vhnt, số 160
14 March 1996
Trong số này:
thư vhnt................................................................PCL
T h ơ :
1 - Trần tình ...................................................Cỏ Nhớ
2 - Mộng tình (primal erotica) ........................Nguyễn Kỳ Phong
3 - Elegy for Ðào Thị Mỹ Linh (english) .........................Ian Bui
4 - Ra đi làm người lớn ..................Trương Nguyễn Thi Thanh
5 - Tuổi 19 ..................................................Sơn Nguyên
6 - Trăm năm ...................................................Nguyên Sa
D i ễ n Ð à n V ă n H ọc :
7 - 1994: Văn học gối vụ ...................................Văn Chính
T r u y ện N g ắn / S án g T ác :
8 - Thương nhớ đồng quê (1/2) .................Nguyễn Huy Thiệp
"vương đạo và bá đạo"
Trong bài tham luận "Khoảng trống ai lấp được trong tư tưởng nhà văn", Nguyễn Huy Thiệp có nhắc đến sự khác biệt giữa vương đạo và bá đạo trong một thể chế xã hội. Vương đạo là lấy đức độ và đạo lý làm nền tảng, còn bá đạo là dùng áp lực và sức mạnh để cai trị.
Trong sáng tác văn chương, là một trong sự biểu lộ chân chính của con người, không thể dùng bá đạo để ép buộc sự sáng tạo. Sự biểu lộ chân chính qua sáng tác nghệ thuật đòi hỏi sự tự do tuyệt đối, mà nhà nghệ sỹ không thể bị áp chế dưới bất cứ một hình thức nào. Trong một chế độ, người ta có thể ức chế được hành động, nhưng e rằng rất khó áp đặt được tư tưởng con người. Khi tư tưởng bị chèn ép, tư tưởng càng có sức mạnh tiềm tàng của nó, đến ngày nó bộc phát, tư tưởng thăng hoa và tư tưởng là sự cứu độ! Trong đời sống mà có sự bá đạo làm chủ, rất hiếm nở ra những sáng tác nghệ thuật chân thực phát xuất từ chiều sâu của lòng người sáng tạo, tuy nhiên cũng có không ít những đóa hoa tư tưởng nở muộn màng, âm thầm lẻ loi, như những trường hợp xuất hiện vài sáng tác phản kháng có chiều sâu và chất lượng từ trong quốc nội.
Lấy vương đạo làm căn bản vẫn là một nền tảng giá trị, như triết học Ðông phương và Mạnh Tử đã dạy. Tự do và lòng khoan dung sẽ là chìa khóa mở cửa cái đẹp bị nhốt kín. "Cái đẹp rồi sẽ cứu thế giới"*, mặc dù trong thế giới hỗn độn vàng và cám heo đầy dẫy này, rất khó nhận ra được cái đẹp...
oOo
Số này xin mời bạn đọc thưởng thức những sáng tác mới lạ của các cộng tác viên, truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, và một bài tham luận thú vị .
Chúc bạn đọc một ngày thú vị!
thân ái,
PCL/vhnt
Trần Tình
ta lang thang chốn đường trần
vụng đường tu mới nợ nần nhau đây
sợ mình lạc bước thiên thai
về cung tiên hết đọa đày nhau thôi
nên tu vụng kiếp anh ơi
ở trần gian níu giây đời oan gia.
Cỏ Nhớ
Mộng Tình
Hãy trang điểm để đêm về tiên nữ
Khỏi thẹn thùng trong giấc mộng vu sơn
Ðêm hàn đới thịt da thèm da thịt
Tình nhân ơi hãy gỏ cửa đêm nay
Ðêm sẽ đến phía sau màu nguyệt ảnh
Mộng sẽ về trong giấc ngủ thụy miên
Nơi thiên cung thanh nữ sẽ đưa đường
Thềm hoa chúc hằng nga khêu gợi quá
Ðây dạ tiệc tình nhân ơi ngồi xuống
Vũ công đâu hãy vũ điệu uyên ương
Nhạc công đâu hãy trổi khúc phượng cầu
Huyền ảo quá xác thân em khiêu vũ
Và vũ trụ như ngừng trong hiện tại
Cho thời giai nhân mặc khách đối tương tư
Cho thời gian ngự chiếm một không gian
Cho ẩn ngữ trần truồng trong vũ trụ
Rồi thiên thể từ ngân hà tái tạo
Mắt huyền châu mờ phủ bởi mê man
Từ vu sơn giòng sinh thủy tràn lan
Vòng tay khép đêm dạ đài qúa ấm
Ðêm tàn tiệc khi giai nhân rời mộng
Trong chiêm bao thề thốt hẹn hò nhau
Về phàm trần còn giữ lấy mùi tiên
Ðêm đã sáng tình nhân còn níu kéo
Nhân tình ơi nằm lại thêm một chút
Diễm mộng này sao quá ngắn đêm nay
Dạ Lai Hương em hãy hẹn đêm mai
Hãy trang điểm để đêm về tiên nữ
Nguyễn Kỳ Phong
Tuần vừa qua tại thành phố Albuquerque đã xảy ra một vụ án mạng rùng rợn nhất trong lịch sử của tiểu bang New Mexico. Năm người đã bị bắn chết một cách thô bạo trong một tiệm cho mướn băng video. Một trong những nạn nhân là một người Việt Nam và là night manager của tiệm - cô Ðào thị Mỹ-Linh, 30 tuổị Vào khoảng năm Mậu Thân (1968), cô Linh và người chị đã được một người đàn bà Mỹ nhận làm con nuôi sau khi hai chị em bị thất lạc với gia đình. Gần đây, hai chị em vừa tìm lại được người mẹ ruột của mình và đang dự tính sẽ trở về VN để thăm mẹ sau hơn hai mươi mấy năm bặt tin tức.
Tôi viết bài này vì thấy câu chuyện thương tâm cầm lòng không đặng. Và viết bằng tiếng Anh để gửi cho báo Albuquerque Journal như một lời phúng điếu cho một người đồng hương không quen biết.
Ian
Elegy For Dao Thi My-Linh
And just like that, you went away
Like the bullet that pierced your brains,
And your struggle of day to day
Was freed at last, in coldblooded hands.
