vhnt, số 93
26 October 1995
Trong số này:
+ thư tín
+ 1 - thơ, Thu Cảm, Cỏ Nhớ/Lộc Quy
+ 2 - thơ, Thà Rằng, Tô Hoài Nam
+ 3 - thơ, Thơ trẻ Saigon, Dung Nguyen ghi
- Cây và Tôi, Vương Huy
- Thư, Nguyễn Nhật Mây
- Hội An, Nguyễn Ngọc Hòa
+ 4 - thơ, Chia Tay, Ta Biết Lấy Gì Làm Chung, Chinh Dinh
+ 5 - biên khảo, Chinh Phụ Ngâm in a "net" shell, Dương Hùng
+ 6 - tham luận về Hội nghị "Biển Dâu" tại SFSU (Phần I), Nguyễn Mộng Giác,
Phùng Nguyễn gửi (còn tiếp)
chào bạn,
Mẹ tôi vào nhà thương tuần qua. Tin mẹ đau nặng đến ngay sau khi đi công tác xa về nên tôi đã phải vội vàng về thăm mẹ ở một tiểu bang khác, nên đã không kịp chuẩn bị thông báo hay thu xếp nhờ người khác gửi vhnt ra cho bạn đọc như thường lệ. Thành thật xin lỗi bạn đọc.
Hai ngày qua không gửi vhnt, lòng tôi đã thật áy náy. Ngồi bên giường bệnh của mẹ, tôi đã nghĩ đến điều thiếu xót này của tôi với bạn, mong bạn thông cảm và tha lỗi cho tôi. Hy vọng lần sau sẽ không để cho bạn đọc chờ đợi và thắc mắc như lần này nữa. Cũng xin cám ơn các anh chị đã viết email hỏi thăm về sự vắng mặt của vhnt trong hộp thư mấy hôm nay. Sự quan tâm của các anh chị đã nói lên lòng ưu ái dành cho tờ báo văn nghệ của chúng ta.
Hôm nay tôi về lại nhà, sau khi biết mẹ đã qua cơn hiểm nghèo tuy vẫn còn phải điều trị, lòng tôi đã tạm yên, nhưng lại rơi vào điều suy nghĩ mông lung. Ðời sống mẹ như chiếc lá vàng trên cây chỉ chực trờ rơi xuống khi một cơn gió lạnh tới... Cuộc sống là một chu kỳ sinh lão bệnh tử, không một ai có thể thoát khỏi. Ðiều này càng làm cho đời sống thêm phần quí, càng thấy từng giây phút của cuộc đời là giá trị, nhất là trong thời gian còn khoẻ, còn tràn sinh lực, còn đầy lòng tin yêu, còn có thể làm những việc mình thích, cho mình và cho người. Ðời sống là một cuộc phiêu lưu kỳ thú, và có rất nhiều điều để mà khám phá, nên tôi yêu chính giây phút này, khi nghĩ đến nhiều điều...
vhnt nhận được một số bài vở mới, thơ và truyện ngắn, tham luận, truyện dịch rất haỵ Sự đóng góp bài vở phong phú có chất lượng cao này là một khích lệ tinh thần rất lớn cho diễn đàn vhnt. Hy vọng vhnt đã đem đến cho bạn đọc nguồn vui trong những ngày qua, và mong rằng s ẽ còn vững hơn trong con đường dài.
vhnt số này hân hạnh đăng bài tham luận của nhà văn Nguyễn Mộng Giác nhân dịp ông dự hội nghị "Biển Dâu" do trường SFSU tổ chức. Xin cám ơn nhà văn Nguyễn Mộng Giác đã cho phép đăng lại bài hội luận này trên vhnt, và xin cám ơn riêng anh Phùng Nguyễn đã có nhã ý liên lạc với tác giả và dành thì giờ đánh bài gửi cho vhnt. Ðề tài của bài tham luận này là những điều chúng ta, những người Việt Nam yêu quê hương và văn hóa dân tộc, nên thành tâm nghĩ tới. Theo như lời giới thiệu của anh Phùng Nguyễn:
"Bài tham luận ngắn nhưng súc tích và thẳng thắn của nhà văn Nguyễn Mộng Giác (NMG) đã đưa ra ít nhất ba vấn đề cho chúng ta suy nghĩ:
(1) Thái độ nên có của người Việt hải ngoại trong cuộc chiến đấu cho tự do và nhân quyền tại VN
(2) Nguồn gốc của sự "bất công" của dư luận Mỹ nói riêng và thế giới nói chung về nhân dân miền Nam VN và người Việt tại hải ngoại, và
(3) Thực chất của cái gọi là "Chính sách hòa giải hòa hợp dân tộc" mà chính quyền VN đang rao giảng và những hệ quả đã và đang xảy ra tại VN cũng như tại hải ngoại."
