vhnt, số 33
23 August 1995
Trong số này:
+ tin tức văn nghệ
+ post 1 - thơ, Daydreaming, PCL
+ post 2 - thơ Cuong Hoang
+ post 3 - biên khảo, Hai bà Trưng, Dương Hùng
+ post 4 - tạp bút, Tự Tình Về Một Khúc Tự Tình, Dung Nguyen
Tin Văn Nghệ
Nhà văn Doãn Quốc Sỹ và những tác phẩm mới - Seattle Public library và báo Người Việt Tây Bắc tổ chức một buổi ra mắt sách của nhà văn Doãn Quốc Sỹ. Ba tác phẩm được giới thiệu là: "Người Vái Tứ Phương", "Dấu Chân Xóa Cát", và "Mình Lại Soi Mình". Cả 3 tác phẩm này đều được viết và xuất bản sau khi nhà văn Doãn Quốc S định cư tại Hoa Kỳ. T rong buổi sinh hoạt này có sự tham dự của nhà văn được giải Pulitzer, Robert Olen Butler, với tác phẩm "A Good Scent from a Strange Mountain" nói về đời sống của những người Việt tị nạn tại Mỹ. Văn của Doãn Quốc Sỹ vẫn còn giữ nguyên phong cách đôn hậu và đầy tình người như xưa, mặc dù ông đã bao nhiêu năm trong tù và sống dưới chế độ cộng sản.
Phạm Chi Lan
Nếu
Nếu mặt trời bỗng dưng không còn nữa,
Trăng có về hong suối tóc em xưa?
Nếu áng mây không buông thả giọt mưa ,
Lệ sầu ấy có hoen mờ mắt biếc?
Nếu ngọn sóng không khóc gào tưởng tiếc,
Em có về thăm biển, ngóng chờ tôi?
Nếu chiều xưa đừng sánh bước chung đôi
Chừ biết có bồi hồi trong thương nhớ?
CMH
8/1995
THE REIGN OF TRƯNG ( 40-43) *
Chinese emperor Vũ Ðế of the Early Hán (Tiền Hán) dynasty conquered Nam Việt in 110 BC and ended the reign of the Triệu dynasty. Nam Việt was renamed Giao Chỉ Bộ by the Chinese emperor and divided into nine districts: Nam Hải (Quảng Ðông), Thượng Ngơ Quảng Tây), Uất Lâm (QT), Hợp Phố (QD), Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam (these 03 districts were Van Lang territory), Châu Nhai and Ðạm Nhĩ (Hai Nam Island). Each district was ruled by an imperial governor.
The Trưng sisters were the daughters of the Lạc Tướng of Mê Linh (Phúc Yên province, North VN); Trưng Trắc was the older sister, Trưng Nhị the younger one. Trưng Trắc was married to Thi Sách, a noble of Châu Diên. In 34 AD, Tô Ðịnh was appointed the Chinese Imperial Governor of Giao Chỉ. In 39 AD, he suspected Thi Sách of plotting a revolt against the Chinese and executed Thi Sách. With the support of the leaders in Nhật Nam (Nghệ An, Thanh Hoá), Cửu Chân and Hợp Phố districts, the Trưng sisters raised an army and defeated the Chinese. Trưng Trắc made public four vows (2) before the uprising:
1- Restore the glorious reign of Lạc Hồng
2- Revenge Thi Sách
3- Kill Tô Ðịnh
4- Will let the most successful leader marry Trưng Nhị
The Sisters conquered all the cities in Giao Chi, Cuu Chan and Nhat Nam districts; To Dinh took refuge in Nam Hai district. Historian Nguyễn Nghiễm (1708-1775) commented on the uprising in Dai Việt Sư Ký(3) (Dai Viet History):
"Những người tu mi nam tử hồi bấy giờ cúi đầu quắp đuôi không giám làm gì chă?ng cũng đáng ngậm ngùi lă'm thay!"
tentative English translation:
"The men of that era bowed their heads, hid their tails and dared not act; it is quite shameful!"
The Sisters declared the Reign of Trưng (Trưng Nữ Vương) and selected Mê Linh as the capital.
In 41 AD, Emperor Quang Vũ sent his best general Mã Viện South to recapture Giao Chỉ. After a fierce resistance, the Trưng army was forced to retreat. Defeated at the battle of Cấm Khê, Trưng Trắc and Trưng Nhị drowned themselves in the Hát river rather than surrendered. It was on the sixth day of the second month of the year Quý Mão, 43 AD.
