vhnt, số 217
19 August 1996
Trong số này:
thư vhnt..................................................................PCL
T h ơ :
1 - Thơ chuyển ngữ : C. Beaudelaire ........Trần Thuyên giới thiệu
- Artist unknown / Nghệ sỹ vô danh .....................................
- Music / Âm nhạc ........................................................
- Icarus Lament / Ðường bay tuyệt vọng ..........Trần Thuyên dịch
2 - Không đề ..........................................................TTH
3 - Tình ...................................................Trần Thái Vân
4 - Không đề ......................................................Cỏ Mơ
5 - Trưa nay .........................................................Bé Lì
6 - Mai về ...................................................Châu Chương
D i ễ n Ð à n V ă n H ọ c :
7 - Nếu quê hương là Mẹ rồi ai sẽ là Cha ........Trần Trung Ðạo
T r u y ện N g ắn / S án g T ác :
8 - Hạt bụi giữa đời .........................................Vũ Trung
9 - Trưa qua đèo Mang Giang ..............................Trần Hoài Thư
Gửi lời chào đầu tuần đến bạn đọc vhnt, với số 217 nhiều bài vở cho một ngày mới của tuần.
Số này, xin giới thiệu vài cây bút mới đóng góp lần đầu tiên cho vhnt. Những cây viết tuy mới nhưng đã có nét, đã lộ văn phong, và mong rằng những cây bút này sẽ gửi đến chúng ta những sáng tác khởi sắc hơn nữa.
Chúc bạn đọc một ngày làm việc vui và nhẹ nhàng.
thân ái,
PCL/vhnt
thơ Charles Baudelaire
Artist Unknown
Flesh is willing, but the Soul requires
Sisyphean (1) patience for its song.
Time, Hippocrates remarked, is short
and Art is long.
No illustrious tombstones ornament
the lonely churchyard where I often go
to hear my heart, a muffled drum, parade
incognito.
'Many a gem,' the poet mourns, abides
forgotten in the dust,
unnoticed there;
'many a rose,' regretfully confides
the secret of its scent
to empty air.
Nghệ Sĩ Vô Danh
Xác Thân khả ứng, nhưng Linh Hồn cần
kiên nhẫn của loài dã tràng cho nhạc bản.
Thời Gian, Hippocrates đã nói, thì hữu hạn
và Nghệ Thuật thì vô hạn.
Không có những mộ bia vinh danh để điểm tô
những khu đất hoang nhà thờ nơi tôi thích
đến để lắng nghe tim mình, tiếng trống nghẽn, cuộc diễn hành
vô tông tích.
'Có nhiều quí thạch,' thi sĩ vãn than, chấp nhận
lãng quên vào cát bụi,
vô tri nơi đó;
'có nhiều đóa hồng,' luyến tiếc gửi trao tâm sự
bí ẩn hương hoa
vào trống vắng gió.
(1) Trong thần thoại Hy Lạp, Sisyphus là một ông vua tàn bạo. Bị đày xuống địa ngục với hình phạt phải đẩy một tảng đá lớn lên đỉnh núi, tảng đá lại lăn xuống chân núi. Sau đó, cứ tiếp tục như thế cho đến muôn kiếp.
oOo
Music
Beethoven
Music often takes me like a sea
and I set out
under mist or a transparent sky
for my pale star;
I run before the wind as if I had
laid on full sail,
climbing the mountainous backs of the waves,
plummeting down
in darkness, eardrums throbbing as I feel
the coming wreck;
fair winds or foul - a raging storm
on the great deep
my cradle, and dead calm the looking-glass
of my despair!
Âm Nhạc
Beethoven
Âm nhạc thường mang tôi đi như biển cả
và hải trình tôi
dưới mù sương hay trời trong
về hướng hành tinh định mệnh.
Bước chân nương trước gió như
cánh buồn căng
leo qua những lưng núi sóng
và lao xuống
trong bóng tối, cảm nhận ra trong dội bưng thính giác
cơn tàn phá sẽ tới;
gió xuôi hay nghịch hướng - cơn bão tố cuồng điên
dưới đáy biển sâu
là nôi an ngủ, và phẳng lặng là lăng kính
của tuyệt vọng tôi!
oOo
Icarus (2) Lament
Happy man who fornicate with whores
are satisfied and fit,
while my exhausted arms are impotent
from clasping only clouds;
nights of staring at the peerless stars
which ornament the dark
have seared my eyes until they see no more
than memories of suns;
I have not followed out the heart of space
nor touch its boundaries:
beneath a fiery gaze I cannot meet
I feel my pinions fail;
I burn for beauty, but I shall not have
the highest accolade -
my name will not be given to the abyss
which waits to be my grave.
Ðường Bay Tuyệt Vọng
(hay Bài Tự Thán của Icarus)
Kẻ hạnh phúc lúc mua vui thể xác
thì hả hê và khỏe mạnh,
khi đôi tay tôi rã rời bất lực
chỉ ôm những đám mây;
những đêm nhìn thiên tinh tuyệt thể
điểm tô bóng tối
đã mắt cháy lòa không thấy được gì
ngoài kỷ ảnh của những mặt trời;
đã không bay đến trung tâm vũ trụ
biên giới nằm xa khoảng tầm tay
dưới ánh nhiệt quang vô phương đối diện
nhận thức ra đôi cánh rã rời;
Tôi rực cháy đi tìm nét đẹp, sẽ không màng
cao đỉnh ngợi khen -
không tên tuổi cho vào vực thẳm
đang đợi chờ làm huyệt mộ tôi.
(2) Trong thần thoại Hy Lạp, Icarus mơ được bay cao và xa. Bèn chế ra một đôi cánh, tháp vào và bay đi. Càng lúc càng cao. Càng lúc càng xa. Khi bay đến gần mặt trờì, đôi cánh bị bốc cháy, Icarus rơi vào cái chết.
Trần Thuyên chuyển ngữ
Không Ðề
thơ cho Ba và Em
Năm tháng
Tôi tìm kiếm
Linh hồn em
Lưu lạc
Năm tháng
Linh hồn em
Tìm kiếm
Tôi
Linh hồn Cha
Và Mẹ
Tìm kiếm
Linh hồn ta
Một tĩnh địa đàng
Năm tháng
Ðôi mắt mờ
Vì khóc
Tóc hai màu
Vì đau
Lưng khòm
Vì đợi
Linh hồn Cha
Và Em
Mẹ gọi
Một cõi thiên đàng...
8/1996
TTH
Tình
Dầu tình đầu hay cuối
Vẫn nhớ nhớ, thương thương
Dầu tình mơ, tình vặt
Thương nhớ cũng thất thường
Dầu tình lén, tình lút
Giọng ôm giọng: em, anh
Rồi một ngày bất chợt
Chia tay... lá xa cành
Dầu lục lễ tam thư
Người ôm người, cọ xát
Vẫn không tròn thiên thu
Nên tình là mất mát
Vì tình là mất mát
Nên một đời yêu thơ
Vì mùa sang rào rạt
Nên nhớ nhiều bâng quơ...
Lòng lay động vu vơ.
trần thái vân
Không Đề
Ta quen nhau thuở đó
Em trong trắng, hồn nhiên
Ta yêu em thầm kín
Nói, chẳng nói nên lời
Em mãi vui cùng ta
Bên bè bạn chúng ta
Ðể một ngày xa cách
Ta nói yêu muộn màng
Ðã bao năm biền biệt
Dù ta dạt bến nao
Em trong ta vẫn vậy
Yêu, yêu chỉ một lần
Giờ gặp em bỡ ngỡ
Ta muốn nói yêu em
Ta trong em sao nhỉ?
