vhnt, số 196
16 June 1996
Trong số này:
thư vhnt.....................................................Ðỗ Danh Ðôn
T h ơ :
1 - Thơ trẻ Sài Gòn: ..............................................NTD p/t
- Thương nhớ thơ ngây ....................................Nguyễn Duy
- Mẹ và cô gái .............................................Phan Bá Thọ
2 - Nhớ bố, con làm thơ .....................Trương Nguyễn Thi Thanh
3 - Bia đá vô thường ...........................Nguyễn Hiện Nghiệp
4 - Tự nhiên ......................................................Phi Long
- Cố tình ............................................................NTP
D i ễ n Ð à n V ă n H ọ c :
5 - Hiện thực và tưởng tượng .................Nguyễn Xuân Hoàng
6 - Góp ý về "hiện thực và tưởng tượng" .......Bùi Thanh Liêm
T r u y ện N g ắn / S án g T ác :
7 - Gửi cha một lời muộn màng (tùy bút)...............Sung Nguyễn
8 - Những cái nóc nhà .................................Doãn Mạnh Tiến
9 - Cha và con ...............................................Phùng Nguyễn
16 tháng 6, 1996
Người làm thơ chắc phải có nhiều xúc cảm hơn người và sống mạnh mới có thể sáng tác được. Người tu hành thì sức sống của họ ra sao? Nhân đọc một số thơ của Y Sa trong quyển "Rót Giữa Hư Không" thấy lòng nhẹ và bâng khuâng tưởng như hồn thơ và thiên nhiên đã ngấm hẳn vào lòng mình.
Xin phép chép lại đây một trong những bài thơ đó. Y Sa có nhũng rung cảm rất sâu xa với thiên nhiên và cuộc sống, bạn hãy đọc thử vài bài thơ của cô để cho thêm những xúc cảm vào đời sống nhé:
Ta vẫn
chờ ta
cuối nẻo đường.
Ðôi bờ
cỏ dại,
Nắng
vương vương.
Rêu phong
bến cũ
còn
đâu nhỉ.
Sương bạc
hồn thơ
trắng
cả vườn.
Hoặc là:
Mấy mươi năm còn độ.
Chiếc đầu tròn
Manh vải
Áo Cà Sa
Kinh dăm câu cho có gọi là
Mùi dưa muối để mà qua thế sự
Ta lạc giữa trần gian
- Ðâu rồi Vệ Sử ?
Sông mơ màng trăng phủ nước long lanh
Ta trở về đây...
bến vắng - khách vô tình
Thuyền năm đó không mang hình bóng lạ
Ta nằm xuống gối đầu trên bậc đá
nhìn đất trời qua kẽ lá rung rinh
Vẫn trời cao.
bóng mát...một mình
Ta hát bản
Vô tình ca
muôn thủa.
Vô Tình Ca - Y SA
Ðỗ Danh Ðôn
(thay thư vhnt)
oOo
Nhân ngày lễ của Cha (Father's Day), xin chúc những người cha, và cả những người mẹ, đầy tràn hạnh phúc, phước lộc, khỏe mạnh may mắn, vui và tâm hồn an nhàn, yên tâm với niềm an ủi tự hào nơi những người con hiếu thảo và ngoan hiền.
Gửi đến bạn đọc những sáng tác chủ đề số này, nhân ngày lễ của cha.
thân ái,
PCL/vhnt
Thương Nhớ Thơ Ngây
Sung sướng vậy thời thả rông trí nhớ
sống rồi quên để rồi sống rồi quên
Khốn khổ thay khi giữ gìn trí nhớ
quá khứ giáng xích xiềng bỏ tù mình
Nỗi nhớ càng sâu gai rào càng sắc
em hoá cai tù của chính cuộc đời em
Anh cũng vậy... hình như ai cũng vậy
ta tự giam cấm chính trái tim ta.
Nguyễn Duy
oOo
Mẹ Và Cô Gái
Mẹ ạ, ba mươi năm bốn mươi năm trước đây
Mẹ là cô gái mẹ nhỉ
Khi ấy xuân về lễ hội đình làng
Cô gái là mẹ bây giờ
Chắc cũng áo the dài cũng khăn xanh, guốc mộc
Cùng trai gái làng vui điệu nhân gian
Cô ấy ngày xưa những buổi trường tan
Những chiều đồi nương hái dâu
Chắc cũng bao chàng theo sau vẩn vơ câu hò khe khẽ
Cô ấy ngày xưa hồng đôi má thắm
Cô gái ngày xưa bây giờ đã già
Tóc nhuộm màu sương, đôi mắt đẹp thôi còn tinh anh nữa
Mẹ ạ, ngày xưa mẹ là cô gái mẹ nhỉ!
Cô gái mang trong mình bóng hình một cụ bà
Và bây giờ tóc ngả một màu tuyết trắng
Con thấy trong đôi mắt mẹ
Con thấy trong những ngày xuân nắng êm
Vâng, con thấy trong dáng hình chậm chạp
Cô gái trong cánh áo dài nhẹ nhàng tha thướt
Cô gái đôi mươi ngày xưa
Phan Bá Thọ
Dũng Nguyễn sưu tầm
Nhớ Bố, Con Làm Thơ
ngày xưa con còn bé
Bố chở ra biển, chiều
gió Cam Ranh thổi nhẹ
con gật gù thiu thiu
xe dừng trên biển vắng
đến rồi bé con ơi!
hoàng hôn ngừng thắp nắng
con mở mắt reo vui
Bố say sưa kể chuyện
con bé quá, hiểu gì!
bi bô, hay liến thoắng
chỉ cánh buồm đang di
chiều nào con cũng đợi
tập tững trước cửa nhà
Bố vừa về đến cửa
con vội ào chạy ra
Bố, con, cùng sóng biển
với giấc ngủ vô tư
con lớn lên, yêu biển
lênh láng chảy thành thơ
oOo
chiều qua về thăm Bố
Bố đứng cửa chờ con
con không chờ Bố nữa
như thuở trước con còn
Bố mang con đến biển
lòng con thấm gió chiều
Bố dạy con biết biển
tình cha mẹ bao nhiêu!
Bố không mong con lớn
để con chóng xa nhà
mà hồn con mau lớn
thành cánh buồm, neo xa
bỗng thèm chưa được lớn
chưa biết hiểu, biết đi
để còn nghe Bố kể
chuyện ngày xưa những gì
bước chân về thăm Bố
khua lại những ngày xưa
chiều nay còn nhơ nhớ
giăng mắc, con làm thơ
Trương-Nguyễn Thi Thanh
bia đá vô thường
một vòng tròn
hai vòng tròn
ba vòng tròn
một con bướm đậu trên hòn đá xanh
một con rắn nhỏ bò quanh
một con chim đứng trên cành lặng im.
rắn nuốt bướm
chim mổ rắn
thằng nhỏ xách ná đi săn
bắn con chim chết bằng hòn đá xanh
một đời rồi cũng qua nhanh
trăm năm, thằng nhỏ cũng thành nắm xương
mộ đá xanh - chốn vô thường
có con bướm đậu như dường tiếc thương
một vòng tròn
hai vòng tròn
ba vòng tròn
có không?
không có.
không.
còn.
có.
Ta.
Nguyễn Hiện Nghiệp
1988
Tự Nhiên
Tự nhiên, sao cứ tự nhiên
Gọi đây là "nhỏ" đây phiền lắm nha!
Nguời ta bệnh mặc nguời ta
Tự nhiên ai mượn, lại qua sờ đầu
Xe hư ai có muợn đâu
Tự nhiên hì hục cúi đầu sửa xe
Tự nhiên mỗi buổi học về
Theo sau đây mãi rà rề nhđuôi
Tự nhiên - tự nhiên quá thôi
Khi không nghỉ học, chỗ ngồi lạnh tanh
Tự nhiên đây khóc ngon lành
Tự nhiên sao đó nỡ đành... tự nhiên.
Phi Long
oOo
Cố Tình
Cố tình chẳng phải tình cờ
Học làm người lớn, gọi cô "nhỏ à"
Nghe tin nhỏ bịnh xót xa
Cố tình quên sách, ghé nhà hỏi thăm
Nhỏ xe máy chết bị nằm
Cố tình sửa chậm, để gần nhỏ thương
Cố tình những lúc tan trường
Về chung một lối, mong đường dài thêm
Cố tình tình cố chẳng nên
Thì thôi xa lánh gắng quên tình này
Cố tình nén tiếng thở dài
"Cố tình" biết có nguôi ngoai... cố tình
NTP
07Jun96
Hiện Thực và Tưởng Tượng
1.