Were they uncouth? Were they mean?
Were they the kind that stopped at nothing?
That blasted moment--so much for life,
Was your last look into their eyes?
Your mother has she been told-
Or those at least of significance?
From the photo you didn't seem old,
Did you put up resistance?
Has there to be those who decide
To take or give what is not theirs?
Should we deplore but cannot cry,
Would crying make us any less scared?
I have no clue, only questions.
What does it matter whós keeping score -
Tonight I'll shut the television
And mourn of death in that video store.
96'3
Ian Bui
Dallas, TX
Ra Đi Làm Người Lớn
chiều hôm nay có một người bỏ học
bỏ ghế bàn, sách vở, với hành lang
con bé ngồi tư lự, tóc buông ngang
buồn man mác khua về loang chỗ trống
thằng bé đứng ngập ngừng ngoài sân rộng
chiếc áo xanh vẩn bụi, mép rối nhàu
mười năm trường chẳng thấy cặp sách đâu!
nay tay trắng ra đi làm người lớn
con bé biết từ nay mình mất bạn
chẳng còn người giựt tóc, với giành ăn
mai ra đường, bạn nó sẽ dấn thân
đi giành giựt, bon chen cùng muôn vật
thằng bé biết từ nay mình sẽ mất
tuổi ngây thơ với chúng bạn vô tư
anh xích lô hay thằng gánh cơm dư
mà tháng chín hết là khi khai giảng
con bé đứng trông theo hình bóng bạn
cổ nghẹn lời, đôi mắt chợt nhiên cay
nước mặn nhoà, dáng bạn nó lung lay
rồi tan loãng vào khung trời xa lạ
Trương-Nguyễn Thi Thanh
Tuổi 19
(thân tặng sinh nhật tuổi 19 )
Chưa phải là hai mươi
Chỉ mới là mười chín
Nhưng cũng đã qua rồi
Thuở mười tám dễ thương
Mười chín như bong bóng
cứ muốn bay lên trời
Thử sức cùng nắng nóng
Chạy đua cùng mây trôi
Mười chín. Ôi! lãng mạn
Ươm hoa bên gối thơ.
Giấu trong lòng thầm lặng
Môt ngã tư đợi chờ
Mười chín là người lớn
Nhưng vẫn là trẻ thơ
Mơ vào trong cổ tích
Ðổi trái tim dại khờ
Son Nguyen (wsu)
Trăm Năm
Trăm năm nghĩ cũng xa vời
Những mung lung cũ sẽ rời bỏ đi
Em vào bằng ngón chim di
Một trăm năm nữa chắc gì ở đây
Anh nằm ôm chặt vòng tay
Những đêm khuya muộn những ngày ngủ ngon
Những chiều hạnh phúc da non
Vỡ ra tiếng gọi vẫn còn đâu đây.
Nguyên Sa
PCL: Ðây là bài tham luận từ trong nước, về tình trạng văn học ở VN trong năm 1994. Tuy bài báo đã đăng trên "Tác Phẩm Chọn Lọc" tập san từ tháng 6, 1995, nhưng xin trích đăng lại trên vhnt, để độc giả hiểu về những phức tạp của văn học quốc nội, không kém sự lạc lõng và chi phối của văn học hải ngoại chúng ta .
1994 - VĂN HỌC GỐI VỤ
Nói điều này ra, có thể nhiều người không thích, rằng vài năm qua mùa vụ văn học cơ chừng lửng lép. Nói thế là căn cứ vào việc không chọn được quyển sách nào trong số các nhà văn đang viết để trao giải thưởng Hội Nhà Văn (HNV) 1993, việc trao cho 2 hai truyện ngắn chung một giải nhất cuộc thi 92-93, của Văn Nghệ Quân Ðội (VNQD). Vâng, mỗi truyện ngắn (tiểu thuyết, bài thơ), dù là của chỉ một nhà văn, là sản phẩm độc nhất, cái nọ không thể bù san cho cái kia, khác hẳn những thửa ruộng khoán của một chủ hộ. Bán nguyệt san Thế Giới Mới lại phải trao những 2 giải nhất trong cuộc thi truyện ngắn dưới 1000 chữ nhiều tai tiếng, lại cũng chứng tỏ chưa có truyện nào thật mập mẩy. Tuần báo Người Hà Nội đã không trao giải nhất cho cuộc thi thơ của mình, là một thẳng thắn thừa nhận sự lửng lép chúng ta đang nói tới, tôi nghĩ vậy.
Nói ra cái điều tôi cảm nhận khác với đánh giá của HNV, rằng văn học đang khởi sắc, vì nghĩ rằng nó khởi sắc hay không khởi sắc thì thu nhập của văn phòng HNV vẫn thế, nó không hề gắn liền, tỉ lệ thuận, như năng suất lúa chẳng hạn, giữa BQL HTX (tập đoàn, nông trường...) với các chủ ruộng - một quan hệ hiện đang "khuyến nông hóa", cho thiết thực hơn. Nhưng nói thế, thì cũng xin thêm rằng tôi không dám phủ nhận thành tựu. Tôi không thích nghe hôm nay phủ nhận hôm qua, càng không thích người đã có thành tựu hôm qua bảo rằng hôm nay chưa có gì, chưa là gì...
Tại sao có tình trạng lửng lép? Phải tại xóa bao cấp, các tài năng không được hỗ trợ để phát huy? Không đúng. Ðầu năm đã có hẳn Hội Nghị Các Nhà Văn Trẻ Toàn Quốc khuấy động cả một phong trào, bên quốc phòng có cả mấy trại sáng tác phụ trợ cho cuộc thi lớn VNQD.
Còn bảo tại ta đang thiếu tài năng, thì cũng không đúng nốt. Ở tuổi sắp 40, sức nghĩ, độ chín tài năng của lứa chúng tôi, nói chung, không thể bằng các nhà văn trẻ nay đang vào tuổi ấy.
Sau 20 năm nhìn lại, tôi thấy: Trong cuộc chống Mỹ thống nhất đất nước vĩ đại (gồm công của cả chiến trường và HT hóa ở hậu phương) có công lớn của các nhà văn, chiến công ấy là không thể phủ nhận. Nhưng đó đã là lịch sử.
