồn trong "Tiếng thu":
Em không nghe mùa thu
Dưới trăng mờ thổn thức
Em không nghe rạo rực
Hình ảnh kẻ chinh phu
Trong lòng người cô phụ
Em không nghe mùa thu
Lá thu kêu xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Ðạp trên lá vàng khô
Với Chế Lan Viên "tất cả như vô nghĩa, tất cả không ngoài nghĩa khổ đau". Một nỗi đau khổ triền miên của Chế Lan Viên là "nỗi buồn thương nhớ tiếc giống dân Hời".
Cái buồn trong thơ Hàn Mặc Tử phần lớn là cái buồn đau đời, không chỉ đau về tâm hồn mà đau cả về thể xác. Nhiều bài thơ của Hàn Mặc Tử là những tiếng kêu thương thống thiết.
Còn Xuân Diệu, nhà thơ tiêu biểu nhất của phong trào Thơ mới, Xuân Diệu buồn ít hay buồn nhiều? Tôi nghĩ phải là người đau buồn nhiều mới viết được những câu buồn "nhức xương" như:
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời
...
Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm!
Có lẽ người hay buồn nhất là Huy Cận. Chính Huy Cận đã tự xưng ở câu mở đầu bài "Mai sau" viết năm 1940:"Chàng Huy Cận khi xưa hay buồn lắm."
Qua thơ mình Huy Cận nói cùng ta nỗi buồn nơi quán chật đèo cao, nỗi buồn của sông dài trời rộng, nỗi buồn của người lữ thứ dừng ngựa trên non, buồn đêm mưa, buồn nhớ bạn, buồn khi nắng lên, buồn khi chiều xuống, buồn cả khi không còn thấy những dấu chân trên đường...
Huy Cận gọi những nỗi buồn ấy là "nỗi hiu quạnh của hồn buồn không có", nhưng ta thấy rõ là "có cớ" và ngay câu thứ tám bài "Mai sau" nói là nhà thơ "cùng đất nước mà nặng buồn đất nước."
Ðến đây chúng ta đều thấy cái nỗi buồn của Thơ mới không phải là cái buồn uỷ mị bạc nhược mà là cái buồn của những người có tâm huyết, đau buồn vì bế tắc chưa tìm ra lối thoát, cho nên một khi thấy ánh sáng của cách mạng, hầu hết các nhà thơ mới đều đi theo cách mạng và người đi theo cách mạng sớm nhất lại là người "khi xưa hay sầu lắm". (4)
oOo
Thơ mới đã trở thành một di sản của văn học dân tộc. Ðối xử với Thơ mới-tất nhiên là đối với những bài Thơ mới xuất sắc-phải như đối xử với những tinh hoa của di sản văn học dân tộc.
Riêng với tôi thời thanh niên đã từng sống trong lòng phong trào Thơ mới, đã từng ru hồn tôi với hồn Thơ mới, nay đọc lại Thơ mới tôi thấy như được sống lại những năm đầy thơ mộng nhưng cũng đầy buồn tủi của lứa tuổi hai mươ\.
Và nàng Thơ mới tuy nay đã trên sáu mươi tuổi, tôi vẫn thấy nàng vẫn xinh tươi như thời thơ ấu:
Hoa tàn mà vẫn xinh tươi
Trăng tàn mà vẫn như hồi rằm xưa (5)
Hoài Chân
(1) Bài "Một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ" của ông Phan Khôi (Phụ Nữ Tân Văn số 122 ra ngày 10-3-1932) không thể xem là bản tuyên ngôn của phong trào Thơ mới vì định nghĩa Thơ mới rất không đầy đủ.
(2) Thật ra phong trào Thơ mới kéo dài đến Cách mạng tháng Tám.
(3) Chế Lan Viên viết trong lời tựa "Mùa cổ điển":"Phân chia bờ cõi thơ bằng hai chữ mới cũ chẳng có ý nghĩa gì".
(4) Huy Cận tham gia hoạt động trong Mặt trận Việt Minh từđầu năm 1942.
(5) Nguyên văn trong truyện Kiều:
Hoa tàn mà lại thêm tươi
Trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa.
Andrew Q. Lâm hiện là một biên tập viên của Pacific News Service ở San Francisco. Ðến Mỹ năm 1975, lúc anh 11 tuổi. Những bài viết của anh xuất hiện trên nhiều nhật báo ở khắp nước Mỹ, trong số đó có The New York Times, The San Francisco Chronicle, The International Herald Tribune, The Chicago Tribune, The Oregonian và L.A. Times. Những bài tiểu luận của anh cũng được phổ biến trên các tạp chí như L.A Times Magazine, Harper's, Mother Jones, San Francisco Focus, Image và Nation. Truyện ngắn của anh còn được chọn đăng trong các tạp chí và tuyển tập như Manoa, Amerasia, Transfer, The Other Side of Heaven, Once Upon a Dream, The Literary Companion to Vietnam, Sudden Fiction, và Vietnam Forum. Anh được trao nhiều giải thưởng trong khoảng từ năm 1993 đến 1995, gồm có: Giải Nhà Báo Trẻ Xuất sắc Society of Professional Journalist, Giải Media Alliance Meritorious Award, giải The World Affairs Council Excellence in International Journalism, Học bổng Rockefeller, và giải American Journalist Association National Award. Anh hiện đang thực hiện một tuyển tập truyện ngắn.