Có lần tôi được nghe một "ông bạn cầm bút" bảo: "Này ông, tôi biết tay X. chưa bao giờ ở Hà Nội một ngày mà sao dám viết về Hà Nội. Tôi đã sống cả một thời tuổi trẻ ở đó mà tôi còn chưa viết nổi về nó, thế mà...!" Nhận xét của "ông bạn" thật đơn giản như hai với hai là bốn. Người ta không thể viết về con người hay sự việc mà người ta không biết. Không biết thì không thể viết. Ðó là chân lý. Thế nhưng, mặc dù đã sống ở Mỹ hơn mười năm trời mà tôi cũng có viết gì được về xứ sở này đâu. Cái thế giới của tôi quá nhỏ bé. Con đường Bolsa. Sở làm. Khu thương xá Phúc Lộc Thọ. Lớn hơn một chút là Quận Cam. Mà Quận Cam nào kia chớ. Quận Cam rộng lớn lắm. Con số người Việt sống tại đây tuy đông hơn nhiều nơi khác, nhưng cũng chỉ là muối bỏ bể thôi. Ðâu có dễ gì xâm nhập vào đời sống người bản xứ. Quanh đi quẩn lại cũng chỉ là tụ tập cuối tuần ở mấy căn nhà của các bạn thân của tôi nằm rải rác ở mấy thị xã trong Quận Cam thôi. Tôi nghĩ ông bạn kia chắc cũng biết đời sống xã hội chúng tôi thu hẹp trong một vòng tròn nhỏ. Thật khó mà thẩm thấu vào nổi cái xã hội của người bản xứ. Nhiều người sống ở đây trên hai mươi năm, di cư từ đợt đầu tiên, tưởng biết Mỹ dữ lắm, nhưng rốt cuộc cũng chẳng ra làm sao. Mỹ ra đằng Mỹ, mít ra đằng mít. Thành ra nếu có viết được điều gì thì cũng chỉ là viết về cái đám Mỹ vàng đầu đen mà thôi... y thật ra cũng là cách nói dành cho cái bọn từ Năm Mươi trở lên như bọn chúng tôi đây. Chớ những người trẻ cầm bút từ ba mươi trở xuống, thì có lẽ khác hơn nhiều chứ. Ðường kính của vòng tròn thẩm thấu đời sống bản xứ của họ chắc chắn là phải lớn hơn. Bởi vì tuổi trẻ, rào cản ngôn ngữ và tài năng là những chiếc chìa khoá cho phép những người cầm bút trẻ này mở được nhiều cánh cửa mà bọn Năm Mươi chúng tôi đầu hàng. Tuy vậy, tôi nghĩ, những sáng tác của Nguyễn Quí Ðức, Andrew Lâm, Lại Thanh Hà... chỉ sẽ chinh phục người đọc bản xứ hay người đọc thế giới một khi họ quay về nguồn cội của họ. Việt Nam trong phần sâu thẳm của của trái tim họ sẽ là sức hút của tác phẩm họ với người đọc.
2.
Kinh nghiệm nghề văn của những người đi trước cho biết hình tượng nhân vật trong một tác phẩm không phải bước vào trang sách từ cõi hư vô. Tác giả Cha Và Con, nhà văn Turgeniev thú nhận rằng chưa bao giờ ông "dám liềư xây dựng một hình tượng nếu như ông chưa có một con người bằng xương bằng thịt làm xuất phát điểm. Và ông thố lộ rằng nhân vật chính của ông được dựng lên từ hình ảnh của một người thầy thuốc tỉnh lẻ. Trong tác phẩm Ðồng Cỏ của Nguyễn Ðình Toàn, nhân vật nữ làm việc ở đài phát thanh có lẽ [chắc] đã được Nguyễn Ðình Toàn lấy mẫu từ một người nữ làm cùng sở với ông trong đài phát thanh. Chính những từ, những động tác, những đối thoại của các nhân vật cho phép ta nghĩ như vậy. Không khí phòng thu thanh, ngôn ngữ của người đọc bản tin, những cơn mưa Sài Gòn, và cơn run rẫy của thành phố chiến tranh... cho ta nghĩ rằng Nguyễn Ðình Toàn đã viết Ðồng Cỏ từ những chất liệu có sẵn đó. Những nhân vật trong Mùa Biển Ðộng của Nguyễn Mộng Giác mang bóng dáng của những người từ đời sống bên ngoài, nhân vật Lara trong Bác sĩ Zhivago chính là người tình Olga Ivinskaia của Boris Pasternak trong đời thường của ông, hay nghề nghiệp người thầy thuốc của Vũ Ðình Minh đã góp phần rất lớn trong truyện "Trong Phòng Hồi Sinh" của Mai Kim Ngọc... Và Ðêm Giã Từ Hà Nội của Mai Thảo, Ðầm Lai (Métisse Blanchê của Kim Lefèvre, Nước Ðục của Nguyễn Ngọc Ngạn... cũng minh hoạ được mối liên hệ giữa tác giả và tác phẩm: Người cầm bút nào chẳng xây dựng tác phẩm từ những hình tượng có trong cuộc sống, thậm chí đôi khi nhân vật trong tác phẩm mang cả da thịt của chính tác giả nữa. Tuy vậy tác phẩm văn học sẽ ra sao nếu nhà văn chỉ là người làm công việc của một anh thợ chụp ảnh, thu nhận mọi việc khách quan vô ngã như một cái máy. Chính xác và trung thực. Hãy trở lại Turgeniev với cuốn Cha Và Con. Ông nói ấn tượng mà con người thầy thuốc tỉnh lẻ đã giúp ông sáng tạo nhân vật Bazarov thật mạnh mẽ, nhưng đồng thời cũng chưa phải là yếu tố làm thành tác phẩm. Cha Và Con chỉ chào đời sau khi ông đã để trí tưởng tượng sáng tạo hoàn tất tác phẩm của ông. Tôi nghĩ Võ Phiến hay Mai Thảo, Nguyễn Ðình Toàn hay Nguyễn Mộng Giác, Kim Lefèvre hay Trần Mộng Tú... cũng sẽ dễ dàng chia sẻ ý này với Turgeniev.
Tôi nghĩ điều này cũng đúng cho tất cả những nhà văn... Nói cách khác cá tính sáng tạo của nhà văn - như tên một tác phẩm của nhà phê bình và lý luận văn học Nga M.B. Khrapchenko - là yếu tố quyết định tác phẩm. Có thể nói, mặc dù nhiều người cầm bút có cùng chung một kinh nghiệm, nhưng chính trí tưởng tượng sáng tạo của họ đã làm tác phẩm của mỗi người mang một khuôn mặt riêng, một vóc dáng riêng, một chiều sâu khác với những tác phẩm khác. Tưởng tượng sáng tạo cũng làm cho bút pháp của nhà văn này khác nhà văn kia. Bút pháp là tác giả.
3.
Mặt khác, lời chỉ trích của ông bạn cầm bút trên dường như cũng không thể giải thích được sự hình thành tác phẩm nghệ thuật trong nhiều trường hợp. Thử hỏi kinh nghiệm nào, con người nào đã giúp Jules Verne viết được Hai Mươi Ngàn Dặm Dưới Ðáy Biển, Nguyễn Tuân viết được Chùa Ðàn, George Orwell với Trại Loài Vật... Hoặc gần chúng ta hơn kinh nghiệm nào đã cho Trần Vũ viết về một Hà Nội mà anh chưa hề đặt chân tới một lần khi anh viết "Ngôi Nhà Sau Lưng Văn Miếu?" Nhiều người sống lâu ở Hà Nội đâu có nghĩa nhất thiết rằng người ấy sẽ viết về một Hà Nội như Trần Vũ đã viết. Hà Nội của Nguyễn Tuân chắc chắn khác với Hà Nội của Mai Thảo.