Hay quên tự bao giờ?
thung lũng hoa vàng,
một chiều cuối hạ
Cỏ Mơ
Trưa Nay ...
Trưa nay mây ngủ, dừng ngang phố
Một vạt nắng hè, phủ lối đi
Êm ả ngày trôi, và cơn gió
Ru em nhè nhẹ, thật từ bi ...
Thấp thoáng thu về, tiễn hạ qua
Một vài lá rớt, gợi bâng khuâng
Không gian im vắng, buồn chi lạ
Sỏi đá lăn tăn, bước lặng thầm ...
Trưa nay mây ngủ, dừng ngang phố
Như nhớ mong ai, những đợi chờ ...
Bé Lì
Mai Về...
Mai về gặp lại bóng hình xưa
Thuở trước yêu thương nói sao vừa
Tình ta chan chứa bao êm ái
Ước nguyện bên nhau ngỡ chẳng phai
Mai về gặp lại dáng hình ai
Khắc khoải tâm tư suốt đêm dài
Người mang cho ta bao niềm nhớ
Cuộc tình ngày đó đẹp như thơ
Về đâu mong hết đời bơ vơ
Mười năm tình ngỡ đã phai mờ
Chợt đâu mang đến niềm thương cũ
Tình này trong ta đến thiên thu
Mai về mơ hết đời phiêu du
Ðường tình xin lắng đọng bụi mù
Dừng bước giang hồ lòng khắc khoải
Ta về mơ ước một ngày mai
Mai về gặp em hồn ngây ngất
Vẫn tưởng như mơ đến dại khờ ...
Châu Chương
Nếu Quê Hương Là Mẹ Rồi Ai Sẽ Là Cha
nhân đọc một bài thơ của Ðỗ Trung Quân,
tâm bút của Trần Trung Ðạo
Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi
Quê hương nếu ai không nhớ
Sẽ không lớn nỗi thành người
Ðó là bốn câu kết trong bài thơ "Bài Học Ðầu Cho Con" của nhà thơ Ðỗ Trung Quân. Ðỗ Trung Quân là một nhà thơ trẻ mà sau 1975 tôi thường nghe giới sáng tác gọi anh ta là nhà thơ thanh niên xung phong vì nghe đâu anh có đi thanh niên xung phong thì phải.
Trước hết, tạm thời loại bỏ yếu tố thời gian và không gian trong bài thơ để chỉ đọc bài thơ bằng một cảm xúc chủ quan. Bài thơ rất cảm động, mặc dù chỉ bốn câu chót mà tôi vừa trích dẫn được gọi là rất hay còn những đoạn khác, thật ra, chỉ là để dọn đường cho kết luận của anh. Thế nào là thơ hay, thế nào là thơ dở cho đến nay vẫn còn là một vấn đề tranh cải. Mỗi nhà thơ đều có quan niệm riêng của họ về sáng tác và về nghệ thuật. Do đó, mỗi nhà thơ hay mỗi trường phái của những người làm thơ, có một định nghĩa riêng về thơ hay, thơ dỡ. Hỏi cụ Cao Tiêu thì có thể cụ không trả lời giống như khi hỏi nhà thơ Du Tử Lê.
Theo tôi, thơ hay là thơ phải sống, phải có tâm hồn, phải trong sáng, phải có tư tưởng, có chiều sâu, phải nói lên một cái gì đáng nói. Bốn câu thơ của Ðỗ Trung Quân hội đủ điều kiện theo quan điểm riêng của cá nhân tôi, thơ anh trong bài nầy rất bình dị, nhẹ nhàng nhưng cũng rất sâu sắc. Ðọc bốn câu của Ðỗ Trung Quân, dù bạn đang làm bất cứ chuyện gì cũng phải dừng lại một chốc lác để suy nghĩ về quê hương, đất nước.
Khi đọc bài thơ "Bài Học Ðầu Cho Con" của Ðỗ Trung Quân lần đầu cách đây khá lâu, tôi xúc động lắm. Tôi ra ngồi một mình trên chiếc ghế đá dọc bờ biển Boston. Trong khoảnh khắc bàng hoàng đó, bài thơ mang tôi đã trở về quê hương. Tôi thấy mình đang đứng nghe tiếng nước vỗ bên chân cầu Vĩnh Ðiện. Tôi thấy mình đang tinh nghịch ngồi chễm chệ trên cây khế sau vườn. Hồi xưa cây khế sinh trái chua lắm nhưng hôm đó bỗng dưng trở thành ngọt lịm. Tôi thấy mình đang thả diều trên đồi cỏ Quế Sơn, giữa rừng sim tít ngắt với cô bạn gái học trò lớp bảy. Không giống như ngày nào tôi là cậu bé rụt rè nhút nhát, hôm ấy tôi bạo dạn hơn nhiều. Hình như tôi còn dám cầm tay nàng nữa, chỉ có điều tôi vẫn không dám nói những điều tôi hằng muốn nói.
Quê hương tôi đẹp lắm. Sông Thu Bồn, Cầu Thủy Tú, Bãi Mỹ Khê, Hòn Non Nước, Núi Ngũ Hành, Ðèo Hải Vân, Ðộng Thiên Thai, Phố Hội An, thành phố Ðà Nẵng, v.v... Chao ôi, chỉ cái tên thôi đã nghe rung động lòng người. Và những người con gái của quê hương tôi cũng đẹp hơn con gái của bất cứ một nơi nào mà tôi đã đi qua. Ðồng bào tôi sống bằng nghề dệt vải, dệt lụa nên đàn ông con trai thì thường mặc áo quần may bằng vải, gọi là vải nội hóa hay vải ta, và đàn bà con gái thì mặc áo quần may bằng lụa. Một lần ở Trần Quí Cáp, Hội An, bọn chúng tôi trai gái cùng đi học về thì chẳng may trời đổ mưa như tát nước. Bộ đồ lụa mỏng đã vô tình đồng lỏa một cách tội lỗi với cơn mưa để phơi bày thân thể của cô bạn học. Hình ảnh đó đã đọng lại trong thơ tôi:
Em về phố cũ chiều mưa lớn
Vóc ngọc ngà phơi dưới lụa hồng
Ta như giọt nước mùa mưa ấy
Ðã cuốn trôi về trăm nhánh sông
(Mưa phố Hội, Trần Trung Ðạo)
Và dĩ nhiên trên chiếc ghế đá bên bờ biển Boston, tôi cũng gặp lại người đàn bà đã mang tôi vào cuộc đời nầy, đã dạy tôi làm thơ và dạy tôi thương yêu nhân loại. Mẹ tôi cười. Mẹ tôi ăn trầu nên khi cười hàm răng của bà đen lánh. Da mặt nhăn nheo theo cuộc đời vất vả của bà nhưng đôi mắt vẫn chứa đầy những tinh anh và hiền dịu. Lâu lắm rồi tôi mới thấy mẹ cười.
Ví mà tôi đổi thời gian được
Ðổi cả thiên thu tiếng mẹ cười.
"Ðổi cả thiên thu tiếng me cười". Bài thơ tôi viết năm nào thay cho lời cầu nguyện mãi tới hôm đó tôi mới biết quả là linh nghiệm vì mẹ tôi đã cười.
