vhnt, số 199
24 June 1996
Trong số này:
thư vhnt....................................................Trần Thái Vân
T h ơ :
1 - Người em Kiên Lương ...............................Trần Hoài Thư
2 - Bài bánh tráng ................................................Ian Bùi
3 - Ðọc thơ chữ Hán Nguyễn Du .....................Vũ Quần Phương
4 - Cuối ..................................................Từ Ðông Nghị
5 - Vòng quay đêm hội chợ ............................Tôn Thất Hưng
6 - Hò hẹn .............................................Trần Nguyên Thảo
D i ễ n Ð à n V ă n H ọ c :
7 - Góp ý về "interactive poetry" ...............Nguyễn Phước Nguyên
8 - Về sự khó hiểu của hội họa hiện đại ............Trịnh Cung
T r u y ện N g ắn / S án g T ác :
9 - Một lần đi một lần ở ......................Nguyễn Tấn Hưng
Thế nào là một bài thơ hay?
Khi đọc một cuốn tiểu thuyết - một cuốn tiểu thuyết hay - độc giả sẽ thật sự đi vào khung cảnh của cốt truyện, chia sẻ những cảm giác với các nhân vật trong đó. Và một cuốn tiểu thuyết tuyệt hay sẽ làm độc giả mơ tưởng mình là một trong những nhân vật trong truyện. Ðôi khi, độc giả lại lấy những nhân vật làm một kiểu mẫu cho đời sống của chính mình.
Khi nghe một bài nhạc - một bài nhạc hay - là khi mà thính giả bị âm thanh của bài nhạc đưa về một thế giới khác. Và bài nhạc tuyệt hay là bài nhạc gợi được những ký ức, tâm tư sâu xa nhất trong lòng người nghe.
Thơ không có diễm phúc như tiểu thuyết. Một bài thơ phổ thông thường dài khoảng một trang giấy. Người làm thơ không thể phân cảnh, dựng chuyện như người viết truyện. Những tình tiết éo le, những triết lý mông lung vì vậy rất khó lồng vào thơ.
Thơ không có cái huyền hoặc phù thủy của âm nhạc. Trong nhạc, lời là phụ, âm thanh là chính. "Ðêm Thu" của Ðặng Thế Phong không còn là đêm thu đông phương nếu được hoà âm lại theo dòng nhạc Disco hay Rock.
Bài thơ hay là bài thơ dẫn tiến được tâm hồn của người đọc vào ngưỡng cửa của thi ca. Như một lời mời không hứa hẹn, bên trong ngưỡng cửa ấy là những gì mà chính tác giả cũng không hề biết. Bài thơ tuyệt hay là bài thơ đưa hẳn độc giả vào trong thi ca. Nơi đó, không phải là độc giả đối diện với hồn thơ của thi sĩ mà là đối diện với chính tâm hồn của mình. Hay cách khác, khi mà độc giả vẫn còn đối diện với hồn thơ của thi sĩ thì bài thơ vẫn còn chưa tuyệt hay. Thơ hay buộc độc giả phải nghĩ đến những điều bài thơ không nói ra.
Nếu bài thơ đạt đến mức như vậy thì dấu chấm, dấu phẩy, dấu ngoặc, dấu nhảy tới (/), ngắt câu, nhảy đoạn đều không quan trọng. Nói cách khác, cấu trúc chỉ là một loại tiểu xảo, một phương tiện. Cái hồn thơ, ý thơ, thâm ý của bài thơ mới là cứu cánh thi sĩ và thi ca.
trần thái vân
(trích bài đăng diễn đàn Ô-Thước thay thư vhnt)
Người Em Kiên Lương
Em chăn bầy vịt nhỏ
Hồ xanh và trời xanh
Khăn rằn che má đỏ
Nắng rọi đầu lung linh
Mặt hồ không gợn sóng
Ðàn vịt gọi bầy vui
Em ngồi mang nón rách
Không đủ che mặt trời
Tôi là tên tù tội
Lỡ vận đi đào trùn
Gặp em lòng muốn hỏi
Sao miệng đành lặng câm
Tôi thương em tuổi ngọc
Bỏ bông phượng sân trường
Chúng ta cùng số phận
May còn nỗi cảm thương
Ðây phần trùn tôi đào
Hổ, cơm, trâu và đất
Ðây căn phần người tù
Tôi xin làm tặng vật
Lũ vịt trên hồ xanh
Chen nhau dành mâm cỗ
Em nhìn tôi, ô hay
Cúi đầu đôi má đỏ
Thôi tôi đi, em ở
Một ngày sẽ dài thêm
Ðể tôi về Kinh Năm
Nhớ người em gian khổ
Trần Hoài Thư
bài bánh tráng
tôi làm bài thơ trên tờ giấy bánh tráng
bánh tráng này bà nội tự tay mang
từ đêm thức quậy bột cho tới chiều nắng rang
những hôm mưa, thơ tôi biến thành đồ xìu ển
tôi cuộn bài thơ mà trong lòng hổn hển
nghe lũ rau thơm lá đắng cứa lưỡi đợi cay
cọng bún chiều chua dột nước mắm mồ hôi
tôi nhai trọn, bài thơ trào trên môi run đói
tôi nuốt gọn bàn tay nhăn nheo như túm tỏi
không dám nhìn, sợ ói chật hết hàng
bụi bặm ngôn từ làm ngươi mắt xốn xang
tôi thở phắt
liếm ngang
rồi nhổ toẹt
96'6
ianb
Ðọc Thơ Chữ Hán Nguyễn Du
Áo xanh đi dưới chiều mưa núi
Tóc trắng buồn thương giữa sắc ngàn
Gió bấc thổi dài trong chữ. Lạnh
Ðường trường, ngựa mỏi, dốc Nam Quan
Hai trăm năm lẻ, Nguyễn Du ơi
Ðọng giữa trang xưa giọt lệ người
Ðêm đen đầu bạc làm sao giấu
Chín tầng mưa móc buốt xương thôi
Sương giăng khói ảo đâu không thế
Một mình lạc mãi giữa hoàng hôn
Mười con gương mặt xanh như lá *
Nhìn thơ như ngó ánh trăng suông
Hồn ơi, về đi thương quê nhà **
Trăm năm trĩu nặng cõi người ta
Tố Như giọt lệ không khô ấy
Như ngọc trong hồn như tuyết pha
Ngõ cũ kìa chim đang nhặt thóc
Gió xuân đã ấm đất Long Thành
"Bất tri tam bách" thôi đừng nhắc
Người tự mừng vui, cỏ tự xanh.
Vũ Quần Phương
* thơ Nguyễn Du: Thập khẩu hài nhi thái sắc đồng
** Thơ Nguyễn Du: Hồn hề quy lai bi cố hương
cuối
còn thật gần, thật gần
mai em đi, em đi
mai ta buồn, ta buồn
ôi biệt ly, biệt ly
mắt nhìn như trăn trối
còn bên nhau đêm nay
tay cầm tay, mình đã
vội nhớ nhau ngày mai *
Từ Ðông Nghị
* ý thơ Thanh Tâm Tuyền
Vòng Quay Ðêm Hội Chợ
nhớ những ngày ở Trại Chuyển Tiếp, Philippines
Ðêm hội chợ và cỗ xe bằng sắt
Sáu Peso* cho bố và con
Tôi chưa vợ nên một mình một chỗ
Nào người ơi! Trái đất xoay tròn
Tôi tìm em trên đường cong nghiệt ngã
Nơi tôi đến nơi em vừa đi khỏi
Lời hò hẹn chỉ là lời đuổi gió
Còn vòng quay chạy suốt cuộc đời.
