vhnt, số 155
2 March 1996
Trong số này:
thư vhnt................................................................PCL
T h ơ :
1 - Thơ Hồ Thi Ca .......................................Dung Nguyen g/t
- Không đề ...............................................Hồ Thi Ca
- Trốn ................................................................
- Yêu ..................................................................
- Chiều ấy ..........................................................
2 - Tiếng đêm ...................................................lephan
3 - Mộng ........................................................Cỏ Nhớ
4 - Dung thân ...........................................Hoàng Mộc Linh
5 - Vô đề ................................................Thái Nguyên
D i ễ n Ð à n V ă n H ọ c :
6 - Thơ là tên Mẹ .................................Nguyễn Quang Thân
T r u y ện N g ắn / S án g T ác :
7 - Người con gái tập hát ........................Nguyễn Kỳ Phong
8 - Trăng ơi, Duyên ơi ..............................Nguyễn Lộc Quy
9 - Ðịnh mệnh (phần 1/2) ............................Bùi Thanh Liêm
văn học... ôi sao khó quá! (thở dài ...)
Có những lúc tôi nghĩ về ý nghĩa chữ văn học. Một từ vẫn thường dùng và nhan nhản thấy trên các báo. Giở tự điển: văn học là khoa học chuyên về con người. Một nhà văn, một người sáng tác, là kẻ chuyên đào xới tâm lý và đi vào cõi sâu kín khó hiểu nhất của con người. Người đi tìm bản chất con người, là các nhà văn nhà thơ dùng chính tư tưởng của mình, óc phán đoán, và cảm thức từ dữ kiện đời sống mà phân tích đồng loại. Nhà văn, người làm nên văn học chuyên tìm hiểu về con người, vậy ai là người chuyên tìm hiểu các nhà văn? Tìm hiểu về các nhà văn, e rằng chỉ có các nhà làm văn học phê bình mới có đủ thẩm quyền. Như một hình thức tự kiểm thảo, một loại "internal audit" cũng dựa trên khoa học nhân văn, điều kiện nhà phê bình có trái tim bao dung, con mắt dung hòa, cái nhìn chân chính, và biết thương yêu đồng loại của mình. Ðôi khi, cũng có những loại tình thương khe khắt. Ca dao của ta có câu yêu cho roi cho vọt, Tây có từ đồng nghĩa: "tough love". Các nhà phê bình đôi khi thẳng tay với một tác phẩm, hay chì triết một bài thơ, nếu vì tinh thần xây dựng không định kiến, thì đó là một việc kiểm thảo chân chính, có lợi cho tác giả hơn là đưa tác giả vào chỗ bế tắc tư tưởng, mệt mỏi tinh thần, chán nản ngưng đọng. Như một lối khai thông cho các nhà văn.
Không biết tôi nói những điều này có đúng phần nào chăng, vì chưa bao giờ tôi làm công việc phê bình văn chương. Tôi chỉ biết lan man suy nghĩ. Viết đối với tôi như một thứ phản xạ cảm xúc, lệ thuộc vào cảm hứng, do tâm trạng hay một nguyên do thúc đẩy (nhớ bạn hiền, nhớ mẹ hiền, trăng hiện giữa ban ngày, gió lay liếp cửa, hay một lý do nào đó rất vô lý, như trông thấy anh chàng da đen đứng bán hoa ở góc đường chẳng hạn...). Người viết đôi khi thật ngây thơ, thật vô tình, thật thiên vị định kiến. Tôi không tin họ tin những điều họ viết ra một trăm phần trăm. Xin chừa lại một phần trăm cho ý nghĩ hoang mang, một năm sau khi đọc lại tác phẩm của mình, và thấy nó dở tệ (nhưng lỡ đăng báo phổ biến mất rồi !). Một thời gian sau, khi thời cuộc đã biến đổi, khi cái nhìn về một biến cố đã khác đi, đã lắng dịu hay cường độ đã nguôi, thì định kiến lúc viết không còn phản ánh tâm trạng của người viết bây giỡ. Giả dụ như đề tài chiến tranh, nhiều năm sau chiến tranh, hai kẻ thù có thể ngồi cùng bàn uống rượu, lẩn tránh chuyện ngày xưa, và len lén đọc bài của nhau, chẳng hạn.
Văn học, ôi sao khó quá... muốn tiến thân thì phải biết tìm tòi, tự mình không tìm ra, may ra có người mách dùm, có người phê bình chỉ dẫn dùm. Người khôn nên lùi một bước để lấy đà tiến lên ba bước. Có điều, như tôi vừa nghĩ, văn học là đi tìm bản gốc con người qua khoa học văn chương, cần có các nhà phân tích viên phân tích văn học, để hậu kiểm tác phẩm cho hợp với tiêu chuẩn và sự nghiêm chỉnh, trung thực của văn chương. Ðiều này thật ra thật khó, các nhà phê bình văn học, xin ngả mình khâm phục.
oOo
Tôi mãi dài dòng, xin trả lại đất cho các sáng tác trong số này. Chúc bạn đọc một cuối tuần vui và nhiều nắng ấm.
thân ái,
PCL/vhnt
Làm thơ, viết văn, Hồ Thi Ca hiện đang phụ trách mục Tiếng thơ của Ðài Tiếng nói nhân dân thành phố. Hội viên Hội Nhà văn TP HCM từ những ngày đầu sáng lập.
Không Đề
Có những lúc nỗi buồn đau chợt đến
Cố xua đi cho thanh thản tâm hồn
Giọt nước mắt hoà trong rượu đắng
Niềm tin thành dư vị nụ hôn
Có những lúc tôi thấy mình tội nghiệp
Cứ chơ vơ như chiếc lá cuối cùng
Chiếc lá ấy chẳng bao giờ hối tiếc
Một thời xanh giữa trời đất mịt mùng
Tôi đi kiếm một trái tim thành thật
Bỗng lạc vào cuộc vũ hội hoá trang
Một chút buồn-vui, giận-yêu, được-mất
Em ở đây trong muôn mặt thú, ngườỉ
Ðã đành rằng là mặt trời có thật
Thật hơn em và hơn cả đời tôi
Làm sao hứng dù một tia nắng rớt
Giữa lòng tay bấu víu lấy cuộc đời.
Trốn
Trốn vào thiên cổ lụy
Gặp Tố Như khóc ướt trang Kiều
Trốn lên mây chạm nghìn sấm sét
Lẩn trốn vào đời lại gặp người yêu.