Tôi nhớ lại trước ngày ra đi, tôi mướn xích lô từ ngoài cửa sông Sài Gòn chạy về thăm mẹ lần cuối trong cơn mưa tầm tầ Mẹ tôi lấy khăn lau khô mái tóc cô hồn dài gần tới vai của tôi, vừa mắng nhẹ "Qua đó không biết ai mà nhắc con đi hớt tóc mỗi tháng đây nữa". Tôi thật là tệ. Không nói với mẹ điều gì ngoài ba tiếng "con đi nghe". Chỉ có thế rồi tôi đi. Tôi đi xa quê hương mang tâm trạng của một kẻ bị đuổi xô, khinh rẻ hơn là tâm trạng của một kẻ đang đứng trước một chọn lựa đớn đau. Tôi chỉ mong đi cho lẹ, chạy cho xa. Ði không ngoảnh mặt nhìn mẹ lần cuối, không kịp vuốt tóc đứa em đang khóc rưng rức sau nhà. Lẽ ra hôm đó tôi phải ôm hôn giả từ mẹ hay xin một chiếc áo cũ của bà để mỗi đêm trên xứ người còn nghe lại chút hơi ấm thơm tho của lòng mẹ. Tôi đã không làm thế. Ðể rồi khi xa mẹ, nhớ mẹ, nhớ em, tôi mới tự hỏi:
Mẹ tôi giờ nầy còn khóc nữa hay không
Hay cố ngủ để chiêm bao giờ hạnh ngộ
Em tôi đứng thập thò trên góc phố
Ðợi anh về dù chỉ mới ra đi
Người con gái tôi yêu ở tuổi xuân thì
Có về lại, một lần, thăm phố vắng
Sài Gòn bây giờ trời mưa hay nắng...
(Bài thơ tháng Tư, Trần Trung Ðạo)
Mười mấy năm sau, những vần thơ của Ðỗ Trung Quân đã làm tôi nghĩ về quê hương như là mẹ:
Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi
(Bài Học Ðầu Cho Con - Ðỗ Trung Quân)
Vâng, Ðỗ Trung Quân viết đúng, quê hương mỗi người chỉ một. Việt Nam là quê hương của tất cả chúng ta. Không có quê hương của người quốc gia hay quê hương của người cộng sản. Không có quê hương tư sản hay quê hương vô sản. Quê hương vẫn còn có đó và sẽ mãi mãi còn đó cho ngàn đời sau. Quê hương là mẹ. Trong lòng mẹ không có hận thù, không có xích xiềng, không có lao tù ngăn cách. Mẹ là mẹ của tất cả chúng ta cũng như quê hương Việt Nam là của tất cả chúng ta. Quê hương của Ðỗ Mười cũng là quê hương của Lê Mai Lĩnh, quê hương của Lê Ðức Anh và cũng là quê hương của Trần Hoài Thư, quê hương của Nông Ðức Mạnh cũng là quê hương của Lâm Chương và quê hương của Võ Văn Kiệt cũng là quê hương của Nguyễn Bá Dĩnh. (ghi chú: Trần Hoài Thư, Lê Mai Lĩnh, Lâm Chương, Nguyễn Bá Dĩnh là bút hiệu bốn nhà thơ quen thân ở miền Ðông và thường hay bị tôi đem ra làm ví dụ).
Nhưng tại sao tôi, Lê Mai Lĩnh, Trần Hoài Thư, Lâm Chương, Nguyễn Bá Dĩnh, các bạn và cả hai triệu người Việt khác đều đã bỏ quê hương mà ra đi. Ai cũng có thể trả lời được, chúng ta ra đi vì tự do. Quê hương đẹp và đáng yêu nhưng không thể ở lại. Quê hương thật sự mà chúng ta đang có không phải là quê hương như Ðỗ Trung Quân đã viết. Quê hương không bao giờ đủ nghĩa nếu sống trên một quê hương mà ở đó con người bị đối xử như con vật. Sống trên một quê hương mà ở đó con người không có quyền nói những điều họ muốn nói, hát những bài hát họ yêu thích, viết những dòng thơ họ muốn viết.
Hai mươi mốt năm qua, những người Cộng Sản đã mang chiếc áo độc tài vong bản choàng lên thân thể đau thương, ốm o, gầy guộc của mẹ Việt Nam, biến thánh địa của thương yêu thành một ngục tù của thù hận. Ðỗ Trung Quân chẳng lẻ không thấy ra điều đó.
Phần đầu của bài thơ Bài Học Ðầu Cho Con của Ðỗ Trung Quân:
Quê hương là gì hở mẹ
Mà cô giáo dạy phải yêu
Quê hương là gì hở mẹ
Ai đi xa cũng nhớ nhiều
Quê hương là chùm khế ngọt
Cho con trèo hái mỗi ngày
Quê hương là đường đi học
Con về rợp bướm vàng bay
Quê hương là con diều biếc
Tuổi thơ con thả trên đồng
Quê hương là con đò nhỏ
Êm đềm khua nước ven sông
Quê hương là cầu tre nhỏ
Mẹ về nón lá nghiêng che
Là hương hoa đồng cỏ nội
Bay trong giấc ngủ đêm hè
Quê hương là vòng tay ấm
Con nằm ngủ giữa mưa đêm
Quê hương là đêm trăng tỏ
Hoa cau rụng trắng ngoài thềm
Quê hương là vàng hoa bí
Là hồng tím giậu mồng tơi
Là đỏ đôi bờ dâm bụt
Màu hoa sen trắng tinh khôi
Mặc dù bài thơ được viết sau 1975 nhưng bối cảnh là của một thời xa xôi trong ký ức của Ðỗ Trung Quân, thời mà cuộc chiến chưa trở nên ác liệt, thời mà bộ chính trị đảng CSVN chưa quyết định "giải phóng" miền Nam bằg con đường vũ lực, thời mà Hồ Chí Minh và tập đoàn lãnh đạo Hà Nội chưa xua tuổi thơ miền bắc lên đường đi giết tuổi thơ miền Nam.
Tuổi thơ của quê hương Việt Nam sau 1975 làm gì có thời gian để leo "chùm khế ngọt" để thả "con diều biếc", để thảnh thơi "đường về rợp bóng vàng bay" như Ðỗ Trung Quân đã viết. Không có đủ thì giờ để làm "ké hoạch nhỏ" để "học tập năm điều bác Hồ dạy" thì lấy đâu thời gian mà nhìn "hoa cau rụng trắng ngoài thềm". Tuổi thơ Việt Nam sau 1975 là tuổi thơ của những buổi chiều chờ mẹ đi bán máu về mua sữa cho em.
Khi trời vừa sáng ra
Bà lại lên Chợ Rẩy
Lần nầy, lần thứ mấy
Bà bán máu nuôi con
Và khi đứa con chết đói trong tay bà:
Khoan chết đã con trai
Mẹ còn chờ mua sữa
Mai ba về có hỏi
Mẹ biết nói sao đây?
(Bà Mẹ Ðiên, thơ Trần Trung Ðạo)
Khoan chết! Chết không thể khoan được. Tiếng than tuyệt vọng của một bà mẹ Việt Nam trầm thống và đau thương như thế đó.
Tuổi thơ của những buổi trưa sắp hàng chờ từng chén cơm thừa canh cặn trong các cửa hàng ăn uống. Tuổi thơ Việt Nam sau 1975 là tuổi thơ của đói khát trên vùng Kinh Tế Mới, là tuổi thơ đứng tiễn đưa cha lên đường đi vào những trại tập trung xa xôi không hẹn ngày về, là tuổi thơ của những ngày lao động đào kinh, đắp đập. Chính Ðỗ Trung Quân một lần đã viết trong một bài thơ về một cô gái nhỏ thanh niên xung phong:
Ở giữa rừng không có gương soi
Làm sao em thấy được vết bầm trên má
Chuyến tải thương về mấy lần vấp ngã
(thơ Ðỗ Trung Quân)
Trong những ngày còn ở lại Sài Gòn, tôi cũng co dịp viết về tuổi thơ Việt Nam, thế hệ của những người được gọi là "cháu ngoan bác Hồ":
Những ngày ở lại Sài Gòn
Tôi đã đi qua những con đường nắng cháy
Những con đường không một bóng cây xanh
Kinh Tế Mới Ðồng Xoài, Bù Ðốp, Bù Ðăng
Những đứa trẻ không quần ngồi giữa chợ
Cúi nhặt từng vỉ cá, đuôi tôm.