1990
TTH
* đơn vị tiền tệ ở Philippines
Hò Hẹn
Hạ vàng, phượng đỏ ta gặp nhau
Vòm cây xanh ngắt bắc ngang đầu
Em cười, đáy mắt màu mây trắng
Anh ngỡ là mây của ngàn sau
Hò hẹn cùng nhau mấy mùa sao
Tình xa, sông cuối nhớ sông đầu
Tương tư ngọn cỏ, em là gió
Gió nâng diều tình anh lên cao
Rồi hẹn tìm nhau trong ánh trăng
Trăng tan trong đáy mắt tình nhân
Ðêm không tiếng động, đêm tình tự
Anh mơ làm cuội nhớ cung hằng
Thì hãy cùng đi, hãy cùng đi
Ðường tình hoa mộng có mấy khi
Hạ về thơm gió, ngàn cánh phượng
Nhuộm hồng thêm mãi lối em đi
Hay em... em cứ làm chim di
Mùa đông tìm ấm, nhớ đường đi
Về giữa tim anh tìm nương náu
Ngàn sau thương mãi tiếng thầm thì
Biển xanh, cát trắng, một tình yêu
Tim anh mơ mộng được bao nhiêu
Chiều nay anh viết câu hò hẹn
Về em, phượng nở thắm trong chiều...
trần nguyên thảo
Góp Ý Về Interactive Poetry
Sáng tạo - thơ, văn, nhạc, họa - có hai yếu tố:
Hình thức và nội dung.
Hình thức là chiều ngang.
Nội dung là chiều sâu.
oOo
Về Hình Thức của Thơ -
Cần thiết chứ.
Thơ Ðường Luật bị thay thế bởi Thơ Mới
vì quá gò bó ngòi bút.
Sau Thơ Mới, phong trào Thơ Tự Do xuất hiện.
Và hãy phân biệt giữa "mới" và "lạ" -
Ðại khái là như vầy
Mới - là một bài nhạc của Từ Công Phụng
mới sáng tác hôm qua.
Lạ - là Henry Chúc hát lại bài
Bây Giờ Tháng Mấy của Từ Công Phụng
bằng điệu nhạc Rap!...
oOo
Về Nội Dung của Thơ:
Tác giả gửi gấm gì, chuyên chở gì trong điều
mình viết.
Có đưa người đọc đến những
biên-giới-chưa-từng
của cảm xúc?
của tư tưởng?
của tâm linh?
Xa hơn nữa,
Có những bài thơ đọc xong - cười thành tiếng,
khóc ra lệ.
Có những bài thơ đọc xong là một cảm giác
mang cả đời, mỗi lần nghĩ đến.
Bài nào hay hơn?
oOo
Thiết nghĩ, họ Du, với những dấu "\", chưa hẳn là "mới" - Mà là "lạ". Vì vẫn chỉ là những dấu "\" nằm trong những bài Lục Bát, Tứ Tuyệt.
oOo
Một bài thơ hay
(khoan nói đến một thi sĩ có tài)
là một bài thơ đưa người đọc
đến những chốn
mà tư tưởng, cảm nhận và tư duy
"mơ hồ biết, mà chưa hề đến".
Xa hơn nữa,
Khi đến rồi, mãi ở lại trong người đọc.
Vượt không gian, là ở đó.
Vượt thời gian, là ở đó.
Vượt tác giả, là ở đô
oOo
Ðứng trước hai bức tranh lập thể,
ta có thể so sánh kỷ thuật dùng màu,
bố cục của bức tranh
giữa hai họa sĩ.
Và trầm trồ
khen bức này,
chê bức nọ .
Tuy nhiên, bức tranh mua về,
sẽ là bức tranh mà Tác Giả "nói"
với tâm hồn người mua nhiều nhất.
oOo
Rất nhiều người thích những nhạc điệu lạ
(lambada, new wave, reggea, v.v...), vì nó lạ tai.
và dễ nghe.
Nhưng bao nhiêu người cảm nhận và khâm phục
tài năng của Dave Brubeck qua bài Unsquare Dance -
viết theo nhịp 5, hay 7.
oOo
Một sáng tác hay là một hợp nhất tuyệt vời
giữa hình thức và nội dung.
giữa chiều sâu của tâm hồn
và chiều ngang của kỷ thuật.
Với tác giả, khi sáng tác.
Với người đón nhận, khi thưởng thức.
oOo
Họ Du đã có những bài thơ như vậy.
Ngu Yên đã có những bài thơ như vậy.
Và họ kêu gọi làm "thơ mới", thay vì
làm "mới thơ".
Khai phá ra một hình thức mới là điều
đáng khen, đáng phục.
Nên làm.
Cần phải làm.
Nhưng nếu chỉ khai phá những hình thức mới,
mà không khai phá chiều sâu của tâm linh,
là đáng tiếc vậy.
oOo
Người thưởng thức thích gì -
Hình ảnh rực rở của hoàng hôn,
trong khoảnh khắc trước khi nắng tắt.
Hay
Ngồi thật yên nhìn buổi chiều xuống
mà nghe được cả tiếng gọi của thời gian.
oOo
Thơ.
Văn.
Tất cả
là chữ.
Và cách dùng (hay trình bày)
của chữ.
Nhưng chừng như
nét tuyệt vời của tác phẩm
không chỉ được gói ghém
vào lối dùng chữ,
hay trình bày chữ.
Cái đẹp của cảm nhận nằm
ngoài
tầm với của hình thức.
Hình thức đập liền vào mắt người đọc.
Nội dung đi từ tốn vào tâm hồn.
Và ở lại.
oOo
Ðó là tinh túy, là thăng hoa của nghệ thuật.
Bởi "nó"
Không chỉ của tác giả.
Không chỉ của tác phẩm.
Không chỉ của người thưởng thức.
"Nó" là của tất cả.
Và vượt qua mỗi.
oOo
Interactive creativity. Sáng tạo tương tác.
Was. Ðã.
Should be. Vốn dĩ.
Is. Là.
Nguyễn Phước Nguyên
VỀ SỰ KHÓ HIỂU CỦA HỘI HỌA HIỆN ÐẠI
Không phải chỉ riêng ở VN hội họa hiện đại đang gặp phải sự bất cập của đông đảo công chúng, ngay cả những nước được coi là văn minh bậc nhất cũng còn rất nhiều người không am hiểu mấy các tác phẩm của Pablo Picasso, Vasily Kandisky, Paul Klee, Salvador Dali, Joan Miro, dù các nước ấy đã có một lịch sử hội họa rực rỡ từ hàng thiên niên kỷ và đang có một hiện tình hội họa rất phát triển. Sự khó hiểu đối với hội họa hiện đại ngày một gia tăng, khoảng cách giữa tác phẩm và người xem đã trở nên nghiêm trọng tại các nước chậm phát triển. Ngay tại phương Tây, quê hương của hội họa hiện đại, các nhà phê bình cũng đã từng rơi vào một thời kỳ khủng hoảng kéo dài từ đầu thế kỷ 19 cho đến hơn ba thập niên sau mới tìm được chiếc chìa khoá giải mã nghệ thuật, để công chúng cảm nhận được những tần số mới được phát đi từ những tác phẩm hội họa hiện đại.
