vhnt, số 43
3 September 1995
Trong số này:
+ thư tín / vhnt
+ tin tức văn nghệ
+ post 1 - thơ, Ấn Tượng Huế, Nguyễn Trọng Tạo
+ post 2 - thơ, Loài Hoa Ươm Mộng, K Vuong
+ post 3 - thơ Văn Cao: Mùa Thu; Quy Nhơn 3
+ post 4 - phê bình văn học, Văn Cao thơ, Thanh Thảo
+ post 5 - biên khảo, Kiều in a "Net" Shell, Dương Hùng
thân chào các bạn,
Chắc chắn có bạn có ý nghĩ rằng những bài viết đăng trên internet forums, dù giá trị hay không, cũng chỉ thoáng qua trên màn ảnh người đọc trong giây lát, rồi cũng sẽ đi vào hư vô, chỉ tổ uổng công trình nặn tim óc ra để sáng tác. Nhưng xin bạn đừng nghĩ như thế, vì nhóm vhnt của chúng ta đang cố gắng gom góp mọi bài viết có giá trị nghệ thuật văn học để đưa đến tận tay những người cùng yêu chuộng nghệ thuật, với lòng yêu quí và chăm sóc kỹ lưỡng. Ngoài việc góp bài và gửi ra cho members, vhnt còn giữ mọi bài vở trong archives, như một tài liệu cho mọi người tìm đọc lại bài cũ hay khảo cứu. vhnt archives hiện trong ftp site saomai.org, /pub/vhnt.
Cũng xin được thông báo, anh Diem Van Nguyen, một bạn đọc mới tham gia vhnt có... 3 ngày, nhưng anh đã đóng góp bài và đã giúp setup một Homepage thử nghiệm cho vhnt. Xin cám ơn anh Diem Nguyen. Bạn đọc có thể ghé thăm homepage này tại: http://saomai.org/~dvnguyen/vhnt/Thu_Muc.html
Ngoài ra vhnt cũng xin cám ơn anh Thai Van Vu đã giúp soạn dùm thư mục tháng tám vừa rồi.
thân ái,
vhnt
Tin Văn Nghệ
Nhà Ðại Sứ Mới Của Thi Ca Hoa Kỳ - Robert Hass, một nhà thơ cư ngụ tại San Francisco, vừa được phong chức thi sĩ quốc gia (Poet Laureate). Robert Hass hiện là giáo sư Anh ngữ tại đại học Berkeley California. Ông được thư viện quốc hội Hoa Kỳ chọn lựa để phong tặng làm thi sĩ quốc gia nhiệm kỳ năm tới, thay thế cho nữ thi sĩ Rita Dove, là thi sĩ trẻ nhất và là người da đen đầu tiên.
Hass, 54 tuổi, sinh trưởng tại San Francisco, tốt nghiệp tiến sĩ văn chương tại Stanford, đã từng đoạt giải "Những Nhà Thơ Trẻ" của đại học Yale năm 73, ông cũng được trao tặng MacArthur Fellowship và giải National Book Critics Circle năm 84. Nhiệm vụ của poet laureate như là một sứ giả của thi ca trong nhiệm kỳ 1 năm, lương bổng $35,000 và một văn phòng khang trang trong tòa nhà Jefferson ở Washington DC. Thi sĩ sẽ tìm mọi cách để làm thơ nổi đình đám trong sinh hoạt văn học, như thuyết trình, diễn đọc, hội luận, vận động thúc đẩy việc đọc thơ trước công chúng mạnh hơn.
Ấn Tượng Huế
Lăng tẩm chùa chiền lẩn khuất dưới bóng thông
khói sương cổ tích
bất chợt hoa
áo dài thiếu nữ
bất chợt lá
chiếc hôn thiên nhiên tươi non
trăng lạnh thượng nguồn tuôn bạc
đèn giăng cuối bến tụ vàng
mãi bí mật những vườn trong phố
rụng trái đào tiên xuống đất trần
những ngả đường sinh viên
những ngả đường xe lam gồng gánh
hoa trâm vàng dắt ai về chốn xưa
thánh thiện thi ca
dân dã tôm chua cơm hến
người tranh luận
người dựng xây
người vẽ tranh tĩnh vật
sông Hương thăng bằng thành thị với thôn quê
sao cứ nhớ một dáng bò gặm cỏ
trong bài thơ người bạn đã quan trường
sao cứ ước một người yêu ở đó
để suốt đời quê ngoại cũng quê hương ...