The VNmese people recovered The Sisters' bodies at Ðồng Nhân village (Thanh Trì, Hà Ðông); a temple was built on the river bank to worship the heroines.
After reinstalling the Chinese domination, General Mã Viện erected a bronze column at the border and engraved this warning on it: "Ðồng Trụ chiết, Giao Chỉ diệt" (4) (Translation: If the bronze column is down, the VNmese people will be exterminated). This act shows how humiliated the Chinese were during the Reign of Trưng.
The following excerpt from "Ðại Nam Quốc Sử Diễn Ca" (The History-Poem of Ðaị Nam (1)) narrates the history of the Trưng Sisters:
CỜ NƯƠNG TỬ DÀNH ÐỘC LẬP
Bà Trưng quê ở châu Phong,
Giận người tham bạo , thù chồng chẳng quên.
Chị em nặng một lời nguyền,
Phất cờ nương tử thay quyền tương quân.
Ngàn Tây nổi áng phong trần,
Ầm ầm binh mã xuống gần Long Biên,
Hồng quần nhẹ bước chinh yên,
Ðuổi ngay Tô Ðịnh dẹp yên Biên thành.
Ðô kỳ đóng cõi Mê Linh,
Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta.
Ba thu gánh vác sơn hà,
Một là báo phục, hai là bá vương.
Uy thanh động đến Bắc phương,
Hán sai Mã Viện lên dường tiến công.
Hồ Tây đua sức vẫy vùng,
Nữ nhi chống đối anh hùng được nao?
Cấm Khê đến lúc hiểm nghèo,
Chị em thất thế cũng liều với sông.
Phục Ba (8) mới dựng cột đồng,
Ải quan truyền dấu biên công cõi ngoài.
Trưng Vương vắng mặt còn ai,
Ði về thay đổi mặc người Hán quan!
Lê Ngô Cát & Phạm Đình Toái
tentative English translation:
THE LADIES RAISED THE FLAG FOR INDEPENDENCE
Lady Trưng (Trắc) was from Châu Phong
The national oppression was unforgettable as
well as her husband death,
She solemnly vowed with her sister
To raise the flag and assume military leadership.
The wind and dust were blowing from the western forest
The armies were rolling towards Long Bien.
With the successful military advances,
The Sisters chased To Dinh away and conquered the city (Long Bien)
The capital was setup in Me Linh
And our own dynasty ruled Linh Nam area
For three years as Queens
They took care of state affairs.
The Han King of the North was offended
He dispatched Ma Vien to head an expedition.
The battle at Ho Tay was decisive
The Sisters could not fend off Ma Vien armies.
Cam Khe was the last battle
The Sisters drowned themselves in the river.
Phuc Ba set up the bronze column
To mark the border and to record his victories
Trung Vuong had passed away!
The faces that remained were Han mandarins ./.
Dương Hùng
* There are diverse arguments about the Trưng Rule. The Chinese historians considered the Sisters as impromptu rebels without any political goals and without any wide spread support from the VNmese people; the old theme was "they just want to revenge the death of Thi Sách". Vietnamese historians terminated the First Chinese domination (111 BC -40 AD) with the Reign of Trưng; historian Pham văn Sơn went further in listing the Reign of Trung as a dynasty.
(1) Triệu Ðà, the founder of Triệu dynasty (207 BC- 111 BC) was a Han national who revolted against the Han emperor and set up the Kingdom of Nam Viet that covered the Văn Lang kingdom ( North VN and the Northern part of Central VN) and most of the Quang Dông and Quảng Tây provinces in China where other Bách Việt tribes resided. For more than a century Trieu Kings ruled as a Viet dynasty . The territory of Nam Viet was the largest and the most northward in VNmese historỵ When King Gia Long sent a diplomatic mission to China in 19th century, the King wanted to name his kingdom Nam Viet, but the Chinese (actually the Manchou at that time) objected. They were afraid of hiđen VVmese expansionism; both sides aggreed to reverse the name Nam Viet to Viet Nam.
(2) Phạm văn Sơn, VSTB, Vol. I, page 184
(3) Ðại Việt Sử Ký was first composed by Lê Văn Hưu in 1272. Comments were added later every time the history book was reprinted.
(4) Some historians maintain that the Bronze Column did not exist; it could be just a legend.