Gỗ Mun Và Hồn Ma Bóng Quế
Sau chuyến bay giông tố chở chúng tôi từ Sài Gòn thăm thân nhân đau nặng trở về, chiếc Cessna nặng nề đáp xuống phi đạo bùn lầy của sân bay Cam Ly. Bên ngoài, màn mưa nhẹ trên nền trời màu xám khói đón chúng tôi trở lại vùng cao nguyên của sương mù vạn niên và rừng thông vi vút. Phi cơ nhẹ nhàng tiến về phía đài kiểm soát, nước bùn tung tóe văng lên đôi cánh sắt trắng. Phi cơ chậm lại, gầm lên dữ dội như con vật bị thương, rồi dừng hẳn trong cơn rung chấn động toàn thân con tàu. Hạ cánh an toàn, Măng thở phào ngả người ra sau ghế. Bàn tay lẹ làng bật khóa chiếc ví da sấu, Măng lấy ra phong bao đựng tiền trao cho người phi công. Tôi nhìn ra kính trước phi cơ, thấy bóng dáng quen thuộc của chú Lâu và chú Hiển bên chiếc Plymouth của gia đình đỗ gần hai xe tải nhà binh han rỉ. Ô đen cầm tay, hai chú gia nhân vội vã chạy tới trong khi cánh quạt phi cơ quay nốt vòng cuối cùng rồi dừng lại.
Cánh cửa chiếc Cessna mở tung. Gió lạnh ùa vào mang theo mùi đất bùn và mùi nhựa thông. Tôi nghe tiếng thác Cam Ly vọng lại từ sau mấy ngọn đồi xanh. Chú Lâu tới trước. Bàn tay nhợt nhạt xám ngắt vì lạnh, chú dương ô che khung cửa phi cơ đã m Rồi đôi môi tái thâm run rẩy, chú ú ớ thưa với Măng những gì không ai hiểu nổi. Măng vừa bước xuống phi cơ vừa hỏi, hoảng sợ vì thái độ của chú:
"Chuyện gì vậy chũ nhà vẫn thường chữ"
"Bẩm Bà, dạ bẩm Bà." Chú lí nhí, miệng chú phả ra làn hơi thở đã đông thành hơi nước.
"Bẩm Bà cô ấy mặc chiếc duýp đó. Con thề chính mắt con trông thấy."
Chú Hiển khẽ lắc đầu khi bước ngang mặt chú Lâu, kịp thời đỡ anh Tuấn tôi từ phía sau Măng đang nhảy đại xuống đất, một chân đã đạp ngay vũng bùn. Bây giờ thì viên phi công đã chất xong đống hành lý của chúng tôi vào thùng xe hơi và đang rảo bước lại phía gian hàng PX. Măng hỏi:
"Ai mặc duýp đô"
Giọng Măng bực bội, tựa hồ như sau một chuyến bay nhồi sóc lại phải xử lý thêm chuyện tàm xàm này. Thật ra chú Lâu vốn hơi man mát, thường khi hay nói lẩn thẩn một mình. Nhưng thái độ chú hôm nay quá bất thường làm mọi người phải thắc mắc.
"Ba tôi vẫn mạnh chứ chũ" chị Ngọc hỏi. Chị ngồi trên khung cửa máy bay, ngần ngại chưa muốn nhảy xuống sợ hỏng chiếc áo dài màu hồng chị rất thích mà Măng đã tự tay khâu cho chị.
"Suỵt." Măng đặt tay lên chị. Rồi đôi mắt sắc của Măng quay sang chú Lâu:
"Nào chú nói đi. Cô nào mặc duýp đó. Lại con bồ mới của Ông nhà chú phải không? Con nào nào?"
Chú Lâu co dúm người dưới cái nhìn của bà chủ. Chiếc ô chú đang cầm lảo đảo trong tay.
"Bẩm Bà không, không phải vậy. Không phải cô bồ nào của ông... Cô ắy là..." Chú ngập ngừng, mắt chú lấm lét.
"Con nào, chú phải nói ngay." Măng ra lệnh. Bây giờ thì Măng đã nổi nóng, giọng Măng cao hẳn lên một bậc. Vuốt mấy sợi tóc trên trán, Măng nhìn thẵng mặt chú, đợi chú trả lời. Vạt áo dài của Măng phần phật trong gió như cánh con bươm bướm trong cơn kinh hoàng...
"Dạ là cô... chính là cô nhà, bẩm Bà," chú nói, mếu máo như muốn khóc. Chị Ngọc và tôi nhìn nhau, không hiểu chú muốn nói gì, ngày nào mà chú chả thấy chị từ khi gia đình tôi dọn lên Ðà Lạt. Hai đứa chúng tôi bắt đầu cười ngặt nghẽo, trong khi anh tôi từ bên trong chiếc Plymouth giục giã mọi người lên xe. Chú Hiển bây giờ đã mang ô quay lại đón chị tôi và tôi. Hai chị em chúng tôi bèn bầy trò chơi, giả vờ làm nông dân bị lạc trong cơn lụt sông Cửu Long và đang chờ người đến cứu.
"Bẩm Bà, Bà đừng bận tâm," chú Hiển nói, chiếc ô đen của chú che mất bàu trời. "Thằng Lâu cứ cái tật nói bóng nói gió, Bà hơi đâu mà nghe..."
