vhnt, số 249
25 November 1996
Trong số này:
thư vhnt..................................................................PCL
thư tín ................................................................vhnt
T h ơ :
1 - Ngược gió ...............................................Thận Nhiên
2 - Nói nhảm ....................................................Sương Mai
3 - Những sợi mưa mai ..............................................Chinh
4 - Bên nầy thu, bên kia ? ......................................Lộc Quy
5 - Bãi chiến ............................................Trần Thái Vân
6 - Thơ trẻ Sài Gòn ..................................Nguyễn T Dũng p/t
- Quyến rũ khúc / So sánh ...........................Lê Thị Thu Thủy
D i ễ n Ð à n V ă n H ọ c :
7 - Ðọc "Lầu Hạc Vàng" nhớ "Phượng Hoàng Ðài" ..........Ðông A
8 - Huế, lần về theo vết sương .........................Trương Chi
T r u y ện N g ắn / S án g T ác :
9 - Miếng ngon miền trung (tùy bút) ............................Phú Lê
10- Gregorio López Y Fuentes: Bức thư gửi Chúa ...........Y Cựu dịch
Trong vườn, những chiếc lá khóc qua đêm. Mưa sụt sùi và mặt đất ẩm lạnh. Một giấc mơ thật lạ đến giữa lúc mặt trời mặt trăng và những vì sao đi vắng. Ðêm chìm đắm, tiếng còi sương của chuyến tầu đêm chợt nổi lên. Vườn khuya xao xác, lại nghe rõ những chiếc lá âm thầm khóc và tiếng giun dế thở nhẹ run rẩy giữa lòng đất. Thôi đừng khóc và đừng buồn nữa hỡi những chiếc lá sắp bỏ mùa thu ra đi. Ðằng nào thì cũng một lần đi. Ði trong đưa tiễn hay đi trong lặng lẽ cũng mãi mãi là cái đẹp của một lần chia ly (ra đi hay trở về cũng sẽ đến cùng một điểm).
Vườn khuya dường như chỉ còn lại một chiếc lá duy nhất trên cây. Chiếc lá cô độc và lạnh. Một gợn gió nhẹ sẽ qua đây và chiếc lá sẽ hóa kiếp rời bỏ nơi chốn này, nhựa xanh và tình yêu mạch sống từ thân cây, cám ơn đã ấp ủ nuôi dưỡng, cám ơn những ánh mặt trời và giọt sương mai và bốn mùa khí hậu.
Tôi viết về một chiếc lá và cứ ngỡ mình là một chiếc lá.
Ðêm qua mưa lớn làm động mạch nước, con suối trôi sâu vào trong rừng, tôi nghe tiếng nước gào thét và những chiếc lá réo gọi nhau ơi ới. Mưa vũ bão. Cơn mưa ào ạt và khu rừng run rẩy. Những chiếc lá cuối cùng của mùa thu đã rơi xuống, úa nát và ướt đẫm. Trận mưa kết thúc một mùa thu những chiếc lá vàng bâng khuâng đã ra đi.
Khi tỉnh dậy, tất cả đã yên lặng.
Một thứ không gian yên lặng êm ái và nhẹ nhõm như thể chưa từng có cơn mưa giông dữ dội nào trút xuống lúc mới đêm. Tôi vừa trải qua một giấc mơ. Giấc mơ có nhiều cảm xúc và hình ảnh - không phải thứ cảm xúc ngoài da mà là thứ cảm xúc len lén đi nhẹ vào tim, động vào vết đau hờ và gõ nhịp vào phần nổi tâm thức. Cơn mưa dường như đã rửa sạch mọi cảm giác. Buồn vui cảm xúc nào cũng đã trôi đi và cơn mưa cuốn tôi vào một vùng cảm giác nhẹ tênh rất lạ.
thân ái,
PCL/vhnt
- Anh Tôn Thất Thiện Nhân, Silverspring, MD: Ðã nhận được xấp thơ anh chép tay cho vhnt. Ðã đăng một số bài thơ của anh và NQT trong những số vhnt trước và số này. Tâm trạng và cảm nghĩ của anh rất hợp và gần gũi với thế hệ "chúng mình". Mừng anh cộng tác với vhnt. Rất tiếc anh không có internet access để gửi bài và nhận vhnt dễ dàng hơn. Mong anh sớm vào siêu không gian văn học nghệ thuật. Thân mến.
- Sương Mai, San Jose, CA: Cám ơn Sương Mai gửi cho 6 bài thơ gửi về hộp thư vhnt để đóng góp, làm quen và chia sẻ với độc giả. Thật là quí có những người đóng góp bài cho vhnt mặc dù không hiện diện trực tiếp trên internet. Rất mong đón nhận đóng góp của mọi giới, trong và ngoài internet, từ mọi thế hệ . Thân mến.
- anh Nguyễn Hiền, nhóm Cái Ðình, Netherlands: Ðã nhận được thư đặt mua tuyển tập VHNT và bản tin Cái Ðình anh gửi, cám ơn thân tình anh dành cho vhnt internet. Ðã gửi tuyển tập vhnt cho anh rồi, mong anh phổ biến với các bạn bên đó khi nhận được. Sẵn sàng phổ biến và giới thiệu những tác phẩm do Cái Ðình phát hành. Rất vui với sự cộng tác này. Mến. PCL
oOo
Bản Tin Cái Ðình:
Vào ngày 29 tháng 9, nhóm Cái Ðình đã cho ra mắt 2 tác phẩm mới: "Câu Chuyện Giữa Ðường" và "Vàng". Buổi ra mắt được tổ chức trong bầu không khí trang trọng với sự tham dự của gần 100 văn thi hữu người Việt và Hòa Lan.
"Câu Chuyện Giữa Ðường" là một tuyển tập gồm 13 truyện ngắn của Nguyễn Hiền. Tại Holland anh đã đóng góp rất nhiều trong các hoạt động văn hóa. Sáng tác của anh đã được đăng trên các tạp chí trong và ngoài Hòa Lan. "Câu Chuyện Giữa Ðường" được tác giả viết trong chủ đề tâm hồn con người với những ẩn dấu sâu kín nhất. Bằng nhân vật tôi, nhưng không bằng văn thể hồi k ý hay ký sự, tác giả đã vẽ nên một thế giới Việt khắp nơi trên thế giới, phức tạp nhưng cũng rất phong phú.
Tập thơ "Vàng" gồm trên 50 bài thơ của thi sĩ Cao Xuân Tứ, viết bằng 3 thứ tiếng Việt, Anh và Pháp. Một số bài thơ trong tập đã được đăng trên các tạp chí văn học nổi tiếng tại Hòa Lan, Mỹ và Úc, tr ong đó có bài thơ "Stars" đã được trao giải thơ năm 1995 trong tuần lễ hội thơ quốc tế thường niên được tổ chức tại Rotterdam (holland). Ðược biết tập truyện ngắn đầu tay của anh cũng vừa được m ột nhà xuất bản lớn tại Hòa Lan cho ra mắt (En traag vloeit de rivier - và dòng sông lờ trôi).