Hội họa hiện đại xuất hiện vào cuối thế kỷ 19 ở châu Âu, chấm dứt sự ngự trị của nền hội họa cổ điển kéo dài hơn 400 năm (chỉ tính từ thời kỳ Phục Hưng đến thời kỳ lãng mạn) và do các họa sĩ Pháp Claude Monet, Pierre Renoir khởi xướng với phong trào ấn tượng (impressionnisme). Cuộc hạ bệ các qui thức cổ điển đã trói buộc các nghệ sĩ hàng trăm năm trong khuôn khổ người minh họa các truyền thuyết để phục vụ truyền giáo, hoặc là những công cụ tô điểm cho các vương triều, đã diễn ra sôi nổi và được nhiều họa sĩ độc lập gia nhập. Ba điểm chủ ý của chủ nghĩa ấn tượng là sự phong phú màu sắc nhờ kiến thức về quang học, sự rung cảm trực tiếp từ cuộc sống và sự tự do sáng tạo. Một cuộc tập họp lớn đã được tổ chức vào năm 1864 ở Paris qua triển lãm mang tên Triển lãm lớn của các nhà ấn tượng đã xác định sự lật đổ ấy, và kéo theo sự ra đời sau đó của các trào lưu dã thú (fauvisme), lập thể (cubisme), tương lai (futirisme), biểu tượng (expressionisme), siêu thực (suréalisme)... Trường phái này là tiền đề của trường kia, cuộc tìm kiếm cho những giải pháp mới liên tục được tiến hành. Sự thay đổi ngôn ngữ hội họa xảy ra đột ngột và không có lời giải thích thỏa đáng, đã gây hàng loạt các phản ứng chống đối, thậm chí phẫn nộ của nhiều tầng lớp xã hội. "Sống sượng", "xúc phạm", "thô bỉ" là những từ được lập lại thường xuyên trong công luận để nguyền rủa và thủ tiêu cái gọi là hội họa hiện đại mà những Matisse, Rouault, Marquet, Van Dongen, Derain, Vlaminck... đã thách thức, thông qua cuộc triển lãm đầu tiên của nhóm dã thú tại Paris năm 1905.
Nhưng chính sự bài bác thường tạo nên sự gắn bó của những kẻ bị phỉ báng. Các họa sĩ tiên phong này đã tìm thấy ở đó cơ hội tập hợp vì tự do sáng tạọ Suốt trong lịch sử hội họa của nhân loại chưa bao giờ tính cách cá nhân người nghệ sĩ lại được bộc lộ rõ ràng như thời hội họa hiện đại, và điều này càng ngày càng trở nên có ý nghĩa quyết định cho chỗ đứng của người họa sĩ. Người ta bắt đầu nói đến từ "phong cách" (style) và muốn có phong cách riêng, các nghệ sĩ phải tìm kiếm cho mình một lối vẽ riêng, từ "tìm kiếm" (recherche) được đề cập tiếp theo như một đặc nghiệm. Van Gogh đã cho màu sắc bay bổng, cho những đường cọ hằn sâu, cuồn cuộn, xanh, đỏ, vàng cam không pha trộn, để diễn dịch trực tiếp niềm rung động, say đắm, cơn cuồng nộ và nỗi cô đơn của ông dù là tranh vẽ phong cảnh đồng lúa hay là chân dung tự họạ Tính chân thật, yêu con người và sự hồn nhiên là thông điệp của hội họa dã thú muốn gửi đến công chúng để được chia sẻ và đồng cảm.
Ngôn ngữ hội họa thời hậu ấn tượng (post-impressionisme) đã nhanh chóng đưa đến sự khó hiểu bao trùm, nhất là từ sự ra đời của hội họa lập thể (cubisme) mà Picasso và Braque đã sáng tạo. Các bức tranh lập thể đã cởi bỏ hầu hết cái vỏ bọc ngoài của sự vật từ con người đến mọi thứ, và đảo lộn các trật tự vốn tưởng chừng như bất dịch mà tạo hoá đã ấn định. Sự khám phá ra chiều thứ ba của không gian hay tâm hồn của các vật thể đã được các họa sĩ lập thể ứng dụng như là tác nhân chính của cái mới làm sụp đổ cội rễ ngàn năm. May thay, trước khi vẽ những bức lập thể đầu tiên vào năm 1906, Picasso đã từng có hai thời kỳ hội họa tân hiện thực rất được khâm phục: thời xanh và thời hồng. Búa rìu dư luận đánh ông mà vẫn phải nương tay nhờ sự biện hộ hùng hồn từ các tuyệt tác "Người chơi đàn guitar", "Những kẻ khốn cùng", "Thằng hề"... cho đến khi "Guernica" ra đời, tác phẩm lập thể vĩ đại nhất của ông vẽ năm 1937 được hoan nghênh và kết thúc những năm dài khó khăn của hội họa lập thể.
Tiến trình đổi mới ngôn ngữ hội họa tiếp diễn không ngừng như một dòng sông lớn. Con người chưa kịp nhận diện cái mới hôm qua, hôm nay đã có cái mới khác ra đời. Không giải thích và không chờ đợi sự chấp nhận, cuộc sáng tạo vẫn lao về phía trước. Hội họa hiện đại ngày nay đã trở thành một cuộc chơi đơn phương đầy thách thức. Sự im lặng của các họa sĩ, sự lúng túng đôi khi lầm lạc của các nhà phê bình, sự nhúng tay thao túng của những nhà buôn nghệ thuật (art dealer), sự chậm chạp của các cơ quan văn hóa hữu trách, chiếc cầu nối giữa các tác phẩm hội họa hiện đại và công chúng đã trở nên lỏng lẻo và không còn phù hợp, có nơi còn chưa đặt xong nền móng. Các nhà giải mã nghệ thuật trong thời đại kinh tế thị trường phần lớn đã làm việc đằng sau những tập đoàn thương mại, và các tác phẩm mỹ thuật đã góp phần đưa thế giới hội họa hiện đại trở thành sân khấu dành cho những kẻ giàu sang.
Ðể có được đầy đủ các chìa khóa mở các cánh cửa hội họa hiện đại trao cho công chúng là một điều khó khăn, và càng khó hơn cho chúng ta khi nhìn lại mình đã để cho lỗ hổng kiến thức mỹ thuật tồn tại trong nhiều thế hệ công dân và còn tiếp tục, trách sao đã có nhiều người nói với tôi: "Hội họa bây giờ khó hiểu quá, không cảm nổi", một nhà văn có chức có quyền cũng nói:"Hội họa thì tôi mù tịt", và mới đây trong phần tổng kết tình hình văn nghệ năm 1995, bình luận viên của Ðài truyền hình thành phố đã chỉ trích hội họa trừu tượng là mập mờ!
Trịnh Cung
Một Lần Đi Một Lần Ở
Khác với Hoàng Sa, Tây Sa độc đạo chỉ có mỗi một con đường biển, Phú Quốc nối liền với đất liền bằng hai đường: đường biển và đường hàng không. Còn con đường thứ ba, đường xa lộ, thì ai cũng biết khả năng Việt Nam mình chưa làm nổi đường ngầm dưới đáy biển.