Bao nhiêu người đã lớn lên ở Huế, đã theo học những ngôi trường nổi tiếng ở xứ Thần Kinh này không có nghĩa là chỉ có Huế trong tác phẩm của những người này mới là "Huế thiệt" còn Huế của những người chưa từng lớn lên ở xứ sông Hương núi Ngự này, chỉ thoáng qua Huế đôi ba ngày hoặc đôi ba tuần một hai tháng thì Huế đó không phải là Huế của văn chương. Tôi đã sống tại Sài gòn khá nhiều năm, ít nhất là trên hai mươi năm thế mà sao muốn viết một bài về thành phố này khó thế. Thành ra yêu cầu của ông bạn cầm bút nói trên có vẻ như chỉ đáp ứng có một yếu tố. Ðể hoàn thành một tác phẩm nghệ thuật, yếu tố đó quá mỏng. Ðòi hỏi đó chỉ cốt yếu cho những người theo chủ nghĩa tự nhiên. Bởi vì trong văn học nghệ thuật bỏ quên cá tính sáng tạo, người viết chỉ còn một thể loại để theo là hoàn thành những thiên phóng sự cho những trang báo tin tức thời sự, xa hơn là những bài ký, ký sự, hồi ký, ghi chép... Nhưng ngay cả trong những thể loại này, hình như người đọc cũng không bằng lòng với vai trò chụp ảnh của người ký giả. Thiếu một bút pháp riêng biệt, thiếu một trí tưởng tượng sáng tạo, những trang viết của ông ta chỉ là những trang chữ "vô bản sắc, nhạt nhẽo, buồn nãn." Nhà văn Konstantin Pautovsky trong Bông Hồng Vàng đã hết lời đề cao vai trò của trí tưởng tượng sáng tạo trong đời sống - không chỉ trong lãnh vực văn học nghệ thuật mà còn cả trong khoa học kỹ thuật nữa. Theo Pautovsky chính trí tưởng tượng đã tạo ra luật vạn vật hấp dẫn, đã xây dựng nên câu chuyện tình bi thảm Tristan và Iseult, đã sáng tác được bài Marseillaise, đã đẻ ra chú nai con Bambi, Hoàng tử Hamlet... Vâng, không có trí tưởng tượng sáng tạo, nhà văn chỉ còn là một người chụp ảnh tầm thường, ghi nhận chính xác cái bề mặt vô ngã, vô cảm của người và việc. Ông ta chắc sẽ không bao giờ bước qua nổi ngưỡng cửa của một nhà nhiếp ảnh, nói gì trở thành một nhà hội hoạ. Ông ta sẽ tự hỏi, và chắc khó tìm ra câu trả lời, vì sao, do đâu Antoine de Saint-Exupéry viết được Le Petit Prince, Garcia Marquez viết Trăm Năm Cô Ðơn, Dante với Thần Khúc... Nói theo nhà văn nữ Pháp quốc, Nathalie Sarraute, có hai loại hiện thực tồn tại nơi nhà văn. Một loại hiện thực có thể nhìn thấy được, trong một thế giới mà nhà văn đang sống, và những người chung quanh anh ta đang sống. Bà nói loại hiện thực đó không thể làm thành tiểu thuyết. Tôi muốn gọi đó là quặng mỏ của những trang sách. Loại hiện thực thứ hai là thế giới được phóng ra đôi khi từ những quặng mỏ kia, nhưng đôi khi chẳng từ một cái gì khác ngoài thế giới tưởng tượng của nhà văn, thế giới trong đó anh tự cách ly ra khỏi cảnh giới chung quanh, dựng ra một rào cản không một kẻ nào khác có thể xâm nhập nổi. Vâng, cũng như mọi người, nhà văn, người nghệ sĩ không thể sống mà không sống trong một xã hội, giữa một xã hội, với xã hội, nhưng khi viết, anh viết trong sự cách ly. Chính trí tưởng tượng sẽ đưa anh tới cuối đường hoàn thành một tác phẩm. Dostoievsky cho rằng người ta không đòi hỏi nhà văn viết nhằm mô tả hiện thực một cách chính xác và đúng đắn theo kiểu chụp ảnh một cách máy móc. Người ta đòi hỏi từ hiện thực kia, nhà văn viết một cái gì khác hơn, rộng hơn, sâu hơn cái mà ông ta cũng như mọi người sống và trãi qua trong cuộc sống.
4.
Hãy viết bằng tiếng nói, bằng trái tim của mình. Hãy nói bằng cổ họng của mình. Ðừng để cái giọng nói của người khác trong cổ họng của mình. Ðừng để giọng nói của mình phát ra từ bất kỳ cổ họng một người nào khác. Hình như Turgeniev đã có lần nói như vậy.
Nguyễn Xuân Hoàng
Góp Ý Về Bài Viết
Hiện Thực và Tưởng Tượng của Nguyễn Xuân Hoàng
Bài viết của Nguyễn Xuân Hoàng rất hay, chứng tỏ tác giả đã bỏ ra nhiều thời giờ nghiên cứu và biên khảo. Tuy nhiên có vài điểm tôi không đồng ý.
Tựu trung, điều mà tác giả muốn nêu lên (theo tôi hiểu) là văn chương phải gắn liền với hiện thực. Trong 4 điểm mà tác giả "Người Ði Trên Mây" nêu ra, tất cả đều bao chứa một hàm ý là tính chất hiện thực không thể tách rời sáng tạo được.
Ông nhập đề bằng cách đưa ra thí dụ về ảnh hưởng của môi trường sống đến người cầm bút, và kết luận rằng những nhà văn trẻ, của thế hệ trưởng thành bên này "chỉ sẽ chinh phục người đọc bản xứ hay người đọc thế giới một khi họ quay về nguồn cội của họ". Ðiều này không hoàn toàn đúng, đã có những nhà văn lưu vong, viết về quê hương đất nước mình, độc giả Mỹ (ở đây tôi nói theo đa số) không thèm đọc. Các nhà văn lưu vong này đã phải hòa nhập vào văn hóa xứ người, sau khi có chút tiếng tăm rồi thì họ mới dám quay về cội nguồn, điển hình là trường hợp Amy Tan. Nhìn qua âm nhạc thì thấy ngay, có biết bao nhiêu bài nhạc trữ tình của chúng ta đâu có thua ai, nhưng người ngoại quốc nào biết đến. Nói đến Ng. Ngọc Ngạn, Mỹ chỉ biết qua tác phẩm duy nhất là "The Will of Heaven", là tác phẩm (theo thiển ý của tôi) tệ nhất của NNN. Nguyễn Xuân Hoàng cũng đã đưa ra một vài tên tuổi như Nguyễn Quí Ðức, Andrew Lâm, Lại Thanh Hà, đã phải quay về nguồn cội để tạo sức thu hút. Những bạn trẻ này thành công thật, nhưng theo tôi thì cái mức thành công của họ chưa đủ để đánh giá và đưa đến kết luận nêu ở trên.
Ðiểm thứ 2 vây quanh tiêu đề "nhân vật trong một tác phẩm không phải bước vào trang sách từ cõi hư vô", thể hiện qua tác phẩm Cha & Con của Turgeniev. Tôi hoàn toàn đồng ý với NXH ở điểm này. Ðồng ý luôn với ông là cá tính sáng tạo của nhà văn là yếu tố quyết định tác phẩm.
Ðiểm thứ ba lại trở về điểm thứ nhất, lại quay quanh câu hỏi: "Có cần phải có ngoại cuộc để tạo nên tác phẩm hay không?". Theo tôi là không cần thiết. Người sống ở Hà Nội viết về Hà Nội thì có gì là lạ. Thì cũng như là một học sinh đang làm bài luận văn tả cảnh mà thôi. Người chưa từng sống ở HN mà viết về Hà Nội, viết cho hay, cho thật thì mới độc đáo. Nếu cứ phải bắt buộc phải có điều kiện môi trường thì làm gì có những chuyện ma, truyện giả tưởng, thần thoại. NXH nêu ra một điểm chí lý là không nhất thiết phải mô tả lại hiện thực một cách máy móc. Ông viết: "Người ta đòi hỏi từ hiện thực kia, nhà văn viết một cái gì khác hơn, rộng hơn, sâu hơn cái mà ông ta cũng như mọi người sống và trãi qua trong cuộc sống.
Rất chí lý! Tôi đang chịu ông ở điểm này, nhưng rồi cuối cùng nghe ông kết luận 1 câu là tôi sững sờ: "Hãy viết bằng tiếng nói, bằng trái tim của mình. Hãy nói bằng cổ họng của mình. Ðừng để cái giọng nói của người khác trong cổ họng của mình. Ðừng để giọng nói của mình phát ra từ bất kỳ cổ họng một người nào khác." Ủa! Sao lạ vậy, vừa mới nói ở trên là mình nên "phăng" một tí, rời xa hiện thực một tí, tưởng tượng phong phú một tí, có nghĩa là mình không còn phải là mình nữa. Bây giờ sao lại phải nhất thiết bằng tiếng nói của mình.
Tôi thật là rối trí, thật confused! Thôi không dám bàn tiếp nữa!
Chúc tất cả một cuối tuần vui vẻ, trẻ trung!
Bùi Thanh Liêm
Gửi Cha Một Lời Muộn Màng
Biết bắt đầu từ đâu, khi ngôn từ ở đời là hư, là vọng. Biết nhớ lại từ đâu, khi dòng sâu đời không chờ, không đợi một ai.