Buổi ra mắt sách được lồng trong một chương trình văn nghệ chọn lọc do nhạc sĩ Võ Ðức Tiến đảm trách, gồm các bài độc tấu dương cầm và một số bài hát được trình diễn với phần hòa âm dương cầm do nhạc sĩ soạn. Cho tới nay Cái Ðình đã xuất bản bốn tựa sách của các nhà văn đang sống tại Hòa Lan. (Cái Ðình, tháng 10, 1996)
Ngược Gió
chúng mình như lúa reo trên ruộng đồng..."
- Phạm Duy -
Có gì như khói trong mắt trẻ thơ
đứa bé lớn lên làm phu bốc mộ
những nấm mồ dĩ vãng
vô danh, hữu danh
lóng xương nào cũng xám đen buồn tủi
Ðứa bé lớn lên
lớn lên
buổi chiều nắng chát té sấp mặt đường ray xe lửa
bên kia cánh đồng trơ rạ
lũ bò gầy xua nhặng lơ đễnh nhìn con tầu mỏi
mệt xuôi qua
Lớn lên
với nhân cách tật nguyền
Làm sao yêu quê hương
lớn lên trên sân ga giữa lũ người đói nghèo man rợ
manh chiếu thuê bẩn thỉu
còi tàu mớ sảng giữa khuya
gái điên lõa lồ hè phố
bước chân khất thực áo vàng
sao dấu nổi niềm tin lung lạc
Ðất nước tôi tuổi trẻ nào cũng mất mát quá nhiều
niềm tin vào độ lượng cuộc đời là điều không thực
Tuổi trẻ, tuổi trẻ ơi
tuổi trẻ như con thú què tội nghiệp
săn đuổi bát cơm và săn đuổi nhau
từng tuổi trẻ qua mau
40, 50, 60, 70, 80...
chiến tranh, chiến tranh, chiến tranh, chiến tranh
làm sao tin được giấc mơ trâu xanh lúa vàng
thương binh vợ trẻ
gió bụi mù khô thốc nạng phế binh
cuối thế kỷ hai mươi
đâu mất rồi những tấm lòng cô Tấm
Tôi lớn lên với giấc mơ Phạm Duy
người đẹp Tô Châu, dòng sông Danube
sông núi hiển linh đêm nằm nghe tình ca
bạn bè cùng tuổi không nợ nần gì quá khứ
Hà Nội, Sài Gòn
cờ sọc, cờ sao
chuyện cha anh chúng tôi nào có dự phần
bao nhiêu vàng đổ xuống ven sông... *
chiều công viên tôi hỏi người bạn già thi sĩ
đâu là vẻ đẹp nhân gian
Vàng. Vàng cậu ạ .
Thận Nhiên
* thơ Nguyễn Quang Tấn
bao nhiêu vàng đổ xuống ven sông
cho thấy được mặt người trên sóng...
Nói Nhảm
Tôi buồn tôi kẻ tương tư
Tôi ru tôi để buồn như mặt trời
Tôi buồn tôi gọi cuộc đời
Ra đây đứng ngó mà cười tôi ngu
Tôi làm một kẻ chân tu
Thật thà như đếm, chẳng thù hận ai
Tôi nhìn tôi bước lên ngai
Tung hô vạn tuế một ngày đế vương
Tôi nhìn tôi cõi vô thường
Gục đầu khóc lóc rồi thương thân mình
Tôi nhìn tôi rất điêu linh
Nghe lời tự thú, đời mình lạ chưa?
Tôi buồn tôi khóc như mưa...
Sương Mai
11/13/96
Những Sợi Mưa Mai
Người về nhớ vết tích xưa
sa mù ngàn trùng ...
- Trịnh Công Sơn -
Những mặt trăng treo giữa trời mịt mùng
Sớm mai bước chân em về mang theo sương khói
Trời màu gỗ mun em mùi nguyệt quế bay theo tiếng mưa mai
Ðài hoa nứt nẻ con đường hoa sữa cũ
Ngày tráng bạc lên men nồng hơi rượu
Con ngựa già leo lên đồng cỏ nhớ
đi quanh em giấc ngủ lá vàng thơm
Ấm áp từng câu thơ gió dư âm phố những mặt trăng không nước mắt
Anh quên bẵng câu ru ngày xưa
đành ru em bằng những ngón tay suông
Sợi tóc vướng nhau một lần gìn giữ nghĩa ơn
Màu môi đen vỡ rạn trầm luân sâu hút vực
Nghìn trùng phù du bàn tay mỏi mong em đường nay bỗng thấp chùng từng nỗi nhớ
Tiếng chuông giữa hồn đọng lại vết sương sa
Lần nhau về theo mùa hạnh lễ
Dòng sông nhớ bước chân loanh quanh dải luạ lăn ngã vào nhau tiếng cười hôm nào
Vết tích còn không dấu hư vô
Một sớm mai mưa ở đâu vừa tới .
Chinh
19/11/96
Bên nầy thu, bên kia ?
Rừng phong xưa đỏ lá phong
gió bay thấp gió nặng lòng nhau chi
ở rừng ngó bóng chim di
người ơi bên ấy thu đi có về?
Lộc Quy
Bãi Chiến
Lặng yên khẩu súng trên đồi
Lặng yên nắm đất dưới đồi cỏ xanh
Hiệu kỳ mây trắng treo quanh
Quân cơ còn chút màu xanh da trời
trần thái vân
Thơ Trẻ Sài Gòn
LGT: Lê thị Thu Thủy là sinh viên Ðại học Tổng hợp Hà nội, khoa báo chí. Ðoạt nhiều giải thưởng thơ phía Bắc. Ðã từng xuất hiện trên TTCN số 35-96 bằng truyện ngắn Cửa Rừng. Nay là thơ.
Ð.T.Q
QUYẾN RŨ KHÚC
Quyến rũ con đường bằng một thoáng nghiêng
Mắt phố rồi thành cận thị
Ðã đi là đi như gió
Chênh vênh một nẻo tóc thề
Quyến rũ tuổi mình bằng chuỗi đam mê
Óng chuốt ánh nhìn mười bảy
Hoa sáng bừng như đang cháy
Bông lên khát vọng mặt trời
Quyến rũ buổi chiều bằng thơ mồ côi
Không đề, không gửi
Nhà thơ không quen biết lỗi
Thơ kiêu như cọng cổ kiêu
Không dưng quyến rũ buổi chiều
Không dưng làm khổ buổi chiều
Không dưng đánh một điều không dưng.