Trong ngày ta đang sống đây có ngày hôm qua, có ngàn xưa, nhưng không thể lấy lịch sử thay cho hiện tại, (càng không thể) cho tương lai. Tô Hoài, trong số Văn Nghệ tất niên, có chán mớ đời mà nói "Ô thế ra mình chỉ còn mỗi con dế mèn". Ðọc xong, tôi phải đội mưa sang nhà ông mà thưa : "Cháu thấy chú còn cả Cát Bụi Chân Ai nữa". Ông chỉ cười, cái cười ruồi thật lạ, chỉ những nghệ sĩ lớn mới có nổi. Vẫn bài trên, Tô Hoài còn nói : "Nguyễn Văn Bổng 40 năm xông pha trận mạc, có lần suýt chết, in cả ngàn trang các tiểu thuyết đồ sộ: Cửu Long cuộn sóng, Rừng U Minh... nhưng còn lại, có lẽ chỉ hơn trăm trang của truyện ngắn Trong Sương Mù Ðà Lạt và tiểu thuyết mi-ni Tiểu Thuyết Cuộc Ðời. Nhà văn lớn kiêm chứng nhân lịch sử văn học thời đại này còn ý tứ nói: Hồi còn ở Việt Bắc, Tố Hữu đã chê truyện Mường Giơn của tôi, cả kịch Ðóng Góp của Nam Cao nữa, là khô cứng, tên như tên bài tập đọc lớp 1. Lạ thật, thế thì ai trói buộc văn học vào thế khô cứng? Có phải chính là tư duy, là thói quen đơn giản hóa văn học, coi bạn đọc lùn văn hóa nên cần rành mạch, ý tứ... của một số cán bộ lãnh đạo văn học và, nếu đúng thì điều này mới đáng sợ: của các nhà văn?
Thế nhưng, văn học thời đổi mới (thời từ x chuyển sang kinh tế thị trường (y) theo định hướng XHCN) còn thiếu hệ thống lý luận phù hợp, tạm gọi là x y x. Thiếu nó, là thiếu biển báo, vạch sơn chia luồng giao thông trong lãnh đạo HNV. Hệ quả là:
a) BCH HNV năm trước nâng cấp cho tác phẩm A, vài năm sau lại đem A ra mà hạ cấp; hoặc vì trao giải thưởng hàng năm cứ bị la ó như sân cỏ nhiều trọng tài mà lại không có luật mới; nên năm vừa rồi đã rào rất kỹ trước khi công bố tác phẩm được giải thưởng : Di Cảo II của nhà thơ lớn Chế Lan Viên (quá cố), 3 tặng phẩm cho 2 tác giả (trẻ và nữ) Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh và ông Trang Thế Hy (già). Tôi cho rằng dẫu dũng cảm và lớn tiếng đến như ông Trần Mạnh Hảo, cũng không thể nói gì về cái thế chân kiềng đã cài.
b) Các nhà lý luận phê bình do thiếu x y z nên ở mặt này thì họ nợ các nhà văn; ở mặt kia, họ nợ bạn đọc, họ ngại phê bình tác phẩm, sợ bị xếp vào đội ngũ bảo thủ (x là nhất) hoặc cấp tiến (y là nhất) nên những tác phẩm hay hiếm hoi mà văn đàn có được, bạn đọc không biết đến, khiến văn học đã không bội thu, còn thêm cái cảm giác lửng lép.
oOo
Tuy vậy, tôi hồ hởi mà thưa rằng, năm qua văn học có những bước chuyển động đáng mừng. Cả hai nhà văn riêng tôi rất kính trọng, là Ðỗ Chu (người góp phần hình thành nền văn học x z) và Nguyễn Huy Thiệp (người góp phần đổi mới văn học ấy thành x y z) đều có truyện ngắn hay. Truyện của Ðỗ Chu (VN) thấm đẫm tình thương yêu dân tộc - một dân tộc đậm dầy văn hiến, nhưng cũng còn cứ phải bịa tạc ra quỉ thần (cô Nỗng) để dọa nhau; giờ đây những đứa con, cả lạc bước tha hương xứ người lẫn cặm cụi nơi cố hương, của cái làng quê Kinh Bắc kia, té ra lại cùng đều cần đùm bọc nhau, nhìn nhận nhau sau những bi kịch hợp tan, để tìm đến cùng một chân trời (x y z) - Những Loài Chim Trên Sóng, đến Thương Nhớ Ðồng Quê và Mưa Nhã Nam, dã sử vốn luôn u uẩn trong thế giới tâm hồn Nguyễn Huy Thiệp gặp được độ thuần thục của tài năng anh, bật thành một truyện ngắn lạ, rưng rưng cao cả, rưng rưng cảm động.
Tôi đồng ý với Nguyễn Khải ở chỗ : "Những truyện được giải của ta (cuộc thi 92-93 VNQÐ) là những truyện ngắn hay của nền văn học ta vào những tháng năm này". Cuộc thi kết thúc lừng lẫy, được in thành hai tập sách Hồi Ức Binh Nhì và Bến Trần Gian, các bạn ở xa chưa biết, rất nên tìm đọc. Nhưng tôi thấy lạ, là sao nhà văn tinh tường này lại quên truyện Tự Lập của Phan Thị Vàng Anh mà ông rất quí ? Tự Lập chỉ ra căn bệnh của số đông từ x sang y, không còn được bao cấp, rất nhiều dự định cho giầu có, hạnh phúc, nhưng không dứt khoát tự sống, lại uể oải sống nhờ, hoặc vào cô vợ chưa cưới, hoặc cha mẹ mình mà mình đã không muốn nữa. Nữ văn sĩ trẻ rất tài năng xuất thân bác sĩ chưa mổ xẻ này, đã điện tâm đồ được căn bệnh thế hệ qua truyện ngắn bị loại. Rồi thời gian sẽ phúc khảo cho Phan.
Còn cái giải nhất ở Thế Giới Mới, thì xin lỗi, nó hơi bị biết rồi, khổ lắm, nói mãi. Tôi cũng không thích truyện Ðường Tăng ở cuộc thi này, cũng như Nhân Sứ ở cuộc thi VN 1991. Nguyễn Du đã từng sáng tạo Truyện Kiều hiển vinh cho bất kỳ nền văn học nào trên cái con quay đẽo dở của Thanh Tâm Tài Nhân; còn hai nhà văn trẻ bây giờ, lại đi từ đỉnh hiển vinh của nền văn học khác, nên chỉ khuất trong cái bóng của Hy-Mã-Lạp-Sơn lận.