Nguyễn Trọng Tạo
Loài Hoa Ươm Mộng
Loài hoa dại chưa một lần hé nở
Sợ nắng hồng thêu cháy dáng mỏng manh
Sợ bướm vàng bướm trắng lượn chung quanh
Và rất sợ - sợ nhiều vì nhân thế!
Hoài e ấp trong những chiều bóng xế
Thu gọn mình trong cô tịch quạnh hiu
Gió reo vui như trao gởi tình yêu
Thật âu yếm, ru tình bao bỡ ngỡ
Những mộng mơ chôn vùi từ muôn thuở
Chợt hiện về như lá đỗ chiều thu
Gieo vấn vương trong giấc ngủ mộng du
Hồn lạc loài trong cơn mê say đắm
Khẽ vang lên những lời yêu nồng thắm
Của nhân loại trao tặng nụ hoa tươi
Sao ngất ngây trong âm điệu của người
Ðang ươm mộng, miên man sầu vời vợi
Và như thế, mỗi chiều vẫn chờ đợi
Nỗi u hoài che phủ ảo mộng mơ
Chút bâng quơ mộc mạc thật đơn sơ
Hoàng hôn về - nhuộm tím mộng tình thơ!
June '95
DKV
Mùa Thu
Gió cứ như không
trôi qua cửa sổ
một mảnh trời xám
Xuống dần
xuống dần
Có tà áo trắng
loang qua khung cửa
mùa thu phai đi
màu hoàng lan
nghe ai nhắc
người mong tin gặp
nắng chuyển dần
trên thềm đá cũ
mùa thu năm nay
không mưa ngâu
trung thu 1992
Quy Nhơn 3
Từ trời xanh
rơi
vài giọt tháp Chàm
quanh Quy Nhơn
tôi như đứa nhỏ yêu huyền thoại
từ núi xuống
từ biển vào
từ cánh đồng mọc lên
con trai
con gái
Nghĩa Bình
một lưỡi mác
vẳng tiếng trống Quang Trung
xác xe tăng bên đường mười chín
mọc những làng dừa
mẹ ơi muối đâu Sa Huỳnh
phải mồ hôi làm nước biển
mẹ ơi đường ngọt từ đâu
phải mồ hôi đọng
mẹ ơi các con từ đâu
phải từ sữa mẹ
mẹ ơi Quy Nhơn từ đâu
mảnh trời chim yến
mẹ ơi Nghĩa Bình từ đâu
phải từ máu thắm
không
đất này mọc lên
từ
nước mắt!...
15.4.1985
Văn Cao
Văn Cao: Thơ
Bởi vì trong một Văn Cao có quá nhiều Văn Cao: Văn Cao nhạc, Văn Cao họa, Văn Cao hiệp sĩ, Văn Cao quốc ca, Văn Cao rượu đế... Một Văn Cao đa tài, đa nguyên, đa nạn... Một Văn Cao lặng lẽ như chén rượu mỗi sớm, lặng lẽ như những giòng chữ lít nhít trong sổ tay, lặng lẽ như thơ. Với Văn Cao, thơ là cái lặng lẽ của con hổ:
Có lúc
ban ngày nghe lá rụng sao hoảng hốt
Ngay con hổ cũng có lúc giật mình vì một tiếng lá rụng. Thơ là "nước mắt không thể chảy ra ngoài được". Thơ là con dao găm "Tôi ném vào khoảng trống", nhưng người bị thương lại chính là tôi. Thơ là mạng nhện "cuốn lấy tôi, không cách gì gỡ được". Và nhà thơ chính là kẻ cắp, hắn ăn cắp cái hư vô mà người ta lại tưởng hắn xoáy ví tiền, hắn lần mồ tới cái tuyệt đối thì người ta ngỡ hắn đục tường khoét vách, bèn hò bắt:
tôi chạy bạt mạng gần hết đời
tới chỗ chỉ còn gục xuống
(Ba biến khúc ở tuổi 65)
Ðọc Văn Cao, thấy hiện mồn một cái thân phận của thơ, nó trái ngang, nó tủi cực, nó bật dậy như một cột ánh sáng, nó nghiến răng sung sướng:
Em ở đây với anh
cho bớt lạnh mùa xuân náo níu
thịt da em cho anh sưởi...
