vhnt, số 104
13 November 1995
Trong số này:
+ thư vhnt
+ 1 - thơ, Thơ Herman Melville.......................Phan Lê Dũng dịch
+ 2 - thơ, Cách Xa................................Tường Vi/Vivian Nguyen
+ 3 - thơ, Chùm Thơ Viết Ở Hoa Kỳ...........Nguyễn Duy/Dung Nguyen
+ 4 - thơ, Biển 1.....................................Ðặng Khánh Vân
+ 5 - thơ, Men Tình............................................Tony Nguyen
+ 6 - thơ, Ðêm Nay.............................................Tien Doan
+ 7 - truyện ngắn, Mảnh Vỡ..............................Phạm Thị Ngọc/PCL
+ 8 - truyện ngắn, Con đường Alcan.....................Dương Hùng
Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên...
Trương Kế
Trương Kế ngày xưa ngồi xuồng, nghe quạ kêu, ngắm trăng xế, và cảm hứng làm thơ. Ngày nay thi sĩ không chắc có được một không gian gợi cảm như thế để cảm tác. Nhà thơ có thể đang mắc kẹt trong dòng lưu thông của giờ tan sở, có thể đang nghĩ về một điều gì đó khi đang ngồi trước tay lái, trong lòng xe chật chội, giữa cái nóng bức và ồn ào của một ngày thành phố. Làm thơ, trong khung cảnh như thế, hoặc thi sĩ dụng óc tưởng tượng thật phong phú thả hồn đến một nơi nào đó, một bờ biển vắng có sóng vỗ, một cánh rừng phong lá bay tơi tả, hay một góc vắng trong quán cafe đèn mờ ảo có tiếng mưa tí tách... một nơi nào đó không phải nơi này. Hoặc thi sĩ có thể "hiện thực" hơn, nói về cái "mình" hơn, thì hãy nói về bụi đường, ô nhiễm thành phố, cái điên của đời sống náo nhiệt, và những nỗi buồn lúc này. Một anh chàng không nhà đứng phơi nắng tay cầm tấm biển "need job", hay một cô mặt thiểu não rao bán những bó hoa nghèo nàn nơi góc đường, một anh ăn mặc chải chuốt ngồi Limo đang cầm celular phone, những building chọc trời phản ánh nắng chói chan... tất cả những hình ảnh đó cũng có thể là đề tài cho thi sĩ làm thơ được chứ? Thơ hiện thực, thơ gần với đời sống, với con người. Thơ như hơi thở, thơ rất "chán", nhưng thơ phản ánh nỗi lòng thi sĩ một cách trung thực trong một không gian hiện thực.
Thơ ra đời trong khung cảnh rất "chán" ấy với những đề tài không "nên thơ" một tí nào, có được gọi là thơ không? Hay thơ chỉ có mây, có trăng, có gió, có lá vàng, có mùa thu, có tình yêu tan vỡ, có nhung nhớ mơ mộng, có diễm ảo mông lung? Tôi nghi ngờ tôi chẳng hiểu lắm về thơ.
Chúc bạn một ngày vui.
thân ái,
PCL/vhnt
Greek Architecture
Not magnitude, not lavishness
But Form - the Site.
Not innovating wilfulness.
But reverence for the Archetype.
Herman Melville
1891
Kiến Trúc Hy Lạp
Không đồ sộ, chẳng kiêu kỳ
Vẫn hòa hợp dựng thành - Nền tảng.
Chẳng phải từ khát vọng sáng tạo thoát thai
Mà phản ảnh lòng thành cùng Nguyên Thể.
Phan Lê Dũng
Cách Xa
Ngày anh vào đại học
Em còn bé tí hon
Theo mẹ vòi vĩnh khóc
Lòng chưa biết dỗi hờn
Năm em lên mười sáu
Anh đã bước qua cầu
Em còn mơ yêu dấu
Anh đã nhuốm tình sầu
Ngày em đậu đại học
Anh là người di cư
Hai đời hai thế hệ
Sao gặp nhau tình cờ
Như ngày xưa yêu dấu
Em vẫn hay làm thơ
Như khi anh mười sáu
Anh vẫn hay mong chờ
Một nửa vòng trái đất
Anh và em thật xa
Như đôi vầng nhật nguyệt
Dù chung giải ngân hà...