Riêng chưa đầy nghìn chữ của Khách Thương Hồ thì lại bất chợt đua Hào Vũ trỗi vượt hẳn khỏi mấy gang sách anh đã in trước đó, đưa anh vào số ít trong đông đảo các nhà văn đồng thời. Truyện vừa tinh tế vừa mạnh mẽ, vừa mong manh khí vị Bắc Hà vừa khoáng đạt như sông nước Cửu Long, kể về một thương binh lái đò, chở một thương binh khác qua sông hồ, dưới làn mưa nhẹ, chợt thức ngộ nên đã chợt hạnh phúc trong hơi văn đằm thắm, đẹp như làn mưa kia.
Phạm Thị Minh Thư đã Có Một Ðêm Như Thế, chợt khoanh tay đứng nhìn văn học đổi mới. Rồi khi không ai chờ chị nữa, thì in 2 kỳ VN truyện Nỗi Lo Âu Làm Người không nhiều người thích. Dân mình chưa quen với sự gia cố lý tính trong thiết thực việc đời. Người đọc quen lối đọc chờ kết cho xong xuôi mọi chuyện, chờ mãi cho qua biến cố mà qua lâu quá, đến khi kết thúc truyện lại bục ra một biến cố khác, có nguồn cội từ hành vi lãng mạn khởi đầu, mà đứng ở chỗ cuối nhìn về nó, cứ thăm thẳm loằng ngoằng tưởng bất tận như lối hành văn cố ý tạo ra. Ðối ngược với Phạm Thị Minh Thư, Phạm Thị Hoài ỏe họe ra mọi chuyện, khiến chỉ với vài mươi cô gái ra tỉnh học may thôi, truyện ngắn Tiệm May Sài Gòn đã nhộn nhạo bất trắc như cái chợ, như cuộc đời thì chớ, lại còn dung nạp nổi cả một bà chủ hiệu kiêm nhà thơ, chửi cũng thơ, thèm ai cũng thơ mà đến cả cúng khấn cũng thơ phú đồng bóng nốt. Ðứng trước mỗi truyện của Phạm Thị Hoài, tôi cứ có cảm giác gã đàn ông háu gái, tán tỉnh một cô gái đẹp nhưng bốp chát khôn ranh, cô ta cứ biết tỏng bụng dạ anh kia rồi, rất là khó chiếm đoạt!
Tôi mượn chữ Ðại Ca của Trần Ðăng Khoa để gọi hai nhà văn lớn Tô Hoài và Nguyễn Khải, gọi thế trẻ hơn gọi là đại thụ. Mà trẻ thật. Trẻ từ trong cách nghĩ, sức nghĩ, ra lượng tác phẩm. Hà Nội Trong Mắt Tôi (LÐ nhiều kỳ) và Những Người Già (VN) cho thấy đại ca Nguyễn Khải thấm nhẽ nhân tình thế thái hơn; do đó rộng lượng hơn, rộng lượng đến có thể bông phèng, không ám chỉ gay go như những tiểu thuyết trước đó. Ðại ca Tô Hoài hôm nay sang tuổi 75, sách đã xếp cao bằng người, bỗng thấy cái cần viết vẫn chân mây. Than ôi! có sâu sắc đến độ nào đó, mới có thể hồn nhiên như con trẻ, dám xí xóa cuộc chơi này, để bày trò chơi khác - Ấy là nhà văn. Năm nay ông cho in "Con Ngựa" (VN) và Chuyện Ðể Quên (Nông Nghiệp VN) đều hay. Dưới trang văn linh hoạt, kỹ lưỡng của ông, có một điều gì đó của cuộc đời cứ nhoe nhoét ra, rồi lại đâu vào đấy, như cuộc dâu bể, như ứng xử lịch duyệt Tô Hoài, như đời sống vậy.
Tôi nói đến những truyện ngắn hay của Ma Văn Kháng Bồ Nông Ở Biển (VN), Chọn Chồng (NNVN) sau cùng bởi hai lẽ :
a) Anh là gạch nối giữa các nhà văn đại ca và lớp trẻ. Văn anh hay, nhiều đời sống, cắt nghĩa nhân quả rất giỏi, nhiều chi tiết tâm lý nhuần nhị, nhất là tâm thế xã hội.
b) Nhưng anh vẫn ham chất chứa vào con thuyền văn học quá nhiều đạo đức. Có thể mô-típ hóa các truyện của anh. Một người tốt sống với người không tốt, vừa cảm thấy bất lực, nghèo túng lại vừa cao ngạo ghê tởm người kia. Tôi không gọi đó là lối viết dùng trục thẩm mỹ này vần xoay trục thẩm mỹ khác. Trong cuộc sống có diễn ra thế đâu, có người nào chỉ là ông thánh đâu, có người nào chỉ đểu cáng đâu ?
Ðọc kỹ những truyện ngắn hay trên đây, tôi đều thấy chúng rất phải chăng trong cách cắt nghĩa đời sống, cách nhìn nhận lẫn nhau. Dù bực giận, cãi cọ, thương cảm, yêu mến giữa đồng loại, hay chỉ trích khám phá mặt trái xã hội, hay chiêm nghiệm nhân sinh...đều thấu tình đạt lý, có phải có trái, xấu tốt nhiều ít khác nhau nhưng ai cũng có cả. Ðó là cuộc sống chăng? Nếu vậy, văn học cần ở nhà sáng tạo ra nó một tinh thần điềm đạm, dân chủ?
oOo
Trở lên, tôi mới nói tới văn xuôi. Về thơ, tôi yêu thơ như mối tình đầu, nay tôi đã viết ký đặt truyện và đã lấy vợ, còn nàng thơ cũng đã có nơi. Cũng vì vậy, tôi muốn thơ lúc nào vẫn đẹp, vẫn mới. Thấy thơ năm qua khép nép giữa cuộc tranh luận thơ ngập lụt ngôn từ nhưng chưa ai đưa ra được con thuyền No-Ê (Noah) khả dĩ tin cậy để thơ đến được vòng tay bạn đọc nhanh hơn.