SO SÁNH
Tôi có người mẹ như người cha
Nhà tôi không nóc
Mẹ tôi cả đời khó nhọc
Thẩy những gì chúng tôi dâng người đều mong manh.
Tôi có người chị như người anh
Hồi nhỏ tôi hư chị đánh
Khi tôi ngủ nước mắt troèn mi
Lau khô cho tôi mắt chị lại ướt.
Tôi có người bạn như người yêu
Không xa mà cũng không nhớ
Người yêu tôi lại như người bạn
Chưa từng hôn tôi bao gi
(Trích TTCN 27/10/1996)
Ðọc Lầu Hạc Vàng * nhớ Phượng Hoàng Đài
Phải công nhận Lê Ðạt khéo đặt chuyện. Những giai thoại cũ rích được ông khéo léo sắp xếp thành một truyện thú vị với giọng văn nửa cổ nửa kim, nửa nghiêm nửa bỡn như vốn là một sở trường đặc sắc. Giai thoại về Lý Bạch với "Hoàng hạc lâu"
Nhãn tiền hữu cảnh đạo bất đắc
Thôi Hiệu đề thi tại thượng đầu
(Trước mắt có cảnh không nói được
Vì thơ Thôi Hiệu để trên đầu)
thường vẫn được truyền tụng như là một câu chuyện về thi pháp. Giai thoại kể Lý Thái Bạch như vậy, nhưng người đời lại bảo không hẳn vậy. Họ Lý dù có là tiên giáng trần thì cũng không thoát khỏi mùi Hoàng hạc. Ít nhất thì bài "Phượng hoàng đài" của ông, như người đời bàn tán, phảng phất mùi Hạc vàng
Ðăng Kim lăng Phượng hoàng đài
Phượng hoàng đài thượng phượng hoàng du
Phượng khứ đài không giang tự lưu
Ngô cung hoa thảo mai u kính
Tấn đại y quan thành cổ khâu
Tam sơn bán lạc thanh thiên ngoại
Nhị thủy trung phân Bạch lộ châu
Tổng vị phù vân năng tế nhật
Trường an bất kiến sử nhân sầu.
Lên đài Phượng hoàng ở Kim lăng
Phượng hoàng từng ghé trên đài Phượng
Phượng bỏ đài không nước chảy thâu
Hoa cỏ cung Ngô vùi lối kín
Mũ xiêm triều Tấn hóa gò lâu
Nửa rơi ba núi ngoài trời thẳm
Giữa tách đôi dòng bãi Lộ châu
Tất cả vì mây che nổi sáng
Trường an chẳng thấy chạnh bao sầu.
Ðông A dịch
Kim Thánh Thán chê hai câu đầu thậm tệ. Câu đầu tiên thì thừa, phượng hoàng từng đến đài Phượng hoàng, thì có gì mà phải nói. Câu thứ hai thì dồn cả "khứ" và "không" vào một để dấu "hình tích" của "Hoàng hạc lâu". Thực ra không phải chỉ có bài này của Lý Bạch mới có "khứ" và "không". Bài "Ký viễn" của ông cũng đâu có thiếu:
Ký viễn
Mỹ nhân tại thời hoa mãn đường
Mỹ nhân khứ hậu dư không sàng
Sàng trung tú bị quyển bất tẩm
Chí kim tam tải văn dư hương
Hương diệc cánh bất diệt
Nhân diệc cánh bất lai
Tương tư hoàng diệp lạc
Bạch lộ thấp thanh đài.
Gửi phương xa
Người đẹp còn đây, nhà đầy bông
Người đẹp đi rồi, giường bỏ không
Giường không, đệm cuốn, nào ai ngủ
Nay đã ba năm hương còn xông
Hương thơm, thơm không dứt
Người đi, đi không về
Nhớ nhau lá vàng rụng
Rêu biếc sương dầm dề
Nguyễn Hữu Bổng dịch
Ðọc lại câu đầu tiên của "Phượng hoàng đài" mới thấm thía nỗi cô đơn sầu man mác của "khứ" và "không". Chim phượng, chim hoàng đã từng đến đây, đã bỏ đi, giờ chỉ còn lại đài không, cũng như người đẹp đã ở đây, hoa đầy nhà, giờ người đẹp đi rồi chỉ còn giường hoang hương lạnh. Câu Khởi của hai bài thơ này mang âm hưởng từa tựa như nhau và cũng không giống với "Hoàng hạc lâu". Ở "Hoàng hạc lâu", người và hạc bỏ đi, như chưa từng đến bao giờ, chỉ có cái lầu trơ trơ vô tri vô giác
Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ
Thử địa không dư Hoàng hạc lâu
Hạc vàng ai cưỡi đi đâu
Mà đây Hoàng hạc riêng lầu còn trơ
Tản Ðà dịch
Nhưng trong nỗi sầu man mác đó, Lý Bạch đã đột ngột kết lại bằng "giang tự lưu" (sông vẫn chảy) như một thực tế hiển nhiên trước mắt. Nếu như ở "Ký viễn", dẫu biết người đẹp đi không về, nhưng vẫn hoài vọng một ngày... "đã xanh rêu". "Tương tư hoàng diệp lạc; Bạch lộ thấp thanh đài", nhớ nhau chỉ thấy lá vàng rơi, móc trắng thấm đẫm rêu xanh trong nỗi khắc khoải mong chờ cứ lịm dần tắt đi như lá vàng rơi, như sương tan trên rêu ấy. Thời gian, một thử thách ác nghiệt đâu có đợi chờ ai. Nước sông vẫn cứ trôi, còn gì để mà mong, mà đợi. Có nỗi buồn nào hơn? "Sông vẫn chảy" có vẻ giống như "nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay" của Thôi Hiệu. Nhưng "sông vẫn chảy" là một vĩnh hằng cố định, còn "mây trắng còn bay" thì chỉ như là một vô định thường hằng. Sự bất biến của thiên nhiên lại đọng trong cái mỏnh manh vô thường của cõi đời
Ngô cung hoa thảo mai u kính
Tấn đại y quan thành cổ khâu
Ðài Phượng hoàng vốn ở Kim lăng. Vào thời Nguyên gia (424-452) đời Tống, người ta thấy ở đó có giống chim ngũ sắc đến ở, gọi là phượng hoàng và nhân đó dựng Phượng hoàng đài. Kim lăng xưa kia là vương cung của Lục triều. Ðông Ngô, Ðông Tấn, Tống, Tề, Lương, Trần lần lượt nối tiếp nhau
Lục triều như mộng điểu không đề
Vi Trang
Lục triều như giấc mộng, giờ chỉ còn chim kêu