Ðường biển đi Phú Quốc gồm đủ hai loại tàu dân sự và quân sự. Hoạt động dân sự giao cho ba hãng tàu đò Thuận Lợi, Tân Hưng và Ðại Dương trách nhiệm làm cái gạch nối giữa thị xã Rạch Giá và bến đò An Thới. Từ An Thới lên Dương Ðông nhiều tàu đò nhỏ địa phương cũng đã đăng ký kể từ khi đường bộ bị cắt, cầu kiều bị sập. Tàu đò chỉ chạy ban đêm, "chiều chiều tàu ra cửa biển" êm êm như câu nói đầu môi. Ðêm nào căn bản cũng có một chuyến đi và một chuyến về. Ví dụ Thuận Lợi chạy đi thì Tân Hưng chạy về. Chiếc Ðại Dương là chiếc sơ-cua, phòng khi một trong hai chiếc kia bị hư. Tuy nhiên, thỉnh thoảng chiếc Ðại Dương lại phải chạy thêm chuyến thứ ba trong ngày, để giải quyết một số lớn hàng hóa bị ứ đọng và luôn thể mấy người hành khách đã lỡ chuyến tàu đêm cần đi gấp.
Bởi vậy chiếc Ðại Dương là chiếc chạy không định kỳ, không giờ giấc gì hết. Về quân sự thì tàu hải quân PCF, LCM hoặc ghe duyên đoàn, ghe căn cứ cũng có nhưng thường thường chỉ dành riêng cho quân nhân và gia đình hải quân. Tàu hải quân hoạt động cũng không định kỳ, lịch trình đi và về luôn luôn thay đổi, tùy ý thuộc vào nhu cầu và sự sắp xếp của Trạm tiếp liên hải quân tại Rạch Giá.
Ðường hàng không đi Phú Quốc cũng gồm đủ hai loại phi cơ dân sự và quân sự. Hoạt động dân sự của Air Việt Nam chỉ giới hạn cho những ai có phương tiện tới được Sài Gòn hoặc Cần Thơ. Ðó là những chuyến bay nối liền phi trường Tân Sơn Nhất, phi trường Cần Thơ với phi trường Dương Ðông. Về quân sự thì cessna, caribou, C 47 và trực thăng được phép đáp cả hai phi trường, phi trường dân sự ở Dương Ðông và phi trường quân sự ở An Thới.
Ðể đỡ tiền tổn phí và khỏi mất công lên Sài Gòn hoặc phải xuống Cần Thơ, gia đình tôi không di chuyển ra ngoài Phú Quốc bằng đường hàng không. Chỉ cần ra ngã ba Trung Lương đón xe miền Tây đi Rạch Giá là xong, vì nhà tôi ở Mỹ Tho. Ðược cái này mất cái kia, xuôi đường đi nhưng không thuận chỗ ngồi. Những chỗ trống còn lại nếu có được thì phải là những băng sau cùng không ai thèm đặt đít. Ðành chịu. Cũng là ghế bọc nệm có lò xo, nhưng những cái nhún nhảy đồng bộ với nhíp xe thường dở hổng bàn tọa, đẩy đầu sắp sửa đụng trần. Người lớn khó chịu, còn con nít thì trái lại được dịp vui đùa thỏa thích. Vợ tôi chỉ sợ thằng út vừa mới tròn nửa tuổi lúc nào cũng chực bay đi, ôm chặc cả hai tay. Trong khi ba đứa kia thỉnh thoảng la:
- Hô, hô... hô...
rồi cười sặc sụa, không vẻ gì sợ sệt.
- Ðéo mẹ tổ cái lũ khỉ này chớ, ông nội nó thiếu điều muốn lộn ruột lộn gan, vậy mà nó giỡn cho được.
Ðó là lời mắng yêu của ông nội dành cho đàn cháu, trong đó có cả thằng cháu đích tôn. Ðây là lần đầu tiên ba tôi đi theo gia đình tôi "di tản" về đơn vị mới. Mấy lần thuyên chuyển trước ông không hề để ý tới. Ði vùng 1, Vùng 2 thì cũng ở đất liền mà thôi. Cảnh núi rừng đối với ông đã quá quen thuộc từ hồi ông còn trẻ, thời ông theo đuổi nghề cây. Ðã từng lạc rừng, sống với Mọi trên cao nguyên Di Linh, Ðắc Lắc thì chẳng trách chuyện núi rừng, phong cảnh núi rừng đối với ông coi như không đáng kể. Chỉ có đảo và đời sống ở đảo mới hấp dẫn được ông. Phú Quốc, nơi ông mong mỏi đi thăm với tất cả nhiệt tình. Ðó là lần đầu tiên và không ngờ cũng là lần cuối cùng ông đã được đặt chân lên đảo.
Lần đầu tiên qua bắc Mỹ Thuận mà không quẹo xuống Vĩnh Long. Ði vòng lên Sa Ðéc. Vùng nào chưa đi qua, tự nhiên phong cảnh thấy lạ lạ và không khí hình như cũng có mùi khác khác. Mặc dù ở vùng này cũng ruộng vườn, dừa chuối như khắp mọi nơi ở miền Nam. Rồi đến bắc Vàm Cống. Bắc Vàm Cống ngắn hơn bắc Cần Thơ vì chiều ngang của sông Hậu Giang ở đoạn này tóp lại. Số lượng xe cũng ít hơn, nhưng đoàn xe kẹt bắc có phần dài hơn. Vì không đủ bắc để chạy ? Cũng các gian hàng ăn uống, bánh trái tấp nập hai bên vệ đường. Những lời rao mời mọc khách hàng lanh lãnh bên hông xe. Qua được bắc thì không mấy chốc đến đoạn đường nhiều ổ gà chạy dọc theo kinh Cái Sắn từ ngã ba Long Xuyên về Rạch Sỏi. Ðám nhỏ đã không còn... hô hô hô... nữa mà chuyển sang ngủ gà ngủ gật vì mệt mỏi, nhàm chán. Tưởng là xa ai dè hóa ra gần, gần hơn đường về Sóc Trăng, Bạc Liêu, Chương Thiện, Cà Mau...
Vì ước lượng sai mà tụi tôi phải đến thị xã Rạch Giá vào khoảng một hai giờ trưa. Mặc dù có gió từ vịnh Thái Lan thổi vào, nhưng lúc nào mồ hôi trong người cũng tươm ra nườm nượp. Nóng. Nhất là lúc tất cả dồn vào chiếc xe lam đi về Trạm tiếp liên Hải quân. Trước tìm chỗ nghĩ chân, sau đợi tàu là cái chắc. Chỉ mong nhằm ngay chuyến để khỏi ở qua đêm.
Tôi trình sự vụ lệnh lên ông thượng sĩ trực cho phải phép vì tôi đang mặc đồ civil. Chẳng biết vì chức vụ trưởng phòng Nhì hay vì hoàn cảnh gia đình đang lu bu bồng bế của tôi mà ông thượng sĩ phản ứng ngay:
- Trời ơi, đại úy di chuyển cả gia đình mà sao đại úy không đánh công điện hay thư từ cho tụi tôi hay. Kẹt quá, hình như bữa nay không có tàu mình về Phú Quốc. Thôi bây giờ đại úy nghỉ tạm ở đây đi, để tôi cho người liên lạc với trung úy trưởng trạm. Có thể ổng sẽ sắp xếp kịp cho gia đình đại úy đi tàu đò dân sự ngay chiều hôm nay.
Tôi không ngờ đám nhân viên hải quân của mình ở đây sốt sắng, đối đãi tử tế như vậy. Hình như đám này có vẻ khiếp sợ uy danh của trưởng phòng Nhì? Có lẽ ảnh hưởng của đại úy Xe, cựu trưởng phòng Nhì, còn sót lại chớ tôi có làm chuyện ất giáp gì đâu. Tôi tự hỏi chẳng lẽ đám cung cấp phương tiện di chuyển này cũng có chấm mút chút chút? Rồi tự gạt ngang, ối, để ý làm chi những chuyện lặt vặt đó cho thêm mệt óc! Tôi thành thật giải thích trường hợp của mình:
- Tôi mới đổi về Vùng chưa được tháng, chưa biết hết các đơn vị trực thuộc Vùng đang nằm ở đâu. Hồi mới ra nhiệm chức vì chỉ có một mình một thân nên tôi đi bằng máy bay, bây giờ di chuyển nguyên gia đình nên phải đi đường bộ. Và mới đi đường bộ lần đầu nên tôi chưa có kinh nghiệm.