Yêu
Thiên hạ thích yêu nơi vắng vẻ
Ta gặp em giữa đám đông người
Không yêu cho kịp thì em sẽ
Bụi đời bẩn thỉu cuốn ta trôi.
Chiều Ấy
Một gã khù khờ rất ngu ngơ
Ði lại đi qua đi qua đi lại
Một cô con gái dáng nên thơ
Ngó dọc ngó nghiêng nghiêng nghiêng ngó
Một mặt trời xế nóng như điên
Một mặt đất như khùng khép m
Hồ Thi Ca
(TTCN 12-11-1995)
Tiếng Đêm
Mùa dâu bể đục ngầu con nước lạ
Trăng sao đi không giã biệt đêm nào
Nơi bến cũ sương nghẹn ngào cỏ lá
Giữa vô cùng ta khói sóng chiêm bao
Ðêm giá buốt những hẹn thề nở muộn
Phố thị sầu giăng kín nẻo phân ly
Mưa gió gào trong tiếng lòng cuồn cuộn
Chân xót xa theo mộng lạc lối về
Vương vấn cũ dâng đọa đày ký ức
Tâm tư làm loài bói cá bay hoang
Xuôi bóng xưa trôi ngược nguồn tư thức
Chợt từ đêm vang tiếng thác dặm ngàn
Ngày mai biết ngày mai không nhớ nữa
Chuyện vàng hoa rụng vỡ một đêm này
Vết thương mới máu đỏ dòng tiếng thở
Trên điên cuồng miền tóc trắng mây phai...
lephan
Mộng
Tôi trở về đây với nỗi buồn
như buồn Lưu, Nguyễn ghé về thôn
thềm hoang ngõ vắng mừng cô chủ
xa gióng tiêu điều dăm tiếng chuông.
Ngơ ngác chân tìm cổng gia trang
mộ Ngoại tường vôi đã úa vàng
rưng rưng tiếng gọi người thiên cổ
thưa gởi giăng buồn theo khói nhang.
Trời chiều đom đóm sáng mùa vui
kỷ niệm ngày trăng lúc thiếu thời
hiên tây chênh chếch nhà hương hỏa
con cháu quây quầy trăng xuống chơi.
Biền biệt nhau xa kẻ cuối trời
chân mây mòn mỏi có phần tôi
về nghe man mác sầu gia phả
giấy nát ra vần tên rớt rơi.
Tuế nguyệt cho cùng vẫn trơ gan
duy chỉ mình tôi với muộn màng
chợt nghe đau sót buồn sinh tử
mỏi gối chân chùng, nhớ mang mang.
Cỏ Nhớ
Dung Thân
Hôm qua thức giấc nửa đêm
giật mình, bất chợt thơ tìm đến tôi
thơ đi rong lạc lâu rồi
mặc tôi ngơ ngác
ngậm ngùi
ngoái trông
hỏi mình duyên phận phải không?
mà sao thổn thức chờ mong trở về
Ðộ từ gác bút,
mải mê
đỉnh cao danh vọng chửa về đến nơi
một lần hụt té
đánh rơi
thân tôi ngã quỵ
tay quơ tìm vần
ráp đôi ba chữ dung thân
ủ ta thơ nhé, chỉ ngần ấy thôi!
Hoàng Mộc Linh
Không Đề
Ðầu tuần mưa xối xả
Áo giầy đi làm xa
Nỗi buồn theo nước đổ
Như đêm đầu xa nhà
Mưa tuôn trên kính vỡ
Chợt cảm đời bơ vơ
Ánh đèn leo lét sáng
Tha thiết hoài tuổi thơ.
"Ngây ngô bên sách vở
Ðời đếm những mộng mơ
Ngày mai ta khôn lớn
Hai tay giúp cõi bờ."
Hôm nay ta vẫn nhớ
Nhưng toàn giấc mộng mơ
Ðèn màu trong tiếng nhạc
Quê hương bỗng xa mờ
Thai Nguyen
Thơ Là Tên Mẹ
Anh Quán mất đã một năm. Quen thân anh từ hồi còn ở Thiếu sinh quân Liên khu 4, lúc đó anh Quán có dịp gặp người thân từ Bình Trị Thiên khói lửa ra, có một hộp cá xacdin của Pháp. Hai anh em ngồi mở hộp cá và đó là lần đầu tiên, anh và tôi được ăn cá đóng hộp. Cho đến bây giờ tôi chưa từng được ăn thứ cá hộp nào ngon thế. Ðối với hai thằng lính nghèo, hộp cá ăn với cơm nguội và cháy là một bữa tiệc.
Năm 1952 ấy đã lùi xa, 1956 - 1957 cũng đã lùi xà. Sau này, khi công cuộc đổi mới đã làm nhẹ nhõm số phận của anh Phùng Quán và một số nhà văn khác, thỉnh thoảng tôi được nghe anh Phùng Quán đọc thơ. Chủ yếu là thơ của chính anh. Anh đọc ở mọi nơi, bất cứ lúc nào nếu có người yêu cầu anh đọc. Có lần anh cùng tôi và một vài anh em khác được sinh viên trường đại học Sư phạm 1 mời đến đọc thơ, nhưng cô Anh Trúc, sinh viên vì quá yêu thơ nên "quên" báo cho nhà trường biết. Vậy là chỉ có vài người đón chúng tôi. Ai cũng nản, đề nghị một hôm khác. Anh Quán không đồng ý, bảo: "Nếu có một người nghe thơ anh cũng là may lắm rồị Một người cũng đọc!" Và anh mở đầu rất rôm rả, giọng vẫn cuốn hút, say sưa như có hàng ngàn người đang nghe. Cuối cùng, sinh viên nhảy qua tường đến đứng chật một phòng tiếp khách rộng. Có người bảo thơ anh Quán phải nghe anh đọc mới thấy hay. Tôi nghĩ nói như thế đúng. Vì thơ nhuyễn với anh như là một vậy, như máu với thịt, như tâm hồn với thể xác.
Ðặc biệt, anh thuộc tất cả thơ mình. Ðúng như người ta nói "thuộc lòng", anh thuộc trôi chảy không va vấp và khi anh đọc người nghe cứ tưởng anh đang ứng tác.
Có lần, theo lời anh Quán kể, ở Nha Trang, anh đọc thơ cùng vài nhà thơ nổi tiếng. Khác với họ, khi đọc phải giở sổ tay ra nhìn, anh đọc "thuộc lòng" không hề lúng túng mà rất thật, rất cảm. Xong cuộc, một cô sinh viên hỏi anh:
- Thưa nhà thơ Phùng Quán, làm sao ông thuộc thơ mình, còn một số khác thì không?