Dòng nước vẫn trôi như chứng kiến bao cảnh tan hợp thịnh suy của cõi đời. Cung Ngô giờ chỉ còn cỏ hoa hoang kín lối, đền đài triều Tấn giờ cũng hóa ra gò đất cổ xưa. Có biết bao triều đại khi mới lên, tung hô vạn tuế, ca ngợi muôn năm, tưởng chừng như bất diệt, ấy thế mà rồi cũng tan thành cát bụi. Chỉ có dòng nước vẫn cứ trôi như chẳng mảy may hay biết gì về cung Ngô, triều Tấn một thời vang bóng. Nỗi buồn của Lý Bạch cũng chẳng phải của riêng ai. Bà Huyện Thanh quan cũng từng chung nỗi sầu muôn thuở đó:
Dấu xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
Ðá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
Nước còn cau mặt với tang thương
Nếu như ở "Hoàng hạc lâu", Thôi Hiệu sau khi đem mây trắng nâng cánh hạc vàng một đi không trở lại, quay về với Hán dương, Anh vũ trước mắt thì ở "Phượng hoàng đài" Lý Bạch cũng nhìn về "nhãn tiền hữu cảnh". Ðó cũng là phương pháp cổ điển của cổ thi. Ði từ Khởi qua Thừa rồi đến Chuyển để kết ở Hợp. Chuyển phải mở sang từ mới, quang cảnh mới, cảm xúc mới:
Tam sơn bán lạc thanh thiên ngoại
Nhị thủy trung phân Bạch lộ châu
Câu đầu của hậu giải có vẻ khó hiểu. Làm sao ba núi có thể nửa rơi ra ngoài trời xanh được? Có người bảo rằng đó là ảo giác do mải nhìn. Nhìn lên là ảo, nhìn xuống là thật. Thật thật, ảo ảo lẫn lộn ở hai câu Chuyển này. Tôi chợt nhớ đến câu thơ của Hứa Hồn:
Tinh hà bán lạc nham tiền tự
(Dải Ngân hà nửa rơi xuống mái hiên trước chùa)
Ðộng từ "rơi" chỉ sự chuyển động từ trên xuống. Tam sơn nằm về phía tây nam Kim lăng. Thành Kim lăng có sông Tần hoài chảy qua, thuộc hạ lưu Trường giang. Vì giữa vùng đồng bằng tự nhiên có núi có non cho nên câu thơ này có lẽ phải hiểu là ba núi dường như nửa rơi từ ngoài trời xanh xuống. Ba núi, đôi dòng này là những thực thể tồn tại ngay trước mắt. Ðó là những thứ rất thật, rất hiển nhiên, cũng như:
Tổng vị phù vân năng tế nhật
Trường an bất kiến sử nhân sầu.
Trước nay mọi người đều chú giải "Trường an" là thành Trường an. Câu Hợp này có nghĩa, tất cả chỉ vì đám mây trôi nổi có thể che được mặt trời mà không thấy được thành Trường an, khiến người buồn. Thực ra, ở Kim lăng thì làm gì có chuyện có thể nhìn thấy được Trường an dù trời trong không một gợn mây. Ở đây Trường an chỉ là cái cớ, và có lẽ phải hiểu "trường an" là sự yên bình vĩnh hằng. "Phù vân", cái đám mây trôi nổi vô định mỏng manh, khi còn khi mất ấy lại có khả năng che được mặt trời. Mặt trời thường tượng trưng cho ánh sáng, cho sự thường hằng. Chao, đám "phù vân" vô thường như cung Ngô, triều Tấn, như biết bao tham vọng ở cõi đời này lại có khả năng che lấp cả sự sáng suốt của tâm và trí. Con người cứ quanh quẩn vật vã trong làn mây vô minh, lênh đênh như chiếc lá nhỏ nhoi chơi vơi giữa bao la sóng gió cám dỗ của vô thường, biết đến ngày nào mới thấy được "trường an". Nỗi buồn của Thôi Hiệu là nỗi buồn của kẻ xa xứ hoài nhớ về một cố hương. Mối sầu của Lý Bạch man mác trong lòng ngậm ngùi của kiếp phù sinh. Ðó là nỗi sầu thiên cổ không có gì có thể giải khuây được:
Trừu đao đoạn thủy, thủy cánh lưu
Cử bôi tiêu sầu, sầu cánh sầu
(Rút đao chém nước, nước càng chảy
Nâng chén giải sầu, sầu thêm sầu)
Nguyễn Du, đệ nhất thi nhân của chúng ta, khi qua lầu Hoàng hạc, như cùng chung mối sầu thiên cổ đó:
Kim lai, cổ vãng Lư sinh mộng
Hạc khứ, lâu không Thôi Hiệu thi
(Kim cổ xưa nay chỉ như giấc mộng chàng Lư
Hạc bay, lầu không, chỉ còn thơ Thôi Hiệu)
Cuộc đời cứ cuồn cuộn chảy như nước sông ấy, có đợi chờ ai bao giờ, thì trường an, niềm hoài vọng của bao người, bao thế hệ tìm ở đâu, nếu không phải ở trong sự mỏng manh của kiếp người.
Ðông A
* Tên một truyện ngắn của Lê Ðạt (VHNT-LM, số 248)
Huế, Lần Về Theo Vết Sương
cảm tặng tác giả của Loài Chim Cánh Vỗ và Giòng Sông Sa Mạc
Một bài hát...
Người tìm đến với bước chân âm thầm mùa hạ
Từng cơn mưa trút lá
Và dòng sông cuốn đi
Tay hư vô đốt nến chiều chơi vơi lên cao
Rồi dòng sông cũng mang theo tên người vào huyền thoại
Người về nhớ vết tích xưa sa mù ngàn trùng
Dòng sông đêm thắp nến
Mặt trời quên dấu chân chim
Rồi dòng sông cũng miên man đưa người về mộ phần
Chân qua đây sương khói
Ðường hư vô trên tay... *
Tôi ngồi đàn guitare và hát. Tiếng đàn đục có khi không nghe thành tiếng. Tôi bỗng thấy mình như con vạc gầy vỗ cánh bay lên biệt mù . Tan biến vào trời mâỵ
oOo
Một buổi sáng...
Sớm mai ở Virginia có sương mù làm tôi nhớ Huế lạ lùng. Sương khói Huế. Se lạnh Huế. Huế dường như chỉ có hai mùạ Mùa Hạ và mùa Đông. Mùa đi và mùa ở.
Huế mùa hạ âm thầm theo bước chân em con đường lá hát trên cao mùa phượng trải thảm đỏ ve kêu rang làm nao nức lòng người.
Huế mùa đông có cơn bão đi qua để lại trên mặt đường những quả sầu đông và những phiến lá lục hồng thơm ngát.