Rồi tôi hỏi luôn:
- Sao, ở đây có dễ sống không anh?
- Dạ được lắm đại úy. Nhà của tôi cũng gần đây, ở phía ngoài vàm kia, thành thử đi tới đi lui cũng tiện. Vợ tôi thì có cái sạp vải ở ngoài chợ, đồng vô đồng ra cũng tạm đủ sống chớ lương hướng của tôi thì nhằm nhò gì, không đủ cho tôi uống rượu.
- Anh làm ở đây bao lâu rồi?
- Hơn ba năm rồi đại úy!
- Hơn ba năm? Hừ, trong Hải quân mà anh ở nguyên một chỗ hơn ba năm liền thì kể ra tài ngoại giao của anh cũng khá...
Không những khá mà còn hay nữa! Nếu không khá không hay thì làm sao cả gia đình tôi ngay trong đêm đó đi tàu đò về Phú Quốc mà khỏi xuất tiền túi một cắc bạc để mua vé đò? Ðã vậy còn được nằm trên lồng cu cạnh chỗ tài công lái tàu. Có chiếu bông, có nước trà, có bánh ngọt. Ở tầng dưới thì ôi thôi không khác gì cảnh dắt nhau chạy loạn, nghẹt cứng như xếp cá mòi. Tìm được chỗ nằm thẳng cẳng cũng không phải dễ. Nhiều người phải ngủ ngồi qua đêm. Mùi hàng hóa, heo gà, cá đồng xông lên nồng nặc. Ba tôi, ông già nhà quê đi đâu cũng thường hay mặc bộ đồ bà ba trắng, đầu đội nón cối trắng, chưn mang dép nhật, bấy giờ mới thực sự thấy uy quyền của con trai mình. Một người làm quan cả... nhà được nhờ.
(Mãi sau này tôi mới có dịp quen biết, nhậu nhẹt với mấy ông chủ tàu đò. Ông Lâm Mỹ Sên, chẳng biết có họ hàng gì với thi sĩ Ðông Hồ Lâm Tấn Phác ở Hà Tiên hay không, làm chủ hãng tàu Tân Hưng. Có văn phòng ở phố Phó Cơ Ðiều, bến bạch Ðằng ở Rạch Giá và bến Lê Quang Liêm ở Sài Gòn. Ông Lê Văn Khâm, chủ hãng tàu Thuận Lợi. Chỉ có văn phòng tại Rạch Giá, cũng phố Phó Cơ Ðiều. Hai ông này cho phép tôi và gia đình suốt đời đi tàu khỏi tốn tiền, bằng cách viết ở mặt sau tấm card-de-visit: Người cầm giấy này được đi tàu miễn phí. Rồi cũng có dịp làm thân với những ông chủ tàu cá, chủ tàu vận tãi đường thủy. Ông Nguyễn Văn Ba chủ hãng Nam Hải Ngư Nghiệp Công Ty, có văn phòng trung ương ở đường Nguyễn Công Trứ, Sài Gòn. Ông Trần Văn Cưng, chủ hãng Minh Hà, một công ty vận tãi thủy bộ. Văn phòng chính đặt ở lầu 2 thương xá TAX, đại lộ Nguyễn Huệ, Sài Gòn. Và nhiều người nữa, có tiếng tăm trong ngành thương nghiệp ở Rạch Giá, mà không làm sao nhớ hết).
Tàu đò là một chiếc ghe lớn, ghe chài. Vậy mà cũng biết súp-lê như tàu sắt. "Súp-lê một còn trong còn đợi, súp-lê hai còn đợi còn trông, súp-lê ba tàu ra biển Bắc, hai tay nắm chặt song sắt con mắt lờ đờ...," trật lấc, tàu ra biển Tây đi vào vịnh Thái Lan. Không riêng gì tàu Hải quân, tàu gì ra khơi bao giờ cũng buồn buồn. Không ai thoát được nỗi vương vấn, vướng vít bến bờ. Trời chiều vàng trên mặt nước. Gió biển mặn dập vào người. Lâng lâng hồn dâng cao theo triền sóng, thử hỏi ai mà chẳng ngậm ngùi, bâng khuâng trong cảnh tách bến ra đi. Lạch nước sâu chảy ra vịnh của dòng Kiên Giang đã thuộc lòng như chỉ bàn tay vậy mà bác tài công từng chập từng chập đưa tàu rướn lên cạn, trườn qua những bãi cát ngầm. Ngập ngừng như những tiếng nấc còn sót lại trước khi dứt khoác chia tay.
Rồi thị xã Rạch Giá xa dần xa dần trong nuối tiếc. Những chiếc thuyền con gắn máy đuôi tôm chạy bạch bạch hai bên tàu trong giờ tiễn người đi đã không còn thấy nữa. Nước biển trong xanh và những lượn sóng lớn bắt đầu phả vào mạn tàu. Tiếng máy tàu, máy dầu cặn, nổ đều đều trầm buồn ru ngủ.
Lúc bắt được hòn Tre, thường gọi là hòn Tre Cửa để phân biệt với hòn Tre ở miệt Hà Tiên, thì màn đêm đã xuống hẳn và trăng đã lên cao. Khắp biển bao la một màu vàng nhạt mơ hồ, lấp lánh ánh lân tinh của những lượn sóng bạc đầu. Ðèn điện từ xóm nhà dân trên hòn cắt những vệt sáng dài nhấp nhô trên mặt biển. Vắng lặng. Hành khách phần lớn đã chìm vào giấc ngủ dù tạm bợ nhưng không kém phần say sưa. Chỉ còn lại những người mới quá giang tàu đò lần đầu hay những người luôn luôn nặng tình, bền lòng với gió trăng.
- Chừng nào mình mới bắt được hòn Nghệ?
- Chắc cũng một hai giờ khuya, đại úy. Ðại úy đi ngủ đi cho khỏe.
Bác tài công khuyên tôi như vậy và tôi đã nghe lời đặt lưng lên chiếu...
Tàu đò cặp cầu An Thới trong lúc trời vẫn còn về đêm. Một đêm suôn sẻ, không lạc đường, không trôi giạt như bà con thường bị. Nghe đâu có lần tàu Tân Hưng suýt chút nữa tấp vô quần đảo Bà Lụa ở ngoài khơi Kiên Lương. Giông bão hay tài công ngủ gục? Không giông bão cũng không ngủ gục mà là lọt vào tam giác thần, vì chính người lái tàu đêm đó cũng không biết tại sao mình đi lạc! Giờ này thì vạn vật vẫn còn im lìm, chìm đắm trong sương. Chỉ đổ hành khách thôi, hàng hóa phải chờ đến sáng. Ô kìa, cũng có một vài người chịu khó thức dậy sớm, xuống tận bến đò để đón thân nhân! Một bóng đèn điện duy nhất có chụp che mưa nắng giữ nhiệm vụ soi sáng cầu tàu.