Khởi đầu là Trần Mạnh Hảo chê tập thơ Sự Mất Ngủ của Lửa (Nguyễn Quang Thiều) là Tây, hay khóc và nói đến vú bà góa hơi nhiều. Tóm lại, thơ Nguyễn Quang Thiều mắc bệnh ngủ. Ông Hảo được nhiều người ủng hộ, ở khía cạnh phản bác lại những "tuyên ngôn" đổi gác thơ và lối phèng la ồn ào cho đêm diễn của một nhóm thể nghiệm sân khấu nhỏ còn rất ít khán giả mà đã cứ phong thánh (1) cho nhau! Nhưng, khi có những ý kiến nói lại, rằng nên để cho thơ cũng dự phần đổi mới, thì ông Hảo bắt đầu có những đánh giá cao thơ quá khứ, hạ thấp thơ hiện đại bằng những lời đanh thép hơi thừa. Hẳn ông sốt ruột, nên quên câu thơ Trần Ðăng Khoa làm năm 13 tuổi : "Cái còn thì vẫn còn nguyên. Cái tan thì tưởng vững bền vẫn tan". Về học thuật, ông Hảo có mâu thuẫn. Một mặt, ông coi Bạch Cư Dị bên Tàu là phó cả thơ truyền thống của ta (quên phắt những lời ru, những câu dân ca), không nghe ông Bạch, là phủ nhận truyền thống. Mặt kia, ông chê các nhà thơ học lối (cỡ tầm) Bạch Cư Dị của Tây.
Cũng coi như cùng lúc, ông Phong Lê có những đánh giá không cao thành tựu văn học cách mạng - ông muốn thay mặt thời gian, nhưng thiếu hẳn bản lĩnh điềm đạm của lịch sử. Còn ông Phạm Xuân Nguyễn đã nhầm lẫn, đem công lao cách tân thơ mới của Nguyễn Ðình Thi, Quang Dũng, Hữu Loan, Trần Dần, Lê Ðạt, Chính Hữu... suốt từ giữa cuộc kháng Pháp vắt sang hòa bình nhiều năm, cho độc một nhóm Sáng Tạo do Thanh Tâm Tuyền tiên khởi - dù sự ghi nhận của nhóm này cho thơ Việt là cần và đã đến lúc.
Tuy nhiên, bảo Phạm Xuân Nguyên như thế là gián tiếp chê thơ chống Mỹ là ngoại suy, và cơn mưa tranh luận đến đây xuất hiện những tiếng sét qui chụp. Nhân thể, nhưng ở khía cạnh khác, tôi xin nói ông Hảo viết về Bóng Chữ cũng nhiều ngoại suy (bảo tác giả nó dẫn bạn đọc đến bản năng thú vật); đó là tập thơ có tìm, có đến - nó dở hay nhiều ít là tùy người đọc, nhưng đã có khoảng 15 nhà thơ viết về nó, mỗi bài trích ít nhất dăm bảy câu khẳng định rất hay mà không ai trích trùng ai, mới là điều cần nghĩ ngợi.
Cuộc tranh luận thơ đến khoảng đầu quí IV thì Ðỗ Minh Tuấn vào cuộc. Nhà đạo diễn kiêm thi sĩ tài năng này rất giỏi mạ kền chữ nghĩa, nên khi ông lắp rắp những danh ngôn phương Tây cũ trong các bài viết bảo vệ thơ ta, thì chúng cứ lóng la lóng lánh. Nhưng đeo kính chống lóa vào mới thấy ông cũ hơn thời cuộc. Ðó là khi cả nước đang nỗ lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa, ông lại đi kêu gọi các nhà thơ tôn trọng quyền huyền thoại, bảo hiểm cho lịch sử. Trong khi, giá trị đích thực của lịch sử, ví dụ anh hùng Nguyễn Huệ, bị những ai đó gia công xóa ra khỏi ký ức dân tộc suốt 200 năm, mà có xoá đuợc đâu? (cũng như bản sắc văn hóa dân tộc - xin đọc thêm Cảm Xúc Văn Hóa - VN - Ðỗ Chu). Vả lại, ông lại cũng nhầm lẫn khoa học ở chính cái điều ông đề xướng; Tây sang Ðông học để bổ túc văn hóa Tây, còn Ðông say Tây học để bổ túc văn hóa Ðông; sao ông lại khẳng định rằng:
- Tây sang Ðông học là như thế Ðông giỏi rồi?
Hiện cuộc trao đổi về thơ trên báo Văn Nghệ đang tiếp tục. Chỉ xin góp một lời bàn - cũng chỉ là mượn ý của Ông Cụ quê tôi, nói cách đây đã lâu lắm "Thơ là của muôn nhà (ai cũng) có thể bình phẩm (nhưng) chớ chửi mắng, lấy ý mình ức chế ý người". Ðó là cụ Lê Quí Ðôn.
Mặt khác, cuộc trao đổi về thơ tự nó bất ngờ có một ý nghĩa khách quan : Thơ đã xuất hiện một cái gì đó khác tình trạng thơ vốn đang bị chính các nhà thơ kêu rằng... lạm phát. Có người bảo thơ tìm tòi hôm nay bí hiểm, ít bạn đọc (đúng - thơ Hoàng Hưng, Ðặng Ðình Hưng..chẳng hạn) là phản thơ. Vậy lý giải sao đây việc 4000 người đọc mua hết 4000 cuốn (2 tập) thơ Nguyễn Duy viết đang khác với chính Nguyễn Duy hôm qua ? Cả Bùi Chí Vinh nữa? Còn những nhà thơ vẫn viết theo đà cũ, thì biếu mãi không hết 1000 tự bỏ tiền ra in ? Phải chăng thơ đang tìm nhiều cách khác nhau và khác với lối thơ bạn đọc đã hờ hững, để lăn vào lòng bạn đọc, như hồi Thơ Mới, như thời thơ chống Mỹ? Tôi tin như vậy.