Tìm nơi nào trong quá khứ để con trở về mà không tủi sầu. Ðã nhiều năm rồi, con quên hẳn đi những ngày thơ đằm thắm. Mỗi ngày qua, cha khép kín trang đời, đóng cửa với tuổi già. Vết nhăn nào trên gương mặt xuân xưa, con không hề để ý.
Bánh xe đời. Con chạy theo đuổi bắt những bóng hình, bao cuộc tình riêng. Con tự cho mình khôn lớn ở tuổi đôi mươi. Mỗi ngày qua, con đã bỏ lại sau lưng mình tuổi ấu thơ xưa vốn có mẹ cha đầm ấm. Ngày càng thêm xa, đường vui con đã không dừng, dù một phút. Mẹ cha như cây già. Mẹ như nhánh cành - và Cha như thân cằn cỗi. Cây cha mẹ hứng bao phủ phàng, đen trắng thói đời để cho hoa nở, để cho lá tươi, để cho trái xanh thành quả ngọt. Ơ thờ ngày tháng trôi về buổi hoàng hôn thầm lặng - Tóc già nay đã bạc phơ. Ầu ơ tiếng ru đời con sắp vĩnh viễn đi xa.
Cha ơi , đã xa rồi cuộc chơi, cha làm bò cho con cỡi. Con cheo leo trên vai và cổ của cha với lòng tin vững chắc; dù bàn tay thơ ấu có lần bịt hẳn mắt cha.
Cha ơi, cho con xin muộn màng sám hối. Dù dòng lệ xuôi dòng đã khô cằn bởi thời gian.
Tìm lại mối thời gian. Con đã quên những ngày con đòi cha ru con ngủ giấc trưa nồng - thói quen của đời con. Con đã quên những ngày con đòi cha cầm tay dắt bước đến trường làng - niềm mến thương của đời con. Ở tuổi đôi mươi, con chỉ biết lý lẻ thiệt hơn , con dè sẻn từng ánh mắt nhìn cha, từng lời khi gần Mẹ. Cha cho con niềm vui, lặng lẽ tự cách xa , ngắm nắng chiều phôi pha đi qua chuổi ngày già.
Con mang nghĩa Mẹ tình Cha đi vào cuộc đời phong ba. Thềm xưa in bóng Mẹ chờ , cỗng làng hằn dấu chân Cha đứng ngóng. Con có trở về không? "Tình Cho Không" nên cha sẽ không sống đời để chờ con trả. "Tình cho không" nên Mẹ sẽ không sống đời chờ ngày mai con đền đáp. Câu ca dao xưa con đã thuộc lòng, núi Thái Sơn kia cao vời vợi, biển Ðông lòng rộng bao la.
Có mấy ai đã thuộc bài mà thấu hiểu lời hay. Xin cha mẹ ru thêm con một lần cho con khôn lớn, để cho con gởi cha lời sám hối muộn màng.
Ngày Lễ Mừng Cha 1996
Sung Nguyễn
Những Cái Nóc Nhà
Ðể kính dâng cho cái nóc nhà của tôi
Ðể kính dâng cho cái nóc nhà của bạn
Ðể kính dâng cho thầy Nhất-Hạnh, vị thầy khả-kính của tôi - Nhờ bạn chuyển dùm bài này cho thầy tôi
Trong văn-chương, Á cũng như Âu, bạn có thể kiếm một cách dễ-dàng những bài văn, những câu thơ, những khúc nhạc ca-tụng tình mẫu-tử. Những bài về mẹ, bài nào cũng dễ hay, cũng dễ làm cho ta rung-động. Nhưng nếu bạn muốn kiếm một bài về cha thì, than ôi, thiên khổ vạn nan. Có bao giờ bạn thắc-mắc về sự chênh-lệch này không ?
Công cha như núi Thái-Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
ca-dao
Cách dùng chữ của người xưa thật là thâm-thúy. Mẹ cưu mang khó nhọc, chín tháng, mười ngày, đứt ruột đẻ ta. Mẹ dạy cho ta về bài học tình- thương, chăm sóc cho ta từng miếng cơm manh áo. Mẹ ôm-ấp, vỗ về ta khi ta bị đe dọa, khi ta bị ức-hiếp.
Nên phần mẹ là nghĩa, là tình.
Cha không mang nặng đẻ đau. Trong cuộc đời, cha là những biểu- tượng nghiêm-khắc, là những lề-luật hẳn hoi, là những ngọn roi sẵn-sàng bổ xuống khi ta dại-dột vượt qua những lằn ranh-giới đã định. Cha không mớm cơm cho ta, vì người thường quá mỏi mệt trong sự tranh-đấu hằng ngày để cho ta có miếng cơm ấy. Người lại chẳng thể ôm-ấp, vỗ về ta khi ta bị điêù-đứng trước sóng gió của đời. Người còn mải bận lèo lái cho thuyền ta qua cơn bão tố, che chống cho ta khỏi bị ướt át.
Và xã-hội, dẫu Ðông hay Tây, thường thần-tượng-hóa mẫu người đàn-ông mạnh-mẽ, nhưng im lặng, âm-thầm. Vì vậy hình ảnh của cha thường là những u-ẩn, trầm-mặc, khép kín như "Ký Ức Dòng Sông" của Phạm Chi Lan. (*)
Nên phần cha là công, là khó.
oOo
Mẹ già như chuối ba hương,
Như xôi nếp một, như đường mía lau
ca-dao
Nếu người mẹ được ví như những gì ngon ngọt nhất thì người cha phải được ví bằng những gì dẫu tầm thường nhất, nhưng nếu không có, đời ta sẽ khốn-đốn, gian-nan. Tôi xin mượn lời của nhân-gi an mà ví rằng:
Cha già như thể nóc nhà
Như dù, như áo, như là chăn bông
Cao-quý thay những cái nóc nhà, quanh năm trơ gan cùng tuế-nguyệt, ngày cũng như đêm đứng gác. Cho nắng gắt đừng làm héo úa đời ta. Cho sấm sét đừng làm cho ta sợ hãi. Cho giá băng muôn đời ở ngoài kia xa lắm. Cho gió mưa mãi mãi là những tiếng rì-rào, tí-tách ngoài song, trên mái. Cho ta có giấc ngủ ngon nồng. Không một lời công lao. Không một tiếng than phiền.
Tủi thay cho thân-phận những cái dù, cái áo. Lúc trái gió, trở trời, được xự-dụng luôn. Ðể rồi khi trời quang, mây tạnh, cam chịu vứt bỏ sau cánh cửa, trong xó tủ, chờ ngày đào-thải.
Hạnh-phúc thay những đêm đông, tối lửa tắt đèn, nằm chùm chăn bông, nghe tiếng gió bấc hú từng cơn, nghe hơi ấm tỏa khắp châu thân. Và những em bé, khi bị bóng tối đè-dọa, chùm cả đầu dưới chăn, tìm sự che-chở.
oOo
Mồ côi cha, ăn cơm với cá
Mồ côi mẹ, liếm lá ngoài chợ
ca-dao
Cá thì tôi chưa thấy. Nhưng những nỗi đắng cay, những muôn vàn xót xa mà đứa trẻ không cha phải nhận lãnh, thì tôi đã được thấy qua. Thấy có một phần nhỏ thôi, cũng đủ làm tôi choáng-váng rồi.
Ngày mất nước, chú tôi, lúc đó là tiểu-đoàn-trưởng một tiểu-đoàn ở một nơi biên-thùy xa xôi, biệt tăm hơi, chẳng biết sống chết ra sao. Bố tôi dẫn cả gia-đình chú rời Việt-Nam. Một người d dàn-ông, cáng-đáng chu-toàn cho cả mười sáu người, nheo-nhóc toàn đàn-bà và con nít.
Ðáng ngại nhất là con Bê, đứa con út của chú, mới hơn một tuổi, vừa chập-chững biết đi. Việc di-chuyển của Bê được Tuấn, anh hai nó, đảm-nhiệm. Trên bước đường di-tản, Tuấn oằn lưng cõng em, chẳng lần than-vãn. Con bé suốt ngày nằm phục trên lưng Tuấn. Nhìn xa, bạn rất dễ lầm tưởng Tuấn là một đứa trẻ gù lưng.
Bữa đó, Bê bị bịnh nên Tuấn đi lấy đồ ăn một mình. Nó thương em, nên thay vì lấy một trái cam, Tuấn bỏ túi phần nó và phần Bê để mang về cho em. Nó chưa kịp rời hàng lãnh thức ăn thì bị một gã túm lấy cổ, dơ tay tính đánh nó.