Tường Vi
CHÙM THƠ VIẾT Ở HOA KỲ
Lục Bát Texas
Nhong nhong ngựa ông lên trời
đánh đu mấy gã cao bồi chăn mây
Vợ trời trắng nõn múa may
cúi trông miền hạ thương bầy bò hoang
Houston, 16-6-1995
Lục Bát Boston
Bia lon thỗn thện người lon
ễnh ềnh ệch hỏn hòn hon thùi lùi
Trắng vàng đen láng coóng đùi
ngo ngoe ngứa nỗi buồn vui không màu
Boston, 21-6-1995
Lục Bát New York
Người xe như suối tuôn xè
nhà khe như núi đá khe tầng tầng
Vỉa hè viễn xứ chồn chân
leo lên, vỗ vỗ tuợng thần Tự Do
New York, 7-7-1995
Lục Bát Washington
Mãi lêu lổng bỗng nhiên rằm
một ta chơi một tròn trăng xứ người
Gió chi chợt lạnh toát trời
chợt khành khạch khóc chợt cười hu hu
Washington, 12-7-1995
(rằm tháng sáu năm Ất Hợi)
Mirage
1.
Thiên đường không em gió toác hoác động tiên hoang mạc
canh bạc đen ngòm chôn sống trí siêu khôn
Thời vận đen càng thử càng đen thêm
ảo ảnh đỏ lòm hào quang mê muội
Mềm mại mánh mung mưu mẹo mập mờ
quân bài bịp tàng hình nuôi dưỡng mơ mộng
Loe loét đèn màu không nhuộm thắm số phận
con thiêu thân hư vô dạy dỗ cả loài người
Ta tuyệt vọng ván tù mù hi vọng
chợt khát mưa em như chưa khát bao giờ
2.
Ta thử dướn mình bay sục tìm Thượng đế
cánh tay phàm nhân giả bộ cánh thiên thần
Ðếch tiên nga đâu đếch Thượng đế đâu
quỉ đầu trâu xâu xé nhau mặt ngựa ngai vàng
Tự vắt xác ứa giọt mưa nước mắt
cấp cứu linh hồn đang hoá khói khô quăn
Ta hú gọi ta khản giọng tù và
sấp ngửa thu tâm rút khỏi cõi thánh thần đú đởn
Bái lạy đỏ đen chào thua thiên đường dỏm
xin tụt về trần thế với em thôi.
Mirage Hotel, Las Vegas, 15-6-1995
Vơ Vẩn
Trong anh-có một lão già lẩn thẩn
có một đứa con nít nữa em ạ
Em là mẹ của đứa con nít đó
em là linh hồn của lão ngu này
Có khoảnh khắc nào em dành nhớ anh không
kẽ hở nhỏ giữa cuộc bận cuộc mệt
Một Ðại Tây Dương Buồn mờ sóng mịt mùng gió
một ngẩn ngơ ngồi nhớ hồn mình
Một bóng gù câm trơ dá tảng đen thui
một con nít trong đá oe oé đòi mẹ nô
Plymouth-Boston, tháng 7-1995
Nguyễn Duy
Dung Nguyen sưu tầm
Biển 1
Có những lúc biển hiền hòa tươi mát
Biển thật xanh như mắt của người thương
Sóng nhẹ nhàng, ru ngũ điệu vấn vương
Biển thật ngọt như làn môi say đắm...
Biển thì thầm những lời thơ nồng thắm
Những chuyện tình, cổ tích, những bài thơ
Những nàng tiên, hoàng tử đẹp như mơ
Biển âu yếm ru tình vào cơn mộng!
Có những lúc biển âm thầm gió lộng
Biển bao la kỳ bí đến lạ lùng
Trong đêm tối ngàn sao chiếu mông lung
Biển lặng chìm trong ánh trăng bàng bạc...
Rải muôn ngàn tơ sáng màu khẽ nhạt
Biển lung linh, những tia sáng bạc đầu
Vỗ xa xa, sóng mải miết ở đâu?
Hay sóng mãi, tự tình cùng gió biển!!