Măng như không lưu tâm đến lời chú Hiển, gạn hỏi chú Lâu cho bằng được.
"Cô nhà... con gái tôi... chú muốn nói con Ngọc?" Giọng nay bình tĩnh hơn, Măng chỉ tay về phía chị tôi đang ngồi trên thềm cửa máy bay, đôi bàn chân dép đong đưa trên mặt nước bùn.
"Không, bẩm Bà không phải cô Ngọc," chú Lâu lắc đầu quầy quậy.
"Con muốn nói cô kia cơ, cái cô đã mất rồi ấy..."
Ðang đùa nghịch, chị Ngọc và tôi sững lại. Chân chị đang đu đưa ngoài cửa máy bay bỗng co lại trong vòng ôm che chở của đôi cánh tay mặc áo len của chị. Tôi muốn kêu mà không ra tiếng, người tôi ớn lạnh, tôi ngồi sát lại chị. Chú Lâu không còn làm tôi tức cười nữa. Tất cả nhà im lặng, và tôi lại nghe thấy tiếng thác đổ rì rào xa xa nơi mấy xóm nhà tranh và mấy rặng đồi. Măng hơi lảo đảo bước tới một bước nhỏ, mặt bà xám ngắt như bầu trời nặng mây trên đầu.
"Nói láo!" Măng lớn tiếng. "Chú nói láo." Chú Lâu không cãi nhưng vẫn lắc đầu.
Một giây sau, mắt xa vắng nhìn sườn đồi rậm cây trước mặt, Măng khẽ lẩm nhẩm một mình,
"Con gái vắn số của Măng..." Rồi bất thần Măng hốt hoảng,
"Chiếc áo đỏ, Trời ơi! Tôi đốt mã chiếc áo ấy cho con tôi năm ngoái."
Măng vụt quay sang chú Hiển, nắm lấy cánh tay chú,
"Chú Hiển, hôm nay là mùng mấy?"
"Bẩm Bà, mười tám tháng tám," vừa trả lời Măng chú Hiển bế chúng tôi ra khỏi máy bay.
"Khốn khổ khốn nạn!" Măng khẽ than. Mái tóc đen uốn thành lọn cong của Măng phủ dầy những hạt mưa bụi lấm tấm.
"Tôi quên khuấy đi mất ngày giỗ con Ngấ Tôi quá bận săn sóc mấy người em họ đau... Chú Lâu, chú thấy... chú thấy em nó về bao giờ."
"Bẩm Bà bốn hôm trước," chú Lâu nói.
"Vị chi là hôm mười bốn, một ngày sau ngày giỗ con bé," Măng khẽ nói, giọng như không còn ngạc nhiên nữa. Măng lặng lẽ khóc dưới mưa.
Vào trong xe, chúng tôi yên lặng. Chú Lâu thần thái như chưa hoàn hồn, ngồi trước với chú Hiển, giữa hai chú là hai khẩu M-16. Măng ngồi băng sau, anh tôi và tôi bên phải, chị tôi bên trái. Mưa nặng hạt hơn, lộp bộp trên nóc xe. Chiếc Plymouth đổ xuống con dốc thoai thoải, đằng sau chúng tôi phi trường quân sự với những trại lính bằng gỗ chìm dần trong mưa.
"Chú Lâu," Măng ra lệnh, "chú kể đầu đuôi cho tôi nghe... Mà chú phải kể hết, dù một chi tiết nhỏ cũng không được quên."
"Bẩm Bà vâng." Giọng chú như lạc đi trong khi chú quay lại băng sau thưa chuyện với Măng. Bán diện xương xẩu của chú với cái cổ dài làm tôi nhớ đến con gà trống ngộ nghĩnh chị Ngọc và tôi có lần nuôi. Một người tài xế của ba tôi đã chận chết nó mùa hè trước Măng cho là anh ta chủ tâm, vì con gà gáy quá to lại gáy quá sớm đã phá giấc ngủ mọi người trong doanh trại, tôi tớ cũng như lính tráng. Chú Lâu hắng giọng, lưỡng quyền chú rung rung. Chú thường làm như vậy. Khi giặt giũ quần áo cho chúng tôi, chú hay hát cải lương, món tiêu khiển chú ham thích nhất. Khi trình diễn môn hát này, chú có thể thao thao bất tuyệt. Bộ điệu chú làm tôi tức cười, nhưng bàn tay Măng đặt lên tay tôi làm tôi tức thì yên lặng.
Giọng trầm xuống, nghiêm túc chú bắt đầu,
"Sự việc là như thế này... Bẩm Bà, Bà còn nhớ tuần trước nữa, khi Bà và các cô cậu sửa soạn lên Sài Gòn, Bà dặn thằng Hiển và con canh nhà, lo mà bảo vệ ông Tướng cho chu toàn. Bẩm Bà, hai anh em con đã làm y lời Bà dậy. Chúng con thay phiên ngủ trong phòng học cuối hành lang. Chúng con đặt ghế bố ngay dưới ban thờ cô Ngà, gần bên lò sưởi.