(Những ngày ở lại Sài Gòn, thơ Trần Trung Ðạo)
Quê hương là mẹ nhưng chỉ có mẹ thôi thì cũng không đủ nhân tố để làm nên một cuộc đời khác, không đủ yếu tố để tạo nên hạnh phúc. Mẹ có đó còn cha thì đâu. Theo tôi, Cha chính là Tự Do. Cha quan trọng, đáng yêu và đáng thương như "con gà trống ốm" trong thơ Trần Hoài Thư:
Bao năm sau, tôi cũng đành bỏ Huế
Con gà kia, già quá, sao cam
Chiếc áo lương đen, chiếc áo thọ đường
Chiếc áo xám, chiếc dù đen, đã mất
Tháng ba, ba xa, nằm trong lòng đất
Tháng tư tôi lên đồi núi gào kêu
Quê người đây, mây lũng nặng ban chiều
Tôi ôm mặt biết thêm đời mất mát.
(Giữ chút mong manh, thơ Trần Hoài Thư)
Tôi đã bỏ mẹ đi tìm cha. Hai triệu người Việt Nam cũng đã bỏ mẹ đi tìm cha. Sự thôi thúc của tự do đã làm bao nhiêu triệu con người trên thế giới đã và đang sẵn sàng để chết vì hai chữ thiêng liêng đó. Chúng tôi theo cha nhưng không quên mẹ, sẽ không bao giờ quên mẹ, chúng tôi đi nhưng nguyện sẽ trở về, đưa cha về với mẹ.
Ngày nào mẹ có cha, như quê hương có tự do, thì quê hương mới thật sự là một nơi để sống và để chết. Có mẹ mà không có cha cũng như có quê hương mà không có tự do. Nghĩ như thế, cơn xúc động vì bài thơ của Ðỗ Trung Quân bỗng dưng biến mất. Tôi đứng dậy, rời chiếc ghế đá, để tiếp tục hành trình mình đã và đang đi.
Trần Trung Ðạo
Hạt Bụi Giữa Ðời
Tôi sinh ra vào một ngày cuối đông, hình như là vậy vì sinh nhật năm nào tôi cũng phải mặc áo lạnh đi chơi. Khi sinh ra, mẹ có nhờ coi tướng và sau nầy bảo rằng số tôi thông minh nhưng lận đận, cô đơn. Mẹ còn nói tôi tuổi Miên Dương rất nóng tính, nên cẩn thận trước khi làm việc kẻo lầm lỗi hại thân. Tôi nghe nhưng chẳng hiểu gì. Nhà ở bên một đại lộ lớn, hai bên cây cối xum xuê, mỗi chiều tôi hay lái chiếc xe đạp bố mua lúc tôi lên bốn chạy quanh sân. Mẹ chưa có thêm em bé nên tôi suốt ngày quanh quẩn một mình. Ðôi khi có bà con dưới quê lên thăm mang theo vài đứa trẻ cùng tuổi, tôi mừng lắm, suốt ngày cười nói líu lo.
Có một hôm bố về nhà sớm hơn thường lệ, người bảo mẹ sắp xếp hành trang và mang tôi đi ngay. Tôi cảm thấy có một việc gì đó rất trọng đại sắp xảy ra nhưng cái tuổi lên bảy chưa cho phép tôi biết nhiều hơn. Gia đình tôi theo đoàn người lũ lượt đi về bến tàu. Tiếng gọi nhau vang trên đường xen lẫn tiếng kêu khóc của những em bé đi lạc. Mẹ nắm chặt tay tôi rảo bước theo bố, mái tóc rối bời chưa kịp chải xõa dài ngang lưng. Ba chúng tôi lên một chiếc tàu lớn cùng với rất nhiều người. Tàu lênh đênh trên đại dương đến bảy ngày mới cập bến. Tôi vẫn thản nhiên với những ngày sau đó nhưng mẹ thì khác, người khóc hoài làm bố thêm đăm chiêu. Tháng mười năm ấy gia đình tôi về một thành phố rất lớn, ngoài đường xe cộ nhộn nhịp. Ngày tựu trường mẹ nắm tay tôi đi vào lớp. Chung quanh là những đứa trẻ líu lo gì đó tôi không hiểu. Mẹ thì thầm bảo tôi ráng học tiếng Anh cho giỏi để hiểu bọn chúng. Tôi gật đầu cho mẹ vui.
Những ngày đầu tiên thật là buồn, tôi chẳng có ai để chơi cả. Tan học về tôi quấn quít bên mẹ. Nhưng rồi thời gian đi qua, tôi nghe và nói nhiều hơn với những đứa trẻ cùng lớp, cả bọn thường la cà bên cái công viên cạnh trường cho đến khi trời tối mịt mới về. Có một hôm vừa mở cửa tôi nghe tiếng bố mẹ to tiếng cãi nhau, tôi chẳng hiểu nhiều nên ăn vội miếng bánh và đi ngủ sớm. Tưởng chuyện chỉ đến đó thôi nhưng mấy tháng sau mẹ mang tôi đi về một tỉnh nhỏ ở tiểu bang lân cận để sống. Mẹ bảo đừng buồn nhưng có lẽ tôi sẽ không gặp bố nhiều được vì hai người đã ly dị với nhau. Tôi nhìn mẹ không nói.
Cuộc sống ở thành phố nhỏ không ồn ào náo nhiệt. Buổi tối người ta đi ngủ trước khi vầng trăng lên khỏi ngọn cây. Những ngày nắng, tôi cùng bạn đi chơi côn cầu ngoài đường. Vì cuộc sống, mẹ tần tảo làm nhiều việc một lúc nên ít khi có mặt ở nhấ Tôi theo mấy đứa trẻ lang thang gần mấy quán rượu bên đại lộ độc nhất đi ngang qua xóm. Tám năm sau, có người gọi điện thoại cho tôi vào một chiều mưa bão rằng mẹ tôi ngất xỉu lúc làm việc và đã qua đời trong khi được đưa vào nhà thương gần đó. Tôi vừa khóc vừa lái xe đi đến bịnh viện. Qua mấy căn phòng lạnh giá, tôi được đưa đến bên thân thể lạnh cứng của mẹ sau lớp giấy ny-lon. Bác sĩ bảo mẹ tôi bị bịnh ung thư não, khi phát tác thì đã không thể cứu vãn được nữa. Nét mặt mẹ không còn bình thản như thường ngày. Vầng trán nhăn nheo với vết hằn chưa rõ nét trên cuộc đời son trẻ. Ðôi mi mẹ còn đọng giọt nước mắt long lanh. Có lẽ mẹ đã rất đau đớn trong phút giây cuối của đời mình mà không thể nhìn mặt đứa con duy nhất. Tôi nghe lòng tê lạnh. Tôi ao ước đổi cả thế gian để còn mẹ. Tôi phải làm gì đây với những ngày sắp đến. Tôi nghe hận trong lòng, hận một người đã làm cho tôi có ngày hôm nay, hận cuộc đời bất công với mễ Sau đó mấy ngày bố đến đón tôi về lại cái thành phố mà mẹ con tôi bỏ đi gần mười năm trước. Bố vẫn còn trẻ lắm. Khi vào nhà bố bảo tôi chào một người đàn bà và gọi mẹ. Tôi lạnh lùng nói mẹ tôi đã chết rồi. Tôi xin phép gọi một người bạn xin ở nhờ và xách túi hành trang vỏn vẹn vài bộ đồ đi ra khỏi cửa. Bố nhìn theo nhưng không ngăn bước chân tôi.