Mời bạn đọc bài tham luận ý nghĩa này, nếu bạn muốn góp ý kiến hoặc nhận xét về bài viết, bạn có thể gửi thẳng cho vhnt@saomai.org. Tôi sẽ hân hạnh chuyển mọi ý kiến liên quan đến cho nhà văn Nguyễn Mộng Giác và anh Phùng Nguyễn.
Một lần nữa mong bạn đọc tha lỗi cho sự vắng mặt mấy hôm nay, và xin cám ơn những bài đã đóng góp. Chúc bạn một ngày mùa thu yên lành, êm đềm và nhiều niềm vui.
thân ái,
PCL/vhnt
Thu Cảm
Chim bay về đậu cành thưa
buồn ngơ ngác giọt thu vừa qua đây
chiều chiều một chút nắng lay
buồn buồn một chút cuối ngày nắng đi
trông bầy chim nhỏ thiên di
buồn tôi chẳng tuổi tên gì cũng mang
Cỏ Nhớ
Thà Rằng
Thà rằng mỗi đứa một nơi
Còn hơn tay ấp nhưng lời chua cay
Mai này thu đến gió bay
Lá rơi về cội mới hay tình người
Xưa nay sáng đón chiều đưa
Hôm nay lời đắng người đưa mang về
Thiếp ơi sao nở bội thề
Buồng cao chưa hái naõ nề kiếp duyên
Kiếp sau làm kẻ bạc tình
Còn hơn chung thủy một mình xót xa
Tô Hoài Nam
Thu 1995
Cây Và Tôi
Nhìn em nhé cây đang mùa đổ lá
như tự đánh rơi từng chút từng chút mình
Nghìn mắt lá mang cái nhìn hòang điệp
úp vào đất tìm lại một dáng hình
Nghìn môi lá thầm thì với đất
về những tháng ngày xanh ngắt xanh
Những chiếc lá cựa mình trong sự chết
mang cái nâu trầm hóa kiếp cái vàng buông
Nhìn em nhé
mỗi ban mai tôi mất trắng một vầng trăng
mỗi hòang hôn mất thêm vài hạt nắng
Những khi tôi trong tay đêm đung đưa bồng ẳm
tròn môi thơ nút kiệt bầu trời căng mấy sương
đánh rơi thêm chiếc bóng
Túi lòng giờ nhẹ hẫng
Ðường bụi lốc tôi mất những dấu chân
Giao Chỉ
và giấc mơ nửa chừng
Nhìn em nhé lúc trơ cành trụi lá
cây vẫn còn nguyên vẹn gốc thân
Nhìn hộ nhé khi những chút kia mất hết
Tôi còn tôi không?
Vương Huy
Thư
Tháng ba ở đấy hoa anh đào
Anh và em đã là tháng bảy
Mùa thu Virginia vàng...
Lá me cũ rụng phố nhà rồi đấy
Và tình cũ rụng bên thềm tháng bảy
Một vầng trăng tháng tám đã xa xôi
Anh thắp một đèn hoa niên mái cũ
Chút hương cau tuổi dại gửi cho người
Nguyễn Nhật Mây
Hội An
Chéri! Chéri!
Tàn lá yêu thương ấp ủ con đường
Phố hiền dịu dẫn người đi học
Bầu trời rộng và những ngôi nhà thấp
Phố thò chân nghịch nước bờ sông
Trong góc nhỏ tuổi thơ xa lắc
Trong bài ca về cô gái theo chồng
Huyền thọai xưa cá chép hóa rồng
tôi hóa khỉ ngồi chờ em đi học
Mưa thì nhỏ đọng lo âu trên tóc
Ngồi cầu cong mê hoặc tìm em
Phố lại dẫn tình yêu tôi đi học
Tuổi trầm tư hóa những nét rêu phong
Những mái ngói âm dương trùng lấp
Tôi và em là chuyện hoang đường
Rồi có thể Hội An là cổ tích
Tôi tham lam tìm kiếm phù du
Giờ quay lại thấy tóc người đã bạc
Chén buồn! với lặng lẽ mùa thụ..