...
chúng ta đi vào bí mật của mùa xuân
(Năm buổi sáng không có trong sự thật)
Ði vào bí mật của sáng tạo là đi vào con đường hầm với biết bao lối rẽ, mà có thể, cửa thoát là một hồ nước "trên họng một ngọn núi cạn lửa". Văn Cao - "con rái cá Bến Bính" không sợ những đường hầm tối tăm của sáng tạo, vì nó, có khi ông từ chối những cửa thoát hiểm, từ chối lời mời gọi của những người bạn có thân hình "dẹt như con dao". Cái nhìn của Văn Cao trong thơ, nhiều lúc, là một cái nhìn của một họa sĩ, nó bắt được cái thần của đối tượng chỉ qua vài nét phác. Sự giản lược tối đa, những khoảng trống, những dấu lặng, tự làm khô lại như một củ huệ lan chờ lúc bật mầm, thơ Văn Cao gợi nhớ đến thơ của những người chỉ có một không gian hẹp trong đời sống, những người phải dè sẻn lương thực, những cây xanh phải tận dụng đến từng chiếc lá của mình để phát điện.
Từ trời xanh
rơi
vài giọt tháp Chàm
Vài giọt thôi nhưng sẽ sống lâu đấy!
Những con bói cá
Ðậu trên những giây buồm
Ðang đo mực nước
Những con bạch tuộc
Bao tay chân cố dìm một con người
(Những người trên cửa biển)
Những con bói cá hay bạch tuộc ấy cũng chẳng sống được lâu đâu
chỗ nào cũng có tiếng
chưa nói lên
(Anh có nghe thấy không)
Những tiên báo trong thơ Văn Cao thường mang tính xã hội, nghĩa là con người xã hội trong ông, người công dân trong ông vẫn rất mạnh. Ăng-ten của ông thường là ăng-ten định vị nó có thể hiện cái nhiệt tâm và khí chất của ông. Chất hiệp sĩ còn rất đậm ở Văn Caọ Nhưng Lý Bạch cũng từng là một hiệp sĩ, và nhiều nhà thơ Haiku Nhật Bản là những kiếm sĩ những Samurai. Ta có thể gọi đó là tính chiến đấu của thơ chăng? Nhưng thơ chiến đấu với ai? Cuối cùng, thơ chiến đấu với chính nó. Thơ là "chiếc lá cháy lặng lẽ" chứ không phải là những "bó hoa mang tới chúc tụng" là viên sỏi "rơi trong lòng giếng cạn", là những giọt mực cạn dần. Thơ là hột giống, "một nắm hột khuya rắc vào Bến Lạ" như Ðặng Ðình Hưng đã viết. Khi nhắc các hột giống, chính Jê-su đã biết đến sức mạnh của thơ. Bây giờ, Văn Cao ngồi lặng lẽ, nhỏ xíu trên giường: ông là một hột giống. Một hột giống thỉnh thoảng nảy ra thơ. Nói nhiều là nói lảm nhảm, không nói là lẩm nhẩm, uống cái gì rồi cũng thấy được, cũng hay hay, trong mỗi chén đắng ngẫm nghĩ có vị ngọt, còng trong mỗi cốc nước đường hóa học thì ngọt trước đắng sau, đắng lộn mửa.
Nắng chuyển dần
trên thềm đá cũ
Mùa thu năm nay
không mưa ngâu
Thanh Thảo
Mùa thu 1992
Bài luận nhỏ về Kiều viết theo lời yêu cầu cuả ANL. Khi tôi ghi lại bài Quốc Ngữ trên SCV, ANL gởi cho tôi một thư điện bầy tỏ sự thúc dục nội tại trở về nguồn. ANL hỏi tôi tài liệu về Kiều, tôi không có nên viết bài này. Năm rồi ANL học xong đại học, tôi mong khi nào gặp mặt, ANL giỏi tiếng Việt hơn nữa.
Bài này viết rất sơ đẳng theo dạng tóm tắt quản trị (executive summary) cho hợp với một lần ghi lên "Net".
TRUYỆN KIỀU IN A "NET" SHELL
Kim Vân Kiều was a long poem of 3254 verses (1) written in chữ nôm. Nguyễn Du (1765-1820) narrrated in Lục Bát (6X8) (2) form the fifteen years of midfortunes of Thuý KIỀU, her lover Kim Trọng, and her sister Thúy Vân. Nguyễn Du composed Truyện Kiều (the popular name of the poem) using the old theme of the chinese novel Kim Van Kieu Truyen by Thanh Tâm Tài Nhân (end of 16th or early 17th century):
Cảo thơm lần giở trước đèn,
"Phong tình cổ lục" còn truyền sử xanh,
Rằng năm Gia-Tĩnh triều Minh,
Bốn phương phẳng lặng, hai kinh vững vàng.