Tôi gửi lại hành lý của mình cho bác tài công. Ðợi sáng ngày cho thằng em xuống lấy. Chỉ mấy vali áo quần và một bịt thức ăn khô thì không sợ ai ăn cắp. Tôi dẫn vợ con và ba tôi vòng theo bãi biển, đi đường tắt về nhà. Ánh trăng vàng nhạt vẫn còn dõi bóng người đi. Không mấy gì nên thơ nữa vì ai nấy đều mệt mỏi, rã rời. Nhất là khi đi ngang qua khu phơi cá vụn để làm phân, mùi hôi thúi xông lên ngập mũi. Phải vạch hai lần kẽm gai để chun vào khu gia đình sĩ quan, lớp hàng rào duy nhất ngăn cách khu quân sự với dân chúng. Anh lính gác cổng bộ tư lệnh có lẽ đã thấy chúng tôi rõ ràng từ điếm canh nhưng vẫn để chúng tôi tự nhiên hành động. Con đường mòn này chắc chắn hắn đã nhiều lần đi qua và có thể hắn nghĩ rằng đất Phú Quốc này không hề có đặc công cộng sản. Người lớn khòm lưng trong khi mấy đứa nhóc đi xổng.
Qua một bãi cát nhỏ có cái giếng nước bỏ hoang thì tới nhà. Vợ tôi có vẻ hài lòng với khung cảnh bên ngoài của căn nhà đầu căn. Vào nhà, tất cả để nguyên đồ mặc lên giường, divan tiếp tục ngủ.
Người thức dậy sớm nhất là ba tôi, cũng gần đứng bóng. Ổng lui cui đi nấu nước pha trà ngồi uống một mình. Tôi hơi ngạc nhiên vì cả đời ông chưa hề xài qua bếp điện. Ðặc biệt ở chỗ đây là bếp điện phế thải của tàu PCF do thiếu úy Ðạo, thằng con khóa đàn em của tôi, mang tặng. Trụi lũi không có hộp đựng bên ngoài. Bốn ngoe dài cháy một còn ba, vẫn còn xài được. Yên phận nằm trên mấy miếng gạch lốc bằng xi măng. Chỉ cần nối dây vào chốt cắm, rồi cắm vào lỗ cắm điện... chùa gắn trên tường. Nhưng, tôi cứ nghĩ ông già gan thiệt.
Ðể lũ nhỏ ở nhà chơi với ông nội, hai vợ chồng tôi bước ra chợ. Nói là chợ cho có vẻ thôi, thực ra chỉ vài ba tiệm tạp hóa, tiệm may, quán ăn, quán nhậu, phòng chơi bida, phòng mạch của y sĩ trung úy Lê Huy Thụy... nằm dọc theo con đường đất chính. Sáng sớm mới có thịt heo, cá đồng, cá biển, rau cải tươi bày bán hai bên lề đường. Mục đích là để vợ tôi đi một vòng cho biết, chớ mua sắm gì thì chờ lần sau. Ấy vậy mà rốt cuộc hai đứa cũng ghé vô tiệm gạo ôm về một bao nhỏ.
Qua ngày hôm sau, khi tôi sửa soạn đi làm thì tôi phác giác ra là ba tôi đã bị mất tích từ sáng sớm. Bình trà thường khi rất nóng bây giờ nguội ngắt. Tôi hỏi vợ tôi:
- Em có biết ba đi đâu hôn ?
Vợ tôi phân trần:
- Em dậy trước anh chỉ có một chút xíu thì làm sao em biết được. Chắc ba biết tụi mình hay nằm nướng nên ổng đi ra phố ăn sáng cho tiện. Hổng chừng ổng đang ăn hủ tiếu Mỹ Tho!
- Chỗ này có chút bẻo, ổng đi ăn hủ tiếu gì mà lâu dữ vậy? Cái ông này đi đâu vậy cà ? Có sợ ba lạc đường hôn?
- Lạc cái gì mà lạc, anh sao khéo lo...
Khéo lo như vậy mà còn không kịp, vì quá mười hai giờ trưa tôi về nhà ăn cơm cũng không thấy bóng dáng ông già đâu hết. Ði tìm ổng ở đâu? Lên núi? Xuống biển? Ði báo cảnh sát? Vô lý! Mà khắp đảo không có một người quen thì hỏi thăm ai?
- Hồi sáng giờ em có ra chợ tìm ba hôn?
Hỏi xong mới biết mình sơ ý, vì câu trả lời của vợ tôi y chang như tôi dự đoán:
- Em lu bu với bốn đứa nhỏ ở nhà.
Rồi vợ tôi cười, trấn an tôi:
- Ba không có sức để đi khắp hết cái đảo này đâu mà anh lo, một chút nữa ổng sẽ về. Vả lại bốn bề biển cả ổng hổng có bay đi đâu được mà!
Ðến chiều đi làm về tôi cũng không thấy bóng dáng ba tôi. Lúc này tôi mới biết sợ. Trong đầu tôi nãy ra nhiều câu hỏi và duy nhất chỉ có một câu trả lời: vái trái cho ba tôi được bình an. Tôi nói bâng quơ một mình:
- Ði gì mà đi cả ngày vậy cà!
Vợ tôi im lặng dọn cơm. Thằng con trai lớn vỗ vỗ tay lên đùi tôi, hỏi:
- Ba, chừng nào ông nội về? Ông nội đi mua kẹo hả ba?
- Ừa, chút xíu nữa ông nội về.
Rồi bỗng dưng:
- Nội về, nội về...
Quả nhiên ổng về thật. Mở cửa trước đi thẳng ra sau bếp. Cũng bộ đồ bà ba trắng, nón cối trắng và đôi dép nhật. Tôi nửa mừng nửa giận:
- Ba đi xứ nào từ sáng đến giờ mà ba không chịu nói cho vợ con hay, làm ở nhà lo quá trời.
Ông đáp gọn lỏn:
- Tao cứ nhắm hướng mặt trời mọc mà đi.
- Rồi ba đi tới đâu?
Ông cười hề hề:
- Nghe đồng bào ở đó họ kêu là mũi ông Ðội.
- Ba đi qua thủy xưởng, ba đi qua sân bay, ba đi qua một bãi biển dài thiệt dài... Ba đi quá xa rồi...
Ông gật đầu, vui vẻ nói:
- Ừa, thì đi cho tới chừng nào tao đi hết được thì thôi.
Rồi ông bắt sang đề tài khác:
- Ở ngoài đó có nhiều con đỉa biển, con đồn đột, con à người Tàu thường gọi là con hải sâm. Vì có vị thuốc nên bán mắc lắm. Ai ngờ nó đen thui thùi lùi như con đỉa trâu thiệt bự thấy mà bắt ghê. Có vài người đi bắt dọc theo bãi. Nhưng nghề chính của dân ở đó là nghề hầm than. Họ đấp lò chi chít trong rừng, lớn có nhỏ có. Cái thì vài chục ký cái thì vài chục tạ. Củi rừng thì sẵn đó mạnh ai nấy đốn, sống dễ dàng như trời sanh trời nuôi. Họ có dẫn tao đi thăm suối Tiên nữa. Họ nói rằng hồi xưa vua Nguyễn Gia Long, trên đường lánh nạn Tây Sơn đã tấp vô cái đảo Phú Quốc này và nhờ cái mạch nước ngọt đó mà cả đám vua quan, quần thần mới không chết khát.
Tôi chẳng quan tâm đến chuyện lịch sử, huyền thoại mà tôi để ý đến chuyện khác:
- Ba coi chừng có tụi Việt Cộng trà trộn trong đó. Nguy hiểm lắm, tốt hơn hết ba đừng có tin ai và đừng đi xa như vậy nữa!