Biển lạc loài mãi lời đưa tiễn
Biển dệt hoài, những huyền thoại yêu đương
Của tiên cá, khao khát những tình thương
Và dụ hoặc, những chàng trai... khờ khạo
Mây Trắng
Men Tình
Em đến thật tình cờ
Nhẹ nhàng như giấc mơ
Môi em mềm, ngọt lịm
Men tình say ý thơ
Yêu em ta dại khờ
Yêu em ta làm thơ
Yêu em ta đợi chờ
Yêu nhau tình đơn sơ
Em đến như mùa xuân
Xua tan đông gía lạnh
Em sưởi ấm lòng anh
Bằng nụ hôn nồng cháy
Em đến như nắng hạ
Tô hồng những áng mây
Tình yêu em đong đầy
Cho hồn thêm ngây ngất
Những chiều tay đan tay
Mình dìu nhau đi khắp
Ðời tựa như làn mây
Nhẹ nhàng trôi đi mãi
Tony Nguyễn
Đêm Nay
Ðêm nay ra đứng nhìn trời
Thấy sao lấp-lánh nhớ đôi mắt nàng
Lạnh-lùng gió buổi đông sang
Áo nào ấm được hồn băng giá này
Nhớ mãi đêm nào bên biển vắng
Tay cầm tay hạnh-phúc đơn-sơ
Môi tìm môi vịngọt tình khờ
Em khẽ nói "Yêu anh rồi đó"
Tối hôm ấy, cũng sao trời lấp-lánh
Gió biển đêm làm lạnh giá tay mềm
Dựa vào lòng, nghe hơi ấm tình lên
Em khẽ nói "Anh ôm em mãi nhé"
Vũ-trụ dường như chỉ có đôi ta
Có mắt môi, có mái tóc lụa là
Trong sóng ngàn, pha lẫn khúc tình ca
Em thì-thầm "Ru em ngủ anh nha"
Ðêm nay không biển, không nàng
Chỉ có gió lạnh, có chàng ngẩn-ngơ
NTP
08Nov95
Mảnh Vỡ
Vượng hoàn tất công việc dọn ra vào sáng sớm Chủ Nhật, kết thúc tuần lễ thứ sáu mươi ba chung sống với tôi. Dậy sớm vào sáng Chủ Nhật thường là khó, nhưng suốt đêm nằm bên nhau chúng tôi đã không ngủ, dù chẳng ai bảo ai điều này. Chờn vờn trong cơn nửa tỉnh nửa mê cho đến gần sáng thì Vượng nhấc người, xoa tay trên sống lưng tôi nằm xoay. Tôi thức, nhưng nằm yên, nghe cử chỉ lưu luyến của Vượng lan trên da thịt. Rồi tôi cũng dậy, gíup Vượng thu dọn những gì của anh còn lại để đem đi lúc sau cùng. Tôi đi theo anh vòng quanh nhà thu nhặt những gì thuộc về anh, như trước đây tôi đã theo anh vòng quanh nhà khi anh đem những thứ đó vào đây. Khi cầm đến quyển album mỏng, tôi nói anh đem hết hình ảnh đi đi, em không muốn giữ. Hôm trước, tôi bảo đùa với Vượng, anh lựa tấm nào thích thì giữ, còn lại em sẽ đốt hết.
Hình như trục trặc là từ khi chúng tôi không nhận ra lúc nào là đùa, lúc nào là thật. Rồi đến lúc cả hai không chịu nổi cái đùa cái thật của nhau.
Lúc tôi nói đùa về quyển hình ảnh, Vượng nhìn tôi làm tôi suýt nói thêm rằng anh đừng nhìn em ngạc nhiên như thế. Nhưng sáng Chủ Nhật thì tôi đã nói thật, nói khẩn khoản - anh đem hết hình ảnh đi đi, làm gì cũng được, em không muốn giữ.
Tôi tiễn Vượng ra xe, và ở đó đã nhận từ anh nụ hôn chót. Tôi đứng và nhìn theo chỉ vừa đủ đến lúc Vượng quay đầu xe lại được để có thể lái thẳng. Nhưng khi tôi trở về, đứng trước cửa gỗ đóng im, tôi biết tôi đang đứng trước một thách đố. Vượng không còn ở đây nữa, mà tôi thì lại quá quen với sự sống của anh trong đó. Tại sao tôi không nghĩ trước đến chuyện dọn đi một nơi khác.
Không còn những đôi giầy của Vượng ngổn ngang ở chỗ cửa ra vào. Giầy của anh nhiều và to gấp đôi giầy tôi, đủ loại cũ mới tôi đã đếm và đã quen với vị trí của chúng để những khi về mà không có Vượng ở nhà, tìm đôi nào thiếu tôi có thể đoán được Vượng hôm ấy đi đâu, làm gì với ai. Vượng đi nhiều loại giầy quá, tôi nhận ra được điều này khi anh trở lại với tôi lần thứ hai, chẳng hiểu nó phát sinh từ lúc nào. Tôi vào buồng tắm, mở cửa sổ cho thoáng, cho thoát đi mùi nồng quen thuộc của Vượng. Khi đứng trước gương để lau chùi những vết bọt kem đánh răng, bọt kem cạo râu đã bắn lên đó, tôi không hiểu tại sao tôi đã không nghĩ trước về việc dọn đi một nơi khác.