Ở Virginia không có những con đường lên xuống quanh co không có thứ khói sương trùng trùng phiền muộn đó. Nên tôi giữ mãi Huế trong taỵ Không thể nào đem hình ảnh Huế ra khỏi trí nhớ nhỏ nhoi này.
Trước khi bỏ đất mẹ đi xa, tôi lại khăn gói ra thăm Huế. Nhìn Huế lần cuối cùng, tôi đã tưởng như không thể cất bước đành đoạn mà bỏ những con đường Huế, sương khói Huế lại một mình.
Ðứng trên cầu Tràng Tiền, nhìn xa dịu vợi, tôi thấy Huế đẹp và thơ mộng như một bức tranh nền xám hồng điểm đây đó những đốm sáng hiển linh, hư ảo .Người đi trên cầu không thấy rõ mặt nhaụ Tôi chỉ thấy thấp thoáng những chiếc áo laine đủ màu đủ sắc di động trong sương. Người Huế như bước đi trên mây, trên khóị Những bước đi thật nhẹ, như thể lúc nào cũng muốn tan bồng vào bọt nước của dòng sông.
Một dòng sông...
Dòng sông. Dòng sông Hương bắt ngang thành phố như chiếc khăn voile khoát vào vòng cổ cao trắng muốt của một người thiếu nữ. Dòng sông của Huế mùa hạ vỡ rạn những mảnh li ti hạt nắng trong veo một ngày tôi và em ngồi giữa thiên nhiên cùng nghe khúc hòa tấu của hoa vàng và ngàn lau sậy trắng. Dòng sông của Huế mùa đông lắt lay mảnh trăng hoàng cung vàng vỗ vào chiếc thuyền khuya những câu hò nghe đến não nùng. Ngồi trên sóng biếc tôi nghĩ thầm biết đâu ở xa xôi kia, trong lầu thành, âm hồn Mỵ Nương đang ngồi chờ ngồi đợi một tiếng hát mà ngày xưa nàng đã vô tình đập vỡ. Biết đâu, dưới lòng sông này, chàng Trương Chi vẫn còn ấp ủ nhớ mong một thứ hương sắc của thuyền quyên. Hương sắc của Mỵ Nương là hương sắc đài các của Huế - của tình ái Huế. Một lần thổi vào hồn là nhung nhớ nghìn năm. Và, tiếng hát Trương Chi ngày xưa chính là vọng âm của điệu hát âu sầu heo hút từ Huế mà rạ Tiếng hát của âm hồn. Vọng âm của lăng miếu.
Tôi biết viết gì về Huế đây?
Huế lúc nào cũng đủ đầy trong hồn tôi những hạt nắng hạt mưa những giông bão lụt lội vỡ tràn bờ đê biển cuồng sóng dữ. Vậy mà Huế vẫn thiếu vắng trong tôị Như thể tôi và Huế chưa gặp gỡ bao giờ.
Bước chân tôi mòn phiêu lãng cũng mong một ngày tái hội rộn ràng với hớp rượu cay trên chiếc đò lướt qua những lạch sông nhìn lên trời cao mà chỉ mong mình bay mãi như truông mây sầu.
Huế đã để lại trong tôi vết tích đậm đà ơn nghĩạ Cơn mưa dầm dề trong mùi thành quách gõ mãi vào lòng lúc ríu rít lúc thâm trầm như một thứ dạ khúc nghe lắm đoạn trường. Tôi đã làm thơ rất nhiều cho Huế, về Huế. Lời của dòng sông. Lời của mưa phùn. Màu xám của phố phường. Tất cả. Tôi ôm vào tất cả. Từ Huế.
Tôi vốn khước từ những thứ gọi là sứ mệnh văn nghệ, cách mạng của thi ca, tinh thần phản kháng. Những bài thơ của tôi viết ra chỉ là vết tích của một phần ngàn phút, một phần ngàn giây, từ một ý tưởng một tâm trạng một cảm hứng nào đó, thoáng qua như cánh vạc. Những câu thơ của tôi không có một sứ mệnh nào khác hơn là điểm lên bức tranh Huế một đốm trắng nhỏ để làm nổi bật lên khuôn mặt của đêm dài.
Cái loé sáng đau nhức đó, một phần ngàn giây đó, là tôi sống tôi chết tôi ngồi nhung nhớ mỏi mong hư vô cả một đời ngắn ngủị Là im lặng, tiếng thở, là tuyệt vọng, thất vọng. Là vỡ rạn. Là vô vị Là phù du mệnh bạc khói cay sương mỏng...
Tôi muốn ghi lại tất cả. Lỡ mai này trí nhớ tiêu haọ
oOo
Một bài hát...
Mai tôi đi xa
những con đường khói sương
thắp hai hàng nến.
Mùa phượng phù du, thảm lá lục hồng .
Sợi tóc mai dài ngắn
Năm nào gió cuốn theo bước chân xa.
Tôi ra đi muôn trùng
rong ruổi linh hồn mong manh.
Mai tôi đi rồi mùa vàng hạc vắng bay qua đây.
Nghe nắng ửng trên vòng mộ nhớ.
Nỗi buồn nào lắt lay.
Từng ngày qua còn không ngọn nến hư vô
cùng tôi sống lại với những giấc mơ sau cánh cửa.
Cùng tôi mở toang ký ức bụi bặm hồn nhiên.
Ðể nghe thật gần tiếng chân nào đang tới.
Mai tôi đi rồi vườn xưa thôi nhé những vẫy chào nhau.
Thổi bay lên cao khói mịt mù qua dòng sông buồn. **
Nếu quá khứ như loài chim vỗ cánh bay vào mù tăm trùng biệt thì hiện tại là con chim nào tình cờ hôm nay đến hót cho tôi nghe giữa một sớm sương mù. Tiếng hót mong manh như lau sậỵ Tiếng hót dịu lãng như hồn tôi bây giờ. Tôi mòn gót chân phiêu lãng bỗng một ngày để rơi thầm hạt lệ đá xanh. Tôi muốn gửi những viên đá xanh này cho Huế. Cho cái phận Huế chập chùng dâu biển, trùng lấp âm ba.
Trương Chi
Virginia, ngày 22/11/95
* Lời Của Dòng Sông, Trịnh Công Sơn
** Sương Khói Ngậm Ngùi, Trương Chi
Miếng Ngon Miền Trung
Tôi dân Sài Gòn. Vào quân đội, vì không phải con ông cháu cha hay có gốc bự nên hầu như suốt thời gian trong quân ngũ tôi chỉ được hân hạnh phục vụ ở vùng II chiến thuật. Tính sổ lại là những nơi gần như thuộc về miền Trung như Pleiku, Kontum, Phù Cát, Qui Nhơn, Tuy Hoà, Nha Trang, Cam Ranh, Phan Rang, Phan Thiết, Bình Tuy, Ðà Lạt, v.v... Thực ra những đơn vị trú đóng của tôi là Pleiku và Phan Rang. Còn những nơi khác là chỗ tôi đi học hoặc đi công tác hay đeo theo bạn bè ghé qua chơi một vài ngày.