"Các cô các cậu hay dùng phấn viết bảng, nên chi chỗ nào cũng đầy bụi phấn - từ bàn học cho đến sách vở hay tủ sách nền nhà, chỗ nào cũng phấn là phấn. Tất nhiên là ngay hôm đầu vào ngủ trong đó, con đã lau chùi sạch sẽ từng ly từng tí. Vậy mà tối hôm sau đến phiên thằng Hiển ngủ, nó lại than là sàn nhà đầy phấn bụi. Ghế bố cũng vậy.
"Thật ra con biết không ai dám vào viết phấn lên bảng, đám con nít nhà con nếu không có phép Bà đâu dám đặt chân lên nhà trên. Vậy thì bụi phấn ở đâu ra?
"Nhưng phấn là phấn nhiệm vụ là nhiệm vụ, nên ngay sáng hôm sau con vác rẻ lau với chổi lông gà trở lại phòng học lau chùi sạch sể Ðêm hôm đó, chính cái đêm lạnh cắt da cắt thịt đó, chuyện lạ, rất lạ, đã xảy ra. Bẩm Bà, bây giờ nghĩ lại con còn chết khiếp... Bẩm Bà, sự việc nó là nó như thế này..." Kể tới đây chú tặc lưỡi. Tiếng mưa trên nóc xe như bắt nhịp theo, chú kể:
"Tối hôm ấy sưong mù dầy như cháo đặc. Còn gió thì ở đâu mà nhiều thế, rít miết trên ngọn thông. Bỏ mẹ con sắp nhỏ lại nhà dưới, con sách khẩu M-16 lên phòng học ngủ. Khi con ra khỏi cửa, mẹ sắp nhỏ như có linh tính, can con, 'Anh ơi anh đừng có đi, anh đừng có đi,' "
Chú bắt chước cái giọng vừa chua vừa sẵng của thím Lâu. Chú bắt chước thật giống làm mọi người kể cả Măng đều phải tức cười. Chú nói tiếp,
"Con vợ con nó bảo, 'ông Tướng đâu có nhà cho anh bảo vệ. Anh hãy Bảo vệ lấy thân anh, ở nhà với vợ, đi làm gì anh ơi. Nhà trên có ma nào mà lên. ễ đây với em đi.'
"Bẩm Bà, ai mà thèm nghe con đàn bà nôm na mách quê Phiên con gác là con đi gác. Con băng qua sương mù, mặc gió buốt, lên tam cấp, qua nhà bếp, qua phòng khách vắng, leo lên cái cầu thang gác cót két, đẩy cái cánh cửa rít bản lề, vào thẳng phòng học. Quả như rằng, ghế bố lại đầy bụi phấn nhưng con chỉ lấy tay phủi sạch, tắt đèn rồi ôm súng ngả lưng xuống trùm mền ngủ. Bên ngoài gió vẫn hú nhưng chẳng sao, lính mà, bẩm Bà.
"Thế là xong, mọi chuyện xem ra bình thường và con ngủ thiếp đi ngon lành. Rồi bất thần, có cái gì_không biết là cái gì_đánh thức con dậy. Tựa hồ như ai nói thầm vào tai con, và con khấn Trời khấn Phật là tai con lầm, chẳng qua chỉ là tiếng gió. Con không rõ lúc ấy là mấy giờ, chỉ biết trời còn khuya lắm và bên ngoài cửa sổ tối thui, ngoại trừ ngọn đèn vàng sau lùm cây bên khu trại lính. Ðợi lát lâu không thấy gì khác, con toan ngủ lại thì... có cái gì lạnh ghê lạnh gớm kéo cổ chân con. Tựa hồ như một bàn tay con nít, nhưng lạnh buốt như nước đâ Con như tê dại. Con chỉ còn biết nghểnh đầu ra khỏi chăn, ráng mắt ra nhìn.
"Trời Phật ơi, chính lúc ấy con thấy cô nhà, bẩm Bà. Cô bé hiện ra trong một vùng ánh sáng lờ mờ kỳ dị, cô khoảng sáu bẩy tuổi, nhìn kỹ mới nhận ra chiếc duýp đỏ cô mặc. Con sợ mất hồn mất vía, bẩm Bà tha lỗi cho con, miệng con há hốc, nước dãi chảy ròng hai bên mép. Cô bé cứ đứng như vậy ở cuối ghế bố mà khóc, tay cổ nắm chân con... Tóc cô dài mềm mại như tơ, da cô trắng như ngà...
Con biết ngay là cô nhà, là cô con gái Bà đã mất. Cô hiện ra mảnh dẻ xinh đẹp như con búp bê. Nhưng con sợ đến nỗi không nhúc nhích nổi. Miệng con há hốc, máu con đông lại, và con nghĩ chắc lúc ấy tóc con dựng đứng trên đầu. Con nằm bất động như một khúc gỗ, trân trân nhìn cô khóc. Cô khóc mải miết, không biết bao lâu, sau cùng cô nín và ngẩng lên nhìn con." Kể đến đây, giọng chú Lâu trầm xuống, như thì thầm. Tôi nghe bàn tay Măng bóp chặt lấy tay tôi.
"Cô nói, 'Chú Lâu ơi. Em lạnh quá... Mọi người quên em rồi... Chú Lâu ơi, Măng quên em rồi. Chú làm ơn thắp cho em cây nhang, cho nhà em ấm một chút. Chú nhớ nghe chú, em lạnh quá...
