vhnt, số 151
22 February 1996
Trong số này:
thư vhnt................................................................PCL
T h ơ :
1 - Thơ trẻ Sài Gòn .............................................NTD g/t
- Có một mùa đông đi qua .....................Bùi Ngọc Thái Tân
- Ta còn nơi đây ....................................Nguyễn Danh Lam
- Ru mùa ...........................................Nguyễn Ngọc Khánh
2 - Bính Tí khai bút .............................................Ian Bui
3 - Ô giấy ......................................................Cỏ Nhớ
4 - Giọng em .............................................Trần Thái Vân
5 - Mây bay và, Tôi cũng bay theo .................................Chinh
6 - Huế chờ .....................................................H.A.Th.
D i ễn Ð à n V ă n H ó a / Ð i ện Ả n h :
7 - Tô Hoài và muôn mặt nghề văn ................Vương Trí Nhàn
8 - Ðiện ảnh: "Tôi yêu Trung Hoa ..." ........................Thu Tâm
T r u y ện N g ắn / S án g T ác :
9 - Lối về (p 2/3) ............................Nguyễn Phước Nguyên
10- Mưa đầu mùa (truyện dự thi báo VN) ...........Phạm Chí Dũng
Tolstoy và Chekhov
Tôi không nhớ rõ chính xác câu chuyện, có thể do ai đó kể, hoặc đọc ở đâu đó, về hai văn hào lớn của Nga. Và tôi còn nhớ được xem một bức ảnh chụp hai nhà văn một già quắc thước với râu tóc bạc và dài, như một tiên tri trong cựu ước, và một nhà văn trẻ vẻ mặt cương nghị với đôi mắt sáng, đang ngồi trên một băng ghế chung quanh là cánh rừng và tuyết trắng. Cuộc gặp gỡ của họ, với mẫu đối thoại ngộ nghĩnh thế này:
Leo Tolstoy:
"Chekhov ạ, anh là một nhà văn khá, vài truyện ngắn của anh làm tôi cũng mơ ước chính mình sáng tác được như vậy. Nhưng mà, cái đám kịch bản của anh, anh viết ra làm chi vậy? Xin lỗi, còn dở lắm! Anh chỉ nên viết văn; viết kịch anh còn tệ hơn cả Shakespeare!"
Chekhov gật đầu, suy nghĩ . Sau này, ông ghi lại cảm tưởng của mình về câu phê bình của lão tiền bối Tolstoy:
"Lặng lẽ trở về ga xe lửa, trên lối đi phủ đầy tuyết, tôi thẳng tay đập mạnh vào lưng ngựa cho chạy thật nhanh. Nhanh lên, chạy nhanh lên. Rồi tôi ngửa mặt nhìn trăng mà gào lớn: "Tôi viết kịch tệ hơn cả Shakespeare ..."
oOo
Khi nhà văn ý thức được mình làm thơ tệ hơn Rimbaud hay viết kịch dở hơn Shakespeare, thì anh đã bắt đầu viết văn và làm thơ hay hơn trước.
Chúc bạn một ngày dài hơn ngày hôm qua.
thân ái,
PCL/vhnt
Có Một Mùa Đông Đang Đi Qua
Từ ấy mùa đông đi qua nhà em
Ô cửa kính khép lại
Từ ấy chỉ còn hai chiếc ghế vắng
Lá và gió đi ngang
Tháng mười hai không còn người quét lá
Chiếc áo len đỏ đã đi xa
Khói không thả bên hàng rào ấy nữa
Và người ở lại mù sương
Từ ấy chỉ còn lá me run rẩy
Không biết rơi về đâu
Và hoàng lan trước thềm rêu nở muộn
hương cũng tàn mau...
Hè phố tháng mười hai cây gầy đứng mỏi
Thương nhớ tình đầu
Bùi Ngọc Thái Tân (SV ÐH Mở-bán công)
Ta Còn Nơi Đây
Một chiều như gió thoảng
Ta lại vềnơi đây
Trên những con đường áo
Trên những vòm cây cao
Chân ta không dấu nữa
Ðể làm đau cỏ êm
Bóng ta không tối nữa
Ðể làm rêu hồn nhiên
Ta theo mây và hát
Tiếp lời tình ca xưa
Ðã vội vàng tan biến
Nơi lưng chừng cơn mơ
Ta theo mưa và khóc
Nốt những muà thơ ngây
Ðã vội vàng rơi rụng
Trên cuồng phong tháng ngày
Ta về thanh thản lắm
không còn những đa mang
Ta yêu bình yên lắm
Qua rồi những bất an
Một chiều như gió thoảng
Ta lại về nơi đây
Xin làm nhành lá nhỏ
Xanh nghìn năm chốn này!
Nguyễn Danh Lam (từ "Ta còn đâu đây" của V.H.)
Ru Mùa
Ngủ đi em.Ngủ đi mùa
Niềm vui cũ đến giờ chưa thấy về
Ðong đầy cái lạnh ngoài kia
Mùa đông đơn lẻ bốn bề... là đông
Ngủ đi em-nỗi hoài mong
Ðầy tay ước vọng buông chùng. Còn đâu...
Lời ru tuột giữa lưng chiều
Mình tôi đêm mỏi những điều vu vơ
Ngủ đi em. Ngủ đi em
Nỗi niềm biết đến bao giờ mới nguôi
Chẳng xanh như thể tháng mười
Chẳng non tơ, chẳng bồi hồi-mùa xuân...
Tôi ru vụng dại bao lần
Tháng năm oà khóc đầy sân mưa rào
Lá bàng đỏ giữa chiêm bao
Ngủ đi em! Ngủ đi nào! Ngủ đi...
Nguyễn Ngọc Khánh (Thái Bình)
báo Tuổi Trẻ, TT 12-12-1995
Bính Tí Khai Bút
Thoai thoải đường xuân dốc dốc lên
Ôm con ngựa sắt vó trung thành
Giao thừa trong khoảng non trăm dặm
Mở tí radio: Beethoven!!!
96'2
ianb
Năm ngoái về VN, Tr ở Cali gởi tôi tấm thiệp sinh nhật nhờ chuyển cho D. Năm nay Tr. kể tôi nghe về cuốn lịch trên bàn làm việc. Vẫn còn ô giấy có ngày sinh nhật D. Nhưng D. sẽ không nhận được thiệp nữa. Số mạng của họ là yêu nhau để xa nhau và mất nhau. Chuyện của bạn làm tôi nhớ câu thơ của Phan Các Chiêu Hằng "vẫn tự hỏi lạ lùng chưa bạn cũ". Tr., đừng thắc mắc nữa, ô giấy đó chỉ lạ lùng như trăm điều lạ lùng của cuộc sống. Làm cho bạn bài thơ, tôi đặt tên "Ô Giấy":
Ô Giấy
Sinh nhật người nằm trong ô giấy
ở nơi em ngày tháng lạ lùng
ví như đời chia 5 xẻ 7
nhớ chi người ô giấy mênh mông.
Ô giấy trống giữa lòng lịch trắng
tịch mịch dòng suy tưởng mong manh
ví như mà trời yên đất lặng
có tìm nhau từng nỗi đoạn đành.