Thật ra, tôi có nghĩ đến việc dọn đi, nếu có ngày nào chúng tôi rã đám. Nhưng tôi có nói với Vượng, em không muốn chạy vòng quanh nữa. Tôi nói với Vượng điều đó khi gặp lại anh, lần thứ haị Vượng bảo anh hiểu. Tôi nói với Vượng, trở lại với nhau lần thứ hai rất dễ, và cũng dễ mất hết những gì đẹp đẽ ta có trước đó nếu lại đường ai nấy đi lần thứ haị Vượng bảo anh hiểu. Ừ, thì anh hiểu.
oOo
Tình cờ gặp lại nhau lần thứ hai, Vượng đã nhìn sững tôi vì đôi mắt đỏ ngầu men rượu. Vượng nhìn sững tôi như nhìn thấy một sự lạ lùng gì đó, và tôi cũng chẳng cần biết anh có thích sự anh thấy. Tôi buông một câu hỏi thừa thãi - anh làm gì ở đây. Vượng vẫn nhìn tôi - cô làm gì ở đây. Tôi hỏi lại một câu khác, không biết là thừa hay gì - vợ chồng cãi nhau hầ Vượng nhìn ra chỗ khác - không, chỉ ly dị thôi.
Tôi ngồi tính thấy đã năm năm từ lần cuối gặp Vượng. Sau năm năm, gặp lại, Vượng chẳng ngần ngại, chẳng né tránh tóm lược gọn ghẽ trong hai chữ về năm năm qua của anh: ly dị. Tính Vượng dễ bộc lộ, không giữ được gì lâu bên trong. Hay có thể anh chỉ dễ bộc lộ với tôi. Ha ha. Tôi cười. Chẳng lẽ lại khóc. Vượng lừ mắt - cô lại muốn kiếm chuyện gì nữa đây.
Trong năm năm, Vượng lấy vợ, rồi ly dị, nhưng tôi thì vẫn chưa chồng để không hả lòng nhìn anh lỡ dở. (Có thể là tôi có hả lòng chút chút, nhưng không tỏ ra điều đó.) Không lâu sau ngày tái ngộ Vượng, tôi từ bỏ chủ nghĩa "untouchable" để nhận Vượng trở về, không lễ nghi, không khao rao. Em giới thiệu anh là gì với mọi người đây, tôi nói ngày Vượng dọn vào. Thì cứ bảo là anh họ, Vượng nói. Không, ý em muốn nói còn cha mẹ kìa. Thì cứ thưa là anh kết nghĩa, Vượng nói. Tôi không lấy đó để cười.
Ðêm kết nghĩa với Vượng, tôi nhiệt tình như tôi đã nhiệt tình với tất cả những chuyện trên đời tôi không chọn mà đã nhận. Nhưng tôi đã chọn Vượng. Ðêm tôi kết nghĩa với Vượng, không ai nồng nhiệt bằng tôi.
Vượng ít tiền, không bằng cấp, không trí thức, không biết làm thơ, không đàn hát, không yêu nước, cũng chẳng đẹp trai. Tôi chọn người đến thế là cùng. Tôi ở với một chàng thiếu nho nhã, bất tài vô tướng ( của lạ ), và cảm thấy tôi đầy đủ. Khi đủ can đảm, điều mà tôi thiếu, tôi tuyên bố niềm hạnh phúc quái đản của tôi với những người cần thiết. Nói với mẹ tôi xong, bà im lặng giây lâu rồi trả lời: con gái lớn rồi lại thừa tiền mà, tôi không lo chị đói, từ giờ trở đi chị không phải về nhà nữa. Nói với con bạn thân nhất xong, nó bảo nó không thích trò khỉ ấy của tôi. Trò khỉ, theo nó dịch từ chữ "monkey business" mà ra.