"Bẩm Bà, nói xong cô buông chân con ra. Rồi quay mình, cô chập chờn bay về phía lò sưởi nơi ban thờ gỗ mun của cô. Như một đám mây lạnh mùa đông, cô biến đi mất. Bẩm Bà, con ráng thu hồn thu vía, bình tĩnh, hy vọng cô không trở lại nhát con đến chết. Sau cùng cục cựa được, con đứng dậy bật nút đèn. Thu hết can đảm, con bước lại ban thờ rút ba cây nhang ra thắp. Con khấn cô, 'Cô Ngà ơi, tôi thắp nhang cho cô rồi. Tôi van cô cô đừng nhát tôi nữa, tôi yếu bóng vía không kham nổi đâu. Tôi thờ Phật, còn vợ và ba con dại phải nuôi. Van cô cô đừng cướp hồn tôi. Sáng ra tôi xin đem đồ cúng cô. Cô Ngà ơi, tôi van cô.'
Khấn xong, con vái cô ba vái, và cắm nhang vào bát nhang nhỏ trước ban th Bẩm Bà, thật ra thì vợ con cũng có lý, mà ông Tướng cũng không có nhặ Dông dài, con muốn thưa là không ai có nhà nên con cũng tự tiện xuống lại nhà dưới với má con bầy trề..
"Hôm sau, hai vợ chồng con trở lại sớm với ít trái cây cúng cô khi Bà chưa về. Con nghĩ có biết chắc Bà cũng không quở trách con. Rồi mấy đêm sau, thằng Hiển này đã tình nguyện gác luôn cả phiên con, nó bảo cô Ngà nay đã được cúng giỗ rồi chắc sẽ không phiền hà gì nó. Nhưng cẩn tắc vô ưu, Bà tin con đi, con không quên căn dặn thằng Hiển mỗi tối phải thắp cho cô nén nhang..."
Chuyện chú Lâu đến đây là hết. Măng gật đầu như ghi nhận chú đã kể xong, và không thấy Măng bảo gì thêm chú quay mặt lại đằng trước. Mùi rượu đế mới đầu thoang thoảng đã tăng theo câu chuyện của chú, bây giờ nghe nồng nặc. Khó chịu, tôi quay sang anh Tuấn ngồi bên phải tôi. Anh đang thổi vào kính xe, biến cửa sổ xe thành một tấm bảng phủ kín hơi nước. Ngón tay anh vẽ những hình tàu bay xe tăng lên mặt kính. Nét vẽ của anh làm kính trong trở lại, bày ra cảnh vật sũng nước bên ngoài với cỏ cây xanh rờn và bàu trời đục xám đang vùn vụt chạy về phía đuôi xe, linh động hóa những hình tượng anh vẽ trong khi chúng sáng lên với màu sắc hiền dịu của tạo vật.
Ngà tuy là chị tôi, nhưng tôi chưa bao giờ biết mặt. Chị chết non vì chứng đau não, một năm trước khi tôi sanh. Vì chị trắng trẻo nên Măng đặt tên chị là Ngà. Khi đẻ ra, tóc hị dài và mượt - Măng cả quyết là nếu sống chị tôi sẽ cao và đẹp lắm. Chị Ngà rất ngoan, Măng vẫn thường nói. Chị không bao giờ khóc nhè hay vòi vĩnh như tôi. Mỗi khi Măng nói vậy, tôi làm bộ nhăn nhó dậm chân cho đến khi Măng phải tức cười và ôm tôi vào lòng, dỗ rằng tôi là đứa con yêu nhất của Măng.
Mỗi năm vào ngày giỗ chị Ngà, Măng thường sắm sửa quần áo, đồ chơi, tiền giấy, tất nhiên là đồ mã, để đốt xuống âm phủ cho chị cũng được thoải mái như mọi người trong nhấ Chúng tôi không phải bao giờ cũng sung túc, Măng vẫn bảo; thủa ấy gia đình tôi nghèo_ba tôi mới là trung tá_và chúng tôi không có tiền, không có tài xế, không có xe hơi. Khi sanh chị, Măng phải một mình đi xích lô vào nhà bảo sanh. Khi chị mất, Măng mua một miếng ngà cho khắc tên chị để cúng. Măng thường nói, chị đã không chết nếu hồi ấy chúng tôi khá giả và quen biết lớn để có thể đưa chị sang Âu châu điều trị. Nhưng ba tôi lại bảo là thật ra không có cách gì cứu chị, chính các bác sĩ cũng không biết làm sao trị liệu căn bệnh não hiếm nghèo và hiếm thấy của chị.
Khi tôi lên một, ba tôi được thăng thiếu tướng. Cảnh sống của chúng tôi khá lên khi ba tôi được bổ nhiệm tư lệnh sư đoàn 9 đóng tại Sa Ðéc. ít năm sau, ông thăng lên trung tướng và được bổ nhiệm chỉ huy trưởng trường võ bị Ðà Lạt. Chúng tôi được cấp một biệt thự kiểu Pháp, mấy con ngựa, và một chiếc trực thăng. Nhưng Măng không bao giờ quên chị tôi. Dọn lên Ðà Lạt, vật đầu tiên Măng gói để mang theo là ban thờ chị tôi, mặc dầu ba tôi phản đối. Ba tôi nghĩ không nên bám víu lấy người chết. Ông bảo tốt nhất là gửi ban thờ chị tôi vào một tu viện yên tĩnh, vì chúng tôi dời nhà kể như thường xuyên. "Cho con nó yên nghỉ," ba tôi có khi quát lên, nhưng Măng không bao giờ nhượng bộ. Ba Măng cãi nhau liên miên về việc này, nhưng sau cùng bao giờ Măng cũng thắng.
