vhnt, số 17
6 August 1995
Hút Thuốc
Khuya
Một mình
Ðốt một điếu thuốc
Có đốm sáng làm bạn giữa đêm đen
Ngún
Thuốc ngắn dần
Tàn bay theo gió
Khói cũng bay theo gió
Một ít còn sót lại
Vương vào áo
Vương vào lồng ngực
Như những gì còn lại của một cuộc chơi
Belgien 594
Vân Hà
Có Phải
Có Phải:
Ngày chỉ đẹp, nắng về không hấp hối?
Ðêm chỉ tình, trăng sáng mãi còn soi?
Tình có đẹp, khi tình không gian dối?
Cho nhân tình, mơ tưởng chuyện lứa đôi?
Và có phải:
Hoa chỉ đẹp, khi hoa vừa hé nở?
Ðời chỉ vui, khi đời vẫn ước mơ?
Em rất đẹp, khi em cười rạng rỡ?
Cho anh về, vui với bầu trời thơ?
Quách Cường
Calif. 080395
VAN CAO -THE RIVER HAS FLOWED TO THE SEA
News of Van Cao's death has broken hearts throughout the country.
We love and respect the composer not only because he is the author of the immortal national anthem, but also because he has made such outstanding contributions to the people's revolution as a composer, a painter and a poet.
Van Cao was born Nguyen Van Cao into a working-class family on October 15, 1923 in Hai Phong. Before the August Revolution, he was one of the young vanguard intellectuals who were receptive to new ideas from both East and West, and strove to bring civilization, freedom and justice to the nation.
He found success in all his work as a writer, painter, and composer. But for much of his career, he was chiefly known for his pre-war romantic ballads, namely "Thien Thai" (Paradise), "Ben Xuan" (The Spring Dock), and "Truong Chi" (The Ferryman) which left deep in prints in the youth of that time, especially the students.
The musical talent of this man yearning for his country's freedom and independence reached its peak during the ebullient days of the August Revolution. It was the revolutionary spirit that inspired Van Cao’s "Marching Song" (later to become the national anthem), the song that encouraged the masses to seize power from the French and their agent.
The revolution was also the source of inspiration for many other pieces such as "Chien Si Viet Nam" (The Soldier of Viet-Nam), "Bac Son", "Thang Long Hanh Khuc" (The Thang Long March) and many other unforgettable songs.
But Van Cao's music reached its artistic peak during the resistance to the French colonialists. Van Cao joined the people's hard struggle for life against foreign invaders. His music was touched by images from all over the country: the people and the rice paddies, the river, the jungles. His musical pen brought to life the people's cry for freedom. Beautiful ballads like "Lang Toi" (My Village), "Ngay Mua" (The Harvest Time), "Tien Ve Ha Noi" (Heading Towards Hanoi) took Van Cao's music to a new level.
"Truong Ca Song Lo" (The Lo River Saga), composed in 1948, was the hit of this period. It was during this time that Van Cao sough to break free of compositional orthodoxy in order to express the greatness of the country, the heroism of the people and their unbreakable faith in the ultimate victory. Van Cao's music always had sweet, elegant melodies, refined lyrics and images.
These are also qualities of Van Cao the poet and the painter. Unfortunately, Van Cao was unable to receive formal instruction due to the lack of music schools under the French colonial regime. Though in his youth he received some musical instruction in a Catholic monastery, his musical knowledge was mostly the product of self-instruction. If he had been given more formal education, he would have inevitably composed works of larger scales, such as symphonies and musicals, to inspire the people's struggle for national independence.
We belong to a new generation in which many individual composers look to Van Cao's work as the starting point for their musical careers, who consider Van Cao a bright example of revolutionary enthusiasm and artistic dedication. Van Cao's compositions are precious material for budding musicians to exploit and develop.
Van Cao was one of the founders of the contemporary Vietnamese music. What he has left for us is an utterly precious treasure of art expressed in music, painting and poetry that is acclaimed at home and abroad.
Van Cao came to life in the port city of Haiphong and used his talent for the cause of the revolution. Van Cao's music is beautiful like a river. Today that river has flowed to the sea.
Trong Bang
(VIETNAM COURIER July 23-29, 1995)
VIỆT TỘC CÒN LÀ NHỜ NGƯỜI PHỤ NỮ VIỆT
Huyền sử Việt khởi đầu với truyện bà Âu Cơ (1) sanh ra trăm con, 50 con theo cha xuống biển thành đân Việt ngày nay; 50 con ở lại núi thành người Thái, Mường, Thổ và phần sót lại của nhóm Bách Việt trên đất liền Trung Hoa. Nguyên khởi dân ta theo chế độ mẫu hệ; dần dà với sự định cư canh tác ruộng nương, người đàn ông với sức lực của mình đã chiếm điạ vị ưu thế trong xã hội và dân Việt thời cổ chuyển dần sang chế độ phụ hệ.
Trong quá trình lịch sử VN, người phụ nữ Việt từ xưa dến nay vẫn ngang hàng với nam nhi từ việc tề gia đến trị nước. Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng vào đời Tiền Hán là gương sáng cho phụ nữ đến muôn đời:
Giặc đến nhà, đàn bà phải đánh
Sau một ngàn năm Bắc thuộc, xã hội VN chịu ảnh hưởng đạo lý Khổng, Mạnh; người phụ nữ theo lẽ tam tòng:
Tại gia tòng phụ
Xuất giá tòng phu
Phu tử tòng tử
và phải có: Công, Dung, Ngôn, và Hạnh.