Những nơi chốn thân yêu ấy hình như lúc nào cũng vương vấn trong tâm tư tôi. Những kỷ niệm vui buồn mà tôi đã trải qua ở các vùng đất này sẽ không bao giờ phai nhạt được trong trí tưởng mặc dù trí nhớ tôi càng ngày càng tàn lụi tỷ lệ nghịch với tuổi đời. Nhưng điều tôi luôn ghi nhớ là các thắng cảnh xinh đẹp, tình người thuần hậu chân chất và các món ăn. Món ăn miền Trung rất đa dạng rất phong phú. Tôi chỉ ghi lại đây vài món tôi biết và thích ăn vào thời buổi đó.
NEM NƯỚNG NINH HOÀ
Nói đến nem nướng là người ta nghĩ ngay đến Ninh Hoà. Ninh Hòa là một quận nhỏ thuộc tỉnh Khánh Hòa, chỉ cách thành phố Nha Trang vài chục cây số về hướng Bắc. Gần đây có một bãi biển rất đẹp, bãi Ðại Lãnh ở phía Bắc thị trấn. Hầu như dọc theo những phố thị từ Tuy Hoà trở vô đều có hàng bán nem nướng Ninh Hoà. Tôi không được diễm phúc thưởng thức món đặc sản này tại nơi sanh ra nó mà chỉ ăn món ngon này tại Nha Trang và Phan Rang. Cùng tên nhưng mỗi chỗ hương vị mỗi khác, khi món này vô tới Sài Gòn thì nó lại càng khác nữa.
Lúc đầu tôi nghĩ nem nướng thì chắc là nem Thủ Ðức mua về lột ra đem nướng lên. Bé cái lầm. Nem đây cũng đồng nghĩa như chả, làm từ thịt heo với tôm sống lột vỏ bỏ chung vô cối lấy vồ quết cho nhuyễn, thêm gia vị hành tỏi tiêu đường muối, pha ít bột năng, rồi nắm lại từng nắm nhỏ xiên dài bởi một que cây. Lạ một điều tôi thấy ở Nha Trang miếng nem vo hơi dẹp và dài, tới Phan Rang thì cũng còn dẹp nhưng ngắn lại và khi vô tới Sài Gòn thì nó tròn quay.
Một chiều cuối thu năm 71. Thành phố biển mát mẻ với hàng dương lao xao ven bờ. Tôi mới trở lại đây ban sáng từ miền cao nguyên đất đỏ gió bụi mưa bùn. Vài giờ ngắn ngủi dù theo phi cơ bạn bè về thăm một người bạn thân cùng khoá đang nằm bệnh xá dưỡng thương. Bạn tôi trong một phi vụ trực thăng tản thương đã bị chấn động xương sống khi phải bắt buộc đáp khẩn cấp vì phi cơ anh lái bị trúng đạn phòng không. Thăm viếng uỷ lạo bạn hiền xong xuôi tôi dành cho mình vài giờ ra thăm phố biển thân thương để rồi chiều nay sẽ đáp chuyến bay khác trở về lại căn cứ biên trấn. Ngồi trong quán nước kề sát bờ biển tôi gọi cho mình chai bia, đốt điếu thuốc thơm ngồi lặng yên tận hưởng những giây phút hiếm quý an bình. Bỗng nhiên có tiếng chân bước đến cùng với một mùi thịt thơm lừng cuồn cuộn trong không khí mằn mặn của gió biển. Một gánh nem nướng. Bụng cồn cào vì sáng giờ chỉ có miếng xôi nhỏ tôi gật đầu ngay không chờ cô hàng mời mọc. Nhanh thoăn thoắt cô bày biện tất cả mọi thứ như bánh tráng, nước chấm và các loại rau sống cần thiết. Trước đó cô không quên sửa soạn bỏ thêm than vô bếp, cầm quạt vài cái cho than cũ hồng lên. Khi bếp nóng đều cô mở bao cẩn thận lấy ra vài que nem bỏ lên trên vỉ, lật đi lật lại vài lần cho thịt chín tới. Trong lúc chờ đợi, mùi nem nướng xông lên thơm điếc cả mũi, tôi nhấp một ngụm bia, nhìn ra ngoài khơi lăn tăn vài cơn sóng bạc, nhìn lại cô chủ má đã hồng lên vì bếp nóng.
Nước chấm thì tôi không rõ lắm vì nó đục ngầu và đặc sệt. Chỉ đoán là tương pha với đậu phụng, có gan heo cắt nhỏ trộn vô thì phải. Biết là bỏ bánh tráng lên dĩa, sắp rau thơm xà lách dưa leo, tuốt một miếng nem ra khỏi que, cuốn lại chấm vô chén tương rồi cắn một miếng, cắn thêm miếng ớt hoặc tỏi đưa cay. Vị thơm ngọt của thịt, bùi của dậu phụng gan heo, cay của tỏi ớt trộn đều. Nhấp thêm ngụm bia, hết biết!!
Chỉ riêng ở Nha Trang có nhiều nơi quán họ dọn thêm bánh tôm. Không giống như bánh tôm của người Bắc, bánh đây giống như hai miếng bánh tráng gập lại giữa là con tôm cán dẹp. Ăn xong một miếng nem cắn miếng bánh tôm dòn tan. Ngon không chịu được !
BÁNH KHỌT, BÁNH CĂN
Có nơi họ kêu là bánh khọt nhưng nơi khác họ lại gọi là bánh căn. Những ngày ở Nha Trang, Phan Rang tôi biết và thích ăn món ăn bình dân này.
Bánh làm bằng bột gạo pha nước loang loảng. Khi khách gọi ăn chủ chỉ cần múc bột lỏng đổ vào khuôn rồi đậy nắp lại, vài phút sau mở ra bánh chín xơi được rồi. Dần về phía Nam thịt cá thừa thãi nên thấy miếng bánh rất hấp dẫn vì có nhân thịt, mỡ hành và thịt tôm rươi phủ bên trên. Ngoài Trung nghèo hơn nên đôi chỗ họ chỉ tráng lên bánh một lớp mỏng trứng gà đã khuấy đều. Khi bánh đã chín chủ nậy ra khỏi khuôn, quết một lớp mỡ hành lên mặt rồi bỏ đầy dĩa dọn ra. Ðặc biệt món này phải chấm ăn với nước mắm thật cay mới đã. Nãy giờ khách đợi chờ khá lâu nên đói meo. Dĩa dọn ra. Mùi bánh thơm quá khách háu ăn nuốt vội một miếng xong xuýt xoa vì nóng và cay, may sao có ly nước mía nguyên chất dọn sẵn kề bên bèn cầm lên uống luôn một hơi để hạ hỏa. Chao ơi, có gì hơn trên đời này nữa hả bạ ?