Nguyễn Ngọc Hòa
Dung Nguyen sưu tầm
Chia Tay, Ta Biết Lấy Gì Làm Chung?
gởi qT
Ðứt dây nên gỗ mới chìm,
Bởi anh ở bạc, em tìm nơi xa
(ca dao)
Khơi khơi em bỏ cuộc chơi
Mình anh lần vết về thời hân hoan
Hạt sương rơi tự cành khuya
Anh rơi từ vực thẳm nào, xót thay
Làm ơn đừng bỏ giữa đường
Khi không rũ áo ra đi bất ngờ
Mình anh nhìn suốt hư không
Thiên thu viễn biệt, mênh mông lòng sầu
Em đi, anh kiện với aỉ
Hái một ngọn tóc, uống lai rai sầu
Một ly, thêm một ly đầy
Tóc như lá úa, anh nay đắm chìm
Xếp đời nhau lại, bỏ quên
Xếp ngày xưa cũ, bên thềm biệt ly
Sao em vội bỏ giữa chừng
Cuộc chơi chưa dứt, vội vàng làm chị..
Hay anh ở bạc với em?
Sớt chia một chút, cùng em, thôi mà
Ví dầu tình đã hư không
Em đi, anh kiện hư không của đời
Thôi làm ơn nhận dùm anh
Một giọt nước mắt nhẹ nhàng đáy khuya
Không phải anh khóc, đừng nhìn
Chỉ để viễn biệt cuộc tình em cho
Ly bôi mình nhắp cạn rồi
Hay còn một chút để dành mai sau?
Nếu không có đến mai sau
Thôi ta, viễn biệt lần này, rồi thôi...
"Ðứt dây nên gỗ mới chìm,
Bởi anh ở bạc, em tìm nơi xa"
Em đi lỡ hẹn cuộc chơi
Chia tay, ta biết lấy gì làm chung?
Chinh
10.23.1995
Bài viết dưới đây rất sơ đẳng cho hợp với dạng ghi trên lướị Xin tham khảo thêm những sách trong phần phụ chú (hoạc những sách biên khảo khác) để hiểu sâu hơn về Chinh Phụ Ngâm.
DH -102295
CHINH PHỤ NGÂM IN A "NET" SHELL
by Dương Hùng
Ðặng Trần Côn wrote the Ballad Of A Warrior's Wife [1] (Chinh Phu Ngam Khúc) in "chữ nho" (Chinese characters); the most famous adaptation in "chữ nôm" [2] was by Madame Đoàn Thị Ðiểm. Dang tran Con and Doan thi Diem were literary friends, and Chinh Phu Ngam could be composed around 1740.
Both Dang Tran Con and Doan thi Diem lived in a era plagued with civil war and rebellions. The Lê Emperors were just figureheads while the feuding Lords controlled the real power; Trịnh Lord in the North, and Nguyễn Lord in the South engaged in civil war for decades.
THE AUTHORS
Many scholars consider Doan thi Diem as the second author of CP Ngam. The long poem as we now know is Doan thi Diem's adaptation; the original "chu nho" poem is rarely mentioned in popular literary books except in special research documents.
DANG TRAN CON ( ? -- ?)
Dang tran Con was a talented scholar in the early 18th century. Born in Mọc village, Thanh Trì district, Hà Ðông province, he passed the Bachelor National Examination in 1740 and was appointed District Chief of Thanh Oai (Ha Dong province). He was ultimately promoted as Court Official with the rank of "Ngự Sử Ðài". He had a refined personality, led a simple life, and enjoyed excursions and poem exchanges with literary friends. After he composed CP Ngam Khuc, he gave the poem to friends, among them Doan thi Diem. His friendship with Doan thi Diem went back to student time.
DOAN THI DIEM (1705-1746)
Doan thi Diem was born in a literati family in Hiếu Phạm village, Văn Giang district, Bắc Ninh province. She was very bright and well educated; at sixteen, her literary talent and beauty brought admiration from many young scholars, among them Dang Tran Con. Both her father and her older brother were Ph.D's (Trạng) as well as her most persistent admirer Trạng Quỳnh. She used the pen name of Hồng Hà (Red River).
Her father, Ðoàn Doãn Nghi, a well known scholar and teacher, died when she was twenty five. Her older brother, Ðoàn Doãn Luân, passed away a couple years later. She dispensed herbal medicines and taught school to support her mother, her sister-in-law, and her orphan nephews and nieces.