Sinh nhật người tuổi buồn ai thắp
vài ba cây nến xót xa cùng
ví như mà xuôi theo số phận
người còn hoài em ở tim không.
Thương ô giấy nỗi buồn sinh nhật
tự hỏi mình có lẽ, ví như
ví như mà người nghe em chúc
có lẽ tin là tiếng tạ từ.
Cỏ Nhớ
Giọng Em
* xuân, loài hoa, quê nội, xứ người
Giọng em hiền như bụt
Như gió nhẹ ngày xuân
Khiến lòng anh bâng khoâng
Nhớ về thời xa lắm
Giọng em như nắng ấm
Như hoa trắng bên đàng
Anh mơ một chiều vàng
Quê nội hoa soan đỏ
Giọng em nghe nho nhỏ
Anh tưởng về trùng dương
Sóng thì thầm bờ dương
Ánh trăng hiền nghiêng nón
Giọng em như thánh thót
Nhỏ giọt đầu xuân tươi
Anh chợt nhớ một người -
Ôi chao, anh thiệt lãng
Giọng em thật bình thản
Như mây chiều nay trôi
Nhẹ như cánh hoa hồi
Bàng bạc bay khắp chốn
Giọng em đầy vui nhộn
Như chim nhỏ trên cành
Cất tiếng hát yến oanh
Em cho anh ngày mới
Giọng em nghe phơi phới
Không gợn bụi trần ai
Ðường em đi rất dài
Giữ nhé, đừng rơi mất
Giọng em hiền như thật
Như luống cà, ven đê
Người đi xa không về
Nghe rồi muốn quay lại
Giọng em nghe mềm mại
Như cánh hồng nhung êm
Anh mơ được nghe thêm
Một chút thôi, một chút...
Giọng em hiền như bụt
Như gió nhẹ ngày xuân
Xa nhưng lại rất gần
Gần mà sao xa quá!
trần thái vân
Mây Bay và, Tôi Cũng Bay Theo
(phác thảo 3 khúc thơ ngắn, gửi Q.Trg)
(*)
Bóng người là bóng ai qua?
Ðọng lại đây mảnh trăng buồn
Người xô tôi ngã
Xô tôi ngã xuống đời
Xô tôi ngã giữa trần gian
Xô tôi ngã giữa
chút vàng son kia
Rượu tôi đành đổ hết cho sông
Tình tôi ai uống cạn mất rồi
Mây bay trên cao tôi nằm dười đất
Mây bay và,
Tôi cũng bay theo.
(**)
Tôi trôi theo sông ,ngàn đêm uống cạn
Rượu không màu và sông không hương
Trăng bay và,
Tôi bay theo
Rượu lầu xanh uống, nguyệt tàn trống canh
Trăm năm tôi đã ru người rồi
Ðừng xô tôi ngã,
Người ơi...
Ngàn năm tôi sẽ ru người mãi
Giấc tròn đầy đủ chiêm bao
(***)
Mây bay và,
tôi cũng bay theo
Thuyền tôi bé nhỏ
giữa sông buồn
Trôi theo giòng nước dài vô tận
Sóng nào xô đẩy
một đời xa
Em bay và,
tôi cũng bay theo
Rượu không màu và em không tên
Trăng lồng trong bóng ai qua trễ
Dưới sân nghe lại
một mùi hương
Chinh
2.20.1996
Huế Chờ
Ðây núi Ngự Bình thăm thẳm cao
Ðây sông Hương nước chảy dạt dào
Một con thuyền nhỏ lờ lững sóng
Vẳng điệu mái nhì man mác đưa
Hãy về cùng em thăm Huế xưa
Thần Kinh năm cũ đã sang mùa
Phượng đâu đỏ ối dường như nhắn
Ðến người ly biệt vẫn trông mong
Ngọ Môn hờ hững đón hừng đông
Lá trúc xôn xao thôn Vĩ thầm
Trở mình thức giấc, cô hàng xóm
Khẽ chân ra giếng nụ cười xuân
Tràng Tiền mấy nhịp lưu luyến chân
Tiếng chuông Thiên Mụ vọng xa dần
Tung bay tà áo người mất bóng
Chiếc nón bài thơ in mắt nâu
Anh xa Thành Nội chừ đã lâu
Hạt mưa tí tách gợi cơn sầu
Ðông Ba dẫu lớn mà nỏ chứa
Cho vừa cơn nhớ dạ nao nao...
H. A. Th.
Tô Hoài Và Muôn Mặt Của Nghề Văn
Nhân kỷ niệm 75 ngày sinh Tô Hoài.
Trong hoàn cảnh nghề viết văn ở ta còn mang nhiều tính cách nghiệp dư, tự phát, Tô Hoài có lẽ là một trong số ít ỏi các cây bút đã sống với nghềvới tất cả sự chăm chút, sự tận tuỵ của một người làm nghề chuyên nghiệp.
Nhớ ngày nào liễu mới ngâm
Le te bên vũng độ tầm ngang vai
Chợt đâu bóng cả cành dài
Ðã sương đã khói đã vài năm nay
Mấy câu thơ đó, trích trong "Hoa tiên" của Nguyễn Huy Tự, do Tô Hoài phát hiện. Trong cuốn " Một số kinh nghiệm viết văn" của tôi (1960) khi kể lại kinh nghiệm tìm chữ, học chữ của mình, ông đã đưa ra để giảng giải về vẻ đẹp và sự giàu có của tiếng Việt.
Tô Hoài là thế, trong số các nhà văn hiện đại, ít ai như ông, lúc này còn thường nói tới truyện nôm thế kỷ XVII-XVIII. Vả chăng, câu chuyện không phải là chữ nghĩa. Trong nhiều thiên truyện viết hồi tiền chiến, Tô Hoài không giấu giếm một sự thật là trước khi viết, ông đã nghiền ngẫm rất kỹ những Kiều, Nhị độ mai, Phan Trần... Và người ta có cảm tưởng việc anh thợ củi 20 tuổi ở làng Nghĩa Ðô này viết văn chẳng qua cũng chỉ là tiếp tục công việc của bao nhiêu chàng trai thợ củi tài hoa khác, như anh chàng Hời trong "Quê người" thường tập Kiều, lẩy Kiều để làm duyên với những cô Mơ, cô Hẹn, cô Lụa trong làng. Văn chương nảy nở tự nhiên như thể nó bắt rễ ngay vào cuộc sống, ở đâu có con người với những vui buồn ao ước thiết tha chìm nổi của mình, ở đó có văn chương.
oOo
Nỗi ham đi, ham biết là một bản tính bền vững ở Tô Hoàị Trong các tài liệu hướng dẫn công việc các nhà văn trẻ, tác giả "Dế mèn phiêu lưu ký" vẫn được nêu gương như một nhà văn thường xuyên lăn lộn với thực tế.
