vhnt, số 39
30 August 1995
Trong số này:
+ thư bạn đọc
+ post 1 - thơ Vũ Hoàng Chương
+ post 2 - thơ cũ, Cường Hoàng
+ post 3 - phiếm luận, truyện cổ tích Văn Cao, QV
Thân chào,
Khánh hoàn toàn đồng ý với việc NÊN bỏ dấu vì những lý do sau đây:
1. Chữ Việt mà không bỏ dấu thì không giống chữ Việt nữa.
2. Chúng ta cần tránh gây sự nhầm lẫn về ý nghĩa của chữ không có dấu. Nhiều sự nhầm lẫn rất là tai hại như chúng ta đã biết.
3. Văn Học Nghệ Thuật là diễn đàn của văn chương tiếng Việt, là nơi để chúng ta trau dồi học hỏi thêm về tiếng Việt khi có thời giờ. Cơ hội này không có nhiều lắm trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta nơi xứ lạ quê người. Không những chúng ta nên bỏ dấu khi viết, khi đánh máy, mà còn nên bỏ dấu cho đúng nữa.
4. Tập bỏ dấu, đánh vần như vậy giúp chúng ta không quên ngữ vựng, ngữ pháp tiếng Việt, tiếng mẹ đẻ của chúng ta đó mà.
5. Tuy cách bỏ dấu như thế này đòi hỏi thời gian nhiều hơn lúc đọc, lúc viết, nhưng chỉ là lúc đầu thôi. Từ từ chúng ta cũng sẽ quen và không thấy rắc rối gì hết. Con người chúng ta dễ thích ứng lắm mà, phải không?
Vấn đề là cách bỏ dấu như thế nào cho hợp nhất và đơn giản. Theo K. nghĩ thì cách thức do các anh chị admin của vnet đề ra, cũng là cách mà K. đang dùng đây, là dễ xài nhất. Vì lẽ bao nhiêu năm nay đa số chúng ta đã và đang dùng cách này để trao đổi tiếng Việt với nhau trên net, và cũng là cách bỏ dấu khi xài VNKEY và VPSWIN keyboards. Dùng cách thức này khi đánh máy cũng là cách thực tập cho quen để khi xài VNKEY hoặc VPSWIN, chúng ta không bỡ ngỡ đó mà. Chúng ta nếu có thể thì giữ những dấu tiêu chuẩn "'`?~.^+(" cho tiện, còn không thì nếu ai thích thay đổi một chút, có thể xài " * < ". Nhưng đừng nên "phăng" quá, người đọc sẽ bị nhức đầu đó :-)
Thân mến,
Kim Khánh
Chào các anh chị,
Dép này xin mạo muội góp ý như sau:
1. Nếu mình viết văn thơ mà không bỏ dấu thì làm sao những người trẻ tuổi muốn học hỏi tiếng Việt hiểu được khi vốn liếng tiếng Việt của họ còn ít ao?
2. Làm sao tránh khỏi ngộ nhậm? Tỉ như "vỡ đê" hay "vợ đẻ" :).
3. Nếu cần in lại những bài thơ văn không có dấu, thì người đánh máy lại những bài này bắt buộc phải thông thạo tiếng Việt. Ðiều kiện này quá khắt khe.
Thông thường người viết văn thơ muốn đọc giả hiểu được những ý nghĩ mình viết xuống. Muốn được như vậy thì cho dù có tốn thêm 1 tí thì giờ để bỏ dấu thiết nghĩ cũng không phải là quá đáng.
Ðiều quan trọng, đối với Dép, là chọn cách bỏ dấu cho dễ đọc, và tất cả mọi người phải dùng chung một cách bỏ dấu. Như Dép quen cách bỏ dấu này, nên đọc những tài liệu, bài viết cùng một cách bỏ dấu như đi chợ vậy (dể ẹt khi mình đã quen mắt :). Khi Dép đọc bài viết bỏ dấu bằng một lối khác thì cảm thấy thật khó đọc và mệt mắt.