She married Nguyễn Kiều at the age of 37. Nguyen Kieu, a Ph.D, was a high ranking court official; he was sent to China on a three year diplomatic mission right after their marriage. Doan Thi Diem took care of the estates and her husband's children. In 1746, she died on the journey with her husband to Nghệ An where Nguyen Kieu assumed a new position.
Her personal plight does reflect in the verses describing the anguishes, sorrows... and familial duties of the warrior's wife.
oOo
THE PLAINTIVE BALLAD:
The original Chinh Phu Ngam by Dang Tran Con consists of 478 verses in the "trường đoản cú" (long-short form); some verses is as long as eleven words, some as short as three.
Doan Thi Diem wrote her adaptation in the "song thất lục bát" (2 seven, six, eight) form; the long poem has 412 verses and could be structured in these main parts:
1- Theme: War and sufferance (verses 1-4)
2- Departure of the warrior-husband (5-64)
3- Hardship and dangers in battles (65-112)
4- The wifés anguishes at home (113-372) [3]
5- Hope for husband's safe return (373-412)
Doan Thi Diem brilliantly uses the repetitive technique (liên hoàn) [4] to emphasize the sadness, the despair, or the agony of the warrior's wife. Structurally, this technique maintains a gracious flow of events, and changes in sentiments in the long plaintive ballad. This is a popular theme of numerous Vietnamese legends or folklore rhymes: the Story of The Young Woman in Nam Xuong, the Legend of The Petrified Warrior's Wife, Three Years of Military Services... [5].
The first four verses wraps up the theme of the ballad:
Thuở trời đất nổi cơn gió bụi,
Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên.
Vì ai gây dựng cho nên nỗi này.
tentative translation:
Over earth and heaven, war swirls,
and brings sufferance to women.
Oh God, so high up,
who is to be blamed?
The story supposedly takes place somewhere in China under the Han (?) dynasty, the geographical locations are just symbolic and eventually blur away. It was a common approach for Vietnamese poets and poetess to borrow Chinese set up to express their delicate or politically sensitive issues. The ballad brings up the subtle antiwar sentiment from the combatants, and their wives. These feelings are timeless:
Nức hơi mạnh ơn dầy từ trước;
Trải chốn nghèo, tuổi được bao nhiêu?
Non Kỳ mộ chỉ trăng treo,
Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò,
Hồn tử sĩ gió ù ù thổi,
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi.
Chinh phu tủ sĩ mấy người,
Nào ai mạc mặt nào ai gọi hồn?
tentative translation:
Devoted to the country,
how many warriors do survivẻ for how long?
The moon sadly hangs over mount shaped graves,
The wind soothes unknown tombs at Phì quay.
Dead warrior souls wander
with the howling winds,
the moon lightens survivors' faces.
Dead or alive, portraits are drawn,
memorials celebrated at home.
The desolation of the warrior's family is universal:
Tình gia thất nào ai chẳng có,
Kià lão thân khuê phụ nhớ thương.
Mẹ già phơ phất mái sương,
Con thơ măng sữa vả đương phù trì.
Lòng lão thân buồn khi tựa cửa,
Miệng hài mhi chờ bữa mớm cơm.
Ngọt bùi thiếp đã hiếu nam,
Dạy con đèn sách, thiếp làm phụ thân.
tentative translation:
The whole family misses you,
your aging parents and your lonely wife.
Your mother's white hair is thinning,
standing by the doorway,
your parents wait for the homecoming.
Our young child is expecting your protection,
he waits at meal time, for chewed rice.
In good times or in hardship,
I am your parents' son,
with books by the lamp,
I am our son's father.
The main body of the ballad describes the metamorphosis of the warrior's wife mental state: from sadness to sorrow, from despair to near nervous break-down. Then hope comes back, new vitality found; she strongly believes in her warrior-husband glorious homecoming. The repetitive poetic composition, widely used in this section (verses 153 to 372), emphasizes the confusion and the desolation of the warrior's wife:
Hoa giãi nguyệt, nguyệt in một tấm,
Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông,
Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng,
Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đâu
...
Lòng chàng ví cũng bằng như thế,
Lòng thiếp nào dám nghĩ gần xa;
Hướng dương lòng thiếp như hoa,
Lòng chàng lẩn thẩn e tà bóng dương.