Tentative English translation:
By the lamp, I opened the scented manuscript(3)
"Collection of Old Novels" recorded in history; (4)
Under the Reign of King Gia Tĩnh, Ming dynasty
Peace was all over the land, and both capitals secured (5)
Nguyen Du was born in Tiên Ðiền township, Nghi Xuân District, Hà Tĩnh Province; he also used the pen name Tố Như. Nguyen Du served as an official under Hậu Lê Dynasty; when Nguyễn Huệ founded the Tây Sơn Dynasty, Nguyễn Du declined the invitation to serve the new King. In 1802, when King Gia Long unified the country, Nguyen Du reluctantly joined the Royal Court. In 1813, he led a diplomatic mission to China; in 1820, King Minh Mang appointed him special envoy to China but Nguyen Du died before the departure of the mission. Through Thúy Kiều, Nguyễn Du projected his anguishes and the ethical dilemna of serving two dynasties. He originally named his epic Ðoạn Trường Tân Thanh (The New Heart Breaking Version).
Thuy Kieu, an young woman born to a family of literati, was exceedingly beautiful and talented. She was intelligent, well educated and gifted in music and poetrỵ One day, the local mandarin put Kieu's father - falsely accused by a merchant- in jail; bribery was the only way to get her father out of prison. All the family belongings had been seized by the local authorities, Kieu had to sell herself to Mã Giám Sinh for 300 gold bars and used the money to buy acquittance for her father. Kieu had a secret love with Kim Trong, a young scholar and vowed to marry him. Before being led away, Kieu asked her younger sister to marry Kim Trong in her stead.
Mã Giám Sinh turned out to be a pimp for a brothel owner Tú Bà. In the next fifteen years, Kieu led the life of a prostitute and endured endless shame, hardship and betrayal. Kieu also met quite a few benefactors who saved her life more than once. At one time, Kieu was purchased by Thúc Sinh to be his concubine, but Hoạn Thư -Thuc Sinh first wife - abused and tortured Kieu back to prostitute life. Once again, a rebel leader Từ Hải rescued Kieu from the brothel and married her. For five years, Kieu had a decent life with Tu Hai, she repaid her benefactors and got even with the villains who had destroyed her life. Kieu urged Tu Hai to surrender to the Chinese Emperor, but Tu Hai was assassinated by the imperial envoy during the negotiation. Kieu drowned herself in a river but was rescued by a Buddhist nun Giac Duyen. Kieu stayed in the pagoda with Giac Duyen before reuniting with her family and Kim Trong. In the fifteen years of misery and shame, Kieu maintained the loyalty to her family and to Kim Trong; at the reunion Kieu wanted her love to Kim Trong to remain platonic to preserve what left of her honor.
Truyen Kieu fascinates generations of VNmese with the moral issues that Kieu and other characters in the epic had to face in a corrupted and despotic society. Through Kieu's misfortunes, Nguyen Du narrated the cruel events of history that prevented him to restore the Hau Le dynasty. He wanted to drown himself as Kieu had tried, he also dreamed of revolting against social and political injustice like Tu Hai did:
Triều đình riêng một góc trời
Gồm hai văn, võ, rạch đôi sơn hà,
Ðòi cơn gió quét mưa sa,
Huyện thành đạp đổ năm toà cõi nam,
Phong Trần mài một lưỡi gươm,
Những phường giá aó túi cơm xá gì,
Nghênh ngang một cõi biên thuỳ,
Thiếu gì cô quả, thiếu gì bá vương!
Tentative English translation:
His own court set up in this corner of heaven,
With his military officers and administrators, he ruled half of the Empire,
Sweeping like hurricane, drowning like monsoon,
He brought down five city-forts in the South,
In wind and dust, he honed his sword
And trampled the adversaries, only worth as racks for coat or bags for rice.
Ruled at will as King in this remote part of the Empire,
He named his own barons and dukes.
In a war torn society, the Confucian code of conduct was ignored, the social order was disrupted and the villain characters such as the local mandarins, Ma Giam Sinh, So Khanh, Tu Ba were everywhere. With the collapse of the rigid and dogmatic principles of Confucius, the society took refuge in the cause and effect principle (luật nhân quả) of Buddhism. The Buddhist concept of resignation and submission to fate was also dominant in the poem:
Ngẫm hay muôn sự tại trời,
Trời kia đã bắt làm người có thân.