Nhưng trong bước chuyển từ cái nền của năng khiếu tự phát sang hoạt động đa dạng của một nhà văn hiện đại, còn nhiều việc khác phải làm, và thực tế đã được Tô Hoài làm một cách tự nhiên "ngon lành". Một loại phiêu lưu khác đã diễn ra thường xuyên: phiêu lưu trong sách vở. Ðến với Vũ Ngọc Phan để nhờ hướng dẫn cách xin thẻ thư viện, Tô Hoài đã được làm quen với tủ sách của Vũ gia trang. Nhớ tới Vũ Bằng ,là nhớ tới cuốn sách đã được nhà văn này cho mượn và chuyền tay đọc suốt mấy đêm, cuốn "Phố mèo câu cá" của J.Foldes, nhà văn Hungari. Biết rằng những ngày này ở tuổi bảy mươi, Tô Hoài còn rất thích Alberto Moravia và thường vẫn được một người bạn ở Paris gửi tiểu thuyết của nhà văn này về tặng, người ta sẽ không ngạc nhiên với việc Tô Hoài kể là hồi nào vừa viết "Dế mèn"..., "Quê người", vừa kỳ cạch tập dịch Maupassant từ tiếng Pháp để học thêm, cũng như sách tiếng Việt thượng vàng hạ cám gì ông cũng đọc và ngán mấy cũng không bỏ dở. Tô Hoài cắt nghĩa:đơn giản, đó là thói quen của người tự học. Nhưng ở cái nghề kỳ lạ này, có ai không phải thường xuyên và miệt mài tự học, nếu muốn là người tự trọng?!
Nhà thơ Tế Hanh nói trong buổi họp mặt mừng Tô Hoài 70 tuổi:
- Có những người như Picasso sinh ra để vẽ. Ở một mức độ nào đó, cũng có thể nói Tô Hoài sinh ra để viết. Cứ có cái bút và tập giấy trong tay là Tô Hoài phải viết.
Tiếp lời Tế Hanh, có thể nói tới mấy khía cạnh khác làm nên tính cách chuyên nghiệp của ngòi bút Tô Hoài:
- Viết tiểu thuyết, viết truyện ngắn, viết báo, viết tin và bình luận văn học, từ A đến Z. Việc gì cũng làm.
- Tận dụng cái hướng đã mở, thường có ý thức tạo nên những "khu vực thâm canh" của ngòi bút:viết về ngoại thành, viết về thiếu nhi, viết về loài vật, viết về miền núi.
- Khi cần, ngòi bút ấy có thể "guồng" rất nhanh, một tối xong một truyện ngắn. Nói chung đã định là viết được.
- Tuy nhiên cũng hơn ai hết, đấy là người thấu hiểu cả những đen bạc, những thách thức của nghề, và sẵn sàng chấp nhận chúng. Mới đây thôi trong hội nghị của những người viết văn trẻ 4-1994, có một câu chuyện Tô Hoài kể làm anh em tham dự hội nghị thấy ông, một nhà văn lão thành, vẫn rất gần gủi với chính mình. Ðó là câu chuyện chung quanh một vài bản thảo của Tô Hoài mới viết gần đây: Truyện ngắn này quăng đi quăng lại trên ban biên tập mấy tờ báo mà chưa được đăng;chùm bài điểm sách kia bị trả lại, thôi thì đành tự nhủ là mình vô duyên với báo;và cuốn tiểu thuyết kia nữa, viết ra đã mấy năm vẫn xếp xó, nhà xuất bản bảo còn phải chờ, có cơ hội thuận tiện mới tung ra được...
Những nóng lạnh như vậy, ai người làm nghề đều có trải qua, và Tô Hoài không phải là một ngoại lệ, con người ở tuổi "thất thập cổ lai hi" ấy đôi khi cũng chẳng được ưu tiên chút gì. Song chính ra điều dó lại làm cho ông trở nên khôn ngoan, thành thạo, và trang viết của ông vẫn gần với cuộc đời này, cái cuộc đời vất vả nhưng nếu biết sống,nhẩn nha thanh thản mà sống, thì vẫn là đầy hấp dẫn. Nó không cho ai hơn mà cũng chẳng bớt phần của ai cả!
Trong các tự truyện Tô Hoài đã thường nói tới cái cảm giác lớn nhất chi phối ông lúc vào nghề: trước tiên, đó là công việc để duy trì sự sống. Từ góc độ một thanh niên đang lay lắt kiếm sống, ông thấy việc viết lách của mình lúc ấy chẳng khác việc đi giữ chân bán hàng cho hãng Bata, nghĩa là cũng phải nghiêm túc cần mẫn thì mới sống nổi.
Cái nhìn ấy còn theo đuổi ông mãi trong nhiều năm về sau.
Nhưng nếu văn chương chỉ có chuyện bán bản thảo và nhận tiền thì còn gì buồn hơn! Ðến "ông lớn" một thời như Lê Văn Chương có lúc còn thấy nó vô nghĩa nữa là bao nhiêu kẻ mặt trắng thư sinh khác! May thay với Tô Hoài, và qua Tô Hoài, chúng ta thấy:bên cạnh đồng tiền, nghề văn còn có một cái gì khác, sương khói mông lung mà vẫn là một nguồn sức mạnh vô hình mang lại cho người ta niềm vui và nghị lực.
Cũng giống như chú dế mèn rời xa tổ ấm để chu du thiên hạ, con người này đã đến với nghề văn để được nhìn rộng ra hơn cái làng của mình. Ðược lang thang chơi bời mà cũng là được thấm thía bao nhiêu bài học nghề nghiệp trong những chuyến giang hồ vặt. Ðược thuận chân miên man đi tận Huế, tận lục tỉnh Sài Gòn, để lại rồi trở về, nằm khàn nghe những lời tâm sự của ông bạn nghèo Nam Cao. Văn chương chẳng là gì cả, nhưng nó đủ sức mang lại cho kiếp người tẻ nhạt một chút ý nghĩa và trước sau, nếu biết để cả tâm hồn mình vào, thì đấy vẫn là một nghề giúp đời, một nghề lương thiện. Chẳng những thế, ở lớp người như Tô Hoài không chừng văn chương còn khiến người ta vững lòng trong những khốn khó để chân cứng đá mềm mà sống tiếp nữa. Thử tưởng tượng mấy năm 1947-1948, một lớp thanh niên-người trẻ nhất mới 25, 27; người cứng tuổi hơn một chút mới trên ba mươi - như Nguyễn Tuân, Xuân Diệu, Nguyễn Huy Tưởng, Tô Hoài, Nguyễn Ðình Thi... theo tiếng gọi của cách mạng, kéo nhau lên Tây Bắc, Việt Bắc để họp hành, thảo luận, làm thơ, viết báo phục vụ cho cuộc kháng chiến thần thánh. Biết đâu trong những lý do khiến trí họ sáng lòng họ bền, chẳng có văn chương? Với thói quen sống, quan sát, ghi chép đều đặn, Tô Hoài đã vừa công tác vừa tìm hiểu quan sát cuộc sống giản dị của những bản Dao ở Bắc Cạn, của đồng bào Thái, Mường ở Nghĩa Lộ, ở Văn Yên... Và thế là lúc nào đó những "Vợ chồng A Phủ", "Mường Giơn", "Cứu đất cứu mường"... lại được viết ra, vừa mang đến cho mọi người ít trang sách bổ ích, vừa giúp cho tác giả những đầm ấm tin yêu. Trong trường hợp như thế, nghề văn đã là cả nguồn sống của một đời người và đây có lẽ là thứ ân sủng nghề nghiệp mà chỉ những ai hết lòng với nó mới được tận hưởng.