Bây giờ sự việc đã như thế, thật là dễ sợ khi nghĩ hồn ma chị tôi vẫn lẩn quất trong tòa biệt thự, đòi Măng săn sóc như anh em chúng tôi còn sống. Tôi nhắm mắt tưởng tượng chị vẫn ở trên mặt lò sưởi trong cái ban thờ nhỏ bằng gỗ mun đóng theo kiểu một ngôi chùa tí hon. Chiếc ban thờ có mái cong với đôi cột bé tí chạm trổ rồng phượng. Giữa hai cột là chiếc bát hương nhỏ đầy chân nhang và tro nhang màu xám. Nhưng trong nội thất linh thiêng của ban thờ tất cả chỉ có tấm bài vị bằng ngà của chị, đặt đứng như một tấm bia mộ nhồ Phải chăng tấm ngà bé này là hiện thân của hồn ma của chị?
"Còn chú, chú Hiển, chú có thấy gì lạ không?" Tiếng Măng làm vỡ bầu không khí yên lặng.
"Bẩm Bà không," chú Hiển trả lời mắt vẫn nhìn con lộ trước mặt. Trong tấm gương chiếu hậu, nét mặt chú bình thản như không,
"Chú muốn nói con gái tôi không nắm chân chú kéo hay nhát chú như nhát chú Lâu?" Măng hỏi gặng.
"Bẩm Bà không. Chắc con cứng bóng vía nên ma cỏ không quấy nhiễu."
"Vậy sao?" Măng nói.
Chú Lâu quay lại nói xen vào câu chuyện,
"Nhưng bẩm Bà, con thấy cô nhấ Chính mắt con trông thấy cô nhà." Chú lấy ngón tay tự chỉ vào mặt.
"Tôi biết," Măng gật đầu. "Nhưng ai hỏi chú mà chú nói. Măng nói tiếp:
"Chú Hiển, chú không có gì để trình lại với tôi?"
"Bẩm Bà không. Chuyện ma cỏ thì lại càng không."
Gọn gàng vượt qua chiếc nhà binh chạy chậm đằng trước, chú móc túi lấy ra phong thư.
"Tuy nhiên ông Tướng có dặn con trình với Bà là Ông đi Nha Trang họp mấy ngày nữa mới về. Ông dặn con trao Bà lá thư này..."
"Ủa?", Măng hỏi chú Hiển, tay Măng cầm phong thư mà không mở ra. Măng không bao giờ đọc thư ba tôi trước mặt các con.
"Chồng tôi có biết gì về chuyện... ma hiện hồn này không?"
"Bẩm Bà không."
"Cũng tốt thôi." Măng như tư l "Nhưng tại sao chú lại gác thay cho chú Lâu, thay vì ngủ dưới trại?"
"Bẩm Bà tại vì," chú Hiển dõng dạc, "trại đông, trống gió mà lại ồn quâ Mà cũng tại vì đám sóc đĩa. Con không thể nào ngủ được khi thằng cha Lâu này ngồi sóc đĩa xướng số trúng bằng mấy câu vè của nó."
"Vậy sao?" Măng vắn tắt, nhưng tôi cười lăn cười bố Anh Tuấn vỗ đùi và chị Ngọc nói "Xấu hổ, xấu hổ nhé," trong khi chú Lâu trên ghế trên co mình lại như muốn độn thổ. Quả thật chú Lâu rất ồn và rất sính đọc vè khi đánh sóc đĩa. Chú sính vè trong mọi chuyện, nhưng đặc biệt nhất là với sóc đĩa. Chú có thể cất giọng ngêu ngao đọc vè của chú, tựa hồ như mấy con sóc đĩa là những nhân vật mấy tuồng cải lương mà chú đã thuộc lòng.
Lát sau yên lặng lạnh giá lại bao trùm lấy chúng tôi như một chiếc màn vải đục. Trong tay Măng, tôi nghe tay tôi lạnh ngắt như không còn hột máu. Mưa đã nhẹ hạt, máy xe rầm rì, bánh xe lúc lúc chồm qua những ổ gà đầy nước, và tim tôi ghi nhận từng cái dằn của đường. Xe ngang qua hồ Xuân Hương, tôi thấy sương mù lãng đãng như ve vuốt mặt hồ. Ðã xế chiều, bầu trời ảm đạm, và mặt hồ phản chiếu lại một lần nữa cái ảm đạm ấy...
Qua hai cây cần gạt nước, tôi thấy cảnh vật di động với những biệt thự ẩn mình sau những hàng rào gỗ và những rặng thông cao. Xe lên dốc, hai bên đường một vài ban thờ nhỏ trang trí bằng những vòng hoa hay bó hoa màu sắc lòe loẹt. Dân địa phương đã dựng những ban thờ này cho linh hồn các nạn nhân xe hơi hay xe gắn máy trên cung đường trơn dốc này. Chú Lâu có lần giảng cho tôi là nếu người chết được tưởng nhớ tới, vong hồn họ không trở về gây thêm tai nạn cho người sống.