Tôi sống lang thang khắp nơi trong cái thành phố đông người, làm mọi nghề mà một đứa trẻ mười bảy tuổi có thể tìm. Vào mùa hè tôi đi làm đường dọc những xa lộ xuyên bang. Mùa đông nghỉ việc thì tôi làm trong mấy khu giải trí đông khách. Nhờ những ngày nắng lao công nên tôi có thân hình lực lưỡng; cố tình mang thêm gương mặt lạnh lùng nên đám du côn ngoài phố ít khi đến gây chuyện. Tôi cảm thấy mình rất dũng mãnh, ưỡn cao người mỗi khi ra phố. Trong tôi canh cánh mối hận đời chờ dịp bộc nổ nên tôi coi thường Nhân, Lể, Nghĩa giả dối của người đời, dưới mắt tôi không ai tử tế cầ Một hôm đi làm, vừa bước vào tôi thấy mấy đứa du côn dưới phố đang chỉa súng đòi tiền ông chủ quán. Nhận ra đám quen, tôi chạy lại can thiệp:
- Bỏ đi Dũng, người quen mà.
Thằng Dũng đầu đảng sừng sộ:
- Mầy tránh ra cho tao làm việc!
Tôi cứng giọng:
- Mầy làm ở đâu thì làm, nhưng mà ở đây nể mặt tao một chút được không?
- Dẹp qua một bên đi mầy! Thằng Dũng quát lớn.
Tôi nghe máu nóng chạy lên mặt, móc cây 45 xỉa vô màng tang thăng giặc cỏ, miệng gầm gừ:
- Mầy nói chuyện với tao đó hả, mầy không cút ra ngoài là tao banh xác mầy bây giờ.
Có lẻ gương mặt tôi lúc ấy rất dễ sợ nên hắn nhét súng vô lưng bước ra cửa sau khi ném cho tôi cái nhìn giận dữ. Từ đó ông chủ không còn sai tôi làm gì nữa, mỗi ngày vào đó ngồi vài tiếng rồi đi mà vẫn được trả tiền rất hậu. Mấy cái quán kế bên nghe tiếng nên nhờ tôi ra mặt mỗi lần có chuyện. Dần dà tôi chẳng phải làm gì hết, mười mấy thằng đá cá lăn dưa đi theo kiếm ăn và giúp tay mỗi lần đụng lộn. Cả khu phố biết tên tôi và ai cũng lánh mặt không muốn lôi thôi. Tôi nghiễm nhiên trở thành đại ca giữa đám bụi đời. Một hôm sau đêm say sưa, tôi lạng quạng về nhấ Vừa mở cữa đã nghe tiếng cô bạn gái ở chung cự nự:
- Anh đi đâu cả đêm vậy?
Ðang say nên tôi cộc lốc:
- Ði đâu mầy biết làm gì!
- Cả đêm ở nhà một mình em sợ quá đi.
- Ai làm gì mầy phải sợ, nếu sợ thì về ở với ông bà già mầy đi.
- Anh đuổi em hả?
- Ờ, mầy đi đi, tao không muốn nghe ai hạch hỏi tao hết, mầy nghe rõ hông?
Cô bạn gái bật khóc:
- Em không thể sống thiếu anh đâu.
Tôi nạt lớn:
- Vậy mầy đi chết đi.
Nói xong tôi vào giường ngủ bỏ lại sau lưng tiếng khóc nấc của người bạn gối chăn. Hôm sau tỉnh dậy đã quá trưa, tắm rửa xong tôi đi ra quán cafe ngồi. Trong cái TV nhỏ cuối góc quán người ta đang nói tin tức buổi chiều. Tin mới nhất cho biết cảnh sát vừa phát giác thi thể của một thiếu nử Á Ðông bị chết đuối cùng với thai nhi, nguyên nhân đang trong vòng điều tra. Tôi chợt nhớ đến mẹ, nhớ giọt nước mắt chưa kịp lăn xuống gò má nhăn nheo. Nỗi oán hận dâng lên, Tôi ngồi nghe không mảy may xúc động, nhìn một người vừa từ bỏ tôi ra đi với đôi mắt dửng dưng. Có lẽ rồi một ngày mai tôi sẽ rơi giọt nước mắt chân thành cho người con gái bạc mệnh, khi tháng năm đã thoa dịu vết thương lòng.
Vũ Trung
Trưa Qua Đèo Mang Giang
Ba Cận Thị xa xôi,
Hôm nay tao nhận được cái bìa tập truyện RBGT của mày qua chị Th. Chỉ là cái bìa, với những dòng tiểu sử. Thế là tao đã không còn bâng khuâng về mày nữa. Tao rất vui mừng và hãnh diện vì mày đã vươn lên tại đất người. Không ngờ cái tên bán cà rem dạo hồi nào bây giờ lại có Cao Học Toán. Nhưng bên cạnh nỗi vui mừng, là một nỗi buồn đến rớt nước mắt. Ừ, tại sao lại là cái bìa? Cái bìa chẳng có ý nghĩa gì hết. Trong khi tao thèm được đọc những bài văn của mày. Tao thèm thấy lại những dòng chữ của mày như tao từng đọc trước năm 1975. Tao rất cần một cái gì khác chứ không cần cái hình trên bìa láng được in tại Mỹ. Mày không biết là tao khổ tâm bao nhiêu ngày qua lắm không? Tao không biết mày viết ra làm sao, hay viết những câu truyện gì. Hãy tìm cách gởi về tao. Mọi giá mày phải gởi về. Ðừng bắt tao phải nhìn nó mỗi ngày mà tưởng tượng. Mày đừng sợ. Tao bây giờ như một kẻ sống mà như đã chết. Mày cứ nhờ bất cứ một người nào mang về, tìm đến bến xe, nhà ga xe lửa, các nhà hàng sang trọng, các nhà nhảy, họ sẽ gặp tao. Họ sẽ thấy tao. Tao ở đó, sáng đến chiều và cả đến tối. Nói với họ là mỗi khi nghe tiếng hát là đến. Nhưng phải là bài hát năm xưa tao phổ qua bài thơ của màỵ Bài thơ Trưa Qua Ðèo Mang Giang đấỵ Tháng ba đi hành quân. Trưa qua đèo Mang Giang. Dưới đồi hoa cúc dạị Nhớ em tôi tan trường. Mang Giang rừng tiếp rừng. Sương mù không thấy đỉnh. Áo nhà binh không khô. Mong dài thêm cái nắng... Cám ơn mày. Bài rất ăn khách nhất của tao ở Sài Gòn đấy. Lúc này, những thằng hát dạo kiếm ăn rất nhiều, hát nhạc vàng, nhạc xanh, nhạc tình, nhạc lính, nhạc nội, nhạc ngoại, vọng cổ đến tân nhạc. Ngay cả mấy tay thương phế binh phía bên kia cũng đóng vai thương binh ngụy, hát Anh không chết đâu anh. Người anh hùng mũ đỏ tên Ðương... hay Anh hỏi em, anh hỏi em bao giờ trở lại... Chỉ có mấy bài hát lính thời ấy mới ăn khách. Chứ cái bài như Trường Sơn Ðông Trường Sơn Tây của mấy ngài thì hết thời rồị Coi chừng lầm người đấy nghe mày, ba cận thị.