MÌ QUẢNG
Có những món ăn lần đầu gây ấn tượng không ngon lành gì với thực khách. Nhưng càng ăn thì càng khám phá được mùi vị ngon rồi lần lần cảm hồi nào không hay. Cảm xong qua đến thương mến. Ði đâu cũng nhớ cũng thèm. Ðó là mì Quảng.
Như đã nói số tôi run rủi lưu lạc gần hết miền Trung. Ðến những thị trấn nhỏ đìu hiu buồn bã mà quốc lộ xuyên qua thị trấn cũng là con phố chính. Muốn ăn phở hay mì hủ tíu đôi khi khó kiếm chứ hàng mì Quảng ôi thôi lền khên. Lần đầu tôi thử cái món này ở một thị trấn nhỏ cao nguyên xong thất vọng hết sức. Tô mì gì mà nhìn chả hấp dẫn gì cầ Chỉ có chút thịt bằm trộn với củ sắn và tôm khô, khi dọn ra chủ nhân bỏ thêm chút đậu phọng rang lên trên. Nước dùng nhạt nhẽo nên đói lắm mà tôi cũng chỉ ăn được nửa tô. Rồi cái thành kiến đó từ từ thay đổi sau những lần được ăn ở những cửa hàng mà người nấu là dân Quảng Nam chính thị.
Tô mì Quảng chính gốc không pha phải hội đủ những điều kiện cần thiết là sợi mì lớn dai và có màu vàng rất bắt mắt. Nước dùng ngọt và thanh không phải cái ngọt mặn mòi của mì hủ tíu. Thật khó diễn tả vì tôi không phải dân Quảng. Cái quán mà tôi hay thích ghé ăn những ngày còn ở Ðà Lạt là quán kế bên rạp hát Ngọc Hiệp. Tô mì dọn ra với dĩa rau thơm nho nhồ Thêm cái dĩa nhỏ nữa đựng bánh đa mè và đậu phộng rang. Vắt tí chanh, nêm vài giọt nước mắm nhỉ. Chút xíu ớt cay. Rắc đậu phọng rang lên rồi dùng đũa khuấy đều tô mì. Mùi thơm dìu dịu của thịt bằm, tôm khô với củ sắn và gì gì nữa tôi không rành. Trước khi ăn không quên lấy miếng bánh đa mè bóp nhẹ thành từng miếng nhỏ trộn vào rồi im lặng thưởng thức. Trời lạnh mau đói nên lần nào cũng phải hai tô mới đủ.
BÚN BÒ HUẾ
Theo ý riêng tôi, tô bún bò Huế quán ngon dọn lên phải gồm những điều kiện sau. Nước dùng ngon ngọt, mùi ruốc thơm nhẹ. Miếng giò phải ninh vừa đủ, mềm nhưng không rục, không dai. Miếng gân không bở nhão, phải dòn dòn sừn sựt. Miếng huyết phải đều đặn ngay ngắn vuông vức, không lỗ chỗ bọng ruột. Hành ngò tươi mát. Rau thơm chanh giá đầy đủ.
Tôi nghiệm ra là ở những nơi khí hậu lạnh buổi sáng không gì hơn bằng ăn tô bún bò Huế nóng hổi. Tô bún bò gân huyết phải thật cay. Cay đến độ tô bún vừa dọn ra trên bàn là đủ làm khách hắt xì nhảy mũi lia lịa. Lớp ớt bột váng trên mặt tô đỏ choé mà húp vào một muỗng đầu đủ làm cơ thể nóng bừng lên lập tức. Thời tiết bên ngoài lạnh cách mấy cũng không còn ép phê nữa.
Lúc còn ở Pleiku tôi và các bạn mê ăn quán bún bò nhà xác. Quán có tên riêng nhưng chúng tôi không nhớ mà đặt tên là "nhà xác" vì quán nằm trên cùng con đường với Quân Y Viện thị xẩ Nhớ lại những buổi sáng trời lành lạnh. Ăn tô bún bò thật ngon xong nhâm nhi ly cà phê Dinh Ðiền, thả khói thuốc thơm, nghe nhạc tình Trịnh Công Sơn, Ngô Thuỵ Miên qua giọng hát Lệ Thu, Khánh Ly mà thấy đời bỗng đáng yêu lạ lùng.
Ngày xưa tôi hay đùa với bạn bè cùng khoá là số mình con rận con rệp. Ai khác mãn khóa xong là đóng đô ở Sài Gòn, Biên Hoà hoặc tệ lắm cũng Ðà Nẵng, Nha Trang, Cần Thơ. Còn tôi cứ quẩn quanh vùng trấn biên núi rừng xa xôi hiểm tr Nhưng giờ nghĩ lại quả thấy số mình may mắn. Nhờ vậy mới có dịp thăm viếng hầu hết những phong cảnh hữu tình đẹp nhất miền Trung nói riêng và nhất nước nói chung. Cũng nhờ vậy mới biết những món ngon vật lạ miền ngoài mà nếu chỉ ở Sài Gòn thì biết khi nào tôi mới có dịp may để nếm.
Phú Lê
GREGORIO LÓPEZ Y FUENTES: Sinh năm 1895 tại Mễ Tây Cơ.
A Letter to God (Bức Thư Gửi Chúa), do Donald A. Yates dịch ra Anh ngữ, trích trong Great Short Stories of the World; The Reader's Digest Association, New York, xuất bản năm 1972.
Bức Thư Gửi Chúa
Căn nhà duy nhất trong cả thung lũng đứng trên đỉnh một ngọn đồi thấp. Từ độ cao này có thể trông thấy dòng sông, và cạnh bãi rào nuôi thú là cánh đồng bắp chín có điểm những bông đậu tây luôn hứa hẹn một mùa thu hoạch tốt.
Mặt đất chỉ cần một trận mưa, hay ít nhất là một cơn rào. Suốt buổi sáng, Lencho - biết rất rõ cánh đồng của mình - không làm gì khác hơn ngoài việc chăm chú nhìn lên bầu trời hướng đông bắc.
- Bây giờ mình sắp có nước, bà nó này.
Người đàn bà đang sửa soạn bữa ăn tối đáp:
- Ừ, nếu Chúa ưng cho.
Lũ con trai lớn đang làm việc ngoài đồng, trong khi những đứa nhỏ chơi gần nhà, đến khi người đàn bà gọi hết cả bọn chúng:
- Về ăn tối...