Cũng được, tôi không đòi hỏi gì ở ai. Tôi không cảm thấy bị xúc phạm, có lẽ sẽ quên chuyện monkey business trong một thời gian ngắn. Tôi cũng đã quen với những im lặng, ngập ngừng trên điện thoại ở người khác, dù là người thân. Nhưng tôi vẫn chờ đợi ngày nào được người hiểu mình. Sự chờ đợi, tùy theo vấn đề, có nhiều mức độ. Tôi chờ ngày được người hiểu mình với mức độ vừa phải. Ðiều tôi hiểu được là sống với Vượng tôi không có ngay cả tham vọng tạo dựng hạnh phúc, hai chữ đó làm tôi cười ha ha, hay lắc đầu quay đi. Tôi cũng không chắc mối liên hệ của chúng tôi đặt trên tình yêu. Tình yêu thường khi rất ích kỷ, thường khi chỉ là sự nhận và trả những nhát chém vào lòng nhau. (Lý thú nhất là khi trả.) Tôi cố tự giải thích, cho tôi, tại sao tôi chọn ở với Vượng, và tôi chỉ có một giải thích xác thực và hợp lý nhất - có thể là chúng tôi thuộc về nhau, trong giai đoạn này?
Tôi nghĩ, sống chung với Vượng để tôi không phải khoe, và để tôi chẳng có gì để khoe. Ở đây, tôi phải giải thích với Vượng, là về Vượng, tôi không muốn khoe những gì người ta không hiểu. Tôi không nghĩ là Vượng hiểu tôi muốn nói gì.
Vượng bảo - anh thấy em còn bệnh hơn xưa. Tôi bật cười, cái gì đã khiến anh nói câu như vậy. Nằm trên giường, hút thuốc, Vượng chỉ có bấy nhiêu so sánh về tôi bây giờ và tôi năm năm về trước. Rồi anh đã quấn lấy tôi bằng vòng tay (trời ơi sao tôi nhớ), Vượng bảo kể anh nghe đi tuổi thơ của em. Tuổi thơ của em, trước giải phóng hay sau giải phóng? Vượng cười, bảo kể từ thời điểm nào đó đã khiến em trở nên bệnh như vầy, em đã mất mát gì. Tôi nghĩ, rồi trả lời không mất mát gì hết, không gặp khủng hoảng gì hết. Nhưng như vậy không đủ để giải thích, để chứng minh cho cái bệnh của tôi sao. Tôi nói với Vượng - em không bệnh, anh mới là bệnh.
Tôi nói với Vượng hãy kể cho tôi nghe chuyện anh trong năm năm qua, chỉ trong năm năm qua thôi, kể những gì anh muốn kể. Ðể làm gì? Ðể biết đâu từ năm năm trước đó, tôi sẽ phát hoạ ra Vượng năm năm tới đây. Vượng cúi hôn tôi. Cách anh hôn hình như phản ảnh cuộc đời. Nụ hôn anh không giống năm năm trước. Nhưng tôi không còn thuộc về năm năm trước nữa.
Trong vòng tay Vượng tôi ngủ, và trong vòng tay Vượng tôi tỉnh giấc nửa đêm giữa cơn mơ. Trong cơn mơ, tôi thấy tôi trẻ thơ rong chơi để rồi chạy hoài chạy mãi không dám về nhà với đôi giầy trắng vấy bùn sợ mẹ tôi buồn. Nỗi buồn lay tôi tỉnh giấc, có hơi thở Vượng đều đặn, hơi ấm của anh bao bọc lấy tôi. Tôi muốn lay Vươ,ng dậy, và nói với anh điều duy nhất - đừng bỏ em. Nhưng tôi chỉ thấy tôi ngắm mặt Vượng, thánh thiện hiền từ khi ngủ. Ðừng bỏ em. Không biết anh có nghe tôi chăng trong giấc ngủ.
Ðến ngày Vượng bảo tôi rằng anh không muốn làm khổ em nữa, tôi ngồi lặng. Anh không muốn làm khổ em nữa, Vượng nói nhưng không hề nhìn vào mắt tôi lúc đó để chẳng thể hiểu được rằng tôi không cần một câu nói thừa như thế, để không thấy tôi chờ Vượng nói đúng câu thần chú là tôi sẽ đổ người xuống trước anh mà nói đừng bỏ em. Nhưng dù gì đi nữa, chính tôi đã tự nguyện đợi chờ, dù tôi đã không biết rõ điều tôi chờ, chính tôi đã chọn để ngã chới với trong bể ngọt đắng nơi Vượng.
"Anh có lý do của anh. Em sẽ không sao đâu." Tôi chỉ có thể nói bấy nhiêu đó khi Vượng lập lại lần thứ ba câu nói thừa kia. Anh không muốn làm khổ em nữa.
Chiều Chủ Nhật hôm Vượng đi, tôi hoàn tất công việc thu dọn những vết tích của anh khi đem chăn gối đi giặt. Sau đó, tôi gọi về nhà.
"Thưa mẹ, con muốn nói chuyện với em gái con."