Vương Trí Nhàn
(TT số 38-95)
Tôi Yêu Trung Hoa
(Về bộ phim mới "Hội Tam Hoàng" của Trương Nghệ Mưu)
Sau thành công của bộ phim "Sống" tại Cannes, Trương Nghệ Mưu lại chứng tỏ tài năng của ông với bộ phim mới "Hội Tam Hoàng Thượng Hải". Bộ phim cho thấy một Thượng Hải của những năm 30, dưới cách nhìn của chàng nông dân trẻ, khám phá cho mình một thành phố của xa hoa và giàu có, của cạm bẫy và mafia. Ðóng vai chính trong phim tất nhiên lại là người đẹp Củng Lợi trong vai một kỹ nữ của tửu điếm, tình nhân của một tên trùm mafia tàn bạỗ.Nhân dịp này tờ Figaro đã phỏng vấn ông:
- Bối cảnh bộ phim mới của ông diễn ra ở Thượng Hải những năm 30. Thời kỳ này có gì hấp dẫn ông?
- Có một mối liên hệ nhất định giữa Trung Quốc ngày nay và Trung Quốc những năm 30. Thời đó Thượng Hải là một thành phố mở cửa cho mọi hướng, thành phốcủa những kẻ phiêu lưu, háo danh, hãnh tiến muốn vươn tới giàu có. Giờ đây khi kinh tế Trung Quốc mở cửa, những thành phố như Thượng Hải, Bắc Kinh, Quảng Châu gieo vào con người niềm hy vọng phát đạt. Và tôi những muốn chỉ ra rằng không nên bị cuốn hút quá đáng bởi những lợi lộc vật chất, rằng nên giữ lấy lòng cao thượng vị tha và sự phong phú của tâm hồn. Ý nghĩa bộ phim là như vậy.
- Nhưng phim của ông lại kể về Hội Tam Hoàng, về mafia?
- Mafia chỉ là cái phông. Trong suốt bộ phim sự có mặt của nó được cảm nhận trong cuộc đấu tranh giành quyền lực. Tôi cũng có thể làm phim theo phong cách chưởng Trung Hoa, đầy rẫy bạo lực. Nhưng tôi không hề muốn đi theo con đường quá mòn nhẵn ấy. Tôi trình bày số phận của Tiểu Thanh Bảo (Củng Lợi đóng) - nữ ca sĩ tửu điếm, cùng lúc phải lòng cả tên trùm mafia lẫn chàng bồi bàn trẻ Sui Shen (Diễn viên Vương Tiểu Tiểu) - cả hai đều thuộc môi trường mafia. Hội Tam Hoàng Thượng Hải được trình bày qua sự cảm nhận của anh nông dân phục vụ Tiểu Thanh Bảọ Cuối cùng lòng vị tha, rộng lượng đã chiến thắng sự tàn bạo...
- Ông nói nhiều lời tốt đẹp về lòng vị tha, cao thượng. Vậy là sau tất cả những gì ông phải gánh chịu trong thời kỳ "cách mạng văn hoá", ông vẫn tin tưởng vào con người?
- Không phải mình tôi phải gánh chịu điều tương tự. Ðã có hàng triệu người như thế, nhiều người còn khổ ải hơn tôi. Tôi chẳng có gì phải tiếc nuối, dù cũng không thể quên nổi quá khứ-cái thời gian lao khổ ấỵ Tôi yêu Trung Hoa.
- Có đúng không cái huyền thoại về ông rằng, khi mới khởi nghiệp ông đã phải bán máu để lấy tiền mua máy ảnh?
- Vâng, tôi đã bán máu mình và nhận được số tiền tương đương 18 franc. Sau đó cùng với chút tiền tích cóp được tôi đã mua được chiếc máy ảnh.
- Ông đã bắt đầu làm phim như thế nào?
- Ngẫu nhiên thôi. Tôi thích chơi bóng rổ hơn cả. Nhưng không đủ chiều cao. Năm 1978 là năm đầu tiên có thể xin thi tuyển vào các trường đại học mới được mở cửa lại. Tôi chọn khoa điện ảnh vì thích chụp ảnh và thi đỗ.
- Ông có mong muốn làm phim ở châu Âu hay Mỹ, nơi có thể có nhiều cơ hội hơn?
- Hoàn toàn không. Nguyên nhân rất đơn giản: tôi không thấu đáo về những nước này. Tôi không phải là thiên tài và cũng không phải là "tip" đạo diễn có thể làm việc ở bất cứ chỗ nào. Nếu như đến nay tôi đạt được thành công nào đó thì nó cũng gắn liền với lao động cật lực của tôi ngay trên đất nước tôi.
Thu Tâm lược dịch
(theo Le Figaro)
Lối Về
(phần 2)
Rửa chén xong với đứa cháu, ông Năm Tràng lau khô tay bằng một tấm khăn nhỏ. Lau xong, ông Năm Tràng máng cái khăn lên một cây đinh đóng trên vách ở một góc bếp rồi ngồi xuống trên một cái ghế nói với Đôn:
- Đôn, rót dùm cho ông nội tách trà đi con.
Khi Đôn đem tách trà ra để nhẹ lên mặt bàn, ông Năm Tràng chỉ chiếc ghế trước mặt mình mà nói:
- Ngồi xuống đi con. Ông nội có chuyện này muốn nói.
Đôn vâng lời ngồi xuống chiếc ghế, mắt vẫn không rời khuôn mặt hiền từ nhưng nghiêm nghị của ông mình. Với Đôn, khuôn mặt đó vẫn không mất đi vẻ thân mật ngày nào, chỉ điều là có nhiều nếp nhăn hơn. Và mỗi nếp nhăn đã hằn sâu hơn trên khuôn mặt đó kể từ lần ông Năm Tràng đưa Đôn cùng ông Phúc lên đường vượt biên cách đây hơn sáu năm về trước. Không hiểu sao, Đôn chợt muốn bước lại gần hơn để được đưa tay vuốt ve những nếp nhăn đó của ông mình. Giọng ông Năm Tràng lúc đó trở nên gần gũi:
- Con nhớ hồi đó lúc con còn nhỏ phải dìa ở với ông nội không? Má con phải theo ba con ra ngoài Trung, chỉ đem có thằng Hậu theo. Vì nó còn nhỏ quá, không rời má được đó. Con nhớ không?
Chờ Đôn gật đầu xong, ông Năm Tràng mới nói tiếp:
- Hồi đó con còn nhỏ lắm. Mới mười một tuổi hà. Má con đưa con xuống ở với ông nội vì ra ngoài Trung cực khổ lắm. Má con lo cho hai đứa không xuể, lại còn phải lo làm ăn thăm nuôi ba con nữa. Chà, thiệt là tội nghiệp cho má con lúc đó...
Thấy mình đi hơi xa câu chuyện muốn nói, ông Năm Tràng ngừng lại, hớp một ngụm trà, thở khà ra thật nhẹ rồi nói tiếp:
-Con ở với ông nội từ lúc đó cho đến lúc ba con ra khỏi tù rồi trốn đi là sáu năm. Từ nhỏ đến lớn ở gần ông nội nên ông nội hiểu tánh tình của con lắm. Mà con cũng gần với ông nội nữa, hơn là với ba má con. Lúc con đi là con mười bảy tuổi, thằng Hậu lúc đó được mấy tuổi con nhớ không?