The English translation could hardly emulate the Vietnamese verses:
Moonlight draws flower shades on the blinds,
stretched over the flowers, the moon carves out the night;
wrapping the moon, the flowers multiply.
My sorrow is deep as ever, moon and flowers.
...
I wonder if this is your wish,
I shall surely not vacillate,
just like the sun flower
my heart follows your will;
just like the flower
I am afraid the sun might go down.
Doan Thi Diem verses narrate sincere and simple feelings. She expertly uses true VNese idiomatic terms in her verses: chim bạt gió, nhạt mầu son phấn, gà eo óc gáy sương, nhớ chàng đằng đẵng, con thơ măng sữa, dậy con đèn sách... Dozens of other terms could be found in the long poem.
Her magnificent poetic masterpiece leapfrogs the Vietnamese language to a higher plateau of finesse and literary maturity. These are the same beautiful Vietnamese literary idioms or allusions we are now using, and are very proud of their richness and depth.
The plaintive ballad has a classical happy ending, or at least the unshakable conviction for the glorious return of her husband:
Bóng kỳ xí giã ngoài quan ải,
Tiếng khải ca trở lại thần kinh,
Ðỉnh non kia đá đề danh,
Triều thiên vào trước cung đình dâng công.
...
Nền huân tướng đai cân rạng vẻ,
Chữ đồng lưu bia để nghìn đông,
Ơn trên ấm tử thê phong,
Phân vinh thiếp cũng đượm chung lưng trời.
...
Xin vì chàng xếp bào cởi giáp
Xin vì chàng giũ lớp phong sương,
Vì chàng tay chúc chén vàng,
Vì chàng điểm phấn đeo gương não nùng.
tentative translation:
The banners leave outpost
marching songs fill up the capital.
Your name carved on mountains,
the military exploits are laid down before the throne.
...
Glorious titles will follow your exploits,
your fame on stone for the millennium.
The family then can share the imperial graces,
as your wife, I then could enjoy.
...
Please permit me, my husband,
to fold your armor, to dust your combat dress,
On my knees, I offer wine in a gold cup,
for you, I will make up with powder and perfume.
oOo
Within the constraint of the "chu nho" original, Doan Thi Diem creates a fundamental literary work in the 18th century. She devotes 412 verses to the plights of soldiers and their wives; the long poem unknits the intricate feelings toward war. Her poetic talent is original, and her use of VNese idiomatic terms refines and enriches the Vietnamese language.
Before reading Chinh Phu Ngam, please listen to the musical ballads "Mẹ Việt Nam", or "Hòn Vọng Phu",...[6] As long as wars still threaten our country, as long as the society is unsettled, the 18th century laments or the 20th century war sorrows are identical. The lyrics of these songs seem to flow directly out of Chinh phu Ngam.
[1] Ballad seems to be the appropriate word to translate "ngâm khúc". The poetic classification "ngâm" implies the musical nature of the "song thất lục bát" verses.
[2] Chữ nôm: ancient written Vnese derived from Chinese characters to phonetically represent the Vnese language.
It is not a translation. Doan Thi Diem actually rewrote Chinh Phu Ngam while closely adhere to the spirit and structure of the original long poem.
There are other "chu nom" versions; scholar Hoàng xuân Hãn strongly believed that the popular version was written by Phan Huy Ích (1750-1825), not Doan Thi Diem.
[3] This section can be divided in small groups of verses reflecting different stages of the warrior's wife feelings.
[4] This poetic technique repeats words and idioms in the verses to create continuity in thoughts and in the structure of long poems, or in strings of poems.
[5] Thiếu Phụ Nam Xương, Hòn Vọng Phu , Ba Năm Trấn Thủ Lưu Ðồn.
[6] "Mẹ Việt Nam" (Mother VN) is a musical ballad written by Phạm Duy. These phrases could well be the theme of CP Ngam:
Lính vua King's soldiers
Lính chúa Lords' soldiers
Lính làng Local soldiers
Trời ơi Oh God,
Biết bao nhiêu giặc how many more wars
cho chàng phải đi? my husband has to endure?
"Hòn Vọng Phu" is a series of three songs written by Lê Thương. The lyrics of the first song is the emulation of the section of Chinh Phu Ngam about departure.
Further readings:
- Durand, Maurice and Nguyen Tran Huan, An Introduction To Vietnamese Literature, Columbia University Press, 1985.
- Phạm Thế Ngũ, VN Văn Học Sử Giản Ước Tân Biên, Quyển II.