- Ðồ ranh con tham-lam, mất dạy. Mày ăn trộm thêm một quả như vậy thì người sau còn gĩ ? Tụi Mỹ nó nghĩ người Việt-Nam là dân chết đói...
Mọi người phải xúm lại can, gã mới chịu bỏ Tuấn ra, sau khi hăm-he thằng nhỏ thêm vài câu.
Lúc đó tôi không có mặt. Nhưng khi tôi thấy Tuấn thì mặt em vẫn tái nhợt như người chết trôi. Mắt em long-lanh, môi mím chặt, mà cổ họng thì cứ đưa lên đưa xuống, như ráng nuốt trôi nỗi oan-ức.
Ðến chiều, sau khi nghe chuyện, bố tôi quyết-định tìm gã. Mà có phải đi đâu xa! Gã ở ngay trong building của tụi tôi, thường ngày chúng tôi vẫn thấy luôn. Sau bố, trong phe "đàn-ông", tôi lớn nhất nên được mẹ sai đi theo bố. Chắc mẹ đồ rằng nếu có chuyện gì thì còn có tôi chạy đi kêu "viện- binh", vì sức lực của một thằng lõi mười một tuổi thì được là bao? Tôi đi theo bố mà tim đánh trống ngũ-liên, đầu óc mải suy-tính kêu cứu ra sao, đánh gã, cắn gã chỗ nào thì đau nhất.
Sự thật lại khác hẳn điều mà tôi lo ngại. Tôi vừa ngạc-nhiên, vừa khinh-bỉ nhìn gã co ro, khúm-núm, đứng nghe bố tôi phân-giải chuyện đã qua. Bạn nhớ cho, đây là trại tỵ-nạn, ở cảnh hỗn quân hỗn quan, đâu phải là Việt-Nam mà nói gã sợ quyền-thế của bố tôi. Ðến khi tôi nhìn vào mắt bố thì tôi hiểu ngay. Ðôi mắt ấy, đôi mắt của người cha đang tranh-đấu cho con cho cháu, dẫu cọp beo cũng phải sờn, sá gì một gã thất-phu thô-lỗ, chỉ có được cái vóc to lớn.
Buổi tối, nằm nghe thím tôi cay-đắng dỗ con, tôi không khỏi ngậm-ngùi.
- Con cứ khóc đi con. Khóc đi. Tại bố con ngu, không biết lo liệu, nên bây giờ mẹ con mình mới phải khổ. Như các anh, các chị con thì ai dám bắt nạt.
Tôi biết thím nói đúng. Các em chỉ là những kẻ ở đậu trên vỉa hè, tạm- trú dưới mái hiên nhà tôi. Chỉ một cơn gió nhỏ mà các em đã tả-tơi, thì rồi đây, không có nóc nhà, không có dù, áo, chăn bông, đời các em sẽ ra sao trong mùa đông trên đất khách lạnh-lẽo?
oOo
Cha già như thể nóc nhà
Như dù, như áo, như là chăn bông
Những lúc đẹp trời, chúng ta ai là người đã biết trèo lên thông máng xối, thay những tấm ngói rữa, cho nóc nhà khỏi mục nát? Các bạn ai là người biết treo cây dù trong sự quý-mến? Khi ấm-áp, ai là người mạng áo, cất chăn cẩn-thận cho thời-gian khỏi tàn phá, cho chuột, bọ khỏi gậm nhấm?
Nếu thầy Nhất-Hạnh đã chẳng dám giáo-huấn bạn về cách đối xử với mẹ hiền, thì tôi, một kẻ hậu-sinh đầu đen nhiều hơn bạc, lại càng không đủ tư-cách để khuyên bạn về lối xử thế với cha già.
Nhưng ngày nào đó, khi bạn chợt nhìn lại, thấy mái nhà dột nát, dù, áo tả- tơi, chăn bông rách rưới, mà bạn chẳng biết vì đâu và từ lúc nào đã ra tình-trạng này, thì phải chăng, bạn đã quá tàn-nhẫn, quá vô-tình trong cuộc sống?
Ðành rằng khi khôn lớn, ta phải dấn thân vào sương gió, chạy theo cuộc sống, theo lý-tưởng của mình. Nhưng nếu bạn cứ lao đầu vào những cơn lốc, gác bỏ ngoài tai lời khuyên-nhủ dầy kinh-nghiệm của cha già, xem thường ý-kiến xây-dựng của người, thì có khác nào, bạn là kẻ từ-chối những cuộc nghỉ chân dưới mái ấm, dày-dạn phong-trần không dù, không áo, đêm đông chối bỏ thú nằm chăn? Và phải chăng, bạn đã quá hồ-đồ, quá dại khờ không biết hưởng-thụ?
Vẫn biết là thiên-địa tuần hoàn, làm người thì ai thoát khỏi cảnh tử ly! Nhân lúc cha còn, sao ta không ráng gìn-giữ để cho tấm bình-phong đó khỏi tang-thương, luộm-thuộm?
Bạn hãy về ngồi dưới nóc nhà của mình, nhìn sâu vào cặp mắt người, cầm lấy tay người mà nhẹ-nhàng tìm hiểu lý-do của sự ụ-dột, của vệt rách, của vết loang-lỗ, của đường chỉ tung. Việc này đòi hỏi nhiều khéo- léo, nhẫn-nại, vì người vẫn không quen thổ lộ tâm-tình.
Hãy làm cái máng xối tốt, dẫn cho nước mưa trôi đi, đừng đọng lại trên mái nhà. Hãy cất dù cẩn-thận, đừng bỏ xó bơ-vơ. Hãy giặt áo, gấp chăn, chớ quên bỏ vào đó những thuốc thơm chống chuột, bọ. Rồi hãy cùng tôi ngồi xuống, tận-hưởng những giờ phút thanh-nhàn dưới mái nhà êm-ấm, mặc cho mưa gió gào thét ngoài kia bạn nhé.
13Oct95
Doãn Mạnh Tiến
(*) "Ký Ức Dòng Sông", truyện ngắn Phạm Chi Lan
Cha Và Con
Tiếng ho của Vi Hương làm anh giật mình tỉnh dậy. Những chữ số màu đỏ của chiếc đồng hồ báo thức trên cái bàn đêm cạnh giường chỉ ba giờ sáng. Nghiêng đầu nhìn qua chiếc giường nhỏ bên cạnh, anh nhìn thấy Vi Thanh –đứa con gái bốn tuổì– đang nằm ngủ say mê, miệng vẫn ngậm ngón taycái, đôi má bầu bĩnh lẫn vào đám chăn gối hỗn độn. Vi Hương nằm ở phía trong, quay lưng lại phía anh, đôi vai nhỏ run rẩy theo nhịp tiếng ho lẫn với tiếng thở khó nhọc. Anh nhẹ nhàng ngồi dậy, nghiêng mình qua đưa tay sờ trán con. Bàn tay anh chạm phải cái trán nóng hừng hực và mái tóc đẫm mồ hôi của đứa bé. Giật mình, anh hấp tấp vặn sáng ngọn đèn ngủ, rón rén đứng lên đi ra ngoài tủ thuốc gia đình tìm cái ống thủy. Anh đánh thức con dậy, dịu dàng bảo:
– Con há miệng ra cho ba lấy nhiệt độ.
Cặp chân mày nhăn tít lại vì bị chói, Vi Hương ngoan ngoãn há miệng ra ngậm đầu ống thủy. Anh vừa lau mồ hôi cho con, vừa lo lắng chờ đợi. Một tràng tiếng bíp bíp vang lên từ cái máy đo thân nhiệt nhỏ xíu. Anh lấy ra, đưa vào gần ngọn đèn ngủ quan sát. Một trăm lẻ bốn độ F. “Kiểu này phải đưa nó đi nhà thương rồi,” anh rầu rĩ nghĩ thầm.
– Cám ơn bác sĩ, tôi sẽ mang cháu đến nhà thương ngay.
Anh gác ống điện thoại, vội vã thay quần áo. Còn một cú điện thoại nữa mà anh phải gọi ngay. Có tiếng trả lời của Ðông ở đầu dây phía bên kia. Anh ngập ngừng một chút rồi nói nhỏ:
– Bé Hương bị sốt nặng lắm, tôi phải đưa nó đi nhà thương ngay. Ðông soạn sẵn cái thẻ bảo hiểm y tế, lát nữa tôi ghé lấy được không?