Dép để ý có rất nhiều lối bỏ dấu. Xin được trích ra đây vài lối chính để so sánh:
1. Ðường đi không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông.
2. Ðường đi không khó vì nga<n sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông.
3. Duong di khong kho vi ngan song cach nui, ma kho vi long nguoi ngai nui e song.
4. Ðường đi không kho/ vì ngăn sông ca/ch nu/i, mà kho/ vì lòng người ngại nu/i e sông.
5. Ðường đi không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông.
Cách (1) và (2) kể như rất giống nhau, chỉ khác ở dấu mũ cho chữ ă hoặc a<. Hai cách này rất thông dụng vì được dùng nhiều qua emails. Dép nghĩ cách (1) đúng hơn, vì chữ"ă" có dấu mũ tròn chứ không phải nhọn.
Cách (3) có thể bị hiểu lầm. Người chưa từng nghe qua câu nói này có thể hiểu lầm chữ "khó" thành "khổ". Và cách này không thể dùng được trong lãng vực software programming, vì computer software không hiểu tiếng Việt để có thể tự động hoán chuyển ra đúng chữ, đúng nghĩa.
Cách (4) làm câu văn như bị đứt đoạn vì dùng quá nhiều dấu gạch chéo. Theo Dép nghĩ cách nầy không hợp với thơ văn, vì vậy chúng ta nên tránh không nên dùng.
Cách thứ (5) kể như tương tự với cách (1) và (2). Ðiều khổ ở đây là dấu hoa thị "*" làm những chữ đi với nó nổi bật lên không cần thiết.
Những ý kiến của Dép có thể thiên vị (Dép đề cao cách 1), nhưng Dép hy vọng chúng ta có thể đồng ý với một lối bỏ dấu. Vì những software programs chỉ có thể được tự động hóa để hoán chuyển bài viết bỏ dấu ra thành bản in chỉ khi nào chúng ta có được 1 lối bỏ dấu chung.
Chúc các anh chị một ngày thật nhẹ nhàng như tiếng đàn dương cầm nhé.
Dép
Hình như là một ngày trong tháng 8 vừa qua đã là ngày giỗ thứ 19 của cố thi sĩ Vũ Hoàng Chương. Xin gửi đến các bạn bài thơ Phương Xa của Ông, cái gọi là cảm thơ thì nhớ người.
Phương Xa
Nhổ neo rồi thuyền ơi xin mặc sóng
Xô về Ðông hay giạt tới phương Ðoài.
Xa mặt đất giữa vô cùng cao rộng,
Lòng cô đơn cay đắng họa dần vơị
Lũ chúng ta lạc loài dăm bảy đứa,
Bị quê hương ruồng bỏ, giống nòi khinh.
Bể vô tận sá gì phương hướng nữa,
Thuyền ơi thuyền theo gió hãy lênh đênh.
Lũ chúng ta đầu thai lầm thế kỷ,
Một đôi người u uất nỗi chơ vơ.
Ðời kiêu bạc không dung hồn giản dị,
Thuyền ơi thuyền xin ghé bến hoang sơ.
Men đã ngấm, bọn ta chờ nắng tắt,
Treo buồm cao, cùng cao tiếng hồ khoan.
Gió đã nổi nhịp trăng chiều hiu hắt,
Thuyền ơi thuyền theo gió hãy cho ngoan.
Vũ Hoàng Chương
Châu Nguyễn sưu tầm
Thơ Cũ
Ðã lâu lắm tôi không làm thơ nữa
Những bài thơ không niêm, luật năm xưa
Gom góp tình yêu, mây gió, nắng mưa
Và mộng ước, trải vừa trên trang giấy
Bài thơ cuối trao em ngày hôm ấy
Muốn viết nhiều nhưng chỉ bấy nhiêu câu
Buổi chia xa lòng dạ cứ héo sầu
Nguồn cảm hứng bỏ đi đâu, chẳng biết?!
Em còn giữ bài thơ đầu tha thiết?
Ðời nổi trôi có giết chết hồn thơ?