Dương Quảng Hàm, VN Văn Học Sử Yếu, Bộ Quốc Gia Giáo Dục, Trung Tâm Học Liệu Xuất Bản.
- Duong Quang Ham, Văn Học VN,
- Doan Thi Diem, Chinh Phu Ngam Khúc, Nguyễn Huy chú giải
Thưa chị Lan và các bạn:
Vẫn biết vhnt có tôn chỉ phi chính trị, nhưng là người yêu mến văn chương (nếu không, các bạn đâu có gia nhập vhnt) nên chúng ta cần quan tâm đến vận mệnh của Văn Học VN, trong cũng như ngoài nước. Trên diễn đàn này, thỉnh thoảng chúng ta lại được thưởng thức những áng văn, những bài thơ xuất sắc của những cây viết trong nước. Ðiều này rất nên được tiếp tục để chúng ta có cơ hội làm quen với tâm tư của bạn bè chúng ta ở quốc nội, và cũng để nhờ họ vẽ lại cho chúng ta những nơi chốn đã xa, những khuôn mặt đã nhạt nhòa, những kỷ niệm đã tàn phai. Nhưng có bao giờ các bạn
tự hỏi liệu những người bạn văn chương của chúng ta ở chốn quê nhà có dịp ghé thăm tâm tình của chúng ta hay không? Nếu có, tôi e rằng cũng rất họa hoằn.
Xin gởi đến các bạn bài tham luận của nhà văn hải ngoại Nguyễn Mộng Giác nhân dịp ông tham dự cuộc hội luận "Biển Dâu" do trường Ðại Học San Francisco State tổ chức. Tôn trọng chủ trương của vhnt, tôi mong các bạn đọc bài tham luận của Nguyễn Mộng Giác trong chính tinh thần của bài viết: Xây dựng một tương lai sáng sủa cho văn học Việt Nam, nơi những biên giới của địa dư và của tình người rồi sẽ không còn.
Chúc vui;
Phùng Nguyễn.
Lời Giới Thiệu của Phùng Nguyễn:
Nguyễn Mộng Giác đọc bài tham luận của mình tại cuộc hội luận có chủ đề "Biển Dâu" do trường đại học San Francisco State tổ chức gần đây. Cũng trong sự kiện này, một tuyển tập truyện ngắn về chiến tranh Việt Nam được ra mắt độc giả. Tuyển tập mang tựa đề "The Other Side Of Heaven," tạm dịch "Phía Bên Kia Thiên Ðường," và được hình thành bởi sự cố gắng của ít nhất ba người: Wayne Karlin, một nhà văn và đồng thời một cựu chiến binh Mỹ đã từng tham chiến tại Việt Nam (VN), Lê Minh Khuê, một nhà văn nữ tại VN, và Trương Vũ, cựu quân nhân Nam Việt Nam và là nhà phê bình văn học (Hải Ngoại). Các bạn muốn biết thêm chi tiết về tuyển tập này, xin xem phần phụ lục ở phần cuối bài.
Bài tham luận ngắn nhưng súc tích và thẳng thắn của nhà văn Nguyễn Mộng Giác (NMG) đã đưa ra ít nhất ba vấn đề cho chúng ta suy nghĩ:
(1) Thái độ nên có của người Việt hải ngoại trong cuộc chiến đấu cho tự do và nhân quyền tại VN
(2) Nguồn gốc của sự "bất công" của dư luận Mỹ nói riêng và thế giới nói chung về nhân dân miền Nam VN và người Việt tại hải ngoại, và
(3) Thực chất của cái gọi là "Chính sách hòa giải hòa hợp dân tộc" mà chính quyền VN đang rao giảng và những hệ quả đã và đang xảy ra tại VN cũng như tại hải ngoại.
Tất nhiên, trong khuôn khổ của một cuộc hội luận văn hóa, chủ đề NMG đưa ra tất nhiên chỉ nằm trong phạm trù văn hóa mà thôi. Tuy nhiên, chính sách của chính quyền VN có tính cách nhất quán, do đó, những điều gì áp dụng trên văn học nghệ thuật cũng có thể áp dụng cho các phương diện khác, kể cả văn hóa, xã hội, và chính trị.