"Hey, little sis. Hãy kể cho chị nghe chuyện tình yêu của em. Chị thèm được nói chuyện với em, "
"Vượng đi rồi, em ạ"
"Chị có vài đôi bông tai, quá nhiều. Em thích thì chị cho."
"Vượng đi sáng nay, em à."
"Chị cũng không biết nói gì với em bây giờ."
"Rồi chị làm sao, hở? Chị cũng chưa biết làm sao nữa."
"Chị có định về nhà không, hở? Không, chắc không."
"Em cứ thưa lại với Mẹ, nhưng nói là chị chưa về đâu. Chị chưa đói khát gì hết."
Chiều Chủ Nhật ngày Vượng đi, tôi ngã quỵ, nhìn nhận cơn đói khát tình yêu, tình thương, với chính mình. Nhưng tôi nhất định không chạy đi đâu nữa.
Tối trước khi đi ngủ, tôi khẩn khoản khấn xin chỉ một điều - cho tôi ngủ qua giấc đêm, chỉ ngủ yên qua đêm thôi. Bất cứ hậu quả gì của những việc tôi làm, tôi xin chịu hết vào ban ngày. Tôi chỉ xin một điều là được ngủ yên.
Phạm Thị Ngọc
Con Đường Alcan
Chuyển tay lái được chừng mười phút thì anh nhỏ ngủ queo. Từ lúc được lái xe đến nay, con tôi chỉ quen lái xa lộ hoặc đường hai chiều nhẵn phẳng, nay lái đường ghồ ghề, ngoằn ngoèo, trámg sỏi nhỏ nên anh ta bị căng thẳng và mệt. Không có xe đi ngược, không có xe trước, không có xe sau nhiều khi cả 20, 30 dặm, không biết mình ở đâu, đi đến đâu. Tôi ngủ được hơn tiếng đồng hồ cũng thấy khoẻ; ba ngày nay hai bố con thay nhau lái mỗi ngày cũng được 10 đến 12 tiếng.
Xe vút đi một mình một cõi, đường lên xuống như lưng lạc đà, sỏi nhỏ rào rạo dưới sàn xe, bụi mịt mù. Ký ức tôi trở về con đường Kontum đi Dakto, Daksuk; tiềm thức tôi ôn lại những chuyến đi từ Lai Khê lên An Lộc. Xe bỏ lại doạn đường nhựa cuối cùng đã trên trăm dặm phía sau. Nhìn bản đồ hơn 200 dặm trước mặt là đường đá, qua đến gần biên giới Alaska mới có đường nhựa lại.
Bảng hiệu bên đường ghi chữ lớn: "No food, no gas, no lodging in the next 160 miles"; tôi ghé lại trạm xăng đổ đầy bình, và kiểm soát lại dầu, nước, vỏ xe và thức ăn thức uống dự trữ. Chiếc xe trắng đã ngả mầu bụi đất, kính xe phía trước bị một vết nứt nhỏ, hình hạt đỗ. Cách đây gần 10 đặm, một chiếc xe hàng kéo rờ moọc đi ngược lại, khi qua khỏi tôi nghe một tiếng tách nhỏ. Hai bố con nhìn xem kính kỹ mà không thấy gì; khi dừng lại chùi sạch kính mới thấy vết nứt sát mui xe gần cần gạt nước. Con tôi nói nhỏ:
- Kỳ này lên đến Anchorage má lại cằn nhằn!
- Bố con mình đã mua "bras" bọc mũi xe, gắn plastic che đèn trước, lái cẩn thận, chuyện đávăng làm sao ngăn hết được.
Anh ta đi ngó mấy xe cùng đậu lại:
- Nhiều xe cũng bị nứt kính; mấy xe bảng số Canada thì xe nào cũng hai, ba vết. Có xe nứt dài như màng nhện.
- Nhớ về kể má nghe!
Một ông lái Harley Davidson với bảng số California đổ săng xong, giơ tay chào rồi rồ máy đi. Bây giờ đã hai giờ chiều, 72 tiếng đồng hồ kể từ lúc rời Washington, và gần 2,000 dặm từ Vancouver. Trời đến nửa đêm mới tối nên mỗi ngày lái xe đến khi mệt mới nghỉ; hoặc đến thành phố cuối trước khi vào vùng không dân cư. Càng lên Bắc thành phố càng thưa thớt, thường cách nhau 50, 60 dặm; lái quá có thể ở giữa rừng khi trời sập tối.