Anh Quán trả lời:
- Tôi nghĩ thế này, nếu em hỏi tôi tên má tôi là gì, liệu tôi có cần giở sổ tay ra để trả lời em không?
Tôi nghĩ rằng, có lẽ không ai bắt buộc nhà thơ phải thuộc thơ mình, nhưng suy nghĩ của anh Quán làm ta nghĩ tới một thứ thơ gan ruột mà ra.
Anh Quán ơi, thơ theo anh là tên của mẹ, có phải thế không? Chỉ có hương hồn anh mới trả lời cho độc giả được.
Nguyễn Quang Thân
(Nhân giỗ đầu nhà thơ, 22 tháng chạp Ất Hợi.
Theo báo TPCN số 8 , 25.02.1996)
Người Con Gái Tập Hát
Viết cho Như Nguyện...
Tôi lớn lên chịu ảnh hưởng của một nhà thơ. Mai Duy, một nhà thơ hiện sinh, dạy về thơ mới tại ban văn khoa, Viện Ðại Học Saigon.
Duy là bạn của ba má tôi, nhưng ông thân với mẹ tôi hơn. Mẹ tôi dạy về thực vật học, nên ông Duy thường hỏi mẹ tôi về những tên Latin của các loài hoa để ông gợi ý làm thơ. Những buổi chiều chủ nhật Duy thường đến nhà đánh cờ với ba tôi. Ba tôi dạy toán, thành ra ngoài chuyện đánh cờ hai người chỉ ngồi yên lặng uống rượu. Những buổi chiều như vậy, vợ Duy chở ông đến nhà tôi rồi lái xe đi, đến tối mới trở lại rước ông. Vợ Duy là một người đàn bà đánh môi son thật đỏ, bận những chiếc áo đầm màu sặc sỡ. Bà ta ít nói chuyện nhưng lúc nào cũng nhoẻn miệng cười. Có một lần tôi gặp hai người lái xe trên đường phố, hai người ngồi trong một tư thế rất xa la. Tôi có hỏi má tôi về chuyện đó, bà chỉ nói với tôi là tôi còn quá nhỏ để hiểu về chuyện hai ông bà Duy. Tôi rất muốn hiểu nhiều về Mai Duy. Vì nhiều lần trong lúc ông ngồi uống rượu, ông vẫn thường nhìn chầm chập vào bức hình của tôi để trên chiếc dương cầm.
Tôi nhớ về Duy nhiều nhất lúc tôi lên bảy tuổi. Ngày sinh nhật tôi ông đem quà thật nhiều. Lúc tiệc sinh nhật gần tàn, ông giả làm ngựa để tôi và những đứa bạn khác cưỡi. Chỉ một mình tôi là được cưỡi nhiều nhất mà thôi. Lúc đó tôi thấy thật vui, thật thích ông Duy.
Năm lên trung học, tôi được nhà cho đi học nhạc với một giáo sư của trường Quốc Gia Âm Nhạc. Con đường từ nhà đến trường có nhiều cây và tôi thường đi thật chậm, thật vẩn vơ nho nhỏ tập giọng ca của mình. Ðôi ba lần tôi gặp Duy. Hoặc là ông đi ở đằng sau, hoặc là tôi gặp ông ở ngã tư, hoặc ông chỉ lái xe thoáng qua... Mỗi lần gặp, ông ta không nói gì. Nếu có nói ông chỉ hỏi là tôi đi đâu đó... Dần dần, tôi có một thứ giác-quan-ở-đằng-sau: mỗi lần thấy người nóng lên, nhìn lại phía sau tôi sẽ thấy ông Duy đang nhìn tôi. Có lần đang tập giọng Si cho một bài tập trong phòng, đang lúc nén hơi thở để cho giọng được cao và lâu hơn, nhìn ra cửa sổ phòng hát tôi bắt gặp Duy đang nhìn mình. Vừa kinh ngạc, vừa mắc cở, tôi tưởng mình như tắt thở.
Năm tôi học lớp đệ tứ, mười sáu tuổi, là lần cuối cùng Duy dự sinh nhật của tôi. Lần này ông đi một mình, không đem theo bà vợ. Ông không còn vui như lúc ông dự sinh nhật thứ bảy của tôi. Duy tặng tôi một bài thơ tả về vẻ đẹp của tôi. Bài thơ làm theo thể tự do, quá mới, quá bí ẩn thành ra tôi không hiểu gì hết. Bài thơ nói về một người con gái tập hát, có một giọng ca huyền bí, một giọng ca như người ngư nhân trong thần thoại Hy Lạp của Homere, một giọng ca có thể biến người nghe thành đá. Bài thơ chấm dứt bằng một câu Latin "Nec Amo, Nec Tussis Celatur." Sau này khi lên đại học tôi mới hiểu câu đó có nghĩa là "Tình yêu cũng như một cơn ho, không bao giờ dấu được." Thật tình tôi không hiểu gì hết, vì dạo đó tôi chỉ là một người con gái đang tập hát mà thôi.
Năm tôi lên Ðà Lạt học đại học, má tôi gởi cho tôi một lá thư. Sau khi viết về chuyện quẩn quanh hàng xóm, gia quyến, má tôi nói Mai Duy và vợ ông ta đã ly dị rồi. Bà cũng ói thêm là hình như ông Duy đã quên tôi, vì từ lúc tôi lên đại học ông không còn nhắc đến tôi nữa.
Tôi đã bỏ tập ca từ khi lên đại học. Thân hình tôi đổi thay, đã nẩy nở hơn. Tụi con trai cùng trường tặng hoa cho tôi nhiều đến độ tôi phải bỏ vào phòng tắm vì phòng không còn bình hoa để chứa. Tôi vẫn còn giữ được cái siêu thể của tôi: tôi đang tập coi sách về triết lý hiện sinh, và trong đó có một câu nói "Yêu là đánh mất đi cái siêu thể của mình." Thỉnh thoảng, tôi nhìn vào gương và tập lại giọng ca của mình. Giọng ca vẫn còn mỗi lần tôi cất giọng hát. Chỉ khi tôi lên cái octave tận cùng của giọng Si, tôi lại bị ám ảnh bởi đôi mắt thuở nào của ông Duy.