(5) An unknown author composed the History-Poem in 1857. In 1859, Lê Ngô Cát edited the poem and in 1875, Pham Dình Toái condensed and printed it. This long poem was written in Chữ Nôm (6) and the Lục Bát (7) form. It covered the history of Viet Nam from Hồng Bàng dynasty to Hậu Lê (Later Lê) dynasty .
Ðại Nam was the national name under King Minh Mạng of the Nguyễn dynasty.
(6) Chữ nôm : a VNmese written language using altered Chinese characters to phonetically represent spoken VNmese.
(7) Lục Bát : poem in this form has a verse of 06 letters followed by an 08 letter verse
(8) Mã Viện was also known as Phục Ba Tướng Quân.
RELATED EVENTS IN THE WORLD HISTORY:
33 AD - Pontius Pilate, the curator of Judea, permitted the Sanhedrin to Crucify Jesus
25- 57 AD - Kwang Wu Ti of the Early Han dynasty in China
43 AD - Aulus Plautius conquered Britain.
FURTHER READINGS:
Dương Quảng Hàm, Viêt Nam Văn Học Sử Yếu, 1968, Saigòn
Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược, Quyển I
Phạm Văn Sơn, Việt Sử Tân Biên, Quyển I
Hoàng Trọng Miên, "Việt Nam Văn Học Toàn Thư", 1960, Sài Gòn
Maria Penkala, "A Correlated History of the Far East", Tuttle, 1970, Tokyo
Nhân đọc một bài viết hay về Trịnh Công Sơn, tôi type lại để các bạn trên vhnt cùng đọc cho vui, cũng là để đáp ứng lại lời kêu gọi đóng góp bài vở của Chi Lan.
Dung Nguyen sưu tầm
TẠP BÚT: TỰ TÌNH VỀ MỘT KHÚC TỰ TÌNH
Cách đây hơn 20 năm, tập nhạc TỰ TÌNH KHÚC của Trịnh Công Sơn ra đời lần đầu tiên. Tôi vẫn cứ nghĩ rằng có lẽ đây là tập nhạc đuợc tác giả chăm chút nhất. Anh tự ghi lời tựa, lời dẫn, vẽ bìa và phụ bản. Tranh bìa cho ta cái cảm giác của một không gian lãng đãng như thật như hư. Cũng có thể là một bức tường xám loang lổ, trên đó đính lên vài vết đạn, một hình nhân, một ngôi chùa, lửa tam muội, những con chim đen ngóng cổ lên trời, một đóa hồng như đang rướm máu. Tôi không thể hình dung hết các bí ẩn chứa trong bức tranh, nhưng cũng cảm nhận được rằng ở đó có cả trời xanh lẫn trong đất đen, có chút ánh sáng trong bóng tối, có niềm khắc khỏai cùng với sự an nhiên tự tại. Và một chút ngập ngừng, một chút thở than. Một thế giới thu nhỏ của một tâm hồn đa điệu.
Phải, không một tập nhạc nào Trịnh Công Sơn mở hé tâm hồn mình, tỏ bày cái tôi của mình nhiều như trong TỰ TÌNH KHÚC. Mà cái tôi của anh thì đầy hương sắc. Có khi nó có vẻ ơ hờ: Tôi như trẻ nhỏ ngồi bên hiên nhà, chờ xem thế kỷ tàn phai. Có khi ngạc nhiên một cách chân thành: Tôi như đường phố nhiều tên. Cũng có khi nhuốm chút thở than: Ðời ta có khi là đốm lửa, một hôm nhóm trong vườn khuya... Vườn khuya, đóa hoa nào mới nở, đời tôi có ai vừa qua. Nhưng toát lên trên tất cả vẫn là sự tha thiết với con người, sự yêu thương cuộc đời bằng cách của anh, "bằng nỗi lòng của một tên tuyệt vọng."