Có tiếng lục đục ở trong ống nghe. Hình như nàng vừa đánh đổ một vật gì đó. Nàng cất tiếng, giọng nói có vẻ hốt hoảng:
– Trời đất! Nó có bị làm kinh không vậy?
Anh chưa kịp trả lời, Ðông đã hỏi tiếp, giọng nàng bỗng cao hẳn lên, chát chúa trong đêm vắng:
– Mà sao kỳ vậy? Mới hồi chiều nó còn chơi giỡn ào ào với em nó ở đây mà! Hay là anh dắt tụi nó đi đâu…
“Cũng cái giọng kiếm chuyện đó nữa,” anh bực bội nghĩ thầm.
– Tôi sẽ ghé qua lấy giấy tờ trong vòng mười lăm phút.
Anh nói cộc lốc rồi gác điện thoại sau khi dứt câu. Bước qua phòng bên cạnh, anh nhẹ nhàng mở cửa. Duy Phiên –đứa con trai đầu lòng–nằm ngang trên giường, ngủ mê mệt. “Cái thằng nằm ngủ kỳ cục,” anh cằn nhằn trong đầu. Anh đến gần, vỗ nhẹ vào má con mấy cái cho nó tỉnh ngủ. Duy Phiên giật mình tỉnh dậy, ngơ ngác.
– Con qua phòng ba với Vi Thanh, Ba phải đưa bé Hương đi nhà thương, anh nói.
– Vi Hương bị gì vậy ba? Phiên hỏi, vẻ lo lắng.
– Nó bị sốt nặng lắm, bác sĩ bảo phải đi nhà thương ngay. Có thể đến sáng ba mới về được, con ở nhà với Vi Thanh. Nhớ cho nó ăn sáng dùm ba.
Anh vừa giải thích vừa dặn dò con trai. Duy Phiên ngồi dậy một cách khó nhọc, kéo lê cái gối ôm ưa thích đi vào phòng anh. Nó cúi mình xuống hôn Vi Hương đang nằm yên lặng, hai mắt mở thao láo. Đôi môi nhỏ khô nứt nẻ cố nhoẻn một nụ cười, Vi Hương nói:
– Anh Phiên đừng có chọc em nghen, em bị bịnh đó!
– Anh biết rồi, bịnh hoài à!
Phiên cằn nhằn em gái mình một cách trìu mến.
Lúc anh bấm chuông, Ðông đã chờ sẵn tự bao giờ. Cặp mắt của hai người thoáng chạm nhau rồi cùng lảng đi nơi khác. Anh đưa tay cầm mớ giấy tờ, miệng lí nhí hai tiếng “cám ơn” rồi quay ra xe một cách vội vã. Có tiếng chân của Ðông đuổi theo phía sau. Anh lặng lẽ mở rộng cánh cửa xe phía Vi Hương đang ngồi rồi đi vòng qua phía bên kia ngồi vào sau tay lái, chờ đợi.
Ðông chồm hẳn người vào xe, ôm lấy con. Bàn tay nàng dịu dàng áp vào vầng trán nhớp nháp mồ hôi của đứa con gái nhỏ, miệng thì thầm “tội nghiệp con tôi, tội nghiệp con tôi.” Vi Hương vòng tay ôm lưng mẹ, miệng bắt đầu mếu máo. Ðông dùng mặt trong của chiếc áo thun nàng đang mặc lau nước mắt cho con. Nếu là ngày xưa, anh đã lên tiếng cự nự hoặc chọc quê cái thói quen mất vệ sinh này rồi. Bây giờ thì …
Ðông hôn lên má con rồi lùi lại đóng cửa xe. Nàng hỏi anh với giọng nhỏ nhẹ, mắt vẫn dán vào Vi Hương:
– Có cần mang thêm áo quần gì cho nó không?
– Không cần. Nó đang bị sốt, mặc nhiều quần áo không tốt đâu.
Anh nhấn nút quay kiếng xe lên. Mùi da thịt quen thuộc của người vợ cũ bỗng trở nên đậm nồng trong chiếc xe bít bùng. Anh nhắm mắt hít vào rồi thở ra một hơi dài để trấn tĩnh nỗi xúc động dang ào đến đột ngột. Mở mắt, anh liếc nhìn Vi Hương như sợ con đọc được tư tưởng thầm lén của mình, rồi cúi xuống gài số cho xe lùi lại.
Lúc vòng xe ra khỏi khu chung cư, anh còn thấy Ðông đứng sau cửa sổ đưa mắt trông theo. Tự nãy giờ ngồi yên lặng trong xe, Vi Hương bỗng lên tiếng: “Chắc em bé ngủ hả Ba?” “Ừ, chắc vậy,” anh trả lời, giọng chìm xuống. Buổi chiều hôm qua, lúc đến đón con sau giờ tan sở, anh muốn vào thăm Tiểu Trần, đứa con út, mà lại ngần ngại không muốn hỏi Ðông, cuối cùng lại thôi không nói gì.
Áp cái đầu nóng hổi của con vào ngực mình, anh ẵm Vi Hương đi vào phòng cấp cứu. Thủ tục nhập viện tương đối mau lẹ cũng nhờ phòng cấp cứu hôm nay vắng bịnh nhân. Người y tá trực bảo anh, “Lúc nãy bác sĩ của em bé có gọi vào cho biết trước. Chúng tôi sẽ cho em bé nhập viện ngay, xin ông yên tâm.” Anh nháy mắt trấn an Vi Hương lúc con được chuyển vào trong, rồi đi qua phía bên kia làm thủ tục giấy tờ.
Khi người bảo vệ đưa anh vào, Vi Hương đang nằm trên giường bịnh khóc thút thít, bộ đồ bệnh nhân càng tăng thêm vẻ xanh xao trên khuôn mặt thanh tú. Anh nắm tay con bóp nhè nhẹ, hỏi:
– Sao con khóc vậy? Bộ bác sĩ chích con hả?
Vi Hương lắc đầu, phụng phịu,
– Hồi nãy con muốn ba mà ba đi đâu vậy?
– Ba phải đi lo giấy tờ để người ta chữa bịnh cho con chứ đâu có đi đâu.
Anh dỗ dành con, lòng vừa cảm thấy xót xa, vừa cảm thấy buồn cười. Lúc anh và Ðông còn ở với nhau, bạn bè cứ hay chọc phá anh mỗi khi con anh chạy ra kêu réo om sòm “Ba ơi, mẹ muốn ba!” hoặc “Ba muốn mẹ!”
– Mai mốt ba đừng có đi như vậy nữa nghe!
Vi Hương lại lên tiếng, giọng nghiêm trọng.
– “Yes, ma’am,” anh làm mặt xấu trả lời.
Vi Hương cười khúc khích, cao giọng trách móc:
– Con biểu ba đừng có nói tiếng Mỹ với con nữa mà!
Anh cúi xuống hôn lên trán con thay cho câu trả lời.
Lúc anh đưa Vi Hương về đến nhà, cây kim giờ của chiếc đồng hồ tay đã nhích qua số mười. “Thế là mất toi hết sáu tiếng đồng hồ,” anh nghĩ thầm. Cái thời gian mà cha con anh được quây quần bên nhau không có bao nhiêu, chỉ hai ngày cuối tuần, nên anh không muốn mất đi những giây phút quý báu được cùng bầy con đoàn tụ. Theo sự giao kết giữa anh và người vợ cũ, anh chỉ được đón con mỗi hai tuần một lần, từ chiều thứ Sáu đến chiều Chủ Nhật. Tuy nhiên, Ðông cũng dễ dãi về vấn đề này nên anh hầu như được gặp con mỗi cuối tuần ngoại trừ những lúc anh có công việc phải đi xa. Chuyện anh yêu con thì ngay cả Ðông trong lúc hận anh dữ dội cũng không chối cãi. Có lẽ vì vậy mà Ðông không nỡ chia cách cha con anh nhiều.
Lúc anh bước vào nhà, Vi Thanh đang ăn sáng. Thả cái muỗng xuống bàn, mặc cho sữa văng tung tóe, Vi Thanh chạy ra ôm chầm lấy anh cự nự:
– Ba đi chơi với bé Hương mà không cho con đi theo, con giận ba rồi đó!
Vi Thanh bốn tuổi, mặt bầu bĩnh, mắt to và đen nhánh, tính hay giận hay hờn. Anh đang tìm lời giải thích thì Vi Hương đã lên giọng đàn chị:
– Ba đưa chị đi bác sĩ mà. Chị bị chích đau lắm biết không?
Nghe Vi Hương bị chích đau, Vi Thanh quên cả giận, quay lại hỏi:
– Chích đau ở đâu?