Tao viết cho mày, chữ viết run như dứa bé mới tập viết. Mày rán mà đọc. Nhưng trí não của tao thì sáng suốt lắm. Ðã hơn hai mươi năm đủ để làm tao bình thản mà chấp nhận định mệnh của tao. Lúc này tao không còn buồn thương hờn giận. Mày hẳn biết, cái nghề của tao phải cần những đức tính như thế. Rán mà tập lấy hơi cho dài hơn là nuốt vào cái khối đaụ Rán mà tập mắt mù và tai điếc. Bởi tao đã và đang và sẽ ở tận cùng của cõi nhân sinh rồị Mày còn nhớ hai câu thơ mà mày đã viết trên vách tường của căn phòng thuê tại khu Sáu không? Thà ăn mày, ăn mày, ăn màỵ Ta thấy lòng đau ta ngửa taỵ Câu thơ ngày xưa tao đọc chẳng mang một ý nghĩa gì hết ráo, bây giờ đối với tao có cả một giá trị vô biên. Nó giúp tao ngước mặt nhìn đời, nhìn lũ người, nhìn trời, nhìn đất. Nó làm tao tiếp tục mà sống trong lúc tâm trí của tao cứ mãi ám ảnh bởi một mảnh chai cứa vào gân máu hay đâm dầu nhào xuống sông. Tao tiếp tục sống, ba cận thị ơi. Tiếp tục cái cuộc chơi cho đến trọn cuối đờị Và cũng nhờ vậy, hôm nay tao mới được gặp lại mày qua cái bìa sách gởi về từ Mỹ. Một điều, sau khi đọc thư này, đừng thương hại, hay bận tâm về tao. Tao cũng đủ sức nuôi tao và cả gia đình tao. Ít ra cái làn hơi thiên phú của tao cũng đánh bật bọn hát dạo khác. Ít ra hai chân cụt của tao cũng còn làm bao nhiêu người nhỏ lệ. Tao không nói dối đâu. Họ đã nhìn đời họ qua đời tao. Họ đã thấy họ qua tao. Tao chính là một miền Nam ở giữa Sài Gòn. Tao chính là chiến tranh hôm qua và tuổi trẻ hôm qua. Tao là phản ảnh của lương tâm, của nước mắt, của lệ, máụ Hình ảnh tao đập vào tâm não của Việt kiều, của đồng bào, anh em, bè bạn. Khi tao hát bài Trưa Qua Ðèo Mang Giang thiên hạ ào đến, nín thở. Những người đàn ông dấu đôi mắt đỏ hoe. Những người đàn bà sụt sùi. Việt kiều ngẩn ngơ thảy tiền xuống như bươm bướm. Tháng ba đi hành quân. Trưa qua đèo Mang Giang. Dưới đồi hoa cúc dại. Nhớ em tôi tan trường. Mang Giang rừng tiếp rừng. Sương mù không thấy đỉnh. Aó nhà binh chưa khô.. Tao hát mà tao khóc. Tao nhớ đến mày, đến đại bàng, thằng Sơn, Tánh, thằng Minh. Tao nghe bọn mày học mút mùa lệ thủy, và sau đó mày đi bán cà rem, rồi vượt biên. Thàng Tánh thì chết vì bệnh trong trại. Thằng Minh thì tao gặp nó hoài. Nó điên vì vợ nó bỏ theo cán bộ. Còn đại bàng thì đã qua Mỹ theo chương trình H.O. Kể làm lớn như ông mà còn sướng. Tao không ganh tị. Nhưng có cái gì quá bất công. Bởi những thằng phế binh như tao, những thằng đứng ở tuyến đầu, hy sinh hơn ai hết, lại là những kẻ bị thua thiệt hơn ai hết. Tao không biết cái giá này phải đổi lại bao nhiêu năm học tập cải tạo. Mười năm? Hai mươi năm? Tao nghĩ là phải một trăm năm.
Tao viết tiếp cho mày đây. Dưới hàng hiên của căn lầu đối diện với một khách sạn sang trọng nhất ở Sài gòn. Dễ chừng đã một giờ sáng. Tao phải viết để kịp nhờ người mang về cho màỵ Gió hú luồn giữa hai hàng phố lầu. Những chiếc lá tiếp tục cuốn lốc trên mặt lộ. Ba bốn con chó kéo nhau giỡn và làm tình trên vỉa hè. Hai bên đường những bảng quảng cáo bằng điện quang rực rỡ. Những chiếc xe bóng lóang từ phía bờ sông chạy về. Giờ này nhà hàng nổi đã đóng cửạ Vài chiếc xe dream lướt qua. Ðám bé con nằm dài dưới dãy lầu đối diện với tòa quốc hội cũ. Tao viết khi đêm Sàigòn trở về yên tĩnh cũng như đời sống của tao. Tao không còn mở đôi mắt để thấy xã hội, loài ngườị Tao không còn nhắm mắt để thấy bao nhiêu cảnh tượng, mà tim phải quặn đau, phải bầm dập cả đời cả kiếp. Tao sống trong cảnh cô đơn tuyệt đỉnh, nuốt nuớc miếng để liếm cho hết vị đau thương. Tao nhớ đến N.L. Nhớ đến những lần nàng từ Sài Gòn lên Thủ Ðức mang theo những món đồ thăm nuôi. Nàng nhỏ bé quá, mềm mại quâ Nàng gắn bó vào tao, run rẩy, thèm khát ôm xiết lấy tao dưới cơn mưa như thác trên xa lộ. Quần áo nàng ướt nhòà. Ngực nàng ôm lấy mặt tao. Tao gục trên thân thể nàng, cởi áo nàng, vuốt ve nàng, cắn đầu vú của nàng. Tao và nàng lăn trên lớp poncho dưới mưa cuồng nộ. Nàng đã đến với tao không cần suy nghĩ và thắc mắc. Nàng ban cho tao tất cả linh hồn. Sau đó chúng tao chia taỵ Tao không muốn nàng trở thành một cô phụ. Tao biết nàng oán giận tao. Có những điều mà chỉ có những thằng như bọn mình mới hiểu. Nước mắt của mẹ tao đã đổ ra quá nhiềe. Những cây nhang mà mẹ tao đã cắm trên lư hương cũng đã quá nhiều. Ðến bây giờ tao nghĩ là tao có lý để đành đoạn với nàng.