- Dạ sáu, bảy tuổi gì đó.
Ông Năm Tràng gật đầu:
- Ờ, phải rồi. Lúc đó thằng Hậu vừa được bảy tuổi. Ba con đi cải tạo ra là năm năm, rồi dìa ở cùng ông nội với má và em con được một năm nữa rồi đi. Hồi đó ông nội không chịu đi nên ba con cũng định không đi rồi đó. Má con với ông nội phải đốc thúc miết rồi ba con mới chịu đi và dắt con theo, vì chỉ đủ tiền chịu cho chủ ghe cho hai người thôi. Má con lúc đó cũng không chịu đi thay chỗ ba con, nói là sợ cướp biển, sợ hải tặc, sợ sóng gió tùm lum, nên nhất định ở lại. Nói là nói vậy chớ ông nội biết má con muốn cho ba con đi với con. Với lại lúc đó thằng Hậu còn nhỏ quá, sợ đi chịu khổ không cam, nó yếu gan từ nhỏ mà, con nhớ không?
Uống thêm một ngụm trà nữa, ông Năm Tràng lại tiếp tục nói về chuyện quá khứ, đôi mắt khép nhỏ lại như để sống lại thời gian đã qua:
- Tại vì ông nội cả quyết không đi nên má con mới ở lại để lo cho ông nội, ông nội cũng biết luôn điều đó nữa. Mãi tới cách đây một năm ông nội thấy má con và thằng Hậu vẫn cứ ở vậy với ông nội hoài cực quá. Nhứt là thằng Hậu, chẳng có tương lai chi hết ráo. Lúc đó ông nội mới quyết định đi, bởi ông nội đi thì má con mới chịu đi. Ông nội tiếc vườn, tiếc ruộng nên mới không chịu đi lúc đầu, nhưng riết rồi thấy nói là của mình vậy chứ chỉ có cái nhà là mình ở. Còn ruộng vườn gì đều là của... người ta hết trọi rồi. Nên ông nội bèn biểu má con và thằng Hậu chuẩn bị đi. Có chết cũng đi. Tiền dành dụm của ông nội và má con cùng với tiền bán đồ của ba con gửi về, ông nội đem đút cho chủ ghe hết để lo cho cả ba người cùng được đi.
Thấy ông mình ngừng lại để uống trà, Đôn có cảm giác là mình phải nói gì đó, thì ông Năm Tràng đã đưa tay ra ngăn lại vừa lúc Đôn định thốt lời mà hỏi rằng:
- Con có biết tại sao ông nội phải nói dài dòng tự nãy giờ không?
Nhìn đứa cháu mình lắc đầu, ông Năm Tràng mỉm cười:
- Ông nội nói như vậy là để con thấy tại sao giữa con và ba má con có một khoảng cách. Nhất là với má con. Từ nhỏ tới lớn con không được ở gần má con nhiều, nên không khỏi có điều xa lạ khi gặp lại. Má con cũng hiểu điều này. Nhưng nói như vậy đâu có nghĩa là má con không biết buồn khi thấy con hờ hững với em con đâu.
Uống hết phần trà còn lại trong tách, ông Năm Tràng đưa tách trà cho cháu không cho cháu. Chờ Đôn ngồi xuống sau khi mang tách trà mới trở lại cho mình, ông Năm Tràng hỏi tiếp:
- Con có biết con làm ba má con rất buồn từ khi má con vừa qua đây đến bây giờ không?
- Dạ, con biết. Nhưng con...
- Ông nội hiểu con không cố ý, và có những điều xa lạ chưa quen thuộc giữa má con và con. Nhưng con không nên để cho những điều đó trở thành một thái độ trốn lánh với má và em, con hiểu không?
Nhìn đứa cháu mình ngượng ngập gật đầu, ông Năm Tràng cắt nghĩa thật chậm rãi:
- Con coi. Từ khi má và em con đến đây cùng với ông nội, con lúc nào cũng ở lại trường vào những ngày cuối tuần, kể cả ngày lễ. Hỏi thì con nói con bận học thi. Còn hễ muốn lên thăm con thì con nó phải bọ chách, bọ chét (project) gì đó với bạn bè. Con làm như vậy con nghĩ coi được không? Chính ba con đã nói lại cho ông nội nghe điều này. Bộ con tưởng là ba má con không hiểu thái độ trốn lánh của con hay sao? Còn thằng Hậu nữa. Nó năm nay đã là mười ba tuổi rồi. Bộ con nghĩ nó còn nhỏ đến độ không hiểu gì ráo hay sao? Có khi con làm lơ với nó, nó buồn. Nhưng nó dấu má con vì sợ má con buồn. Nó ở cực với má con từ nhỏ, nên nó thương má con lắm. Nó chỉ kể lại cho ông nội nghe thôi. Con nghĩ coi, nếu má con biết hết những chuyện này, má con còn buồn biết bao nhiêu nữa.
Đôn gục đầu xuống và nói nhỏ:
- Con đâu có muốn vậy ông nội. Con cũng không biết tại sao nữa.
- Con cũng đừng tự trách mình quá. Ông nội hiểu hết á. Ông nội nói đâu phải để la con, mà để cho con hiểu mà để ý, để tứ chút xíu để đừng làm buồn lòng ba má và em con.
Đặt tách trà vừa uống xuống, ông Năm Tràng cười nhẹ:
- Cũng như hồi chiều. Con nói con phải ở nhà dọn dẹp vì mai có bạn tới. Con nói như vậy mà ba má con không buồn sao được. Ba con nói với ông nội là khi má con qua đây, con không dìa sớm để giúp ba con dọn dẹp nhà cửa để đón má và em con. Chỉ dìa để ra phi trường đón má con dìa nhà rồi lên trường lại ngay. Vậy đó, mà mai bạn con qua, chỉ là bạn thôi, mà con lo rằng nhà cửa không được tươm tất. Phải ở nhà dọn dẹp, hổng chịu đi chợ cho vui cả nhà. Ba con buồn lắm. Ông nội nhìn ba con, ông nội hiểu lắm. Mà con biết ba con buồn nhứt chuyện gì không?
Đôn lắc đầu và đứng dậy đem bình trà để ở gần bếp lại rót thêm cho ông mình. Lúc vừa quay đi, Đôn đua tay vội vàng dụi mắt, nhưng hành động này cũng không thoát khỏi đôi mắt của ông Năm Tràng. Nâng tách trà cho cháu châm thêm, ông Năm Tràng nói tiếp:
- Cái buồn nhất của ba con là không làm sao nói chuyện được để cho con hiểu. Con thử nghĩ coi, cha mẹ mà không nói chuyện được với con cái, phải nhờ đến người khác, dù người đó có là ông nội đi chăng nữa, thì làm sao không buồn được hả con?
- Dạ, con biết.