Bắt phong trần, phải phong trần,
Cho thanh cao mới đươc phần thanh cao.
Có đâu thiên vị người nào,
Chừ Tài chữ Mệnh dồi dào cả hai,
Có tài mà cậy chi tài,
Chữ Tài liền với chữ Tai một vần.
Ðã mang lấy Nghiệp vào thân,
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa,
Thiện căn ở tại lòng ta,
Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài.
Tentative English translation:
God disposes all things,
When God creates human, each of us has his own place.
Destined for the life of wind and dust, then hard life he has,
An easy life at God wish, then in high places he lives.
God is impartial,
Talented people will have fateful life,
Bestowed with talent, one should not be arrogant,
Tài (talent) and Tai (misfortune) have the same rhyme.
One enters life with his own Karma,
Then do not decry God is too far away,
The root of Goodness is within ourselves,
Good Heart (Tâm) is worth many times Talent (Tài) .
Using the plot of an unknown Chinese prose novel (6 ), Nguyen Du rewrote in Chu nom verses. It was an excellent front end to express his sentiments, aspirations, and the social conditions of the people in his time. More than one intellectual had his head chopped doing much less than Nguyen Du did. Nguyen Du used the VNmsese poetic form of Luc Bat and refined wording to compose this unrivaled masterpiece. Truyen Kieu is more a poem than just a tale. The verses flows naturally, the expressions are close to folklore than accademic, the words are refined but simple. Every words were selected for its meaning, its symbolic image, as well as its musical contribution to the verses. The recital of Kieu (ngâm Kieu) has been elevated to a high level of popular artistic form, even among the illiterates.
Truyen Kieu fascinates VNmese of all walks of life, from the King to a farmer, from the marxist-leninist to the conservative nationalist; almost everyone can find his own "cause célèbre" in Truyen Kieu. That is the charm but also the curse of Truyen Kieu; some critics love Truyen Kieu -in general- as intense as they hate some aspects of it.
But when the full moon rises over the bamboo trees in a peaceful evening, someone in the village starts to chant Truyen Kieu, we all listen with our soul and all comprehend with the same VNmese Heart./.
Dương Hùng
082795
(1) This number bases on the version edited by Bùi Kỷ and Trần Trọng Kim; it is slightly different from some other versions.
(2) The lục bát is a VNmese poetic form.
(3) Cảo thơm --> cảo: manuscript; thơm : scented (chữ nho is phong thảo) = scented manuscript or famous manuscript
(4) sử xanh --> thanh sử in chữ nho means history written on bamboo slabs
(5) bốn phương; four points of the compass;
Ming Emperor Shih-stung (1521-1566) called his reign Chia Ching. When the Ming dynasty was founded the capital was in Nanking or Chiang Ning (1368); when the Mongols were completely expelled from the Han territory, the Ming dynasty moved the capital back to Beijing in 1309; as a precaution, the Ming emperors kept Nan King as a "back up" capital, just in case.
(6) Chin Yun Ch'iao Chuan ( Kim Van Kieu Truyen) was written by Thanh Tam Tai Nhan. Kin Ch'eng T'an (Kim Thánh Thán) author of Shui Hu (Thủy Hử) and Hsi-hsiang chi (Tây Sương Ký) commented on TTTN prose novel in one of his writings in 17th century.
COMPARATIVE VNMESE & CHINESE GLOSSARY:
Kim Vân Kiều Chin Yun Ch'iao
Thanh Tâm Tài Nhân Ch'ing hsin Ts'ai-jen
Hồ tôn Hiến Hu Tsung-shien
Từ Hải Hsu Hai
Thanh Minh Ch'ing Ming
Kim Thánh Thán Kin Ch'eng T'an
FURTHER READING:
Nguyễn Du, Truyện Thúy Kiều, Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim hiệu Khảo, 1925
Nguyễn Du, Truyện Kiều Chú Giải, Vân Hạc, Zeileks, 1991
Ðào duy Anh, Từ Ðiển Truyện Kiều, 1971
Durand, Maurice and Nguyễn Trần Huân, An Introduction to VNmese Litterature, Columbia University Press, New York, 1985
Huỳnh Sanh Thông, The Tale of Kiều, Random House, New York, 1973