Ðêm miền cực Bắc không tối đen, lức nào cũng còn chút ánh sáng như ánh trăng non. Mùa hè năm nay kỷ niệm 50 năm hoàn thành con đường Alcan (Alaska-Canada Highway), con đường tiếp tế chiến lược đề phòng Nhật xâm chiếm Alaska trong Thế Chiến Thứ Hai. Nhật chiếm đóng hòn Attu trong nhóm đảo Aluetian hơn một năm quân đội Mỹ mới chiếm lại được.
Trở lại con lộ một mình với núi rừng, mây nước; chiếc xe vượt qua những "motor home" nặng nề châm chạp. Rừng cây thấp đần, một năm hơn sáu tháng tuyết phủ ngập cây làm sao lớn được. Xe chạy lên hướng Bắc, nhưng đầu óc quay về hướng Ðông, về những con lộ VN đầy ổ gà, về 20 năm nội chiến. Thỉnh thoảng có vài bảng lưu thông bên đường lỗ chỗ vết đạn, vết loe to vì đầu đạn mạnh, y hệt như những vết hằn chiến tranh trên những trục lộ thời chinh chiến. Xứ này không chiến tranh, mấy vị đi săn ngứa tay bắn thủng bảng. Theo một phản xạ hầu như đã quên, tôi đảo mắt tìm những cây dừa, cây cau cụt đầu. Con tôi ngả ghế xe nằm ngủ an bình; ngày mới sang vào dịp lễ Ðộc Lập Mỹ, nửa đêm pháo nổ ran, con đang ngủ lăn xuống đất chui vào gầm giường, lúc đó con mới bốn tuổi.
oOo
Qua khúc quanh, thành phố hiện ra trước mặt, một motel, một tiệm thực phẩm và trạm săng, thêm vài căn nhà phiá sau. Motel hết phòng, lái quanh đi tìm "Bed 'n' Breakfast" nhưng không có, lái xe thêm hai dặm nữa đến chỗ cắm trại công cộng tính dựng lều. Chung quanh chỉ thấy motor home đậu, vừa bước ra khỏi xe, muỗi bu lại kín tay, kín mặt, nên hai cha con dội vào xe. Con tôi gọi muỗi miền này là "muỗi Kamikazé ", khi muỗi đậu xuống là cắn ngay, đuổi đi không được, chỉ có cách đập.
Trở lại motel hởi thăm đường; người tiếp viên cởi mở:
- Ông lái tiếp chừng 10 dặm sẽ có chỗ ngủ đêm. Nhớ dừng lại nơi mấy nhà tiền chế, chỗ đó sạch sẽ, và không có rệp (bed bugs). Mấy dẫy nhà đó đem về từ phiá Bắc sau khi ống dẫn dầu xuyên Canada xây xong.
Ăn no bụng ở cafetaria xong, lên xe đi tìm chỗ ngủ. Motel (sic) hình chữ H, phòng ngủ ở hai bên, gạch ngang là phòng tắm và phòng vệ sinh. Trao $50 US cho người quản lý, bà ta đưa cho khăn trải giường, bao gối và mền; khách phải trải giường lấy. Nhà ấm áp, sạch sẽ, nước nóng, nhưng đơn giản như trại lính. Một đêm ngủ yên, khoẻ và không có... rệp. Từ ngày lên đường chưa cắm lều lần nào vì ngày dài lái xe nên cần giấc ngủ bồi dưỡng.
oOo
Chiếc xe dẫn đường (pilot car) vừa hướng dẫn đoàn xe xuống đồi thì xe tôi cũng vừa đến. Phía trước mặt là một bãi đất lẫn đá, xe làm đường nặng chạy tới lui, bụi mù, không nhìn thấy đầu đường phiá bên kia. Ông đi Harley đậu trước xe tôi và đang làm vài động tác dãn gân cốt; ông ta quay lại:
- Năm dặm trước mặt đang được sửa lại; phải mất nửa tiếng nữa xe đẫn đường mới trở về với đoàn xe từ phiá Bắc xuống.
- Qua thành phố vừa rồi không thấy ông đâu cả. Ông ngủ ngon không?
- Ngon gì, giường rệp không!
- Như vậy ông cũng không lấy được phòng ở motel trong thành phố?
Tôi kể cho ông chỗ nghỉ lại đêm qua; ông thở dài:
- Tôi có thấy nhưng nhìn bên ngoài thấy hơi tệ nên tôi lái thêm chừng năm dặm nữa. Chỗ tôi ngủ lại qúa tệ!
Ông ta bước quanh xe tôi:
- Ông bị một vết nứt trên kính, xe không bị sứt sẹo nào khác. Ông bị thủng vỏ xe không?