Vi Hương đưa cánh tay khẳng khiu khoe cục bông gòn cầm máu và miếng băng keo màu vàng. Vi Thanh đưa mắt nhìn có vẻ khâm phục, rồi hỏi tiếp:
– Bé Hương đeo cái gì đẹp vậy? Cho em được không?
Vi Hương giơ cao cánh tay, hãnh diện chỉ vào cái vòng nhựa màu trắng dùng để nhận dạng bệnh nhân mà cô y tá gắn cho nó lúc mới nhập viện, trả lời:
– Không được đâu! Chỉ có bị bịnh như chị mới được đeo cái này, bé Thanh không có bị bịnh bác sĩ không cho đeo đâu.
Duy Phiên, tự nãy giờ đứng nhăn nhó chờ tới phiên mình hỏi chuyện, bực mình nạt lớn:
– Hai đứa im đi. Nói gì mà nói nhiều quá vậy?
Hai đứa nhỏ cụt hứng, nhìn ba cầu cứu. Thấy anh không nói gì, hai cô bé “lắm mồm” tiu nghỉu bỏ đi chổ khác. Duy Phiên quay lại hỏi anh:
– Bé Hương có sao không ba?
– Không sao. Nó đỡ nhiều rồi. Chút nữa con đọc hướng dẫn trên mấy chai thuốc rồi cho em nó uống thuốc đàng hoàng cho ba.
Anh xoa đầu con trai, hỏi với vẻ quan tâm:
– Ở nhà hai anh em có ngủ được không?
– Dạ được, nhưng bé Thanh lúc thức dậy không thấy ba, nó khóc um sùm đòi về với mẹ.
Anh nghe tưng tức trong lòng. Mấy đứa nhỏ ở với Ðông quen rồi, về với anh chỉ mấy hôm vẫn thường xuyên nhắc đến mẹ. Mẹ con thế này, mẹ con thế kia. Mẹ bảo làm thế này, mẹ bảo không được làm thế kia… Nỗi lo âu pha lẫn ganh tị về cái mênh mông, choáng ngợp của Ðông so với cái mong manh, mờ nhạt của anh trong lòng mấy đứa con nhỏ đã như một chất độc dai dẳng ăn ruỗng trái tim anh từng ngày.
– Lúc nãy mẹ gọi qua hỏi thăm bé Hương. Con nói ba chưa về, mẹ có vẻ lo lắm. Hay là ba gọi cho mẹ biết đi, Phiên nói tiếp.
Nghĩ đến cái giọng cáo buộc của Ðông trong cuộc điện đàm hồi khuya, anh ngần ngừ một chút rồi bảo con:
– Thôi con gọi cho mẹ con đi, ba muốn đi nghỉ một chút.
Duy Phiên hí hửng quay đi, nói vói lại:
– Con dùng điện thoại trong phòng con nghe ba?
Anh mỉm cười không trả lời. Chắc cu cậu có tâm sự gì muốn kể lể với mẹ hoặc đang thèm ăn món gì rồi đây!
Duy Phiên mười sáu tuổi, chào đời tại Việt Nam chỉ một năm sau khi anh và Ðông thành hôn. Khi anh và Ðông quyết định xa nhau, hai người đồng ý để Duy Phiên lựa chọn nơi nó muốn ở, với cha hoặc với mẹ. Duy Phiên chọn anh. Khi chỉ còn có hai cha con với nhau, sau khi anh gạn hỏi mãi, Duy Phiên mới ngập ngừng cho anh biết cái lý do muốn ở với anh: “Tại vì mẹ có mấy em còn ba không có ai hết.” Ðơn giản vậy thôi! Anh nửa đùa nửa thật hỏi lại:
– Vậy là con chỉ thương hại ba thôi, phải không?
– Không phải đâu. I love you, Dad.
Anh cảm động ôm con vào lòng, nói nhỏ: “Cám ơn con.”
– Chút nữa ba phải dẫn con đi Chuck E. Cheese’s.
Vi Thanh từ trong chạy ra vòi vĩnh. Ðúng theo dự định, chiều nay cha con anh sẽ kéo nhau ra Chuck E. Cheese’s, cái tiệm “pizza” quyến rũ của bầy con anh. Ở đó, anh sẽ ngồi nhấm nháp ly bia, chỉ một ly thôi, nhìn con chạy nhảy tung tăng, cỡi con ngựa nâu, lái chiếc xe đỏ, những món đồ chơi sặc sỡ gắn liền với tuổi thơ. Ở đó, Duy Phiên sẽ kiêu hãnh khoe với anh đống “tickets” mà nó thắng được sau khi “hạ cái computer” trong một cuộc chiến đấu khốc liệt, đẫm máu với Lý Tiểu Long hay Mohamed Ali. Ở đó, Vi Hương và Vi Thanh sẽ có dịp làm quen với Chuckee, con chuột khổng lồ có hai lỗ tai dựng đứng và cái mũi tròn đen bóng. Ở đó, anh sẽ thấy lại cái tuổi thơ xa lắc xa lơ qua cặp mắt của bầy con anh. Ở đó, niềm hạnh phúc hiếm hoi, nỗi an bình quý giá sẽ trở lại, dù trong một lúc thôi cũng làm cho lòng anh ấm áp.
Hôm nay thì không được rồi, Vi Hương chưa khỏe hẳn, không thể mang con đến đó được. Nhìn vẻ thất vọng của đám con, anh nhẹ giọng an ủi:
– Thôi để Phiên đi mướn phim hoạt họa về cho mấy con coi. Tuần tới ba sẽ dẫn mấy đứa đến đó chơi.
– Dẫn em bé đi nữa nghe Ba, Vi Hương nhắc nhở.
Nhắc nhở? Anh nào có quên đâu! Tiểu Trần. Tiểu Trần. Anh kêu nhỏ trong lòng, khóe mắt bỗng cay cay. Ðứa con út của anh còn quá nhỏ, anh đâu có thể mang theo được. Ðứa con mà ngay từ buổi đầu của hình thành đã mang mầm ly biệt, sự đổ vỡ đã thấy trước, đã không còn phương cứu vãn.
Tiểu Trần, hạt bụi nhỏ nhoi, một lần bám vào khóe mắt anh, làm mắt anh cay, tay anh run, trái tim anh tan nát. Cái hạt bụi nhỏ vẫn nằm mãi nằm hoài ở nơi mà những giọt lệ lặng lẽ đã ứa ra trong đêm khuya, một mình. Nhắc nhở! Anh nào có quên đâu. Chiếc trán cao bướng bỉnh, một bên tai có cái bớt nhỏ giống anh như đúc, cái miệng nhỏ xíu mếu máo, đôi mắt đen tròn nhìn anh lạ lẫm. Thỉnh thoảng Ðông thương tình cho anh vào thăm con, anh phải mất một lúc để làm quen lại với con, để được nhìn cái miệng nhỏ xíu tươi cười mỗi khi anh tung con lên đùa giỡn, để được nhìn cặp mắt to đen không còn ngơ ngác dò hỏi “Ông là ai?”
– Em bé có tám cái răng! Vi Thanh phát biểu.
– Sao con biết?
– Mẹ nói. Con cũng thấy nữa.
– Con cũng thấy nữa đó ba, Vi Hương không chịu kém chen vào. Bốn cái trên với lại bốn cái dưới.
– Anh ôm hai đứa con nhỏ vào lòng, nói dịu dàng:
– Khi nào em bé có được mười hai cái răng, ba sẽ dẫn đi chơi với mấy con.
– Thiệt hả ba?
– Thiệt mà. Anh trả lời, nhẹ như tiếng thở dài.
Vào buổi tối, Vi Hương đã khá hơn nhiều. Với nhiệt độ trong người đã gần như bình thường, Vi Hương có vẻ tươi tỉnh, cùng với Vi Thanh theo dõi cuốn phim hoạt họa “Cây Ðèn Thần Của Aladdin” một cách thích thú. Dứt cuốn phim, anh đưa con đi ngủ. Khi những hơi thở ngắn và nhẹ của hai đứa con nhỏ đều đặn vang lên, anh rón rén đứng dậy đi ra phòng khách, ngồi vào chiếc bàn giấy nhỏ. Anh còn có công việc quan trọng cần phải quyết định.