- Tao chỉ thấy toàn là dân làm ăn lương thiện. Họ mời tao ở lại ăn cơm trưa, ăn cá biển nướng trui dầm nước mắm tỏi ớt. Ngon lắm!
Vợ tôi xen vào:
- Ba làm tụi con lo quá chừng. Rủi có bề gì không biết ăn nói làm sao với anh chị em, bà con lối xóm ở nhà. Dân ở đảo không giống như dân ở trong đất liền đâu!
Tôi tiếp:
- Ba muốn đi chơi đây đó thì để con nói mấy thằng em trong phòng xách xe honda chở ba đi cho chắc ăn.
- Ối, tao già cả rồi đâu ai bắt bớ làm gì cho mắc công tốn cơm, tốn gạo...
Ðã nói như vậy mà qua bữa sau ba tôi cũng đi suốt cả ngày. Có kinh nghiệm bữa trước nên tôi không lo mấy. Vả lại tôi đinh ninh cái xứ này quá nhỏ, nhỏ hơn nhiều so với những nơi mang tiếng "đi năm phút trở về chốn cũ." Nhưng thực sự tôi đã sai lầm về cái xứ quá nhỏ này, Phú Quốc coi vậy mà cũng có nhiều chỗ đáng viếng thăm. Không phải độc nhứt chỉ có một con đường chạy từ cổng thủy xưởng An Thới vòng xuống chợ, chạy ra dãy nhà thùng như lời trung úy Sơn, người sĩ quan phụ tá của tôi, cho biết trước đây. Khác với ngày hôm qua, bữa nay ba tôi xuất hành hướng Tây, cứ theo hướng mặt trời lặn mà đi. Ổng cho biết:
- Không ngờ ở đây người ta lại sùng đạo quá xá. Dân chúng không bao nhiêu mà cũng có xóm Ðạo, xóm Chùa. Ở xóm Ðạo có một nhà thờ rất lớn, nền xi măng vách ván sơn trắng. Ông cha xứ cũng hiền từ, lễ độ. Biết mình là người ngoại đạo mà ông cũng tiếp đãi đàng hoàng. Bên cạnh nhà thờ có một trường trung học nữa, trường Thánh Phê-rô. Họ nói có thầy dòng dạy hết chương trình trung học đệ nhất cấp... Ði lần ra xóm Chùa, hỏi thăm người trong xóm mới biết ở đây có hai chùa: chùa Cao Ðài và chùa Phật nằm tuốt ngoài bãi Xép.
Ðạo gốc bởi lòng thành tính hiệp
Lòng nương nhang khói tiếp truyền ra
Mùi hương lu ngọc bay xa
Kính thành cầu nguyện tiên gia chứng lòng...
Ðó, họ đọc kinh Tứ Thời cũng như trong mình. Cũng Nam Mô Cao Ðài Tiên Ông Ðại Bồ Tát Ma Ha Tát. Còn thầy chùa, bà vãi ở chùa Phật thì cũng như trong đất liền thôi, cũng ăn chay niệm Phật. Ban đầu tao tưởng họ là người Miên, nhưng không phải, họ nói tiếng Việt Nam rành như mình.
Tôi hơi ngạc nhiên và mở rộng tầm mắt đôi chút vì lời nói của ông già. Ðừng tưởng Phú Quốc chỉ là một căn cứ quân sự, một đơn vị đồn trú Hải quân. Phú Quốc có dân chúng, có binh sĩ, có tôn giáo, có chính trị, và hiển nhiên có Việt Cộng có chiến tranh. Tôi hỏi:
- Rồi ba đi đâu nữa cho hết ngày ?
- Sau đó tao ghé qua trường tiểu học Mai Chí, trường con nít do Hải quân của bây thành lập, dạy dỗ. Rồi tao trở xuống chợ và vòng ra mấy hãng nước mắm. Hãng Phong Hưng, Hồng Lan, Hồng Thắm... có dè đâu lại nằm ở đây. Nước mắm của họ có bày bán ở chợ Mỹ Tho. Nước mắm Phú Quốc, nước mắm Phan Thiết làm bằng cá cơm phải ngon hơn nước mắm cá chốt, cá úc, cá lù đù, cá mề gà của bác sáu Ðẹt, bác chín Hãng (nước mắm) của mầy ở Chợ Gạo. Khô cá thiều, cá đường, cá đuối, cá hố chỗ nào cũng có. Giá rẻ mạt so với trong mình. Rồi tao đi tuốt ra ngoài mũi Hanh mới gặp anh sáu Bền, chủ hãng nước mắm Thanh Bình. Tao với ảnh làm lai rai. Ðám con của ảnh học giỏi lắm nghen, đứa đi Tây đưa đi Tàu, không đứa nào ở nhà hết...
- Rồi ba khoe đám con của ba đứa đi Mỹ đứa đi Nhật?
- Thì đại khái tao nói mầy đổi ra đây làm trưởng phòng An Ninh.
- Trời đất, bộ ba hết chuyện nói hay sao mà ba vạch lưng cho người ta xem thẹo. Làm nghề bí mật mà ba đem mí mí bật ra hết thì chết con rồi. Nguy hiểm quá!
- Thì mình có sao nói vậy. Ảnh nhắn tao nói với mầy có dịp nào ra nhà ảnh chơi. Tao thấy ảnh ăn ở hiền lành nhơn đức.
Không riêng gì ở đây mà bất cứ ở một miền duyên hải hay một hòn đảo nào, dân đánh cá nhất là chủ nhà thùng, chủ hãng nước mắm, đều phải nể mặt trưởng phòng Nhì, trưởng ban 2. Tại vì trước sau gì cũng có ngày ghe đánh cá của mình thong dong dạo chơi trong vùng cấm đánh cá. Có thể nói đôi lúc vì cần phải chạy theo bầy cá mà bị lọt vòng vây, nhưng thường thường là nhảy vô tròng đánh đại một mẻ, may nhờ rủi chịu. Cá biển coi vậy chớ cũng khôn lắm, biết ẩn núp trong những vùng ít ai thả lưới, kéo cào. Cho nên một lần đánh cá trong vùng cấm, vùng tác xạ tự do, được coi như là một lần trúng số. Nhưng đi đêm có ngày gặp ma, có ngày ghe chở đầy cá của mình không chạy được về bến mà lại bị dẫn độ về phòng Nhì, ban 2. Quen biết với trưởng phòng Nhì, trưởng ban 2 bây giờ mới thấy có lợi là ở điểm đó. Ghe thả sớm ngày nào hay ngày nấy, kẹt một tháng cặp cầu, nằm ụ thì cũng dám sạt nghiệp lắm chớ chẳng phải chơi. Thủ tục khám xét, điều tra thì gia giảm, co dãn như sợi dây thung. Thưa kiện ai?
- Con chưa ra mũi Hanh, chưa xuống bãi Xép. Nhưng hai chỗ này nghe nói chỉ đẹp lúc về đêm mà thôi. Trăng thanh gió mát và lập lòe đèn đóm của những chiếc thuyền con vớt mực ngoài khơi, trồi lên hụp xuống chớp tắt như đàn đom đóm. Ba đi ban ngày ban mặt thì có gì là hứng thú...