Mày còn nhớ cái đêm cuối cùng ở hậu cứ trung đòan, tao, mày, thàng Bá, thằng Em, thằng Tính ngồi quanh bàn trong câu lạc bộ. Thằng nào cũng say nh Tự nhiên trong máy cassette trổi lên bài Tôi đưa em sang sông với lời ca của Thanh Tuyền. Trong tiếng mưa rả rích, đập trên mái tôn, lời ca có sức hấp dẫn kỳ lẫ Tao nhớ người tao yêu. Tao đã nhảy với nàng qua bài hát ấỵ Quen nàng cũng qua bài hát ấỵ Ôm nàng vào lòng, mơn trớn da thịt cũng qua bài hát ấy. Và thấy nàng bỏ đi cũng từ bài hát ấỵ Ðêm ấy, tao nghe lại bài hát mà cõi lòng đứt đoạn. Tôi đưa em sang sông... Chiều xưa mưa rơi âm thầm... Ba Cận Thị ơi, tao đã bắt cóc mày, dìu mày nhảy lại cùng âm thanh cũ. Mấy thằng từng cặp nhảy bất kể. Mày say, mặc. Tao kéo mày đi, chân nam chân bắc. Mày híp mắt. Mày hát ồ ồ. Tao cũng hát ồ ồ. Thằng Tính thì rống. Ðêm thì mưa, và trời thì tối mờ mịt. Những chiếc ghế trong câu lạc bộ đã bị dẹp vào trong một xô Tên thượng sĩ hậu cứ đã đứng ngồi không yên. Hắn van nài bọn mình, sợ tiếng hét hò làm động đến tai ông trung đoàn trưởng. Nhưng tao biết ổng cũng thông cảm bọn mình. Bởi vì ông hiểu hơn ai hết về những ngày sắp đến. Cho những thằng trinh sát viễn thám như bọn mình. Sau đêm đó, tao nhớ không lầm, mày được điều động về Quân đoàn 4, còn toán tao được tăng phái cho trung đoàn, toán thằng Tính bay về Phú Bổn... Không ngờ, đêm đó cũng là đêm cuối cùng của bọn mình. Và cũng không ngờ, nó đánh dấu cho một chuỗi dài của những thảm kịch mà đến bây giờ, nghĩ lại, tao cũng không thể hiểu nỗị Ngày 25 Tết, toán tao gặp nạn. Không phải gặp nạn khi bọn tao nhảy vào mật khu, nhưng là trên đường rút gần về bộ chỉ huy. Hai đứa trong toán bị mìn. Hai chân tao nát bấỵ Thằng Tấn mang máy, bị mù vì sức nổ quá gần, phỏng cháy cả hai con mắt. May mà mấy thằng còn lại cõng tao. Máy truyền tin đã không còn xử dụng để gọi bộ chỉ huy tản thương. Tao cứ van đồng đội tao ban cho tao một viên đạn. Tao biết cuộc đời của tao tàn rồị Hai chân tao không còn liên hệ với thân thể tao nữa rồị Nhưng đồng đội của tao không cho tao chết. Tao ngất trên vai thằng trung sĩ của tao. Còn thằng Tấn thì rên trong cổ họng. Mắt tôi đâu rồỉ Mắt tôi đâu rồỉ Anh em tôi muốn chết...Cuối cùng, bọn tao tìm được đường ra con lộ xe. Chúng tao sau đó liên lạc được với lính địa phương quân trên đồn và cuối cùng xe tải thương chở tao và thằng Tấn về bệnh xá. Tao đã nằm trong phòng hồi sinh cứu cấp để chờ đợi bác sĩ giải phẩụ Cái đau của tao không bằng cái lo của tao. Không ai tin về những lời báo cáọ Không ai tin về một dấu hiệu khủng khiếp đang chờ đợi ở tận sâu trong rừng già cách thành phố chỉ vài chục cây số. Họ chỉ nghĩ đến mặt trận Tam Biên, Kontum, Pleikụ Báo chí, đài phát thanh ngoại quốc cứ nhắc về những Lệ Thanh, Lệ Trung, Ðức Lập, Chu Pao, PLeiku... Cấp trên thì cứ chuyển hết liên đòan này đến liên đoàn khác thảy lên cao nguyên để bảo vệ vòng đai xanh. Không ai biết sư đoàn 320 gọi là sư đoàn Xã Hội Chủ Nghĩa đã tập trung trong rừng già Ðạt Lắc. Bọn tao đã thấy từng đoàn xe nối đuôi và những đoàn quân đông như kiến cỏ ngụy trang lố nhố. Bọn tao cũng lấy được tin Sư Ðoàn 10, sư đoàn thiện chiến, đã có mặt gần quốc lộ 17. Bọn tao cũng còn nghe cả tiếng tăng T54 nghiến trên đường mòn. Cái điểm nóng chính là đâỵ Thằng dốt chiến thuật nhất cũng biết rõ điều đó. Tao đã dùng ống nhòm nhìn cả một đoàn quân đang di chuyển như di chuyển vào chỗ không ngườị Ðám lính mới xâm nhập này mang toàn quân phục mới cắt chỉ. Mày biết không, bọn tao run đến nỗi đại đội trưởng của tao ra lệnh im lặng vô tuyến, mọi giá phải tìm cách rút về bộ chỉ huỵ Trực thăng không dám bay đến để bốc... Tao nằm ở bệnh xá chưa đầy một tháng thì Ban Mê Thuột bị mất. Mất là phải. Ðâu còn quân nữa để mà bảo vệ. Vào những ngày cuối cùng, tao đã sống trong điên lọan. Tiếng đạn pháo càng lúc càng dội về thành phố cùng với những chuyến xe tải thương dồn dập tãi thương binh về phòng cấp cứu. Thằng Ph. con mới đến thăm tao chưa kịp nói chuyện lại bị bốc về đại độị Mày biết không, cả đại đội trinh sát của nó gom góp lại được mấy chục mạng, thế mà đã cản cả xe tăng và cả sư đoàn phe bên kia đến ba ngày trời ở phi trường Phụng Dực. Mày không biết là Sư đoàn 320 tân lập đã phải tháo trở ra để sư đoàn thiện chiến số 10 thay vào đánh tiếp. Tao nghe bao nhiêu chuyện về những đứa con trinh sát. Họ chịu trận cùng xe tăng đại pháo và những biển người từ bốn phíạ Không lương khô, họ cướp lương khô. Hết đạn, họ cướp súng. Họ nằm dưới những hầm phòng ngự quanh phi trường. Họ cướp hỏa tiển SA 7 để bắn T54. Họ bị vây khổn tứ bề nhưng vẫn không chịu đầu hàng. Họ đã được lệnh tử thủ trong khi nửa đêm viên trung đoàn trưởng đã cắt hết liên lạc vô tuyến, âm thầm dẫn bộ hạ chạy thoát. Họ đã chứng kiến cảnh tăng nghiến bánh xích trên những thương binh đồng đội của họ. Tao nghe họ kể về thằng Ph. con đã đứng giữa phi trường Phụng Dực như Từ Hải để điều chỉnh phản lực dội bom. Ðám lính phục hắn như phục ông thần. Hắn đã điều chỉnh hai trái bom rớt ngay vào vị trí của sư đoàn 10 sát nách đại đội chừng 50 thước. Chính nhờ hai trái bom này mà đại đội mới lọt ra khỏi trùng vây để sau đó hắn phải dẫn đám con mất cha mất mẹ lang thang tuyệt vọng trong rừng già Thuần Mẫn. Tao nghe nói hắn đã vượt biên và hiện sống ở Mỹ. Mày hãy ráng tìm nó để viết về những ngày lịch sữ thảm khốc nhưng đáng ghi nhớ ấỵ Chính hắn, thằng thiếu úy viễn thám trinh sát mới đầy đủ thẩm quyền để kể lại. Ngoài hắn ra, không còn có ai hết. Mày hiểu không? Tao viết đến đây, mắt tao cay xé. Tất cả như một cơn mộng dữ. Có phải chúng ta như những phiêu sinh vật đang ngoi ngóp dưới bờ vực thẳm, muốn ngóc lên mà không thể