Tôi cảm thấy văn học ta đang cựa quậy, để đi thêm một bước trong tiến trình đổi mới chung của Ðất Nước. Và lạc quan ngay trong cả năm còn lửng lép này. Nếu vụ mùa thất bát, nông dân ta lấy vụ đông bù vào, dần dà vụ đông thành vụ chính và chắc ăn vì không bão lụt. Nhưng trong sản xuất văn học, hình nhCó thể đồng ngập lâu, nhiều nhà văn chưa xuống giống, vì còn đợi đất khô ? Còn những nhà văn, nhà thơ nhạy cảm, có tài thì như các nông gia mẫn cảm thời tiết, họ đã có được một vụ gối, một giao thừa. Thưa không ít đâu, nếu bạn đặt thành tựu của văn học ta trong hai ngàn năm qua, có cả những trăm năm tay trắng (2) cơ mà.
Văn Chính
Hà Nội 1-4-1995
báo Nông Nghiệp xuân 1995
(1) chữ của nhà văn Tô Hoài
(2) ý của nhà thơ Chế Lan Viên
Thương Nhớ Đồng Quê
Tôi là Nhâm. Tôi sinh ở làng quê, lớn lên ở làng quê. Ði trên đường Năm nhìn về làng tôi chỉ thấy một vệt xanh nhô trên đồng vàng. Xa mờ là vòng cung Ðông Sơn, trông thì gần nhưng từ làng tôi lên đấy phải năm mươi cây số. Làng tôi gần biển, mùa hè vẫn có gió biển thổi về.
Tháng Năm âm lịch là mùa gặt. Mẹ tôi, chị Ngữ, chú Phụng với tôi ra đồng từ mờ sáng. Ba người gặt, còn tôi gánh lúa.
Tôi gánh lúa về nhà, đi men theo đường mương. Nắng gắt lắm, ngoài trời có lẽ phải bốn mươi độ. Bùn non bên vệ mương nứt nẻ, bong cong lên như bánh đa.
Tôi mơ mộng lắm, hay nghĩ. Bố tôi là thiếu tá, cán bộ trung cấp kỹ thuật hải quân, vẫn đi ra các đảo lấp ra đa với máy thông tin, mỗi năm về phép một lần. Bố tôi thuộc hết tên các đảọ Mẹ tôi chẳng bao giờ đi xa khỏi làng. Mẹ tôi bảo: "Ở đâu chẳng thế, chỗ nào cũng toàn là người".
Chú Phụng thì khác, chú Phụng đã đi nhiều nơi, chú Phụng bảo tôi khi chỉ có hai chú cháu với nhau : "Trong thiên hạ không phải chỉ có người đâu, có các thánh nhân, có yêu quái ". Nhà chú Phụng toàn phụ nữ: mẹ vợ, vợ, bốn đứa con gái. Chú Phụng đùa: "Chú đẹp giai nhất nhà".
Chị Ngư là chị dâu tôi, lấy anh Kỷ. Anh Kỷ đang làm công nhân trên mỏ thiếc Tĩnh Túc Cao Bằng. Chị Ngữ là con ông giáo Quỳ dạy cấp một ở làng. Hồi trước tôi học ông giáo Quỳ. Ông giáo Quỳ có nhiều sách. Mọi người vẫn bảo ông là "đồ gàn", lại bảo ông là "lão dê già", "Quỳ dê". Ông giáo Quỳ có hai vợ, vợ cả sinh ra chị Ngữ, chị đâu tôị Vợ hai là thím Nhung, vừa là thợ may, vừa bán quán, sinh ra thằng Văn bạn tôi. Thím Nhung trước kia là gái giang hồ ở Hải Phòng. Ông giáo Quỳ lấy về làm vợ nên uy tín chẳng còn gì.
Tôi gánh được chục gánh lúa thì đầy ùn cả sân. Tôi gọi cái Minh dọn rơm để có chỗ xếp lúa. Cái Minh em tôi người nhỏ quắt, đen đúa nhưng mắt sáng, lại dai sức. Cái Minh chui ở bếp ra, mặt đỏ gay, mồ hôi ướt đầm hai bên vạt áo.
Tôi ra bể nước mưa múc đầy cả một gáo dừa uống ừng ực. Nước mát lịm. Mẹ tôi vẫn hay chan cơm nước mưa ăn với cà muối. Mẹ tôi không ăn được thịt mỡ.
Sân nóng hừng hực, hơi nóng mờ mờ bốc lên ngây ngất. Mùi lúa ngột ngạt.
Ðường làng đầy rơm rạ phơi ngổn ngang. Tôi đi qua cổng nhà dì Lưu thấy có đám người xúm đông. Cái Mị con dì Lưu gọi tôi :"Anh Nhâm!". Tôi vào thấy ông Ba Vện bưu điện xã đang nhét thư báo vào túi bạt sau yên xe đạp. Cái Mị bảo tôi :"Có điện của chị Quyên ngoài Hà Nội".
Dì Lưu là em mẹ tôi, bị liệt mấy năm nay. Chú Sang chồng dì Lưu đang công tác bên Lào, chú là kỹ sư cầu đường. Anh trai chú Sang ngoài Hà Nội có con gái là Quyên đi học đại học bên Mỹ. Hồi bé Quyên đã có lần về thăm quê.
Tôi cầm bức điện đọc :"Cô Lưu cho người ra ga đón cháu Quyên 14 giờ ngày..." Tôi hỏi cái Mị :"Chiều nay à?". Cái Mị gật đầu.
Dì Lưu nằm nghiêng tựa lưng vào tường. Lúc nào dì Lưu cũng nằm như thế đã sáu năm nay. Dì Lưu bảo tôi :"Nhâm giúp dì ra đón em Quyên nhé". Tôi bảo :"Nhà cháu đang gặt". Dì Lưu bảo: "Ðể đấy đã. Gặt ở khoảnh nào?". Tôi bảo: "Gặt ở khoảnh gieo bào thai hồng".
Cái Mị cầm bức điện ra đồng để nói với mẹ tôi. Cái Mị cùng tuổi cái Minh em tôi nhưng cái Mị trắng hơn, đậm người hơn. Nó hay nói, hay làm nũng. Cái Mị bảo :"Anh Nhâm ơi, hôm nào anh làm cho em cái lồng lấy ổi". Lồng lấy ổi làm bằng cây nứa tươi, đầu lòng hơi giống hom gỉo, có hàm răng mở ra. Tôi bảo: "Em kiếm nứa đi". Cái Mị bảo: "Em có rồi. Mai anh làm nhé".