Tôi nhớ hoài thuở đắm đuối ươm mơ
Em thường bảo chẳng bao giờ để mất
Em có nhớ những bài thơ ngốc nghếch?
Ðọc nhau nghe, ngỡ mật ngọt mê say
Có nụ hôn thơm hương tóc ngất ngây
Có ánh mắt chứa đầy niềm ưu ái
Nhớ không em, những bài thơ khờ dại?
Gói dỗi hờn, êm ái lẫn xót xa
Có nhớ nhung man mác đẫm lệ nhòa
Và bức rức vỡ òa trong tâm khảm
Trang thơ cũ, nay ố màu ảm đạm
Ðã lâu rồi nào dám mở ra xem
Chẳng phải vì tình đã chết đâu em
Mà sợ lắm những đêm thao thức trắng!
CMH
8/1995
TRUYỆN CỔ TÍCH VĂN CAO
Trên tuần báo Văn Nghệ số 14 tháng 7 năm 1958, tức là cách tối hôm nay đúng 37 năm, nhà thơ Xuân Diệu đã dựa hơi cái thế đương nhiên thắng về mặt bạo lực của Ðảng sau vụ đàn áp nhóm Nhân Văn Giai Phẩm, để viết một bài bình luận nhạc sĩ Văn Cao, với tựa đề: "Những tư tưởng nghệ thuật của Văn Cao". Xuân Diệu không đả động gì đến con người nghệ thuật Văn Cao, mà chỉ viết là: "Văn Cao là con người phản phúc hai mặt giả dối như con mèo, là một tên phù thủy toan dùng âm binh để chọi nhau với Ðảng".
Ba mươi bảy năm xưa, Xuân Diệu ví Văn Cao với hai hình tượng: thứ nhất là giống con mèo; thứ hai là giống nhà phù thủy. Không hiểu lúc ví như vậy, Xuân Diệu có thực tình nghĩ như thế không, chứ tối hôm nay, 37 năm sau, vào ngày cúng tuần của Văn Cao, lời ví von ấy xem ra lại ứng nghiệm.
Nói đến con mèo, người Việt Nam không ai có ý nghĩ xấu, mà ngược lại là khác, thậm chí còn đem vào thơ văn, như "con mèo ngái ngủ trên tay anh" của thi sĩ Nguyên Sa. Trường hợp Văn Cao, điều đó còn khẳng định hơn nữa, vì Văn Cao cũng đã từng đưa mèo vào thơ ông. Hồi tham gia Nhóm Nhân Văn, trên giai phẩm mùa xuân tháng 10 năm 1956, Văn Cao viết bài thơ "Anh có nghe không" rất quyết liệt, với những câu như:
Bao giờ nghe được bản tình ca
Bao giờ bình yên xem một tranh tĩnh vật
Bao giờ
Bao giờ chúng nó đi tất cả
Những con người không phải của chúng ta
Vẫn ngày ngày ngang nhiên sống
Trong những câu thơ quyết liệt đã làm cho cuộc đời ông thêm khốn nạn vì Ðảng, Văn Cao viết tiếp, và lại nói về mèo:
Những con mèo ngủ yên trên ghế
Trong một cuộc dọn nhà.
Những con mèo ngủ yên vì đó là bản chất của mèo, chúng nó không biết nước sắp mất, nhà sắp tan, chúng nó ngủ yên, và chúng nó ở đây nào ai khác hơn là những thi nô Xuân Diệu, Tố Hữu, Chế Lan Viên. Thành ra cái câu gán tội của Xuân Diệu khi ví Văn Cao như một con mèo, chính là vì Xuân Diệu là một thi sĩ có tài, hiểu rõ thâm ý của Văn Cao khi viết hai câu thơ trên là để ví sự đồng lõa im lặng, hoặc cuộc bình chân giữa tội ác, chính là thú tính của loài mèo. Những con mèo ngủ yên trên một chiếc ghế sắp bị dời đi nơi khác, có nghĩa là con mèo sẽ không còn nơi cư trú, con mèo chết ngay trên nhung lụa ảo tưởng của mình. Như ta thấy Ðảng rồi đã chết, như ta thấy thi tài Xuân Diệu đã chết, chỉ riêng ông, Văn Cao, ông đã không ngủ yên, ông tỉnh thức trước cuộc dọn nhà. Và ông sống. Sống với nghệ thuật điều binh khiển tướng như một người phù thủy trước mọi khía cạnh của trận đồ sáng tạo.