- Ờ, còn thằng Hậu nữa. Con biết hồi chiều lúc ăn cơm xong, con mắc rửa chén, thằng Hậu nó không dám tắm ở bên phòng tắm của con. Nó đi lấy cái thau với cái lon nhôm đem qua phòng tắm của ba má con mà tắm đó. Con có biết không? Tội nghiệp con à. Lúc mới qua nó đâu biết vặn vòi nước ra làm sao, lần đầu tiên xài bồn tắm nó vặn làm sao đó mà xém một tí là bị phỏng. Ba con có chỉ, nhưng còn sợ nó chưa quen xài, nên mới lấy cho nó cái thau và cái lon là vậy. Để cho nó có thể tắm một mình mà không sợ bị phỏng. Vậy mà không biết chuyện gì mà thằng Hậu lại lủi thủi đem lon và thau qua bên phòng bên kia tắm vậy nữa. Con có biết không?
Tránh tia mắt nhìn của ông mình, Đôn nghĩ đến câu nói và hành động của mình trong phòng tắm hồi chiều, cố ý để cho thằng Hậu nghe được, khi Đôn nghe tiếng chân của thằng Hậu chạy gần đến. Đôn thấy mình thật ích kỷ và nhỏ mọn. Giấu nỗi bức rứt của mình, Đôn lại hỏi ông Năm Tràng:
- Còn con? Con có làm gì ông nội buồn không?
- Chưa con à. Nếu có thì ông nội đâu có ngồi đây mà nói chuyện với con.
- Dạ, con biết. Nhưng tại sao ông nội lại nói là chưa.
- Ông nội nói chưa là bởi vì nếu con đã hiểu hết những gì ông nội nói, ông nội sẽ buồn lắm nếu ông nội không thấy con thay đổi lối cư xử với ba má và em con. Con hiểu không?
- Dạ, con hiểu.
Dù câu trả lời của Đôn thật nhỏ, ông Năm Tràng vẫn nhận ra được sự thành tâm của đứa cháu mình qua câu nói đó. Từ từ đứng dậy, ông Năm Tràng bước qua vỗ vai đứa cháu mình và nói:
- Rồi. Vậy là xong chuyện. Bây giờ con có dọn dẹp gì thì cứ dọn dẹp đi. Ông nội có tiếp con được gì thì ông nội tiếp. Nhưng nè, Đôn...
- Dạ.
- Khi nào dọn dẹp xong thì con hẳn hút bụi nghe con.
- Tại sao vậy ông nội?
- Để trước khi con hút bụi, ông nội ra sau vườn. Cái máy nó kêu um sùm hà. Kỳ cục hết sức. Bên này cái gì cũng tân tiến hết. Chế được cái máy hút bụi sao tụi nó không chịu chế làm sao cho nó im bớt đi cho khỏe người ta. Mỗi lần hút bụi là ồn ào như cái chợ. Ai nói cũng không nghe được gì hết ráo.
Rồi ông Năm Tràng vừa bước đi ra phòng khách, vừa nói:
- Thiệt là ngộ. Má con ở bển có thể vừa quét nhà vừa nghe thằng Hậu trả bài học thuộc lòng. Qua bên này có máy quét nhà mà sao nó kêu như ống loa bễ vậy cà. Có cháy nhà chắc người ta la làng lên cũng không ai nghe được mà chạy. Thiệt là kỳ hết sức...
Đôn nhìn theo dáng ông Năm Tràng bước đi theo tiếng nói nhỏ dần, rồi đứng dậy vươn vai nhìn quanh căn nhà bếp. Bất chợt Đôn nhận ra mùi nấu nướng không còn nồng và khó chịu như mình nghĩ nữa. Mùi tỏi khét, mùi rau thịt của nồi canh cũng không còn. Riết rồi cũng quen. Đôn tự nói với mình như vậy và mang tách trà của ông Năm Tràng về phía bồn rửa chén.
nguyễn phước nguyên
(hết phần 2)
Mưa Ðầu Mùa
Hết giờ làm việc, anh thu xếp cho gọn những bản vẽ kỹ thuật trên bàn rồi thong thả đi bộ về nhà. Con đường phố nhỏ vắng vẻ này đã quá trở nên quen thuộc đối với anh từ bốn năm nay, từ lúc anh bước chân vào công tác trong một cơ quan xây dựng của thành phố này. Một ngày hai lần, anh lại dạo bước trên con đường, ngắm nhìn những mái nhà, những số nhà và những khuôn mặt mà anh đã gần như nằm lòng. Ðoạn đường nối giữa cơ quan và khu tập thể xây dựng nơi anh đang ở chỉ khoảng một ngàn bước chân, hình như cũng có cùng độ tuổi ba mươi như anh. Giờ đây, anh lại lặng lẽ trở về căn phòng trống của mình, ăn một bữa cơm chiều đơn giản rồi chuẩn bị đến trường theo học lớp luật buổi tối.
Những ngày gần đây, cuối mùa khô, tiết trời càng thêm nóng bức. Ở vài nơi ít cây xanh trong thành phố, nắng như đổ lửa chụp xuống những con đường rải nhựa làm hơi nóng bốc lên hầm hập. Khu tập thể của anh là nơi khuất gió, vậy nên không chỉ buổi trưa mà ngay vào buổi tối, hơi thở nóng hổi của mặt đất vẫn chưa tan. Vào lúc đó, tất cả các quạt trong mọi gia đình đều được mở hết công xuất. Người ta chỉ còn biết trông đợi vào những giọt mưa đầu mùa.
Bỗng nhiên bầu trời râm lại, rồi chẳng mấy chốc tối sầm. Không khí đang khô rang bỗng trở nên mát mẻ. Một cơn gió đầu tiên, không biết từ đâu tới, tràn thốc qua con đường làm rung rinh cây lá. Anh đứng sững lại, quay về hướng gió, hít thật căng phổi luồng không khí trong lành ngọt ngào ấy. Xung quanh anh, nhiều người đang hớn hở nhìn nhau, gương mặt sinh động hẳn lên. Anh đang chứng kiến sự ra đi của mùa khô bằng những giọt mưa đầu mùa tuyệt diệu.
Mưa lộp độp thảy lên những mái nhà, trên đường phố, ban đầu còn thưa thớt, sau dầy hẳn. Ðột ngột, từ trong không trung tối sẫm, một tia chớp loé lên, cùng một tiếng nổ vang trời. Rồi lại chớp, những lằn chớp xanh lè đáng yêu. Mưa mỗi lúc càng thêm nặng hạt, rồi chẳng mấy chốc sầm sầm đổ xuống như một cơn thác lũ, xả ra những chất chứa đang dồn nén từ bao ngày qua.
Anh đứng trú mưa dưới hiên một ngôi nhà lớn, vẫn bị những giọt mưa lạnh bắn vào mặc dù mái hiên khá dài. Ðường phố vắng ngắt, mờ mờ hun hút trong mưa, chỉ có mưa. Anh xoa tay lên mặt thú vị. Như đồng cảm với anh, âm thanh mưa dội mỗi lúc một lớn hơn, tưởng có hàng ngàn đôi chân đang hối hả bước đi rầm rập.
Chợt qua màn mưa xối xả, anh nhìn thấy một bóng người đang nép vào gốc cây cổ thụ lớn cách anh chừng năm chục mét. Anh suýt buột miệng kêu lên. Trời đất, sấm sét thế này mà người đó chẳng hiểu gì cả, chỉ một lằn sét là đủ để chẻ cây cổ thụ ra làm đôi. Anh hét gọi, nhưng tiếng mưa lớn quá, người kia không nghe được. Mấy phút trôi qua, cực chẳng đã, anh đành lao ra ngoài mưa.