Cuối năm thứ hai tôi nhận được một tập thơ của Mai Duy. Kèm theo tập thơ là một lá thư giải thích về sự đột ngột này. Duy xin địa chỉ của tôi qua má tôi, và chỉ muốn gởi tôi một món quà. Tôi chưa bao giờ đọc một tập thơ nào gợi ý như tập thơ "Hoa Hồng Ðen." Lời thơ quá biểu tượng, quá gợi ý. Mai Duy ví tôi như một đóa hồng, một đóa hoa rất lạ. Rất lạ vì loài hoa đó chỉ ở trong trí tưởng tượng mà thôi. Trong thơ, ông diễn tả là ông sẽ bẻ đi từng lá hoa và sẽ thưởng thức, thụ hưởng nó như thế nào...
Tôi đọc thơ Mai Duy mà cặp đùi tôi run lên bần bật như thể có người đang chạm vào đó. Biểu tượng có nghĩa là gợi hình; gợi hình có nghĩ là cảm xúc, hay có thể cảm xúc được. Tôi đọc thơ Mai Duy như thể đang giao cảm với một người. Từng cánh hoa bẻ đi, từng tác động được gợi ý; từng phần hoa được ve vuốt, từng phần thân thể bừng lên. Tôi không hiểu gì về thơ mới, nhưng tôi hiểu Duy muốn nói gì. Chẳng những như vậy mà tôi còn cảm được ý của lời thơ.
Trong đêm, tôi nằm lăn lộn thể như có một ánh mắt đang nhìn vào thân thể tôi, thể như từng phần thân thể tôi bị bẻ đi và thụ hưởng. Không gian quanh tôi không còn sự thanh khiết trinh nữ. Bài thơ "Hoa Hồng Ðen" đã lấy đi tất cả cái trinh bạch trong giấc ngủ của tôi. Cất bài thơ đi, hai chân tôi vẫn còn run lên bần bật. Ðó là một thứ đê mê người ta muốn chối từ.
Cuối năm thứ tư tôi nhân được một lá thư của má tôi nói rằng ông Mai Duy đã tự tử chết. Tôi quá bàng hoàng, và sợ. Quá sợ vì tôi vừa mới gặp Mai Duy. Vài tuần trước đó tôi về Saigon chơi trước khi thi mãn khóa năm học cuối. Về Saigon, tôi đạp xe đi thăm lại những nơi tôi thường đi qua trong thời niên thiếu. Nhất là con đừơng tôi thường đi tập hát. Dĩ nhiên tôi cũng đi qua sân vận động ở đường Phan Ðình Phùng, nhà của người thầy dạy giọng ngày xưa. Lần về Saigon đó, tôi có đến dự một buổi triển lãm tranh ngọai quốc tại sứ quán Ý. Ðó là một buổi trưa, tôi đang đứng nhìn bức tranh Pietà, bức tranh vẽ mẹ Maria đang ôm chúa Jesus trong đôi tay của bà. Chúa Jesus như đang bị thương, nằm trong tay của mẹ Maria như một cái xác không hồn. Bức tranh đã cũ nên rất khó thấy được những chi tiết của nét vẽ. Tôi cố nhón chân lên để có thể thấy được đôi mắt thâm của chúa Jesus: Ðôi mắt như có vẻ van xin, cầu khẩn một tình thương... Trong lúc đang tưởng tượng nỗi thống khổ của chúa Jesus, tôi linh cảm như có đôi mắt đang nhìn tôi. Tôi quay lại: Trời ơi! người đang đứng phía sau nhìn tôi là ông Mai Duy. Ông ta đứng thật sát, nhìn tôi với đôi mắt của chúa Jesus như trong bức tranh Pietà: thống khổ, van xin. Mai Duy nhìn tôi rất lâu, vẫn trong yên lặng. Người tôi run lên, tôi cũng yên lặng. Với giọng rất nhỏ, Duy hỏi tôi có khỏe không, có bình yên không?
Tôi đứng đó không trả lời được. Trước khi tôi có thể cử động, Duy nhích sát lại, và bất ngờ nhẹ hôn lên trán tôi. Nụ hôn tưởng chừng như vô tận. Duy như mấp máy muốn nói gì... Tôi chỉ nghe được Nec Amo. Celatur... Ðứng không muốn vững tôi vội bỏ chạy về nhà.
Về đến nhà, vào phòng, tôi đứng trước gương coi mình có thay đổi gì không. Tôi chỉ thấy mình run lên và thở mạnh. Không còn can đảm, tôi lên giường, đắp mền thật kín. Trong bóng tối dưới mền, tôi đưa tay sờ lên trán, sờ vào nơi Duy đã hôn tôi... Ở đó tôi cảm thấy một vòng tròn thật ấm. Tôi áp lòng bàn tay vào nơi đó rất lâu.
Nguyễn Kỳ Phong
Trăng Ơi, Duyên Ơi...
Bạn bè bảo em đã về. Em về rồi ư. Lòng tôi reo vui. Con phố dẫn tới nhà em cũng reo vui. Tôi mang mưa nắng Sài Gòn đến tìm em đây. Chẳng phải em đã nói qua sao, nếu không có tôi ở Sài Gòn thì em không biết trời mưa hay nắng. Lúc ấy em ngây ngô thánh thiện biết chừng nào. Tội nghiệp em, bốn năm trước bố mẹ bắt đi Úc du học. Ði học mà khóc sướt mướt hỏi "rồi anh có nhớ em không?". Tôi đã vỗ về "nhớ chứ sao lại quên được cô bé của anh". Bốn năm rồi em sao nhỉ. Tôi thèm vô cùng, thấy lại màu áo hồng phấn và nụ cười tinh nghịch của em. Cổng nhà mở, màu nắng hồng ùa tới bên tôi ấm áp:
- Em về rồi.
Chừng như sợ không phải là sự thật, em tiếp tục lay tay tôi:
- Em đã về.
Tôi xoa đầu em thân ái:
- Biết rồi, nói mãi. Anh biết cô đã về được đúng 3 tiếng 12 phút đồng hồ.
Em thoắt đi. Tôi nghe tiếng em loáng thoáng với người nhà. Tôi cười thầm. Em muôn đời vẫn thế. Hấp tấp, sơ suất. Suốt thời gian quen em không biết tôi đã quên được mời vô nhà bao nhiêu lần. Em quay lại, mở cổng, ra lệnh cho tôi:
- Ði, anh đưa em về lại chỗ cũ.