Anh lục lọi trong đống thư từ chưa giải quyết lấy ra một phong bì lớn màu vàng anh nhận được hôm qua. Phong thư gởi từ một tiểu bang xa xôi ở miền Ðông và một công ty điện toán tăm tiếng. Phong thư anh chờ đợi đã lâu, chứa tấm giấy mời anh đi nhận nhiệm sở mới và những tài liệu liên quan đến trách nhiệm và quyền lợi của công việc anh sắp được giao phó. Công việc thích hợp với khả năng, thù lao khá cao, quyền lợi đầy đủ, có thể coi như là một thăng tiến đáng kể so với công việc anh đang làm hiện nay. Sau bao nhiêu ngày tháng kiên nhẫn tung đơn đi tìm việc khắp nơi, và sau nhiều lần buồn bực ném những lá thư “cám ơn” với lời lẽ lịch sự vào thùng rác, cuối cùng nỗ lực của anh đã mang đến kết quả. Anh mở phong bì lấy lá thư ra đọc lại. Trong tay anh là tấm vé tốc hành mầu nhiệm có khả năng mang anh đến một nơi trú ẩn an toàn, để anh — con thú bị thương — có cơ hội và thời gian liếm láp những vết thương còn loang máu.
Ý định bỏ đi xa đã nhen nhúm trong anh từ lâu. Ðã quá nhiều thị phi, quá nhiều thêu dệt, quá nhiều tổn thất kể từ khi anh và Ðông chia tay. Anh buồn rầu nhìn những tình bạn tưởng đã keo sơn nối tiếp nhau tan vỡ như bong bóng xà phòng chỉ sau một lần thử thách. Anh đau đớn nhìn mảnh đời mình nhăn nhúm, co rút lại như tấm da lừa trong một điển tích Hy Lạp mà chi tiết anh chỉ còn nhớ lờ mờ. Anh cong mình lại như con nhím tội nghiệp trong tư thế tự vệ, giương những cái lông cứng cùn quằn ra chống đỡ búa rìu dư luận. Anh chỉ muốn rời xa cái thành phố bội bạc mà có lần anh đã tưởng sẽ gắn bó với nó cho hết cái phần đời còn lại của kiếp tha hương, nơi có lần anh đã có một mái ấm gia đình, những bữa cơm đông vui, và bầy con thân yêu lúc nào cũng quây quần bên cạnh. Cũng chính ở thành phố này, sau nhiều năm cố gắng làm việc không ngừng nghỉ, anh đã tưởng ước mơ một ngày nào đó anh có thể mang lại cho những người thân yêu một tương lai tươi sáng sắp trở thành hiện thực, vậy mà cây yêu thương bỗng tàn lụi và trái hạnh phúc bỗng rụng rời, oan uổng.
Bây giờ thì ước muốn bỏ đi xa đã có thể thực hiện. Anh nghĩ đến thành phố xa lạ anh sẽ đến ở một tiểu bang rét mướt. Không biết nơi đó có lạnh lắm không? Ở vùng Cali ấm áp này đã lâu, anh không có nhiều cảm tình với xứ lạnh, nơi mà mỗi khi ra đường lại “lù lù một đống tôi” như một nhà văn đã diễn tả. Cũng chả quan trọng gì, anh nghĩ, càng xa chốn này càng tốt. Rồi anh nghĩ đến cư dân ở nơi anh sắp đến. Không nhiều thì ít, thế nào cũng có người Việt sinh sống ở đó. Rồi anh sẽ có những người bạn mới, những quan hệ mới, dè dặt hơn, chín chắn hơn. Rồi thời gian và khung cảnh mới sẽ chữa lành những vết thương đã có lần rướm máu. Rồi anh sẽ cởi bỏ bộ da nhím xơ xác, bước ra khỏi cái hang ổ chật hẹp. Ðể tìm lại mùi hoa hồng buổi sớm và dạ lan buổi đêm. Ðể — biết đâu — trái tim anh lại một lần mở ra đón nhận một cuộc tình mới, để phần đời còn lại của anh bớt trống trải, cô đơn.
Anh đứng dậy mở cửa sổ. Hơi đêm lùa vào lạnh ngắt. Cũng phải chịu thôi, anh nghĩ thầm. Anh đang thèm một điếu thuốc lá, nhưng lại không muốn khói thuốc làm ảnh hưởng đến mấy đứa nhỏ. Anh nhớ Duy Phiên hay cằn nhằn anh việc hút thuốc. “Ba cứ hút thuốc hoài!” Anh lúng túng chống chế qua loa, rồi cũng chứng nào tật nấy. Không biết ở thành phố đó có người ta có chống thuốc lá gắt gao lắm không? Anh tự hỏi. Sự liên tưởng lại đưa anh quay trở về với dòng suy nghĩ lúc trước. Phải rồi, ở nơi chốn mới mẻ ấy, anh sẽ có một người yêu, một mái ấm để chui ra chui vào. Rồi thỉnh thoảng anh và Duy Phiên sẽ gọi về thăm Vi Hương, Vi Thanh, và Tiểu Trần. Rồi thỉnh thoảng anh sẽ về thăm con.
Thỉnh thoảng? Một tháng, hai tháng? Một năm, hai năm? Thời khóa biểu bận rộn, công việc gò bó, những chuyến bay vội vã. Rồi những đứa con anh sẽ có lúc đau yếu, bệnh hoạn. Rồi Ðông với ba đứa con thơ dại lúng túng xoay xở. Rồi Vi Hương xanh xao trong bộ đồ nhà thương, khóc thút thít, “Con muốn ba mà bây giờ ba ở đâu?” Rồi Duy Phiên sẽ không có dịp cúi xuống hôn em cằn nhằn “Bịnh gì mà bịnh hoài à!” Rồi biết bao giờ anh mới lại có dịp nhấm nháp ly bia, chỉ một ly thôi, nhìn con đùa giỡn với con chuột khổng lồ có cái mũi tròn đen bóng. Rồi Tiểu Trần với cặp mắt đen tròn nhìn anh lạ lẫm. Rồi Vi Thanh nhìn anh lạ lẫm. Rồi Vi Hương nhìn anh lạ lẫm…
Anh ngồi một mình trong đêm sâu, đốt thuốc lá mù mịt, lòng dạ rối beng. Trái tim anh đau thắt như con cá mắc lưới tội nghiệp, hết phương vùng vẫy. Hơi lạnh của đêm tiếp tục lùa vào qua khung cửa mở. Anh cảm thấy lạnh, hắt hơi. Một giọt nước mắt ứa ra trên khóe mắt, rồi giọt thứ hai từ khóe mắt bên kia. Những giọt nước mắt tiếp tục lăn xuống một cách tự do. Bởi vì đêm thì sâu và anh thì một mình.
Anh cầm chiếc hộp quẹt, bật lửa. Bàn tay anh mò mẫm tìm kiếm trong gói thuốc lá bẹp dí. Gói thuốc trống trơn. Anh nhìn ngọn lửa trắng xanh leo lắt. Anh nhìn cái phong bì màu vàng có tấm vé tốc hành mầu nhiệm mà anh chờ đợi đã lâu. Rồi anh lại nhìn ngọn lửa. Rồi anh lại nhìn phong thư. Rồi anh run rẩy cầm phong thư đưa vào ngọn lửa. Một góc phong bì bắt lửa cháy lên, tỏa ra mùi nồng nồng của gỗ. Chiếc phong bì tiếp tục cháy. Và cũng cháy lên cái thành phố xa xăm ở miền Ðông, cháy lên cái hang ổ bình yên của con thú đào vong, cháy lên những hoa hồng buổi sớm, những dạ lan buổi đêm, cháy lên cuộc tình chưa thành hình, người tình chưa có chân dung, cháy lên cái ước mơ của phần đời còn lại.
Anh đứng dậy, nhẹ nhàng mở cửa căn phòng ngủ của con trai. Duy Phiên nằm dưới thảm, hai chân gác trên giường, cái remote của TV để trên ngực. Anh cằn nhằn nho nhỏ: “Cái thằng ngủ kỳ cục.” Anh quay về phòng mình, nhẹ nhàng leo lên giường để khỏi đánh thức hai đứa con nhỏ. Anh nghe những tiếng thở ngắn nhẹ, bình yên của Vi Hương và Vi Thanh. “Ngày mai lại phải trả chúng về rồi,” anh nghĩ thầm. Anh nghiêng người qua chiếc giường nhỏ, hôn lên vầng trán mát dịu của Vi Hương, lên đôi má bầu bĩnh của Vi Thanh, rồi nằm xuống. Có tiếng Vi Thanh cười rúc rích. Có lẽ vì râu của anh làm nó nhột. Cũng có thể vì nó đang nằm mơ, giấc mơ có con Chuck E. với hai lỗ tai dựng đứng và cái mũi tròn. Anh ngủ thiếp đi lúc nào không hay.
Ðêm rất sâu. Rất dịu dàng. Rất bình yên.
Phùng Nguyễn
Mùa Ðông 94