- Muốn chết hả?
Anh vuốt nước mưa ròng ròng trên mặt, gằn giọng quát. Ngay lúc ấy anh nhận ra người phụ nữ đang bế một thằng bé, cả hai run rẩy nép sát đầu vào nhau, từ đầu đến chân ướt sũng. Người phụ nữ nhìn anh, ánh mắt lộ vẻ sợ hãi nhưng cũng có cái gì đó hơi bàng quan. Thấy người phụ nữ không đáp lại, anh tức tối kéo tay chị. Chị không cưỡng lại, cứ để anh lôi về nơi mái hiên nơi anh trú mưa ban nãy.
- Chị hiểu không, cái cây cổ thụ đó...
Anh lắp bắp nói, giọng run lên vì lạnh. Người phụ nữ vẫn không nói một lời, cứ chăm chăm nhìn vào mưa với cặp mắt vô định, tay vẫn ôm chặt đứa bé. Anh quay đầu nhìn kỹ, thấy người phụ nữ ăn mặc sơ sài, hầu như không mang vật gì trên người.
- Nhà chị ở gần đây? Anh cố bắt chuyện.
- Dạ không. Người phụ nữ trả lờì nhỏ.
- Thằng bé con của chị à? Kháu quá nhỉ. Nó mấy tuổi rồi chị?
- Dạ, ba tuổi.
Họ im bặt, vì anh chẳng nghĩ ra được gì để hỏi nữa. Cái lạnh đang ngấm nhanh vào người phụ nữ, mặt chị hơi tái đi. Mưa vẫn không ngớt. Anh ái ngại nhìn chị:
- Chị phải về nhà thôi, nếu không sợ cảm lạnh mất.
- Dạ. Nhưng người phụ nữ vẫn đứng nguyên tại chỗ.
- Tôi đưa chị về? Anh đề nghị.
- Không, không...
Anh ngạc nhiên khi nghe giọng nói sợ hãi nhưng kiên quyết của chị.
- Vậy thì chị đi đâu?
- Không. Người phụ nữ buông thõng một tiếng.
Vừa lúc đó, sấm ầm vang, đứa bé trên tay chị khóc thét lên.
- Con, nín đi con... Chị siết mạnh nó vào vai mình, rồi cũng khóc theo.
Nhìn hai mẹ con tả tơi như vậy, anh chợt cảm thấy tim mình se lại.
- Tôi hiểu rồi. Anh quyết định dứt khoát
- Chị chẳng có nơi nào để đi cả. Thôi, về nhà tôi, rồi sau đó chị muốn đi đâu thì đi. Mưa tạnh dần. Anh giằng bế đứa bé rồi kéo tay người phụ nữ. Chị ngoan ngoãn đi theo anh. Trong bóng mưa mờ tối, họ lúp xúp chạy về khu tập thể xây dựng. Khu này nằm ở ngã tư thứ hai của con đường, có những ô cửa sổ và bờ tường cũ kỹ. Giờ này, bên trong các nhà đã sáng đèn. Bên ngoài, người đi lại thưa thớt. Ông già bảo vệ với cái áo bộ đội muôn thuở nhìn người phụ nữ nghi ngại. Mệt nhọc nặng nề leo qua bốn tầng lầu, cuối cùng họ bước vào căn phòng nhỏ của anh.
- Ðây là nhà của tôi.
Anh đưa tay giới thiệu, tranh thủ vơ luôn mấy bộ quần áo bẩn nhét vào tủ. Người phụ nữ lúng túng đưa mắt nhìn quanh:
- Anh sống một mình ở đây à ?
- Chứ chị nghĩ có ai nữa nào. Anh dang hai tay ra và cười.
- Cũng may là tôi còn có cái tủ sách kia. Nào, chị đừng ngại ngùng gì, cứ vào buồng tắm thay đồ đi.
Trong tủ anh không có lấy một bộ quần áo phụ nữ nào, thành thử anh đành phải chọn một pijama của mình cho chị mặc tạm. Anh bật đèn sáng choang rồi đi ra ngoài hành lang, bậm môi rít một điếu thuốc lá cho đỡ lạnh. Nửa tiếng sau, hai mẹ con chị có vẻ tươi tắn hơn. Chị ngồi ủ ấm cho đứa bé, thân hình thanh mảnh của chị dường như lọt thỏm trong bộ đồ của anh. Ðứa bé cứ trố mắt nhìn anh, người đàn ông mà nó cảm thấy lạ lùng lắm. Còn anh và chị, thỉnh thoảng đưa mắt nhìn nhau, bối rối không biết nên tiếp tục câu chuyện ra sao.
- Mẹ ơi, con đói !
Ðứa bé bỗng thốt lên. Anh vội đứng dậy bước vào bếp.
- Ồ, chỉ còn ít thịt hộp, chị và cháu ăn tạm được không?
- Dạ, anh cứ để tôi làm.
Có lẽ nấu bếp là sở trường của chị nên anh thấy chị sinh động hẳn lên. Anh bật truyền hình cho đứa bé coi, còn bản thân mình vớ lấy cuốn sách trên bàn đọc. Ðọc được một chút, không hiểu sao, anh chẳng thấy nhập tâm được từ nào. Anh để cuốn sách xuống, lặng lẽ vào bếp. Người phụ nữ đang vo gạo, đôi bàn tay mềm mại đang lùa vào những hạt gạo đùng đục. Một cảm giác lạ lùng bỗng xâm chiếm lấy người anh, khiến anh bàng hoàng. Chưa bao giờ trong đời anh lại cảm thấy một không khí gia đình đầm ấm như thế này, cho dù anh và người phụ nữ chưa bao giờ quen nhau. Anh tựa lưng vào tường, trống ngực chợt dập dồn. Cách anh chỉ vài bước chân, một người phụ nữ bằng xương bằng thịt đang làm công việc nội trợ. Có lẽ chị cũng cỡ tuổi anh, nhưng gương mặt lại trẻ trung hơn nhiều. Chị đẹp, một nét đẹp thanh tú, điều mà anh đã không nhận ra trong mưa. Trong căn phòng nhỏ bé, anh như cảm thấy hơi ấm của người đàn bà tỏa ra, thấm qua da thịt anh, tạo nên cảm giác mỗi lúc càng ngây dại. Ngực anh càng đổ dồn dập khi anh hiểu rằng anh đang nghĩ đến những chuyện chưa từng xảy ra trong đời mình, thậm chí còn chưa tồn tại khi người phụ nữ kia chưa bước chân vào căn phòng này. Mặt đỏ bừng, anh len lén đi ra.