Chỗ cũ là quán Cafe Sông Trăng thơ mộng bên khu Thanh Ða. Thời đại học, tôi và mấy thằng bạn sau giờ dạy kèm thường ra Sông Trăng uống café. Có một ngày em tìm tôi ở đó. Tôi quên, nhưng em nhớ, tự nhiên giới thiệu:
- Hôm qua em tới chơi nhà Trang. Thấy anh dạy Hóa cho chị em Trang hay quá. Em có thể xin học luyện thi với anh không? Em tên Duyên.
Khi ấy em học lớp mười một, hồn nhiên và gần gũi như một đứa em gái. Sinh nhật mười sáu của em, tôi dẫn chị em Trang và em cùng tới chơi Sông Trăng với đám bạn Bách Khoa của tôi. Ngẫu nhiên mà trùng hợp, chiều hôm đó trăng tròn vành vạnh. Em ngó ra sông tư lự:
- Sinh nhật sao không vui cô bé?
- Em đang nhớ tới hai câu thơ hay nhưng buồn quá.
Tôi nhìn em chờ đợi. Em đọc:
- Em mười sáu tuổi, trăng mười sáu. Áo lụa phơi buồn sân gió xưa.
- Không buồn đâu, nghe anh sửa nè. Em mười sáu tuổi, trăng mười sáu. Áo lụa phơi hồng sân gió tôi.
Như trẻ nít, em cười sung sướng:
- Cám ơn anh, anh tốt quá.
Em thi đại học. Cầm giấy báo trúng tuyển tới khoe. Tôi được khao cafe ở Sông Trăng. Em liếng thoắng:
- May quá, em đi thi mà cứ rủa ông Nguyễn Tất Nhiên trù ẻo người tên Duyên "rớt đi Duyên, rớt để thương người"
Cũng ngày cầm giấy báo đi Úc du học, em lại bắt tôi chở tới Sông Trăng ngồi khóc nức nỡ. Bây giờ em về, cũng ở nơi đây, bắt tội tôi:
- Thư nào anh gởi em cũng đọc đi đọc lại đến thuộc lòng. Mà tính lại em đi bốn năm, anh cũng chỉ gởi em có bốn lá thư.
Tôi cười chạy tội:
- Thì bằng với số lần anh đổi việc làm rồi còn gì.
Tôi và em cùng đứng lựa lan can, nhìn ra bờ sông lộng gió chiều. Em bảo tôi trăng sắp lên. Trăng chiều lên, em lập lại câu hỏi bốn năm về trước:
- Anh có nhớ em không?
- Có
- Sao anh không nói gì đi?
Tôi quay sang:
- Ðể anh nhìn em cho kỹ đã.
Em nhìn nghiêng qua tôi, đưa tay vén mái tóc lòa xòa. Tôi mới phát giác, em hết là cô bé demi garcon. Em tóc xõa ngang vai liêu trai lạ lùng.
- Dường như em trưởng thành nhiều. Thế mà anh lại thích em hồn nhiên như lúc anh mới biết em.
Tôi phá em, ngập ngừng nheo mắt:
- Nhưng nghĩ lại anh thiệt thòi quá. Hồi đó quen em, em không được đẹp như bây giờ.
Em cười hãnh diện, xinh như hoa hàm tiếu:
- Kể anh nghe về đời sống của em bên Úc đi.
- Cũng thường lắm anh. Mới đầu thì xa lạ, dần dần cũng quen, phải lo học cho mau xong để sớm về. Em ở Sydney lâu thế mà không biết gì hết ngoài con phố ở Cabramatta. Nếu ai hỏi em nhớ gì ở Úc, em sẽ nói em nhớ Cabramatta. Nó có một cái ngã tư đường rất dễ thương làm em cứ nhớ Sài Gòn.
- Em về nước chắc có khối chàng bên ấy ngày ngày nước mắt rớt bên bờ sông.
Em thở dài:
- Tội nghiệp Phong.
Bỗng dưng em hết láu táu. Lời lẽ chững chạc như tuổi đời:
- Khi thì nhớ xôn xao, khi thì âm thầm lặng lẽ. Nhưng lặng lẽ nhiều hơn. Em nhớ trước ngày em đi du học tình cờ thấy anh dừng xe ở đèn đỏ. Em đã ước đèn hư để nó đỏ hoài, để anh kịp nhìn thấy em ở ngay lối rẽ bên tay phải của anh. Nhưng đèn vội xanh lại, anh giống như những người khác lao đi mất. Anh đâu có biết, ngã tư đường đó có mình cùng dừng chân ở một thời điểm. Nhưng chỉ có em mang theo hình ảnh của anh, mang theo mưa nắng Sài Gòn. Cabramatta có cái ngã tư đường từa tựa, nên em hay tự hỏi về anh. Ở ngã tư đường nào của Sài Gòn, anh mới gặp em ở cuộc đời. Em kể cho Phong nghe thế. Rồi Phong bảo em nên về tìm anh.
Tới phiên tôi thở dài. Tội nghiệp em. Tội nghiệp anh chàng Phong nào đó. Hình như em có kể tôi nghe về người bạn trai tên Phong của em trong thư. Và hình như tôi cũng khuyên em lấy Phong tiếp tục làm tiểu thư ăn sung mặc sướng của em. "Em hãy lấy chồng, định cư bên đó, lâu lâu về chơi để anh có dịp khoe với người ta anh cũng có bạn Việt Kiều". Em kéo tôi về thực tại:
- Còn anh thế nào?
- Chỉ có mảnh bằng đại học mới giữ chân anh lâu thế. Từ khi ra trường đi làm, việc làm nào không cho anh cơ hội đi đây đi đó thì anh lại đổi việc. Vừa đổi tới việc thứ tư thì em về. Anh đã nói với em, anh là lãng tử.
Em nhìn tôi ai oán:
- Có phải không còn chị Như Thoa ở đây, Sài Gòn không có gì cho anh lưu luyến?
Một chút kỷ niệm bừng dậy. Tôi chao lòng vì hệ lụy tình yêu. Hai năm trước em điện thoại về thăm, tôi có kể em nghe về người con gái trong đời tôi. Gã lãng tử biết yêu huyên thuyên. Như Thoa, ngụ ý người con gái cài trâm kim thoa có tài văn chương. Như Thoa, người con gái tôi yêu thỉnh thoảng vì tôi viết văn, làm thơ Nhưng văn thơ không dung chứa lãng tử mãi. Người con gái đó đã bỏ tôi đi, nghe đâu qua Tây, qua Mỹ. Gã lãng tử thất tình im tiếng. Có lẽ em đã nghe Trang nói lại. Em chợt nhìn xoáy mắt tôi:
- Anh có thể đừng đổi việc đi lung tung nữa không? Em đã về, cho em hiểu được anh.