Tôi nhẩm việc, thấy kín hết chỗ từ sớm đến khuyạ Cái Mị bảo: "Mai đấy". Tôi bảo: "Ừ". Nhà cái Mị có ba cây ổi, nó trèo ổi gãy cành có lần suýt ngả. Chú Phụng đọc tờ điện báo nói: "Sao lại bưu cục S.N.N? Thế là nghĩa lý gì?". Mẹ tôi bảo:"Dì Lưu đã nhờ thì Nhâm đi đị Cái áo mới mẹ để ở hòm, lấy mà mặc". Tôi bảo cái Mị: "Em về đi. Anh phải gặt đến trưa, ăn cơm rồi đi luôn".
Cái Mị đi về một mình. Bóng nó cứ ngụp dần trên cánh đồng xa tít tắp đang gặt nham nhở. Tôi cầm liềm. Quơ một vòng sát chân rạ. Giật mạnh. Bước sang trái. Quơ liềm. Giật mạnh. Lại bước sang trái. Lại quơ liềm. Lại giật mạnh. Cứ thế. Cứ thế mãi. Ðất trên mặt ruộng ẩm ướt. Những con châu chấu nhỏ xíu nhảy lách tách.
Ðến giữa trưa thì đồng vắng lắm. Nhìn ra chỉ có bốn người nhà tôi giữa đồng. Mẹ tôi ngồi bên vệ cỏ nhổ gai ở chân. Chị Ngữ đội nón, khăn trùm mặt, quấn xà cạp đến tận mắt cá chân, ngơ ngẩn nhìn về dãy núi xa phía vòng cung Ðông Sơn. Chú Phụng xếp lúa để gánh về. Chú Phụng hỏi: "Mày về luôn chứ?". Tôi khô khốc miệng, không nói được, chỉ gật đầụ Hai chú cháu tôi mỗi người một gánh đi về. Chú Phụng đi trước, tôi đi saụ Gánh lúa rất nặng. Tôi thấy chân mình run lắm nhưng cố bước. 100 bước. 200 bước. 1000 bước. 2000 bước. Cứ thế. Cứ thế mãị Rồi cũng đến nhà.
Cái Minh dọn cơm cho tôi ăn rồi vội vàng mang cơm ra đồng cho mẹ tôi và chị Ngữ.
Tôi ăn cơm. Cơm có rau khoai lang luộc, cà muối, cá tép kho khế. Tôi ăn một lèo sáu bát cơm. Bây giờ đang mệt, nếu không mệt tôi đánh thông đấu gạo.
Tôi ra giếng tắm, thay quần áo. Tôi lấy chiếc áo mới ra mặc, nhưng thấy ngượng nên thôi. Tôi mặc chiếc áo bộ đội bạc màu của bố tôị Tôi sang nhà dì Lưu lấy xe đạp. Dì Lưu bảo: "Cháu cầm lấy ít tiền". Dì Lưu đưa tôi năm nghìn nhưng tôi chỉ lấy hai nghìn. Hai nghìn là hơn cân thóc. Dì Lưu hỏi: "Nhâm còn nhớ mặt em Quyên không?". Tôi gật đầu, thực ra tôi không nhớ lắm, nhưng gặp tôi cũng nhận ra.
Tôi đạp xe ra gạ Từ làng tôi đến ga tám chín cây số. Lâu lắm tôi mới đi xa thế này.
Con đường đất men theo rìa làng, qua đình làng, qua đầm sen rồi theo bờ mương ngược về huyện lỵ. Tôi nghĩ. Những ý nghĩ của tôi mông lung.
Tôi nghĩ.
Tôi nghĩ về sự đơn giản của ngôn từ
Sự bất lực của hình thức biểu đạt
Mà nỗi nhọc nhằn đầy mặt đất
Sự vô nghĩa trắng trợn đầy mặt đất
Những số phận hiu hắt đầy mặt đất
Bao tháng ngày trôi đi
Bao kiếp người trôi đi
Sự khéo léo của ngôn từ nào kể lại được
Ai nhặt cho tôi buổi sáng mai này
Nhặt được ánh hoang vắng trong mắt em gái tôi
Nhặt được sợi tóc bạc trên đầu mẹ tôi
Nhặt được niềm hy vọng hão huyền trong lòng chị dâu tôi
Và nhặt được mùi vị nghèo nàn trên cánh đồng quê
Tôi rốt ráo bắn tỉa từng ý nghĩ
Tìm cách săn đuổi cho nó vào chuồng
Và tôi hú gọi trên cánh đồng lòng
Tru lên như con sói hoang
Tôi gắng gặt một lượm sống
Bó buộc lỏng lẻo bởi dải băng ngôn từ
Tôi hú gọi trên cánh đồng người
Tôi nhặt những ánh mắt đời
Hòng dõi theo ánh mắt tôi
Dõi vào cõi ý thức
Cõi ý thức mênh mông xa vời
Dầu tôi biết vô nghĩa, vô nghĩa, vô nghĩa mà thôị
Ga chiều huyện lỵ vắng vẻ. Mấy con gà rã cánh đi trên sân ga. Có khoảng chục người chò ở cổng. Vẳng lại tiếng nhạc ở băng cát-xét nhà nào đang mở. Tiếng hát của ca sĩ Nhã Phương chậm rãi: "Người đi qua đời tôi, có nhớ gì không người? Em đi qua đời tôi, có nhớ gì không em ?". Hàng phở, hàng giải khát. La liệt là những sạp hành quấn áo, giầy dép, đường sữa, thuốc lâ Ô tô chạy xuôi chạy ngược.
Trời rất trong. Nắng bừng bừng. Cả phố huyện say nắng.
Tiếng còi tàu hú từ xa dè dặt, vui mừng. Có ai nói to :"Tàu về". Cả phố huyện vẫn mơ màng. Lại có ai gắt lên: "Tàu về". Tiếng còi tàu hâm dọa, chói óc. Mọi người bỗng nhiên rối rít, cuống cuồng. Những bà, những chị, những đứa trẻ bán hàng rong chạy ngược chạy xuôi. Tiếng rao hàng chen nhau: "Nước đây! Ai bánh nào! Ai nước nào! Ai bánh nào! Ai nước nào!".