Họ ăn bữa tối như những người thân lâu ngày không gặp nhau. Chẳng cần nói nhiều, anh tự bằng lòng với sự im lặng vừa phải của mình và của chị. Nhìn đưá bé con chị tự động cầm muỗng ăn ngon lành, anh đã suýt nữa ôm đầu nó ghì vào lòng mình. Ôi, ước gì ta có tất cả như thế này sau mỗi ngày làm việc trở về... Ðêm xuống, anh nhường cái giường cá nhân của mình cho hai mẹ con, còn mình trải chiếu nằm trong bếp. Chớp lại lòe lên, rồi một cơn mưa nữa lại đổ xuống, gió lạnh ùa vào phòng. Anh nằm mãi, cố dỗ giấc ngủ nhưng không sao chợp mắt được. Phòng bên kia tuyệt đối yên lặng, có lẽ hai mẹ con người phụ nữ đã ngủ ngon. Tất cả không gian giờ đây tụ lại trong tiếng mưa rơi, lúc nhẹ nhàng, lúc xối xả. Ðôi lúc anh có cảm giác mình đang mơ một giấc mơ huyền diệu hoặc những vui tưng bừng của lễ hội, đến rồi đi, có rồi tan biến, không còn biết đâu mà tìm. Anh thở dài, bò dậy đến sát cửa sổ, thò đầu ra cho những giọt mưa mát lạnh phủ ướt đẫm tóc. Thậm chí, thật không ngờ, anh còn lẩm nhẩm đọc một bài thơ tình nổi tiếng, điều mà nếu xảy ra vào ngày hôm qua, chắc anh đã không thể nào hiểu nổi. Ðến gần sáng, không biết do đâu, đôi chân đưa anh đến sát bên giường người phụ nữ và đứa bé đang ngủ. Trong bóng tối lờ mờ, hai mẹ con ôm lấy nhau, hơi thở đều đều. Anh đứng lặng, mắt chăm chăm nhìn vào đôi vai chị. Chưa bao giờ anh lại cảm thấy nửa kia cuộc sống lại có ý nghĩa đối với mình như lúc này. Người anh vụt bừng lên niềm yêu thương da diết cùng nỗi khao khát khó mà cưỡng lại được. Anh muốn biết đó là tình cảm gì, anh cũng muốn biết hoàn cảnh nào đã đưa đẩy người phụ nữ cùng đứa con phải chạy dầm mình trong mưa. Mà dù cho thế nào chăng nữa, anh mường tượng là mình đều có thể chấp nhận hết. Năm phút, mười phút, rồi nửa tiếng đồng hồ trôi qua. Bàn tay anh đã mấy lần suýt chạm vào vai người phụ nữ. Cứ mỗi lần như thế, nền nhà dưới chân anh như muốn sụp đổ. Cuối cùng không còn đủ can đảm, anh trở về căn bếp rồi ngồi đăm đăm nhìn ra ngoài cửa sổ cho đến khi ánh bình minh đầu tiên chiếu rọi. Khi người phụ nữ thức dậy, anh ngạc nhiên vì thấy chị có vẻ xanh xao hơn ngày hôm qua. Họ ăn sáng, rồi anh đưa mắt nhìn chị dò hỏi. Như hiểu ý anh, chị khẽ trả lời:
- Tôi phải ra bến xe về quê má.
Anh cúi mặt xuống thất vọng.
- Thế là chị ra đi ư?
Thậm chí họ chỉ mới biết tên nhau. Trong phút chốc tất cả buổi chiều tối hôm qua biến thành một kỷ niệm thật xa vắng. Anh quay mặt đi thở dài, không dám nhìn chị. Cuộc sống mà...
Biết chị không có tiền, anh dúi số lương tháng của mình vào túi chị, bắt chị phải nhận bằng được.
- Tôi sẽ trả anh số tiền này. Anh tốt quá.
Chị nói như thì thầm rồi bế đứa bé lên, vội vã bước xuống cầu thang.
Ðoạn đường ra bến xe khá dài, vậy mà anh lại thấy quá ngắn. Ðến nơi, anh chạy mua vé rồi đứng nhìn chị, không biết nói thêm gì nữa. Xe đột nhiên chuyển bánh. Chị nhìn anh khẽ lắc đầu. Anh cảm thấy trong mắt chị có nước long lanh. Rồi chiếc xe khuất hẳn sau cánh cửa sắt.
Ba tháng sau, anh nhận được một lá thư của chị. "Có một lúc nào đó em đã tưởng sẽ được hạnh phúc với người chồng - một thẩm phán có tài. Nhưng không, tất cả bắt đầu rạn nứt từ lúc anh ta được bổ nhiệm vào chức vụ thẩm phán ấy trong tòa án. Thật đơn giản thôi, ban đầu chỉ là những buổi nhậu với bạn bè, tiếp đó dần dần kéo dài thâu đêm. Anh ta trở nên gầy rộc, mặt phờ phạc. Có lần, em đã nhìn thấy một vết răng trên gáy anh ta. Vết răng đó chắc của một người con gái nào đó. Không thể chịu nổi tình trạng dằn vặt vì nghi ngờ thêm nữa, em lao theo anh ta, đi tìm những chỗ anh ta hay lui tới. Cuối cùng, thật chẳng lạ gì, đó vẫn là nơi mà không một người đứng đắn nào lại có thể ngồi. Em còn biết thêm một chuyện khủng khiếp, đó là anh ta đã ham mê cờ bạc từ hồi nào không hay. Anh ta không còn chăm sóc đến mẹ con em nữa. Rồi, thật nhanh chóng, em nghe tin tòa án thải hồi anh ta vì anh ta đã dính dáng đến một vụ nhận hối lộ. Cái buổi chiều mưa đó, anh ta trở về, miệng đầy mùi rượu, la hét, đập phá, đánh đập em và dọa cả đứa bé. Cũng buổi chiều đó là kết cục của một chuỗi ngày em đã mất hết hy vọng vào anh ta. Lần cuối cùng, em cầu xin anh ta hãy bỏ tất cả đi để làm lại từ đầu. Anh ta trả lời em bằng việc lấy nốt cái xe máy còn lại trong nhà đi gán nợ cho một ván đỏ đen nào đấy. Và buổi chiều mưa đó, tất cả đã chấm dứt giữa em và anh ta. Em lao ra đường. Rồi gặp anh... Ngay từ đầu, em đã hiểu anh là người tốt. Và tự dưng, em cảm thấy tin tưởng anh như một người bạn thân từ lâu. Cảm ơn anh về buổi tối mà anh đã chăm sóc cho em và con.
Anh, Em biết anh đã nhìn em như thế nào lúc em vo gạo. Và, anh biết không, cả buổi tối đó em cũng như anh, không ngủ. Trong cơn mơ màng, em cảm thấy anh đứng gần em, rất gần. Em cũng cảm thấy anh đang muốn siết lấy em. Em đã chuẩn bị sẵn sàng để nhắm nghiền mắt lại nếu anh làm như vậy. Rồi sau đó, muốn ra sao cũng được.
Nhưng cũng chính vì anh đã không một chút đụng chạm vào người em, em mới có đủ can đảm viết cho anh lá thư này. Anh hãy nghe điều em nói đây: Em cần đến anh như một người bạn, và hơn nữa, nếu anh không bị mặc cảm bởi cái quá khứ mà em đã đoạn tuyệt với nó, nếu anh có thể chấp nhận được đứa con của em. Em có công việc riêng của em - những say mê trong phòng thí nghiệm. Em luôn hy vọng, biết đâu đấy, chúng mình sẽ tìm được hạnh phúc chung cho cả hai...
Phạm Chí Dũng
*truyện ngắn dự thi giải thưởng báo Văn Nghệ, tháng 6, 1995