Tôi lắc đầu thương hại, thu hết can đảm nhìn thẳng em. Ðã tới lúc tôi phải chấp nhận em đã trưởng thành. Em có bình tĩnh nghe tôi nói không, hay vờ tin đó là lời mây tiếng gió:
- Ðâu cứ bây giờ em hai mươi bốn tuổi em mới hiểu được anh. Nhớ không, anh có nói anh rất dễ hiểu. Hãy hiểu đơn giản là anh khó hiểu. Thế thôi. Em đã đi được một bước dài, lẽ ra em không nên quay đầu lại nhìn anh, tìm anh trong đời em để làm gì.
Tôi cầm tay em, vỗ vỗ nhẹ thay cho một lời từ tạ:
- Mai anh đi Indo, sẽ ở đó làm việc khoảng sáu tháng.
Trăng lại tròn vành vạnh trong mắt em long lanh những giọt thủy tinh đau xé. Nhè nhẹ, chị Hằng, chú Cuội chao đi méo mó theo nước mắt em vỡ ra thánh thót. Em quay lưng. Sỏi đá ngậm ngùi. Tôi biết kể từ đó tôi mất em vĩnh viễn, và tôi cũng sẽ vĩnh viễn nhớ em hờn tủi "Em hai mươi bốn tuổi, trăng vẫn còn mười sáu. Nhưng áo thôi hồng sân gió anh". Sân tôi là mảnh đất khô cằn chẳng cày cấy nỗi ngày tháng tươi mát của em. Xin lỗi em.
Em về xinh áo lụa
sân gió hồng thôi phơi
cười buồn lan huệ úa
trăng đã già phương tôi.
Tôi chỉ có thể nợ em một lời xin lỗi. Chứ tôi không thể cho em biết rằng tôi cũng đã thấy em ở cái ngã tư đường đó, và tôi phút chốc cũng chao lòng muốn rẽ lối sang gặp em. Nhưng tôi đã đi thẳng trong khi em dừng chân chờ đợi. Và bây giờ em mất hút. Tôi chẳng chờ em, nhưng sao buồn mình loang loáng đỗ theo bóng trăng mười sáu bàng bạc.
Trăng ơi, Duyên ơi, duyên ơi...
Nguyễn Lộc Quy
tranh: Đinh Trường Chinh
Ðịnh Mệnh Ðã An Bài
Tôi quen Hằng bằng một sự tình cờ, một sự tình cờ có sắp xếp. Người sắp xếp là bà chị ruột của tôi và chị họ của Hằng. Tuy nhiên, nếu phân tích cặn kẽ hơn một chút thì trong cái sự sắp xếp này cũng có cái tình cờ của riêng nó.
Một người đã ra trường và hiện đang đi làm ở một tiểu bang miền Ðông như tôi và một sinh viên đang theo học ở Cal State Long Beach như Hằng, thì cơ hội quen biết nhau thật là hy hữu, nếu như bà chị tôi không "tình cờ" quen được chị họ của Hằng thì đâu có chuyện sắp xếp xảy ra.
Theo như thông lệ hàng năm, tôi thường xin nghỉ phép về thăm gia đình bên Cali. Năm nay tôi lại được hãng cho nghỉ tạm một năm để đi học, do đó tôi càng có dư thời giờ và hễ có dịp nghỉ lễ hoặc nghỉ giữa niên khóa là tôi về thăm gia đình thường xuyên hơn. Mỗi lần qua Cali là mẹ của tôi thể nào cũng nhắc nhở:
- Năm nay anh cũng quá ba mươi rồi đấy anh ạ! Công thành danh toại rồi, lo nghĩ đến chuyện gia đình đi là vừa. Mấy đứa em của anh đứa nào cũng có vợ hết cả rồi!
Mỗi lần nghe bà cụ nhắc nhở, tôi phải tìm cách trấn an:
- Con không ế vợ đâu, má đừng lo. Chuyện gì đến sẽ đến một cách tự nhiên. Chuyện vợ chồng là quan trọng cả một đời người, không thể hấp tấp má à!
Chị Thu của tôi nghe vậy liền xen vô:
- Má để đó cho con, để con ra tay làm bà mai cho.
Rồi cuối tuần đó bà chị tôi rủ tôi đi nghe nhạc ở vũ trường. Tôi từ chối tỉnh bơ:
- Thôi đi bà. Kép của bà đâu sao không dẫn bà đi. Bộ tôi hết chuyện làm rồi sao phải đi làm gạc-đờ-co cho bã.
Bà chị của tôi nổi sùng:
- Thằng này ngốc quá! Tao rủ mày đi, dĩ nhiên là phải lo kiếm đào cho mày rồi. Ðáng lý ra tao không nói ra để cho nó có vẻ tự nhiên, nhưng sợ mày từ chối nên phải huỵch toẹt ra.
- À, như vậy hóa ra đây là một sự tình cờ có sắp xếp hay là một sự sắp xếp tình cờ.
- Mày muốn nghĩ sao cũng được.
- Thôi đi bà ơi. Tôi chán cái màn mai mối này lắm rồi!
Nói thì vậy nhưng cuối tuần đó tôi cũng đi, một phần là vì tôi tò mò. Tôi nghe bà chị quảng cáo nhân vật này dữ dội lắm, nào là "khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang", "đẹp cả nết lẫn người". Tôi nghĩ kỹ lại, thì có mất mát gì đâu, đi chơi cho biết, nếu không hợp thì nay mai tôi cũng cao chạy xa bay rồi, đâu phải đến nỗi "nên tình cờ gặp nhau cứ làm ngơ".
"Ðể cho ra vẻ tự nhiên lần đầu tiên gặp nhau," chị Thu nói, "tụi mình sẽ đi đến vũ trường thành một nhóm". Tôi không biết cái nhóm của bả muốn ám chỉ là ai, đến gần cửa Majestic hôm đó chỉ thấy có chị Thu và anh Sơn, kép của bả. Tôi còn đang lo là nhân vật mà chị định giới thiệu có thể lạnh cẳng vào giờ phút chót thì bà chị bỏ nhỏ:
- Hôm nay tao cho mày tha hồ lựa chọn. Sẽ có một nàng may mắn trong ba nàng hiện diện đêm nay.