Nhưng có lẽ phải nên bắt đầu cuộc đời Văn Cao bằng đời sống của nhân vật cổ tích. Truyện cổ tích Văn Cao. Văn Cao trở thành truyện cổ tích không phải chỉ khi thân xác đã trở về với cát bụi, mà chính là, cuộc đời ông, tự nó, đã là một truyện cổ tích, hoặc giả ông luôn là nhân vật mà tâm hồn hằng sống trong không khí thần thánh huyễn hoặc của cổ tích dẫu đang đôi co giữa những xáo trộn ngày thường.
Hãy bắt đầu đời sống ông bằng hành tung của hai chàng Lưu và Nguyễn, hay của quan tri huyện Từ Thức. Từ Thức đi và đến, rồi lại trở về, để rồi lại đi vào mãi mãi. Nghĩa là ba hành trạng sống trong một hành trình của con người trước khi về miên viễn. Văn Cao đã bắt đầu cuộc đi của ông, cuộc đi của gã nghệ sĩ chấn động tâm thức khi dừng chân ở Suối Mơ. Suối Mơ là khởi nguồn của hướng đi vào đời của Văn Cao, nhưng là một khởi nguồn từ tâm khảm chứ không từ thực tế. Trong thực tế, tuổi thơ ấu của Văn Cao bắt đầu với âm thanh hỗn mang từ chiếc máy bơm nước bên dòng Sông Cấm. Nhưng từ thực tế hàn vi ấy, khi qua trung gian là tâm thức Văn Cao, đã biến thành tiếng đàn của suối mơ, hệt như cuộc tang thương đã được thanh lọc để trở nên hình hài nguyên vẹn, chắt bỏ những cặn bã của cuộc đời để lọc lấy tinh tuyền, và gạt ra bên những tiếng buồn hẩm hiu để giữ lại làn hương yêu dấu.
Tiếng reo của Suối Mơ như thế đã xui thành định mệnh Văn Cao, trở thành một huyễn tượng réo rắc vừa xa xôi vừa mơ hồ, và dắt lên đường tìm kiếm. Văn Cao lên đường, lên đường từ lời gọi kêu xa vẳng riêng mình ông nghe thấy, cũng như cuộc lên đường tìm kiếm chân lý của đức Phật, và trước khi đạt đến chân thiện, cũng phải trải qua không biết mấy đoạn trường. Bước đường của Văn Cao cũng thế dù cuộc tìm kiếm của ông không hẳn để đem điều lành đến thế tục mà trước hết là để tự thỏa mãn tiếng gọi kêu réo rắt mơ hồ và xa thẳm, như ông muốn rũ sạch bụi trần, như ông muốn nâng hồn lên từ cuộc sống tục lụy, và ra đi, ra đi hiểu theo nghĩa của một tâm thức lưu đày từ thực tế luôn là khắt khe đối với người nghệ sĩ.