ngóc đầu lên nổị Tao không thể ngờ sau cái ngày thảm khốc ấy, tao lại còn lê lết suốt hàng trăm cây số với cái thân không còn hai bàn chân của tao. Mày biết không, sau khi bệnh viện bị chiếm, họ đuổi hết tất cả thương binh ra khỏi bệnh xâ Họ đến từng giường mắng chửi từng thằng, giựt ống chuyền nước biển, cướp hết dụng cụ thuốc men, hất hết mền gối, chĩa súng vào lưng đuổi bọn tao ra khỏi bệnh xá. May mà tao vẫn còn có thằng Tấn truyền tin. Tuy nó mù, nhưng nó vẫn không bỏ tao. Nó đề nghị tao cỡi trên lưng nô Nó không thấy đường, tao thấy đường. Ðó là cách duy nhất để thầy trò nương tựa nhau trong lúc sa cơ. Nó nói. Tao ôm lấy cổ nô Nước mắt ứa ra. Tao không thể ngờ lịch sử lại kỳ lạ như vậỵ Qua cổng sư đoàn, xe tăng lạ đậu trước cổng, với những người lính lạ, quân phục lạ, tự nhiên tao gục mặt xuống. Cả một cơ đồ được xây dựng bằng bao nhiêu xương máu chỉ trong phút chốc bỗng nhiên tan tành thê thảm. Những hàng bông sứ vẫn nở bông trắng mượt. Con đường về phố, mày còn nhớ không, phải qua dinh Tỉnh Trưởng lác đác thấy những chiếc xe quân đội vất lại, có cả một thiết vận xa còn bốc khói. Xác chết nằm bên đường. Dưới lũng cỏ xanh mượt. Mây vẫn trắng, núi rừng vẫn mập mờ. Tao đã từng kể với mày về cái giấc mơ của tao. Một ngày hoà bình tao sẽ tìm cách lên thị trấn này để sống. Tao yêu thiên nhiên man dẩ Tao yêu những lối đi về đồn điền cà phê và cao su. Tao ngất ngây trong mùi thơm của bông trâm, giáng hương và hoa cỏ dạị Bây giờ hai thầy trò tao chậm chạp dìu nhau giữa một thành phố đổi chủ mà không biết phải đi về đâu nữạ Mới ngày nào tao mày, thằng Ph. con, ông đại đội trưởng còn ngồi trên xe díp chạy về thành phố, bọn mình còn gác chân trên bàn bụi đời, hay còn kéo nhau vào quán La Souris Blanche hay chui vào rạp xi nê Thăng Long, bây giờ nhường lại là nỗi tan tác. Lịch s Ba Cận Thị ơi, bọn mình đã là nạn nhân và cũng là chứng nhân của lịch sử. Và tao mong mày, với khả năng viết lách của mày, hãy viết về bọn mình. Tao chẳng cần mày tung hô hay vinh danh này nọ. Mà dù có tung hô hay gì gì đi nữa, tao đâu có nghe, có thấy, có ngửi... Có điều lịch sử sẽ bị sai lạc nếu được viết bởi thiên kiến hay bởi những người không từng tham dự. Cái tội lớn nhất này tao không biết lịch sử sẽ dành cho ai. Thằng Tấn mù cứ hỏi tao: Ông thầy, mình đi đâu ông thầy? Em mệt quá rồi. Nó quá tội. Nó kêu tên vợ con. Nó không thấy đường, loạng quạng vấp tê Nó bám vào tao. Tao bám vào nó. Ði đâu? Người ta có chân có mắt mà đi không được huống gì hai thầy trò mình, kẻ mắt mù, kẻ mất chân. Có lẽ phải đi ăn mày, ăn xin. Có lẽ phải làm một người đạo sĩ bò lên trên đỉnh núi để luyện mười thành công lực. Ði đâu? Tao nhìn vào quán cơm xã hội, nhớ thê thiết N.L. Ðịnh mệnh đã đẩy đưa nàng trở thành một cán sự xã hội để lên vùng núi này trong lúc tao bỏ nàng đành đoạn. Ngày gặp lại cách đây mấy tháng, nàng sững sờ, run rẩỵ Ðôi mắt nàng mở lớn. Rồi ngay đêm hôm ấy, nàng tìm tao trong câu lạc bộ sĩ quan. Nàng đã mang chiếc áo dài cũ, vàng như màu hoa qùi của Thủ Ðức, khi tóc nàng còn vướng những hạt mưạ Tao gọi nàng là chị bởi vì nàng đã có một đời sống khác. Nàng hờn trách tao, nhưng trong nỗi hờn trách ấy, con tim của nàng vẫn còn dành cho tao những ân cần dạo nào. Tao đã bàng hoàng ôm xiết lại một người thân yêu cũ. Tạ tình nàng. Hay cảm động vì bên đời tao, ít ra vẫn có một cánh chim, một vầng trăng, một cõi lòng từ ái. Tao yêu nàng thật sự nhưng không can đảm nhìn một người bạn của tao, thằng Nam- chồng nàng- phải khổ. Nó cũng hành quân đánh giặc như tao. Ít ra hãy cho nó một nguồn an ủi trong cõi trầm luân lặn hụp nàỵ Bởi vậy tao mới buông nàng ra, mời nàng ra khỏi phòng, đóng cửa lại. Sau đó tao ra hành lang nhìn bóng nàng trong bóng đêm, mất hút, mất hút. Bây giờ tao lại trở về chốn cũ. Tao không biết nàng bây giờ ở đâu nữa. Tao dục thằng Tấn cõng tao ra ngoại ô. Cứ thế bọn tao dìu dắt nhau cùng rừng người theo đường liên tỉnh lộ 21 về hướng biển. Vết thương ở hai khúc chân tao lại nhiễm độc, loét lở, có cả giòi lố nhố. Mủ xanh, mủ vàng, và cả máu chảy lở hôi thối. Tao cắn răng mà cầm cơn đau. Tao muốn mở mắt để nhìn cuộc chơi. Ít ra, cái cuộc chơi này cũng kỳ thú. Ðâu có dễ gì mang hai khúc chân giữa chợ đời, phải không?
Viết tiếp cho mày đây. Tao không biết nguyên do nào lại đẩy đưa tao trở thành một tên hát dạo. Ừ nếu không làm cái nghề này thì tao phải làm nghề gì để mà sống cho hết cuộc chơi. Ăn xin hay bán vé số chăng? Tao có làn hơi mạnh. Giọng tenore. Tao cũng có một năm dưới trường quốc gia âm nhạc, để biết ký âm. Tao đã phổ vài bài thơ của mày, trong ấy có bài Trưa qua đồi Mang Giang. Tao yêu bài thơ ấy. Nó nhắc nhở tao về những ngày tháng bọn mình sống bên nhau. Tao phổ cung La thứ chậm và buồn. Ðó là bài ruột của tao để ăn khách. Ðám hát dạo khác, trong đó có những tay thương phế binh miền Bắc, đã ăn cắp y nguyên bài thơ của mày để câu khách. Bây giờ phong trào chuộng nhạc lính, nhưng phải là lính VNCH, quá thịnh hành. Có dịp mày về, mày sẽ nghe bất cứ ở đâu, ngay cả ngoài Bắc, nhạc lính mình thời xưạ Bởi vậy, nếu mày thương bạn mày, hãy gởi ít bài thơ viết về thời bọn mình để tao phổ nhạc. Tao sẽ làm rung động cả Sài gòn cho mà xem. Một lần nữa, nhớ tìm cách gởi về những trang ruột của sách mày. Tao biết mày phải gặp khó khăn, bởi vì sách vở hải ngoại bị cấm lưu hành hay bị tịch thu. Nhưng hiện tại Sài gòn cái gì ở nước ngoài có thì trong nước đều có. Còn địa chỉ của tao. Cựu thiếu úy trinh sát viễn thám Nguyễn quang Tân, thương phế binh cụt hai chân, người duy nhất hát bài Trưa qua đèo Mang Giang ở giữa Sài-gòn. Mày hỏi người dân nào ở đây ai cũng biết tao.
Trần Hoài Thư