Tôi còn đang ngạc nhiên thì lúc đó có ba người con gái đi đến. Bà chị của tôi lên tiếng giới thiệu từng người:
- Ðây là Hoàng, em trai của mình từ tiểu bang xa qua chơi. Còn đây là Ngọc, đây là Hằng, kia là Vân chị họ của Hằng.
Vân lém lĩnh:
- Thu giới thiệu sót rồi, còn anh chàng nào đang đứng cạnh Thu vậy cà.
Chị Thu quay qua anh Sơn:
- À, ông này thì khỏi phải cần giới thiệu, mọi người biết cả rồi.
Sau đó cả bọn chúng tôi lục tục kéo vào trong. Vân biết nhiệm vụ của nàng là làm bà mai nên đã tế nhị ngồi xa, để tôi ngồi ở giữa Ngọc và Hằng. Phải nói tôi là người may mắn và hạnh phúc nhất của tối hôm đó. Tôi cứ tưởng mình đang nằm mơ. Bên tay trái của tôi là Ngọc. Tôi nghĩ thầm bố mẹ của nàng cũng khéo đặt tên cho con gái. Ngọc úng là một viên ngọc thật. Ngọc có một nhan sắc xinh đẹp rất tự nhiên và một vóc dáng cao ráo, gọn gàng. Còn Hằng thì dáng người nhỏ thó và mi-nhon hơn. Nét đẹp của nàng ít lộ ra như Ngọc, nhưng nó cũng có điểm hay của riêng nó. Không thể đem so sánh giữa hai người được, vì như vậy không khác nào so sánh táo với cam. Cũng như giữa Thúy Kiều và Thúy Vân, mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười.
Suốt tối hôm đó, thỉnh thoảng chị Thu ghé vào tai tôi hỏi tôi chấm ai, tôi chỉ biết nhún vai. Lợi dụng lúc hai nàng đi vào nhà vệ sinh, chị trợn mắt nhìn tôi:
- Mày không thể bắt cá hai tay được. Chỉ được chọn một người thôi. Ngày mai rời Cali rồi, quyết định nhanh lên đi chứ!
- Bà này làm gì gấp gáp vậy, để thong thả.
Tôi vẫn ngồi ở giữa, tiếp chuyện với Ngọc và Hằng một cách quân bình. Những câu chuyện mưa nắng, học hành. Nhưng đêm càng thâu, tôi càng thiên vị và có cảm tình với Hằng. Một phần là vì tôi thấy Ngọc không được hiền như Hằng. Ở vũ trường hôm đó có nhiều gã thanh niên nhận ra Ngọc và mời nàng ra nhảy. Còn Hằng thì tuyệt nhiên ngồi yên tại chỗ nói chuyện với tôi từ đầu cho đến cuối. Lý do đơn giản là nàng không biết nhảy. Gần đến giờ chia tay thì ai cũng thấy là tôi rõ ràng có cảm tình với Hằng, chúng tôi đã nói chuyện vui vẻ, tâm đầu ý hợp. Tôi cho nàng biết là ngày mai tôi về lại Michigan để đi học và đi làm, tôi xin nàng số điện thoại để thỉnh thoảng gọi sang tâm sự. Nàng vui vẻ ghi số cho tôi.
Về Michigan, tôi giữ liên lạc với Hằng qua thư từ và điện thoại. Hằng hiện tại đang đi học nhưng mới xin nghỉ một năm để đi làm "co-op", lấy kinh nghiệm với hy vọng khi ra trường kiếm việc dễ hơn. Tôi chỉ điện thoại được cho Hằng vào buổi tối, và vì giờ giấc khác thường của hai tiểu bang cho nên tôi thường hay thức khuya để nói chuyện với nàng. Càng tâm sự với Hằng tôi càng thấy nàng hợp với tôi ở nhiều điểm. Sở thích của nàng cũng là sở thích của tôi là văn chương và hội họa. Tôi gửi cho nàng xem những bức tranh hí họa do tôi vẽ. Những bức tranh vẽ lại hình nàng với cái đầu thật to và thân hình bé xíu. Nàng thích lắm. Trên điện thoại viễn liên, nàng bảo tôi:
- Hóa ra anh cũng có đầu óc khôi hài lắm đấy chứ. Vậy mà em cứ tưởng là anh khô khan lắm.
Tôi cho nàng biết là tôi cũng thỉnh thoảng viết truyện ngắn, và có bài đăng ở các báo hải ngoại. Tôi gởi cho nàng đọc mấy truyện cũ tôi viết có đăng trên báo Văn của Mai Thảo. Nàng rất thích các chuyện tình tôi viết. Qua điện thoại, nàng hỏi tôi:
- Sao chuyện nào anh viết cũng kết thúc bi thảm quá vậy? Không chết chóc thì cũng ngang trái, chia ly. Sao không cho chàng với nàng bền duyên cầm sắc, trăm năm hạnh phúc, con đàn cháu đống?
Tôi giải thích:
- Em à, em không biết đó thôi. Chuyện tình mình viết phải lâm ly bi đát như vậy mới lôi cuốn được. Chứ cứ đơn giản như chuyện chàng với nàng gặp nhau, yêu nhau, nên duyên vợ chồng, sống hạnh phúc suốt đời bên nhau thì đâu có thể gọi là tiểu thuyết!
Mùa hè năm đó tôi lại về Cali thăm gia đình, nhưng lần này, chính là để thăm Hằng. Lần này, tôi cống hiến hết thời giờ đi chơi với Hằng. Tôi vắng nhà liên miên, làm cả nhà tôi thắc mắc:
- Không biết kỳ này có phải nó thật sự qua thăm gia đình hay là đi theo tiếng gọi của con tim?
Tôi dẫn Hằng đi chơi Magic Mountain. Chúng tôi hòa lẫn trong đám du khách thập phương, đứng xếp hàng để leo lên những chiếc xe không người lái, những chiếc xe lộn cầu vồng trên không trung, được điều khiển ở tốc độ chết người. Tôi đã từng mạo hiểm qua những trò chơi này ở Great America, Santa Clara. Tôi biết rõ cái cảm giác bị nhào lộn trên cao, cái cảm giác bị lực ly tâm cuốn hút, kéo văng ra khỏi xe. Trong lúc chúng tôi xếp hàng, tôi đọc lướt qua tấm biển ở cổng vào, thấy có ghi chú đây là trò chơi nguy hiểm, những người yếu tim không nên vào. Tôi quay qua hỏi Hằng:
- Em có chắc là em muốn đi thử không?