- Chưa bị; tôi có đem theo hai cái bánh tuyết cột trên mui xe để phòng ngừa. Còn ông saa?
Ông ta đeo một vỏ xe mới chéo ngang lưng như lính thú đeo ruột tượng gạo:
- Tôi thay hai ruột xe rồi nhưng chưa bị hư vỏ. Ông từ Washington lên?
- Tôi đổi lên Anchorage tháng 11 năm ngoái. Hãng chở một chiếc xe lên cùng tháng; nay tôi phải lái chiếc này lên. Tiền chở rẻ hơn tiền tiêu đường, nhưng tôi muốn lái đường Alcan ít nhất là một lần.
- Ông đi đúng lúc; hè này kỷ niêm 50 năm Alcan nên nhiều xe cộ lên xuống. Tôi cũng lái đường Alcan lần đầu. Tôi rời Los Angeles hơn 10 ngày rồi. Mỗi ngày chỉ lái chừng 300, 400 dặm; chỗ nào thích tôi ở lại thêm một, hai ngày.
Bộ đồ da ông ta mặc đã ngả mầu bụi đường; ông ta cởi nón an toàn ra, tóc ngắn. Thấy con tôi ngước nhìn, ông ta cười:
- Tôi có giống Hell Angels không? Tôi là kỹ sư điện tử; tôi cũng chẳng có vết xâm mình nào cả; bây giờ nhiều người lái Harley lắm!
Tôi xen vào:
- Ông đi một mình? Khi qua White Horse tôi thấy cả trăm chiếc Harley đậu tại khách sạn lớn nhất ở đó. Ông có ghé chỗ đó không?
- Mấy "bikers" ở Canada đang nhóm năm nay ở White Horse. Tôi ghé một ngày rồi đi tiếp. "Bikers" miền Ðông Mỹ nhóm họp ở Fairbanks (Alaska) tuần tới; tôi sẽ tham dự buổi nhóm đó. Tôi lái một mình, nhưng trên đường từ LA đến đây đồng hành đi Fairbanks gặp nhiều lắm. Họ thừơng đi hai người và lái Harley cỡ lớn hơn xe tôi nên họ qua mặt lâu rồi.
Tôi nhớ lại từ CEO đến chủ tịch, phó chủ tịch hãng Harley Davidson mỗi năm dành một hay hai tháng để đi dự những buổi nhóm của "bikers". Trong vòng 20 năm qua, Harley đã chuyển cái ấn tượng (image) cuả người đi Harley từ mấy tay giang hồ sang loại xe máy dầu số một của dân "yippie" và dân thượng lưu trẻ - và sồn sồn - ở Mỹ. Không biết có mấy ông chóp bu Harley Davidson ở White Horse không?
Chiếc xe dẫn đường trở lại với đoàn xe từ phía Bắc xuống. Tôi nói với ông đi Harley:
- Nếu ông ghé Anchorage gọi tôi.
- Tôi đã mua vé đi tầu thủy từ Alaska về Seattle rồi, sợ không đủ thì giờ ghé Anchorage.
Lượt về tôi sẽ lái xuống Haines rồi lên tầu với xe Harley. Tôi sẽ lái từ Seattle về LA.
Ông nói đùa:
- Tôi không muốn bị rệp cắn lần nữa.
Lắc lư theo xe dẫn đường, đoàn xe bò len lỏi giữa xe ủi đất, xe bang dất, xe vân tải nặng trên gần năm dặm. Những "motor home" và "trailer" cuả nhân công làm đường đậu lại từng cụm, văn phòng công trường cũng trên trailer. Mùa xây dựng chỉ đến tháng mười khi tuyết đổ là phải xong. Công trường miền Cực Bắc thường hoạt động 15, 16 giờ một ngày. Mặt trời không mệt vì không đi ngủ; chỉ có máy và người cần nghỉ.
Ðoàn xe đã tìm lại mặt lộ; chiếc xe hướng dẫn quay đầu để dẫn đoàn xe từ phía Bắc xuống. Hình ảnh cầu bị mìn xập hay đường bị đắp mô hiện lên trong đầu tôi.
Tiếng ông đi Harley kéo tôi xa hơn về dĩ vãng:
- Chào ông đi mạnh giỏi!
Ông ta nói với tôi BẰNG TIẾNG VIỆT. Thấy tôi ngơ ngác, ông nói tiếp:
- I served two years in 'Nam right after the TET offensive. Bon voyage!
Dương Hùng
Watson Lake, Hè 1992