Là một nhà văn, NMG nhìn và tiếp cận vấn đề một cách rất... văn chương. Tuy nhiên, trong những lời lẽ ôn hòa, uyển chuyển, có chứa đựng một cái nhìn sắc bén như nhát dao cắt thẳng vào phần ung nhọt hôi thối của vấn đề, bất kể "vấn đề" đến từ phe nào: Cộng đồng người Việt hải ngoại, giới báo chí, truyền thông, và xã hội Hoa Kỳ, và chính quyền Cộng Sản VN. Là một người có lòng, NMG nhìn thấy niềm thống khổ đến từ mọi phía, và nước mắt của các bà mẹ không có biên giới hoặc màu da. Là một người can đảm, NMG thẳng thắn nhận lãnh trách nhiệm về những điều ông phát biểu. Thật là một điều đáng khâm phục về ông và là điều đáng buồn cho chúng ta. Bởi vì, không phải chúng ta đã bất công đối với ông khi để ông phải đơn độc chịu trách nhiệm về những điều mà hầu hết chúng ta cũng đồng ý hay sao?
Ðược sự đồng ý của nhà văn Nguyễn Mộng Giác, tôi xin hân hạnh giới thiệu cùng các bạn bài nói chuyện của ông.
oOo
THAM LUẬN CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN MỘNG GIÁC TẠI HỘI LUẬN BỂ DÂU -
SAN FRANCISCO STATE UNIVERSITY NGÀY 13.10.1995. (PHẦN I)
Chủ đề của cuộc hội luận này, như tờ chương trình do Ban Tổ chức công bố, là những vấn đề về cộng đồng người Việt tại Mỹ, vấn đề các cựu chiến binh, những suy nghĩ của giới nghiên cứu về cuộc chiến tranh Việt Mỹ, phản ảnh và hậu quả của cuộc chiến tranh ấy qua văn chương nghệ thuật. Mục đích của cuộc hội luận này là tìm cách hàn gắn những vết thương cũ, tiến tới sự thông cảm để tăng cường các giao lưu về giáo dục và văn hóa giữa Mỹ và Việt Nam.
(The conference is about the Vietnamese community in America, veterans issues today, academic reflections on the Vietnam/American War, and artistic expressions of the conflict and its legacies... It is an attempt to move toward healing, convergence, and increased educational and cultural exchanges).
Những dòng chữ trên đây, tới mắt cộng đồng người Việt hải ngoại, lập tức tạo ra những vang vọng khác, đầy ngờ vực và e dế Nhiều câu hỏi được đặt ra: Có phải họ vận động hòa hợp hòa giải với cộng sản Việt Nam không? Những thế lực nào đứng đằng sau tổ chức này? Và một giải pháp tức thời, tiện lợi đến ngay trong óc nhiều người: Phải tẩy chay, bất hợp tác!
Khi nhận lời mời của Ðại học San Francisco đến tham dự cuộc hội luận này, tôi biết rõ những gì bạn bè của tôi trong cộng đồng đang nghĩ và sẽ làm. Cái chỗ tôi đang ngồi, những điều tôi sắp nói, nhiều nhà văn có uy tín xứng đáng hơn tôi để ngồi ở đây. Nhưng không ai muốn tự đưa mình vào những tình thế khó khăn, không ai muốn bận tâm về những chuyện tranh luận thị phi, nên cuối cùng tôi trở thành một người hết sức bất thường: không ai ủy nhiệm, cũng không đại diện cho ai cả, tôi lấy tư cách cá nhân một người cầm bút trình bày một đôi điều về sinh hoạt văn chương của người Việt hải ngoại. Ðúng hay sai, cá nhân tôi chịu trách nhiệm. Cũng như chính tôi chịu trách nhiệm cho quan niệm này: THAY VÌ TẨY CHAY, VẮNG MẶT TRONG CÁC CUỘC HỘI THẢO VỀ CÁC VẤN ÐỀ LIÊN QUAN ÐẾN MỸ VÀ VIỆT NAM, NGƯỜI VIỆT HẢI NGOẠI CẦN CÓ MẶT ÐỂ TRÌNH BÀY QUAN ÐIỂM CỦA MÌNH.