Hằng bặm môi:
- Mấy đứa em của em có nói đã đi đến đây thì phải thử qua cho biết trò chơi này. Nếu em không thử qua thì về đến nhà sẽ bị tụi nó chọc chết nhát!
Tôi mỉm cười:
- Tự ái của em cao vậy sao?
Hằng nhún vai, và rồi chúng tôi leo lên chiếc xe, để giỡn mặt với tử thần. Một đoàn tàu bao gồm những chiếc ghế đôi, nối dài lại với nhau như một con rắn, bò chầm chậm lên đỉnh cao. Trèo lên đến tột đỉnh, ở khoảng không chót vót trên bầu trời xanh bao la, cách mặt đất gần một trăm thước, con rắn dừng lại vài giây để cho mọi người ngắm nhìn phong cảnh dưới đất. Ở dưới đó bây giờ chỉ còn lại những chấm li ti. Bất thình lình, con rắn tuột nhanh xuống với một gia tốc ghê hồn, rồi uốn éo quanh co, rồi bay cao, cuốn xoáy, lộn ngược, cắm đầu xuống đất, chơi vơi trên trời. Tôi cảm thấy bị hụt hẫng, bị ném rơi vào khoảng không bao la, vô tận.
Vài phút nhào lộn trên không trung hôm đó đã làm cho chúng tôi xây xẩm mặt mày. Ðến khi đoàn tàu dừng lại, tôi không rõ mặt mũi của tôi lúc bấy giờ ra sao, nhưng tôi thấy người nào người nấy mặt không còn một cắt máu, có vài cô nàng Mỹ trắng mặt mếu máo, khóc thành tiếng. Tôi tự hỏi nếu bị khiếp vía đến như vậy tại sao người ta lại bỏ tiền ra để mua cái cảm giác chết người này làm gì. Tôi nhìn ở phía cổng ra vào, vẫn một rừng người đang xếp thành hàng dài để chuẩn bị lên đoạn đầu đài. Tôi quay qua Hằng, mặt nàng tái mét. Tôi hỏi:
- Em có sao không?
Nàng gượng một nụ cười méo xệch:
- Hơi chóng mặt.
Thấy có vài người đi chung chuyến tàu vừa rồi với chúng tôi đang vây quanh một quày hàng, chúng tôi tò mò đến đó xem thử. Hóa ra là họ đang mua lại mấy tấm hình chụp lại khi cả bọn đang bị nhào lộn trên không trung. Tôi quay qua nói với Hằng:
- Thì ra là họ chụp hình lúc mình ở trên không. Ðể anh xem coi khuôn mặt của tụi mình lúc đó như thế nào, chắc là buồn cười lắm.
Hằng nghe vậy vội nắm tay tôi, lôi đi chỗ khác. Tôi ngạc nhiên:
- Sao vậy, em?
- Không làm sao cả. Em chỉ không muốn nhìn thấy khuôn mặt của em lúc bấy giỡ. Thế thôi.
Một tối khác, tôi dẫn hằng đi LA chơi, chúng tôi xếp hàng để được thang máy đưa lên trên nhà hàng nằm trên tầng thượng của một biệt thự cao chọc trời. Nhà hàng này đặc biệt là xoay được, cứ hễ nửa tiếng là nó xoay được một vòng. Do đó, từ trên đỉnh cao này, thực khách có thể ngắm rõ đủ cách góc cạnh của thành phố thiên thần đang trải dài bên dưới. Hôm đó, Hằng gọi Pina Colada, một loại sinh tố có pha nước cốt dừa và một tí rượu rum. Tôi hỏi Hằng:
- Em có biết là thứ sinh tố này có rượu trong đó không?
- Biết chứ, mấy nhỏ bạn của em nó nói nếu lên đây thì gọi loại sinh tố này.
- Như vậy em có uống thử qua chưa?
- Chưa, nhưng không sao đâu, anh đừng lo. Tụi bạn em nói chỉ có tí rượu thôi, nhẹ lắm không đáng kể.
- Thôi được, tùy em.
Rồi tôi quay qua cô hầu bàn gọi cho Hằng một ly Pina Colada và một Tequilla Sunrise cho tôi. Chúng tôi đã tâm sự thật nhiều, cho thỏa nỗi niềm nhớ mong của những ngày xa cách. Hằng hỏi tôi:
- Anh Hoàng à. Tại sao lúc trước ra trường anh không chọn công việc ở Cali mà lại mò sang tận tiểu bang băng giá tận miền Ðông?
Tôi trầm ngâm vài giây trước khi trả lời nàng:
- Anh có lý do của riêng anh khi anh rời Cali mười năm về trước. Nhưng thôi chuyện đã qua rồi, anh không muốn nhắc lại làm gì.
- Chuyện gì mà bí mật vậy, bật mí một tí đi có được không? Ý quên, hay là đây là chuyện của người lớn, con nít như em không được xía vô.
Hằng là như vậy đó, lúc nào cũng giỡn được. Nàng làm tôi phì cười. Nàng nói tiếp:
- Người ta vẫn nói: "Cali đi dễ khó về". Như vậy mà có người rời bỏ Cali không luyến tiếc.
Tôi mỉm cười, không nói gì. Tôi thả tầm nhìn ra bên ngoài khung kính. Bên dưới. Thành phố thiên thần về đêm hiện lên, trải dài như một dãi trân châu, lộng lẫy, kiêu sa, lấp lánh ánh hào quang rực rỡ. Bên cạnh tôi, tiếng của Hằng thì thào trong gió, giọng nói không còn đùa cợt nữa:
- Hoàng à. Tại sao anh không dọn về Cali, nơi đây có gia đình anh, có em nữa mà. Hay là anh còn chưa quên được người xưa?
- Em nói gì anh không hiểu.
Tôi quay qua hỏi nàng. Hằng chống tay lên cằm:
- Em tôn trọng riêng tư của anh, nếu anh không muốn nhắc đến chuyện cũ thì thôi. Tuy nhiên, em muốn cho anh biết là em biết rõ phần nào cái quá khứ mà anh muốn chôn vùi. Gia đình anh có kể cho em nghe là sở dĩ anh không muốn trở lại Cali là vì nơi đây anh đã có quá nhiều kỷ niệm với cô ấy.
(còn tiếp 1 kỳ nữa)
Bùi Thanh Liêm