Suốt dòng lịch sử, người đàn bà VN là người vợ hiền, là người mẹ khuôn mẫu un đúc bao thế hệ của giòng giống Việt. Người phụ nữ nuôi chồng ăn học, có khi chồng theo chí "tang bồng hồ thỉ" thì lo gánh vác việc gia đình, phụng dưỡng cha mẹ chồng và nuôi con cái ăn học. Cả một chu trình tiến hoá của dân tộc nằm trong tay người phụ nữ Việt; một đời lớn lên lo cho cha mẹ; lấy chồng thì lo cho chồng; sanh con lo nuôi con, dậy dỗ con; con lập gia đình lắm khi còn phải nuôi cháu.
Ngoài việc nội trợ, người phụ nữ Việt cũng trau dồi nghiên bút. Văn học sử VN không hiếm những bậc nữ sĩ tuyệt vời như bà Ðoàn thị Ðiểm, Ngọc Hân Công Chúa, bà Huyện Thanh Quan bà Hồ xuân Hương, Nữ sĩ Tương Phố, Mộng Tuyết Tiểu Muội...
Khi đất nước lâm nguy, noi gương Trưng Nữ Vương phất cờ nương tử, người phụ nữ Việt cũng xả thân vì tổ quốc: Lệ Hải Bà Vương (Bà Triệu) , bà Bùi Thị Xuân, Vợ Ba Cai Vàng, Cô Giang, Cô Bắc...
Quan niệm về bậc thang xã hội Việt ngày xưa: sĩ, nông, công, thương hầu như đã dành việc buôn bán cho người phụ nữ Việt. Từ thành thị đến nông thô , người đàn bà VN đảm đang buôn bán từ những tiệm tạp hoá nhỏ, đến mhững gánh hàng rong, qua những ghe thương hồ:
Quanh năm buôn bán ở ven sông
Nuôi đủ năm con với một chồng
(ông Tú Xương (2) nhớ ơn vợ)
Ðến khi xã hội Việt bị Âu hóa, ngành thương mại hết bị coi thường nên không thiếu gì phụ nữ VN đứng đầu những công ty kinh doanh lớn, những xí nghiệp, ngân hàng...
Ðể nhấn mạnh vai trò then chốt của người phụ nữ Việt trong tiến trình bảo vệ giống nòi từ 1000 năm Bắc thuộc, đến 100 thực dân Pháp thống trị, thi sĩ Đông Hồ Lâm tấn Phác đã quả quyết "Việt tộc còn là nhờ người phụ nữ Việt". Thi sĩ đã chứng minh định lý lịch sử đó qua cuộc nam tiến của dân Việt.
Khi nhưng người di dân Việt đầu tiên dừng chân bên bờ Hậu Giang thìi bên kia dòng sông người Minh Hương (3) đã tạo dung thành quách vững vàng, đủ lực để thành lập một tiểu quốc Minh Hưong từ Hậu Giang qua đến Singapore. Người Minh Hương định cư đông đến độ người Việt phải thốt lên:
Dưới sông cá chốt , trên bờ Tiều châu
(ca dao)
Mạc Cửu với thành quách ở Hà Tiên đã đủ lực lượng để thưc hiện mộng bá vương, vậy mà chỉ đến đời thứ hai đã hội nhập vào dân Việt. Những bà mẹ Việt di dân đã dậy dỗ, hướng dẫn những đứa con hai giòng máu thành công dân nước Việt. Một Phan Thanh Giản tuẫn tiết vì vua, vì nước Việt; vua và nước của mẹ vì ông gốc người Minh hương. Những người phụ nữ lấy người Hoa chính là những anh thư vô danh đánh đuổi ngoại bang và đồng hóa ngược lại người Tàu.
Trong số lớn gia đình VN, người vợ hầu như độc quyền giữ "tay hòm chìa khóa" lo liệu việc chi dùng và bỏ vốn cho gia đình. Khi lấy chồng, người phụ nữ VN vẫn giữ nguyên tên họ cha mẹ đặt cho, chứ không phải lấy họ chồng như phụ nừ da trắng hay phụ nữ Tầu, Nhật... Người đàn bà Việt đã đạt được những vị thế xã hội từ lâu không phải chờ phong trào "Woman Lib"mới có được.
Mắt Nâu
(1) Tục truyền rằng bà Âu Cơ là tiên trên núi, vua Lạc Long giòng dõi Hồng Bàng lấy bà làm vợ. Bà sanh ra trăm trứng, nở ra trăm con trai .
(2) Tú Xương: Tên thật ông là Trần Tế Xương (1870-1907); ông đậu Tú Tài năm 1874 ( đời vua Thành Thái năm thứ hai)
(3) Minh Hương: những người Trung Hoa lưu vong tại Đông Nam Á sau khi người Mãn lật đổ Nhà (Triều đại) Minh và lập Nhà Thanh ( 1644-1912) bên Tầu. (Minh = Ming dynasty; Thanh = Ching dynasty; Minh hương = Ming citizen)