Trong bữa ăn, đúng như Lencho đoán, những hạt mưa lớn bắt đầu rơi. Ở hướng đông bắc, hàng núi mây khổng lồ đang bay đến. Không khí tươi mát và ngọt ngào.
Người đàn ông đi ra để tìm vật gì đó ngoài bãi rào thú, chỉ để hưởng khoái cảm của mưa rơi trên thân thể, và khi trở vào hắn thốt lên:
- Không phải là hạt mưa trên trời rơi xuống, mà là những đồng xu mới. Hạt lớn là đồng mười xu, nhỏ là năm xu...
Hắn thoả mãn nhìn cánh đồng bắp chín với những bông đậu tây che phủ trong màn mưa. Bất chợt một cơn gió thổi mạnh, và những hạt mưa đá rất lớn bắt đầu rơi cùng với mưa. Chúng giống y như những đồng xu mới. Bọn con trai đang phơi mình dưới mưa, chạy ra nhặt những hạt ngọc đông đá.
Người đàn ông ngượng ngập thốt lên:
- Bây giờ đâm tệ thật rồi. Ta mong cho mưa mau tạnh.
Mưa không tạnh mau. Trong một tiếng, mưa đá rơi xuống nhà cửa, vườn tược, sườn đồi, cánh đồng bắp, trên toàn thung lũng. Cánh đồng trắng xoá như phủ muối. Cây không còn một cái lá. Bắp bị phá hủy hoàn toàn. Cây đậu rụng hoa. Lòng Lencho đầy ắp nỗi buồn. Khi cơn bão tạnh, hắn đứng giữa cánh đồng nói với lũ con trai:
- Một trận dịch châu chấu còn để lại nhiều hơn thế này... Mưa đá phá hủy hết: năm nay mình sẽ không có bắp và đậu...
Buổi tối hôm đó là một buổi tối buồn:
- Tất cả mồ hôi của chúng ta là công cốc!
- Không ai có thể giúp mình!
- Năm nay chúng ta sẽ đói hết...
Nhưng trong trái tim của tất cả những kẻ sống trong căn nhà khuất nẻo giữa thung lũng đó có niềm hy vọng độc nhất: sự cứu giúp của Chúa.
- Mặc dù có vẻ như mất hết sạch, nhưng cũng đừng buồn quá như thế. Hãy nhớ là không ai chết vì đói!
- Người ta nói vậy: không ai chết vì đói...
Suốt đêm, Lencho chỉ nghĩ về niềm hy vọng duy nhất của mình: sự cứu giúp của Chúa. Như hắn đã được dạy bảo, mắt ngài thấy hết mọi sự, kể cả nhữn g gì nằm trong đáy lương tâm của con người.
Lencho là một kẻ như trâu, làm việc như một con thú trên cánh đồng, nhưng hắn vẫn biết viết. Chủ nhật sau đó, vào lúc rạng đông, sau khi tự thuyết phục rằng có một đấng bảo vệ, hắn bắt đầu viết một lá thư mà chính hắn sẽ mang ra thị trấn bỏ vào thùng thư.
Ðó không là gì khác hơn bức thư gửi Chúa. Hắn viết:
"Thưa Chúa, nếu ngài không giúp con thì gia đình con và con năm nay sẽ đói. Con cần một trăm peso để gieo hạt lại và sống cho đến mùa sau, vì mưa đá..."
Hắn viết "Gửi Chúa" trên phong bì, bỏ lá thư vào và ra thị trấn, trong lòng vẫn còn băn khoăn. Ở bưu điện, hắn dán tem lên lá thư rồi bỏ vào thùng thư.
Một trong những nhân viên bưu điện, vừa là người phát thư vừa giúp việc văn phòng, cười rũ rượi đi đến xếp, và đưa ông ta xem bức thư gửi Chúa. Trong đời phát thư, hắn chưa bao giờ biết địa chỉ đó. Viên trưởng phòng bưu điện - một anh chàng mập mạp và vui tính - cũng bật cười, nhưng hầu như tức khắc ông đổi sang nghiêm trang và đập đập lá thư lên bàn bình phẩm:
- Ðức tin mới mạnh làm sao! Ước gì tôi có đức tin của người viết lá thư này. Tin như cách anh ta tin. Hy vọng với sự vững tin trong hy vọng của anh ta. Bắt đầu bằng chuyện thư từ với Chúa!
Vì vậy, để khỏi làm tan vỡ sự thần kỳ của đức tin khải hiện trong bức thư không thể phát, viên trưởng phòng bưu điện có ý kiến trả lời bức thư. Nhưng khi ông mở thư ra, rõ ràng là để trả lời ông cần phải có nhiều hơn là hảo ý, mực và giấy. Nhưng ông bám với quyết tâm của mình: ông quyên tiền nhân viên, tự ông góp một phần lương, và một số bạn ông cảm thấy có nghĩa vụ đóng góp "cho một hành động từ thiện".
Ông không thể quyên được một trăm peso, vì thế ông chỉ có thể gửi cho người nông dân hơn phân nửa một chút.
Ông đặt những tờ giấy bạc vào phong bì đề địa chỉ Lencho, và cùng với số tiền là lá thư chỉ có một chữ như chữ ký: CHÚA.
Chủ nhật sau đó, Lencho đến hơi sớm hơn thường lệ để hỏi xem có thư của hắn không. Chính người phát thư đưa thư cho hắn, trong khi viên trưởng phòng bưu điện nhìn theo từ bực cửa văn phòng của ông, đẹp lòng vì đã làm một nghĩa cử.
Lencho không tỏ một vẻ ngạc nhiên nào khi nhìn thấy những tờ giấy bạc - lòng tự tin của hắn là thế - nhưng hắn nổi giận lúc đếm tiền... Chúa không thể nào lầm lỗi, cũng như đã không từ chối lời yêu cầu của Lencho!
Ngay lập tức, Lencho bước tới ô cửa sổ quầy làm việc hỏi xin giấy và mực. Trên bàn viết công cộng, hắn bắtđầu viết ngay, lông mày cau lại vì cố gắng diễn tả ý mình. Khi viết xong, hắn lại ô cửa sổ mua tem, liếm và dán lên phong bì bằng một cú đấm.
Ngay khi lá thư rơi vào thùng thư, viên trưởng phòng bưu điện mở ra. Bức thư nói:
"Thưa Chúa: với số tiền con xin, chỉ có bảy mươi pesođến tay con. Xin gửi cho con số còn lại vì con rất cần. Nhưng đừng gửi qua thư cho con, vì tụi nhân viên bưu điện là một lũ khốn nạn. Lencho."
Y Cựu chuyển ngữ