Ở vào thời điểm của Văn Cao, tức là vào khoảng đầu thập niên 40, sự lên đường của Văn Cao là cuộc hòa đồng vào không khí lãng mạn của thế hệ ông, với cuộc tranh luận giữa thơ cũ và thơ mới vừa chấm dứt, với sự hình thành đã rõ nét của bầu khí mang mang hiện đại trong tiểu thuyết vừa đơm nở, và, nhất là, cùng trong khí hậu hoang liêu truyền kiếp từ thơ Ðường, lưu luyến lại cho tới thế hệ ông. Có thể nói trong giai đoạn này, tác phẩm của Văn Cao là sự hòa trộn tài tình giữa khí hậu lãng mạn thời đại và cái khí mịt mờ vắng lặng của Ðường Thi. Trong bài Buồn Tàn Thu mà Phạm Duy là người đầu tiên đã đem phổ khắp nước, cái không khí Ðường thi trỗi bật lên, với những câu:
Em ngồi đan áo
Lòng buồn vương vấn
Em thương nhớ chàng
hệt như Văn Cao đã phổ nhạc bài thơ Ðường "Ký Phu", tức gởi cho chồng, của Trần Ngọc Lan viết hơn nghìn năm trước, với những câu: "Nhất hàng thư tín, thiên hàng lệ; Hàn đáo quân biên, y đáo vô" diễn tả tâm trạng của người thiếu phụ viết thứ kèm vào chiếc áo đang gởi cho chồng, với lời lẽ thống thiết: Một dòng thư là nghìn dòng lệ chảy, nơi biên tái rét giá đã về nhưng không biết áo có đến nơi để sưởi ấm chồng không.
Tình cảnh vắng vẻ và trữ tình của người thiếu phụ Ðường Thi, có khác gì đã ẩn náu nơi nét nhạc của Buồn Tàn Thu, với lời mở đầu: "Ai lướt đi ngoài sương gió; Không dừng chân đến em bẽ bàng; Ôi vừa thoáng nghe; Em mơ ngày bước chân chàng; từ từ xa tìm đến". Nhạc và lời của Buồn Tàn Thu cũng khơi dậy nguồn mạch vọng phu vẫn âm ỷ chảy trong văn chương Việt Nam, đầu tiên với mùa Thu trong bài Thu hứng Thứ Nhất của Ðỗ Phủ với câu "tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ", tức là lời tiên tri của Ðỗ Phủ khi nhìn hoa cúc nở hai lần, nở hai lần là để khóc cho cuộc đời về sau. Tiếng khóc ấy văn chương Việt Nam đã gặp lại trong Chinh Phu Ngâm, khi Ðặng Trần Côn cũng nhắc đến hoa cúc mùa Thu: "Xót người nương chốn Hoàng hoa dậm dài". Hoa Cúc mà nở vào mùa Thu của Ðỗ Phủ và Ðặng Trần Côn thì vẫn còn tươi thắm lắm, ấy thế mà các cụ đã rên lên thê thiết; cho nên đến Văn Cao, khi hoa cúc của ông không còn tươi thắm nữa thì tiếng buồn còn cùng khắp lên mãi, là vì khi đến ông, thì "Ðêm mùa Thu chết, nghe mùa đang rớt, rơi theo lá vàng". Ðến ông, mùa Thu xưa trở thành mùa thu chết, và hoa cúc xưa nay đổ lá vàng.
Như thế, trên bước đường long đong đi tìm tiếng gọi kêu xa thẳm, Văn Cao đã thể hiện gian truân trên hành trình lưu lạc của ông qua Buồn Tàn Thu. Gian truân ấy đến từ cuộc đời có thực, thực như Ðức Phật chứng nhận Sinh-Lão-Bệnh-Tử ở 4 cửa thành trước khi nhập cội bồ đề, Văn Cao, cuối cùng, cuối cùng trên khúc đường tìm kiếm chứ chưa phải cuối cuộc đời, đã thấy, đã thấy tiếng gọi kêu xa thẳm mà ông hằng mộng, ông lạc bước vào chốn Thiên Thai với tiếng hát của bầy tiên nữ và một không gian rất sáng.
Văn Cao đã viết lại truyện cổ tích Lưu Nguyễn với một bầu khí bát ngát sáng rộng chỉ ngợp có lời ca của cõi tiên. Tiếng ca đã dắt Lưu Nguyễn, và Văn Cao, vào chốn Ðào Nguyên, vào cảnh trí, vào ân ái thiên tiên, và rồi dường như cũng bởi tiếng ca, đã khiến hai chàng Lưu Nguyễn, và Văn Cao, động lòng trần nên chi lạc lối. Trong truyện cổ tích, chúng ta cám cảnh Lưu Nguyễn trở về, bùi ngùi nhìn cây đa mình trồng đầu ngõ giờ đã thành cổ thụ, dân làng chẳng một người quen mặt, và chàng trở thành người cô đơn nơi quê cũ. Trong Thiên Thai, Văn Cao đã không diễn tả tâm trạng bùi ngùi khi về lại quê hương, mà chỉ có nỗi nhớ tiếc khôn nguôi của hai cụ già Lưu Nguyễn đã ba trăm tuổi khi lui cui tìm đường trở lại nào đâu thấy Ðào Nguyên trừ tiếng hát từ một cõi nào mơ hồ vọng đến.