Chúng tôi sắp tới nhà. Mái đỏ của ngôi biệt thự hiện ra sau lùm cây xanh; tiếp theo là mấy cánh cửa chớp bằng gỗ che cửa sổ và sân thượng trên lầu hai; rồi đến thửa vườn với chiếc xích đu hiện ra bên phải. Xe quẹo gắt vào chiếc cổng rào kẽm gai, và một chú lính vui vẻ từ trạm canh nhảy ra, súng và đàn đeo lủng lẳng sau lưng. Anh ta kéo mạnh cổng rồi chào chúng tôi khi xe chạy qua. Chị Ngọc vẫy tay, và Măng gật đầu chào lại. Trên sân lát đá trống vắng, hơi sương trắng cuộn vòng bốc lên như chào đón chúng tôi. Chiếc xe Plymouth chạy tới bên mấy bậc tam cấp phủ rêu rồi dừng lại.
Măng cầm mấy tờ giấy bạc với tới đằng trước vỗ khẽ vào vai chú gia nhân. "Chú Lâu," Măng nói. "Chú làm ơn ra chợ mua cho tôi ít hoa quả, đồ mã, và hương đèn. Chút đỉnh để giỗ con gái tôi... dù là giỗ muộn. Và cảm ơn chú đã giỗ em hôm trước..."
"Bẩm Bà vâng," chú Lâu hăng hái thi hành lệnh Măng.
Không biết ai đã quên đóng cửa phòng học, hơi lạnh và ẩm của mưa đã lạm vào từ bao giờ. Có mùi gỗ ướt, và khi Măng đóng cửa sổ lại, tôi nghe như một phần của bầu trời sũng nước đã bị giam lại bên trong. Tôi nhìn vào chiếc ban thờ trên mặt lò sưởi. Bàn thờ vẫn đấy, rờn rợn, trống, sâu, và tối. Hai con rồng vẩy sà cừ lóng lánh, hàm há lớn như sẵn sàng táp vào kẻ bất tín. Nhìn ban thờ, tôi bao giờ cũng cảm thấy lạnh lẽo. Măng thắp mấy nén nhang, và khói nhang cuốn vòng bay lên trần nhà đã ám khói từ lâu. Mùi nhang hăng hắc lẫn với mùi thơm của gỗ lẩn quất nặng nề trong bầu không khí lạnh và ứ hơi nước.
Khi tôi đứng sau Măng nghe Măng khấn, anh Tuấn và chị Ngọc kéo nhau ra bên bảng đen, bộ điệu ranh mãnh tinh nghịch. Hai người vét bụi phấn trong khe bảng bôi lên mặt. Anh chị ra hiệu rủ tôi nhập cuộc, nhưng tôi lắc đầu. Tôi cảm thấy phải đứng bên Măng mới được an toàn. Anh chị tôi đang chờ chú Lâu tới để phục kích, tiếng chân chú bây giờ nghe vang lại từ hành lang.
Lúc chú xách rổ mây đầy hoa quả đồ chơi bằng giấy và quần áo mã bước vào, anh chị tôi nhảy ra hét lớn, mặt mày bôi đầy phấn hai tay dơ lên quơ cào. Như bị điện giật, chú thất thanh hãi hùng nhảy dội ra đằng sau, mắt chú như văng ra khỏi tròng. Một trái soài rơi bịch xuống đất.
"Thôi ngay lập tức!" Măng nổi nóng quay lại. Trong mắt Măng tôi thấy như có điềm gì bất an, báo hiệu những bất thường đang rình rập xảy ra. Khói nhang vương vất sau lưng Măng. "Có đi rửa mặt đi còn giỗ chị. Tất cả mấy đứa!"
"Thưa Măng vâng," anh Tuân và chị Ngọc lí nhí, cúi đầu như biết lỗi. Bỏ lại Măng và chiếc ban thờ gỗ mun, tôi theo chân anh chị. Ngang qua chú Lâu, tôi thấy chú đang cúi nhặt quả soài miệng lẩm nhẩm than thở về quả tim yếu của chú.
Khi chúng tôi trở lại, hai ngọn nến đang bập bùng cháy trên hai cây đèn hoa sen đặt hai bên ban thờ. Bóng tối và ánh sáng chập chờn trên những đường chạm cong của gỗ mun. Bên ngoài trời đã xẩm tối, một ánh sáng hồng dịu sáng lên nơi cửa sổ. Măng mặc áo dài trắng và chú Lâu giúp Măng sửa soạn vụ giỗ trễ. Trên mặt bàn trải khăn trắng, mấy trái soài và vài bông sen bầy trong chiếc bát sứ lớn. Anh em chúng tôi, tắm rửa sạch sẽ, đầu tóc chải ngay ngắn, đã thắng bộ. Chị Ngọc mặc chiếc váy mầu xanh nhạt, anh Tuấn và tôi đánh bộ com-lê đen, cà-vạt đen, thứ cà-vạt có kẹp móc không cần thắt. Chúng tôi sắp hàng sau lưng Măng, theo thứ tự lớn nhỏ, mặt quay về phía ban th Sau cùng đến lượt tôi, Măng đưa cho tôi cây nhang đã thắp sẵn, bảo tôi khấn 'Chị Ngà, em xin chị tha thứ cho cả nhà. Xin chị phù hộ cho mọi người được may mắn', tôi nhắm mắt khấn, tay cầm chặt cây nhang nhưng chiếc đũa thần của truyện cổ tích. Rồi tôi khấn thêm, "Nếu chị thành ma, em xin chị đừng về kéo chân Măng, chị nhê" Tôi vái chị ba vái. Tôi tưởng tượng từ chiếc bài vị bằng ngà lờ mờ trong khoảng tối thần bí của ban thờ, chị đang ghi nhận lời khấn của tôi.