Có lẽ nếu bắt ba tôi nằm nhà ổng sẽ sanh bệnh vì chưn ổng là chưn đi, mặc dù đi bộ. Cho nên sáng ngày thứ ba, ổng cũng đi từ sáng đến chiều. Hết hướng đông sang hướng tây, hết mặt trời mọc đến mặt trời lặn, và bây giờ phải theo sao Bắc Ðẩu đi về hướng bắc vì hướng nam không còn đường đi, giáp ranh với biển. Tuy nhiên bữa nay ông về nhà sớm hơn mọi khi. Chiều về bước vô cửa, tôi gặp ông đang ngồi bàn uống nước trà trò chuyện với mấy đứa cháu nội. Tôi hỏi ngay:
- Bữa nay ba đi đâu chơi?
- Tao đi thăm trại tù, cầu Sấu.
Tôi ngồi vào ghế:
- Mèn ơi, xa quá chừng mà ba đi lên trển làm chi cho mệt cái thân. Trên đó đâu có gì vui. Chỗ nhốt tụi cay sì-ke ma-túy, chỗ đóng quân của liên đoàn địa phương quân mà. Vùng đó là vùng mất an ninh. Tin tức tình báo cho biết du kích cộng sản đã nhiều lần xuất hiện dọc theo lộ đi về Hàm Ninh, Dương Tơ. Con vừa mới chấm điểm trên bản đồ... Lại hải sâm, con nghe nói dân ở Hàm Ninh, Dương Tơ chuyên về nghề sản xuất hải sâm. Hải sâm nhiều quá nên người ta không còn đi bắt từng con như ba thấy ngoài bãi mũi ông Ðội, mà phải dùng ghe cào. Ði cào hải sâm như đi cào tôm cào cá vậy. Dân ở vùng Hà Tiên, Kiên Lương, Hòng Ngang nhiều người cũng ra tới đó làm ăn. Nghe đồn là sau khi bắt họ còn phải ngâm vôi, ướp đu đủ cho nó nhả nhớt sạch ruột, rồi mới đem phơi khô. Công lao cực khổ dữ lắm mới bán được. Hải sâm, hải yến, bào ngư..., cái chuyện ăn của mấy người giàu sao mà cầu kỳ.
- Tao chỉ đi chơi cho biết, trong đời chỉ có một lần. Nhưng được nữa đường mỏi chưn quá tao lội trở về. May mà gặp được chú em con chị Bảy tiệm, quê ở Mỹ Tho, cho quá giang xe honda nên lẹ.
- Sao, ba nói có người ở Mỹ Tho ra đây lập nghiệp?
- Thì chị Bảy bán tiệm hàng xén, bán gạo củi nước mắm dầu lửa... nào đó tao đâu có biết. Chú em đó nghỉ hè về đây chơi. Mà chú không có chở về nhà liền đâu, chú chở tao đi xuống bãi Khem rồi chở vòng lên núi Ðất Ðỏ, Ðất Ðen gì nữa, chỗ có đường xe hơi đi về quận Dương Ðông.
Tôi chưa đi Dương Ðông lần nào nhưng đã nghe nhiều huyền thoại về những cành hoa phong lan đen, về những vườn tiêu xanh, về một dòng sông thắp sáng bởi những đèn măng xông trong mùa đánh cá bạc má, và về giống chó săn cứu chủ giúp người có hai xoáy trên bả vai chạy dài ra sau đuôi. Tôi nói:
- Ðường đi Dương Ðông xa cả chục cây số đã bị gián đoạn từ lâu rồi. Không còn ai sử dụng, chỉ để đưa quân đi hành quân thôi. À, nghe đồn bãi Khem đẹp lắm phải hôn ba?
- Thì nước trong cát trắng, có nhà thủy tạ cất tuốt ra xa. Hình như mới được ai tu bổ sửa sang, mái tranh chưa sẩm màu và trụ cừ nhiều cái còn tươi. Lối đi trên cầu còn lót thêm vĩ sắt cho khỏi trơn trợt. Nhưng, ở ngoài đó vắng que hà, chỗ để cho học sinh ở Sài Gòn ra đây nghỉ mát mà, chú em con chị Bảy tiệm nói với tao như vậy.
Có lẽ con người ta lúc về già thì thích tìm đến với thiên nhiên, thích sống hòa mình vào đất trời, thích khám phá những gì huyền bí, xa lạ. Tuổi phải dọn mình để lên thiên đàng, thoát khỏi cảnh tục trần? Tôi đọc được ý nghĩ đó trong đầu ba tôi. Ðời người chỉ có một lần, mặc dù ở nhiều nơi, trong nhiều trường hợp. Cho nên lúc sống cần phải sống hết mình, vì thời gian không bao giờ trở lại.
Ngày thứ tư là ngày đáng lẽ ba tôi phải theo sao Nam Tào đi về hướng nam, nhưng vì kẹt đường, kẹt biển nên ông phải nằm nhà chơi với lũ cháu. Sau giờ tan sở tôi đưa ba tôi và sắp nhỏ vào thăm căn cứ và bộ tư lệnh. Chụp vài tấm hình kỷ niệm. Cầu tàu, chiến hạm, sân cờ. Cũng bộ bà ba trắng, nón cối trắng và đôi dép nhật lèng xèng. Càng lớn lên tôi càng thương mến ba má tôi, tôi không còn khổ tâm vì ba má tôi quê mùa như hồi còn nhỏ nữa. Mà tôi thấy thật sự không ai cười chê mình khi cha mẹ mình không được "văn minh" đâu. Chỉ tại mình mặc cảm, nghĩ như vậy mà thôi.
Chiều hôm đó tôi mua vé đò đưa ba tôi về Rạch Giá. Thêm một ít lộ phí đi đường. Ðã đến lúc tôi làm ra tiền, tôi phải xài sang hơn một chút. Tôi hi vọng Phú Quốc đã thỏa mãn ba tôi phần nào nỗi niềm đi cho biết đó biết đây. Chỉ tiếc một điều là trong những ngày ông ở lại đây tôi không có dịp nào đưa ông đi ăn tiệm, ăn quán...
Sau này có ở lâu mới biết, tuy phố xá An Thới chỉ bằng một bụm tay nhưng tiệm ăn, quán nhậu mọc lềnh khênh. Quán nhậu có nhạc kích động Bò Vàng, quán Biển có nhạc Trịnh Công Sơn của bên vợ ông Võ, thiếu tá Dương Hồng Võ, quán ông Ngạc, trung tá Hà Văn Ngạc, quán ông Thanh, trung tá Trịnh Kim Thanh, quán ông Tư, trung úy Tư, quán ông Lộ, thượng sĩ Lộ, quán ông Thơm, cảnh sát Thơm, với hai cô con gái vang bóng một thời, quán Hồng Thịnh... Và cũng có nhiều nơi cần phải ở lâu mới biết như mấy động điếm trong khu bãi Xép. Ðộng Kim Thai, tên người cận vệ gốc Miên của đại tá Kiểm lúc ông còn làm tư lệnh Vùng ở ngoài đó, là một thí dụ điển hình. Và cũng nên nhắc nhở đến những căn nhà bí mật trong xóm Ðạo, xóm Chùa đã có một thời là tổ uyên ương thầm lén của mấy ông lớn...
Phú Quốc đã cho ba tôi một lần đi và cho gia đình tôi một lần ở. Mặc dù phương tiện và đời sống ở đảo có phần eo hẹp, nhưng Phú Quốc vẫn tiềm tàng trong lòng chúng tôi những hình ảnh khó quên. Ðối với riêng tôi, thương nhớ Phú Quốc là thương nhớ một vùng trời quê hương... nằm hơi xa đất mẹ.
Nguyễn Tấn Hưng