Tiếng hát đã dắt Văn Cao về trần, và tiếng hát của Thiên Thai cũng chính là mầm ủ đã dắt nốt đường đi của định mệnh Văn Cao. Viết bài Thiên Thai khoảng năm 1944, cái không khí dào dạt và hoang vắng trong khúc nhạc ấy dường như không đẩy đi được những biến động lịch sử đang trùm lên đất nước. Và vì thế, dường như ông bày tỏ nỗi luyến tiếc cái không khí trữ tình của thời qua bằng nhạc cảnh trở lại thiên tiên thay vì diễn tả nổi bùi ngùi của hai chàng Lưu Nguyễn khi trở lại cuộc đời. Nhưng cho dẫu đó là cách thế để đem tâm mình thoát ra đời sống dẫu chỉ trong phút chốc, số phần đã không dành cho Văn Cao những dễ dàng suôi lọt, trước hết vì sự chọn lựa cuộc đời thay vì tiên cảnh của riêng ông. Năm 1945, với nạn đói Ất Dậu, Văn Cao khó mà sống yên trong vọng tưởng thiên thai của mình. Ông cay xót mô tả cái chết của hàng triệu người qua bài thơ "Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc", và ông, như nhiều bầu máu yêu nước trước thảm trạng ngoại xâm thời ấy, đã đứng lên, dâng hiến tài năng cho kháng chiến. Có thể đến đây, đoạn đời thứ hai của bước đường Văn Cao không khác mấy truyện cổ tích Lưu Nguyễn, ở chặng hai chàng trở về. Nhưng Văn Cao thiếu may mắn hơn, ông từ giã thời lãng mạn, trở về với đời thực của đất nước và bị cuốn hút vào đời sống ấy, tham gia Hội Văn Hóa Việt Nam, tiếp tục sáng tác thêm trong thời gian này hai bài Không Quân Việt Nam và Hải Quân Việt Nam. Ông soạn bài Tiến Quân Ca cho Việt Minh. Một tác phẩm duy nhất của Văn Cao bị quần chúng giễu cợt đổi lời sau khi nó trở thành bài Quốc Ca. Và chỉ riêng sự kiện ấy cũng cho thấy Văn Cao không thể trở thành Văn Cao hôm nay nếu ông chọn con đường rùng rợn với "cờ in máu chiến thắng" và "đường vinh quang xây xác quân thù".
Nhưng cái khúc đời trở lại trần gian ấy đã không lâu được bao nhiêu. Ông lấy con một chủ nhà in và bị Ðảng bỏ rơi vì con chủ nhà in là con gái tư sản dưới mắt Ðảng. Cuộc đời ông khốn đốn từ đấy.
Nói một cách khác, Văn Cao đã không thư thả như hai chàng Lưu Nguyễn khi trở về trần. Lưu và Nguyễn khi trở về, không tìm thấy ai trừ cây đa đầu ngõ, Lưu Nguyễn trở về không tìm thấy ai trừ mả gia tiên, và thế là hai chàng, nay đã trở thành hai cụ, ngậm ngùi bỏ đi một cách hết sức là thong thả thư thái. Còn Văn Cao, ông từ giã thời lãng mạn, trở về trần ai, nhưng khi về tới trần là Văn Cao ... kẹt luôn. Chữ "kẹt" ở đây hiểu theo nghĩa rất cụ thể, cũng gần như tình trạng của những người miền Nam năm 1975 đã leo lên tàu Thương Tín qua tới đảo Guam, rồi lại động lòng trần nên trở về, trở về và kẹt luôn.