Có người nói rằng, tập TỰ TÌNH KHÚC bắt đầu mang âm hưởng của thiền. Tôi không nghĩ thế. Thiền là quyển kinh không chữ , là cuốn sách không lời, là tiếng nói không âm thanh. Có lẽ không bao giờ Trịnh Công Sơn có thể tĩnh tâm ,an lạc vô vi trong thế giới của thiền. Bởi vì tâm hồn anh luôn luôn xáo động, nổi sóng. Ðôi khi sóng tình xô ngã anh, tình phụ rẫy hay trốn lánh anh. Nhưng chỉ cho anh thêm một chút ưu tư ngậm ngùi: Ðời vẽ tim em lạ kỳ, tình có trong em nhiều mùa... Từ đó thiên hạ quá ưu tư. Hay đêm êm đềm xa vắng: Từ đó trong vườn khuya, ôi áo xưa em là một chút mây phù du đã thóang qua đời ta. Vậy thôi, anh không tìm cách hận tình, trả thù tình. Anh chỉ tẩn mẩn làm com tằm nhả ra những sợi tơ óng ánh cho đời từ những "vết thương khô" do tình mang lại. Và rồi , tự chiêm nghiệm cái mong manh của tình , của người tình. Ðể ý một chút, thấy có một người "em xanh mướt hồng nhan", chiều chiều "ra bến cầu kinh" luôn ám ảnh anh. Hình ảnh đó chết đi sống lại nhiều lần, và cuối cùng kết tinh trọn vẹn nhất trong ÐÓA HOA VÔ THƯỜNG. Ở đó, từ lúc đi tìm tình như tìm lại trên sông những dấu hài, gặp tình, hớn hở đưa tình về trong tiếng chim hót tên là ái ân, cho đến khi "con sóng biển dâu đã mang tình về quê quán cũ", ta thấy càng lúc càng in dấu rõ dần một thứ định mệnh vô tâm. "Tình do tâm mà sinh. Có khi tình mất mà tâm còn đông vọng." Và có phải vì tình mong manh quá nên từ đó ta là đêm, nở đóa hoa vô thường?
Nhưng không chỉ là tình, anh còn soi mói vào những động thái tâm hồn mình giữa tình, giữa dòng đời. Anh thường cúi xuống nhìn lại chính mình và bâng khuâng tự hỏi, phải chăng lòng ta có khi tựa như vắng ai, rồi tưởng mình đang là cơn gió. Có khi anh cảm thấy thanh thản thong dong tựa lá cỏ ngồi hát ca rất tự do. Có khi anh ưu phiền nghĩ mình như "nụ hồng" đang chờ "rã cánh một lần." Cũng có khi anh thảng thốt "rơi vào cơn hôn mê trước giấc ngủ" đến độ "Một lần nằm mơ, tôi thấy tôi qua đời, dù thật lệ rơi lòng không buồn mấỵ... giật mình tỉnh ra, ồ nắng lên rồi. Nhưng có lẽ cảm giác thường xuyên nhất là cảm giác lạc lòai của một đứa trẻ nhỏ tìm nơi nương tựa. Rất nhiều khi, anh mơ đến một góc nhỏ bình yên. Nhiều khi khăn gói đi xa , tưởng rằng được quên thương nhớ nơi quê nhà, nhưng không thể nào dỗ dành được nỗi ước muốn quay về, ngồi yên đưới mái nhà. Và như kẻ mộng du, đang nghe tiếng gọi mời thôi thúc của quê quán xưa, nằm trong phố xưa có "tiếng ru bên vườn," bỗng nhiên anh giật mình nhìn quanh, ồ phố xa lạ. Tôi không biết chốn ấy là quê nhà thực hay là một ốc đảo cội nguồn trong ký ức.
Nhưng chúng ta ai lại không có quê nhà trong tâm tưởng? Ai lại không có những lúc muốn quay về với chính mình, cúi xuống nghiền ngẫm những nỗi niềm và đào xới những mạch nước nguồn mát lạnh ẩn chứa trong giếng ngọc của mỗi người.
Khi tôi đang viết những dòng này, tiếng ca còn chưa vỡ giọng của một cô bé nào đó từ một căn nhà hàng xóm kinh doanh karaoke đang vang lên một cách chỏi tai, lỗi nhịp. Nhưng cũng đang lúc này, mưa vừa tạnh, và một đóa hoa vừa nỏ trong đêm, trước cửa nhà. Tôi chợt nhớ đến một câu của Trịnh Công Sơn viết trong lời tựa tập TỰ TÌNH KHÚC: "Tôi đang bắt đầu những ngày học tập mới. Tôi là đứa bé. Tôi là người bạn. Ðôi khi tôi là người tình. Chúng tôi cùng học vẽ lại chân dung nhân loại.". Và tôi biết, Trịnh Công Sơn "học vẽ lại chân dung nhân lọai" bằng cách mỗi sáng mỗi chiều vẽ lại chân dung của chính tâm hồn mình.
Danh Văn
(Trích báo TTCN 23/7/1995)