Tôi cho rằng sự có mặt của người Việt hải ngoại trong những cơ hội như cơ hội này là cần thiết, từ kinh nghiệm thực hiện tuyển tập truyện ngắn "The Other Side of Heaven". Như lời ông Wayne Karlin viết trong phần mở đầu của tuyển tập, ý định thực hiện tuyển tập này nảy ra từ khi ông gặp nhà văn Lê Minh Khuê ở Boston. Hai kẻ thù cũ trong cuộc chiến tranh hai mươi năm trước nay gặp nhau trong tư cách hai nhà văn, hai con người bình thường với tất cả những vui buồn của đời sống bình thường. Cuộc chiến tranh và những hậu quả của nó bây giờ được nhìn lại bằng cái nhìn trung thực của văn chương, ý tưởng đó thật hấp dẫn, và Wayne Karlin bắt đầu liên lạc với Lê Minh Khuê để thực hiện tuyển tập. Nhưng khi bắt tay vào việc, ông mới thấy viết về chiến tranh Việt Nam mà không quan tâm đến tiếng nói, đến tâm tình, đến những vinh nhục của những người lính Việt Nam Cộng hoà thì thật là thiếu sót lớn lao. CHẲNG NHỮNG THIẾU SÓT, ÐÓ CÒN LÀ SỰ BẤT CÔNG. Ông gặp anh Trương Vũ, và biết thêm rằng ngoài một số ít những bài báo, những quyển sách do những người Việt trẻ tuổi viết thẳng bằng Anh ngữ, còn có một dòng văn chương hải ngoại đa dạng viết bằng tiếng Việt. Nhờ thế mà trong "The Other Side of Heaven", chiến tranh Việt Nam được nhìn từ ba phía: những cựu chiến binh Mỹ, những người miền Bắc và những người miền Nam.
Tám truyện ngắn của những nhà văn gốc miền Nam gồm truyện của Võ Phiến, Nguyễn Xuân Hoàng, Hoàng Khởi Phong, Nguyễn Mộng Giác, Trần Vũ, Phan Huy Ðường, Lai Thanh Hà và Andrew Lâm. Sự hiện diện của tám nhà văn gốc Miền Nam trong tuyển tập là một tiền lệ tốt, cải chính một thiên kiến vốn đã có từ lâu, thiên kiến cho rằng cuộc chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến giữa hai phía: phía Mỹ và phía Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa. Nó nhắc nhở cho mọi người thấy rằng ngoài những người mẹ Mỹ khóc con tử trận ở một chiến trường heo hút bên kia Thái Bình dương, những người mẹ miền Bắc héo hắt chờ tin những người con "sinh Bắc tử Nam", còn có những người mẹ miền Nam tảo tần nuôi đàn cháu mồ côi cha. Tiếng khóc, nỗi đau vốn không có biên giới. Hạt nước mắt nào cũng giống nhau, đã nhớ đến hai giọt nước mắt sao lại quên một giọt thứ ba!
Nghĩ cho cùng, thiên kiến ấy do những động cơ tâm lý và chính trị sâu xa. Về phía người Mỹ, những người miền Nam là những kẻ thua trận. Chúng tôi đã nhận tất cả những tủi nhục thua thiệt của kẻ thua trận, kể cả sự rẻ rúng xem thường của những người từng là đồng minh của chúng tôi. LỊCH SỬ THƯỜNG DO NHỮNG KẺ THẮNG VIẾT. ÐÓ LÀ MỘT SỰ THỰC LỊCH S DÙ KHÓ NUỐT, CHÚNG TÔI CŨNG PHẢI NUỐT CHÉN THUỐC ÐẮNG ÐÓ. Sự thiên kiến còn do bản chất của ngành truyền thông. Cái gì tốt đẹp, cái gì bình thường không phải là tin tức. Nữ công tố viên Marcia Clark ôm hôn O.J. Simpson, đó là tin. Bà ôm hôn con sau một ngày nhọc nhằn ở tòa, không ai loan tin đó. Một nhà văn từ Việt Nam qua Mỹ tham gia hội luận như anh Hồ Anh Thái và chị Lê Minh Khuê hôm nay, đó là tin. Một nhà thơ Mỹ-gốc-Việt đến đọc thơ tại một trường đại học, tin đó chỉ có trong bản phúc trình sinh hoạt thường niên của nhà trường. Chính vì sự tò mò về kẻ thù cũ mà giới truyền thông và nghiên cứu Mỹ quan tâm đến những người cộng sản Việt Nam, và thờ ơ với cộng đồng người Việt hải ngoại. Tiếng nói của chúng tôi chỉ là tiếng nói của một cộng đồng thiểu số trong vô số những cộng đồng thiểu số trên đất Mỹ. Ðó cũng là một sự thực khác chúng tôi phải chấp nhận.
Nguyễn Mộng Giác
Xin xem tiếp phần II và Phụ Lục về "The Other Side Of Heaven"