Tất nhiên cuộc trở về của Văn Cao mang một ý nghĩa khác. Ông về theo tiếng gọi của hồn thiêng sông núi, ông lao mình vào kháng chiến. Và mãi cho đến khi được kết nạp vào Ðảng, ông mới tỉnh giấc nhớ cõi thiên thai từng dìu dắt ông một thời. Ông đã lăn xả vào đời để đòi lại thiên thai bằng những lời thơ hừng nóng trong thời Nhân Văn Giai Phẩm. Vào ngày 12 tháng 7 năm 1956, kỳ lạ và ngẫu nhiên thay, cũng lại vào tháng 7 của 39 năm về trước, Văn Cao viết một tiểu luận ngắn, nghĩ về thơ như sau: "Ðối với cuộc đời, nhà thơ không chịu đựng một sự may rủi mà phải chủ động thành lập lên sự thẩm mỹ mới cho người đọc, chủ động xây dựng con người biết tư tưởng cảm xúc và cảm giác tinh tế như mình trong xã hội đương thời và cả xã hội sau này... Cuộc đời và nghệ thuật của nhà thơ phải là những dòng sông lớn càng trôi càng thay đổi, càng trôi càng mở rộng. Mỗi chữ, mỗi câu, mỗi bài thơ mở ra cái quảng ngược, quảng xuôi, những cái không nói tới mà người đọc càng tìm thấy mãi".
Ông kết thúc bài tiểu luận "Nghĩ về thơ" với lời tuyên chiến với chế độ như sau: "Hôm nay, con đường lớn nhất của chúng ta là mở cho tất cả những giấc mộng những khát khao thuộc về sự sáng tạo của con người tự do phát triển bay đi se mật về ổ. Mở cho những giấc mơ những khát vọng tự do phát triển bao nhiêu là tập trung tất cả giấc mơ và khát vọng của con người làm thành mũi nhọn kéo lê đi phía sau cái thực tế chậm chạp".
Cái thực tế chậm chạp mà Văn Cao nói trước đây đúng 39 năm là những cái gì vẫn còn tồn đọng mãi đến bây giờ, như sự hiện tồn của những trì trệ tăm tối nhất đang dẫn dắt đất nước qua nửa thế kỷ. Văn Cao cũng đòi những khát vọng và giấc mơ phải được mở ra nơi cõi tối, như thể một đòi hỏi công bằng xẻ chia giấc mộng thiên thai với ngàn tiếng ca tiên cho cõi trần cô quạnh. Phải chăng ông muốn, sau khi từ thiên thai trở về, Lưu Nguyễn nên mang theo một chút trời cõi tiên gieo rắc hồng trần, một âm ba của tiếng ca nơi tiên cảnh vào chốn cô tịch để chia đều đời sống. Phải chăng nỗi niềm ấy đã xui ông tình nguyện mang mặt nạ đời rất xấu, xấu như chàng Trương Chi, nhưng tấm lòng thủy tinh của chàng vẫn cưu mang tiếng hát để dâng hiến giai nhân mãi mãi cho dẫu có trầm mình nơi sông lạnh.
Và như thế, chàng Trương Chi Văn Cao đang đi tiếp cuộc hành trình chọn lựa từ tâm thức của con người yêu cuộc sống hé lên từ tài ba sáng tạo, hành trình ấy đã mang theo cái bầu khí hoang sơ và quyến rũ của truyện cổ tích. Ông đã thức tỉnh từ tiếng buồn của máy bơm nước để lọc thành tiếng Suối Mơ, và tiếng suối mơ ấy là mầm để kết thành mộng ảo vào cõi Thiên Thai, rồi dục lòng trần nguyện làm Trương Chi để mang tiếng ca hòa vang khắp chốn. Chắc chắn sau những nổi trôi lưu lạc, hôm nay, nhân ngày giỗ đầu tuần, ông đã như nguyện đi nốt quãng đường về lại cõi tiên vĩnh hằng.
Quốc Việt