Măng đứng lặng trước lò sưởi, mắt Măng xa vời như nhìn xuyên qua khói nhang đang cuốn vòng bốc lên. Khi đốt mã cho chị trong lò sưởi - phần quan trọng nhất của giỗ - Măng khóc. Mấy chiếc áo dài giấy mầu mấy con búp bê đội nón và mớ tiền âm phủ bốc cháy, tỏa ra một thứ ánh sáng vàng như hoàng kim pha chút màu lục. Khuôn mặt hiền dịu của Măng ấm lên, và nước mắt lấp lánh trong mắt Măng. Cuối hành lang, gió đập từng hồi chiếc cánh cửa chớp lỏng bản lề vào mặt tường bên ngoài.
Lát sau có tiếng gõ cửa. Chúng tôi quay lại thấy chú Hiển đứng như pho tượng, tay cầm cây búa. "Vào đi chú," Măng ra lệnh. "Chúng tôi cũng gần xong rồi. Chút nữa là chú có thể bắt đầu."
Khi chú bước tới, tôi chăm chăm ngắm khuôn mặt như tạc bằng gỗ của chú, tò mò xem chú sắp làm gì. Chú không chào ai, chỉ lẵng lặng đến đứng bên chú Lâu. Khi nhang tàn, Măng quay sang chú Hiển, vẫy tay ra hiệu, "Chú bắt đầu được rồi."
Chú Hiển gật đầu, rồi sau khi chuyển nến đèn cũng như bát nhang sang bên, chú đưa bàn tay chai sần vuốt dọc bên ban th Rồi lấy búa, chú bắt đầu nhổ mấy chiếc đinh gắn ban thờ vào tường.
"Măng ơi, chú ấy làm gì thế?" anh Tuấn đánh bạo hỏi câu hỏi chính tôi cũng muốn hỏi.
"Chú ấy dời ban thờ đi nơi khác," Măng trả lời gọn lỏn. "Dời về chùa Sư Nữ trên núi."
"Tại sao vậy Măng?" tôi buột miệng.
"Chúng mình sắp dọn ra Ðà Nẵng. Ba nhận được lệnh từ tổng tham mưu. Ba sắp làm tư lệnh Sư Ðoàn Một... Xem ra gần đây lại đánh nhau to. Khổ quá!" Giọng Măng mệt mỏi khi Măng lấy ra lá thơ của ba tôi. "Và lần này, Măng sẽ không đưa chị Ngà theo. Măng nghĩ thật ra Ba có lý. Chúng mình không nên níu mãi lấy người chết."
Chú Hiển bắt đầu lấy búa gõ lỏng hai bên ban thờ. Tiếng búa chát chúa vang lên trong căn phòng, và trong ngôi nhà gỗ tí hon chiếc bài vị nhỏ bằng ngà ngã xuống. Chú Lâu sau giây lát ngần ngại, bắt đầu giúp chú Hiển. Chiếc đinh cuối cùng được nhổ ra với tiếng rít nhồ Phút chốc hai người lính đã khuân chiếc ban thờ cồng kènh xuống nhà dưới. Nơi khoảng tường cũ chỉ còn lại một ô trắng.
Ban thờ đã dọn đi, tôi bỗng không còn sợ hãi về hồn ma chị Ngà. Và nhìn khoảng trống màu trắng trên tường, tôi nghĩ đến Ba tôi. Tôi nghĩ đến một vùng sương mù trắng đục nơi ông đang lái chiếc trực thăng của ông. Và dưới vùng sương mù ấy, nơi lúc trước là chiếc lò sưởi, bây giờ là một đô thị đang cháy, tro than hừng hực.
Còn Măng tôi, khi quay gót bước ra khỏi phòng học, bà vo viên lá thơ của Ba tôi và quẳng nó vào cái đô thị đang bị hỏa thiêu. Tôi cúi nhìn mẩu giấy, tim tôi bỗng đổ hồi. Trên tờ thư nhăn nhúm đang vặn mình dưới sức nóng, đôi ba chữ từ thủ bút của ba tôi hiện ra rành mạch, trở thành đậm hơn đậm hơn nữa trong một luồng khói đen. Dường như có chữ hình bóng... dường như có chữ chiến tranh... Nhưng tôi không kịp vỡ nghĩa những chữ ấy, một ngọn lửa sáng chói hung bạo phật lên thiêu hủy tờ giấy đang quằn quại, biến nó thành một mảng than đen mỏng manh sẵn sàng tan vỡ thành tro bụi...
Andrew Q. Lâm
Mai Kim Ngọc chuyển ngữ
English original "Dark Wood and Shadows" copyrighted by Andrew Q. Lam.
Vietnamese translation copyrighted by Mai Kim Ngọc.