Tôi dắt xe đứng một chỗ nhìn. Người trên tàu ra đứng ngồi ngỗn ngang ở ngay bậc cửạ Ðây là ga lẻ. Ðồng quê tôi vô danh. Nơi tôi đứng đây vô danh.
Khoảng hơn chục người lần lượt qua cổng soát vé. Tôi nhận ra mấy thầy cô giáo cấp ba trường huyện. Bộ đội. Mấy người buôn chuyến. Mấy người thợ sắt. Một ông to béo, đeo kính râm, mắt kính vẫn còn dán tem. Một thanh niên cao, gầy, tóc rễ tre, đôi mắt tư lự. Tôi biết người này. Ðấy là nhà thơ Văn Ngọc. Sau anh Ngọc là một cặp vợ chồng giáo Quyên.
Quyên xõa tóc, mặt áo pun, quần gin, đeo kính, khoác túi. Quyên trông khác hẳn mọi người bởi toàn bộ thần thái toát ra.
Quyên qua cửa soát vé, nhìn quanh. Nhận ra tôi ngaỵ Quyên bảo: "Tôi là Quyên. Có phải cô Lưu dặn anh đón tôi không ?". Tôi bảo: "Vâng". Quyên cười: "Cám ơn anh. Anh là thế nào với cô Lưu? Anh tên gì?". Tôi bảo:"Tôi là Nhâm, tôi là con ông Hùng". Quyên hỏi: "Thế anh có họ hàng gì với tôi không?". Tôi bảo: "Không". Quyên gật đầu: "Tốt. Cô Lưu thuê anh à ?". Tôi nhìn cái bóng tôi sẫm trên nền xi măng. Tôi, thân phận tôi, ở đâu người ta cũng nhận là kẻ làm thuê, làm mướn.
Chiều xuống chậm. Những bóng râm chạy đuổi nhau lướt trên mặt đất. Chiều đánh rỗng nội tâm của ai hy vọng lý giải điều gì có nghĩa.
Quyên hỏi: "Nhà anh cấy bao nhiêu sào? Mỗi sào bao nhiêu thóc? Ðược bao nhiêu tiền?". Tôi bảo: "Mỗi sào được hơn ba nồi, khoảng gần tạ, mỗi cân thóc một nghìn tư". Quyên nhẩm: "Hai mươi triệu tấn thóc cho sáu mươi triệu người". Tôi bảo: "Có ai chỉ nghĩ đến ăn".
Qua đầm sen gặp sư Thiều. Sư Thiều chào. Tôi chào lại. Sư Thiều bảo: "Tôi vẫn nhớ dành cho cậu cây hồng tú cầu". Tôi bảo: "Ðể lúc nào qua chùa con xin". Tôi thú chơi hoa. Ông giáo Quỳ bảo: "Ðấy là thú của kẻ biết đời". Sư Thiều bảo: "Có lấy ít sen về cắm lọ không ?". Ðầm sen của chùa mùa này nhiều hoa.
Tôi dựng xe đẩy thuyền cho sư Thiều. Chiếc thuyền thúng chỉ vừa người ngồi. Chèo khua nước. Quyên bảo: "Tôi muốn đi thuyền". Tôi gọi sư Thiều.
Sư Thiều ghé thuyền vào.
Sư Thiều ôm bó hoa sen đặt lên bờ. Quyên trèo lên thuyền. Tôi đẩy thuyền ra.
Sư Thiều bảo: "Chìu người lụy ta.". Tôi cười. Tôi và sư Thiều ngồi ở trên bờ. Chiều vẫn xuống chậm. Nắng hoe vàng. Trong lòng tôi rỗng hoác, rỗng lắm, một khoảng rỗng không.
Quyên lên bờ. Sư Thiều mời ăn ngó sen. Sư Thiều hỏi: " Ngon không?". Quyên bảo: "Ngon".
Nấn ná một lát rồi về. Sư Thiều chàọ Quyên chào lại.
Quyên ôm bó hoa sen. Sư Thiều tần ngần đứng trông theo.
Tôi đi trước. Quyên đi sau. Quyên hỏi tôi về sư Thiều.
oOo
Chuyện Sư Thiều
Sư Thiều mồ côi cha mẹ. Năm 15 tuổi có người trông thấy tướng lạ bảo: "Nên xuất gia, trong trần gian không có chỗ chứa cậu". Sư Thiều nghe lời, đi du phương nhiều nơi, tìm hiểu qua nhiều bậc thiện tri thức nhưng chẳng ngộ. Sư Thiều nói: "Nay Phật ở nơi không có Phật". Lại nói: "Ðạo không tâm hợp người... Người không tâm hợp đạo"
Sư Thiều tìm thấy một nền chùa cũ bèn phát công đức, tìm cách tu dựng lại, không hiểu sao gọi là "Bạch xỉ tự" ( Chùa trắng răng ). Sư Thiều hay đọc thơ, có câu: "Cô luân độc chiêu giang sơn tịnh... Tự tiếu nhất thinh thiên địa kinh". Nghĩa là: "Một vầng riêng chiếu non sông lặng... Chợt cười một tiếng đất trời kinh"
Lại có câu: "Lộ phùng kiếm khách tu trình kiếm... Bất thị thi nhân mạc hiến thi". Nghĩa là: "Gặp tay kiếm khách nên trình kiếm... Chẳng phải nhà thơ chớ hiến thơ"
Sư Thiều bảo: "Phật dạy con người tu một cách thực tế, tìm lại bản lai diện mục của mình, Phật quá thực tế nên không phải ai cũng hiểu."
Tôi và Quyên về nhà. Dì lưu nước mắt lã chã gọi: "Cháu! Cháu ơi!". Quyên ngồi bên giường bảo: "Bố mẹ cháu nhớ ngày giỗ ông nhưng bận không về được, bảo gửi cho cô chú ít tiền". Dì Lưu bảo: "Cô chú không cần tiền, chỉ cần tình cảm".
Quyên lấy ở túi ra năm triệu đồng đưa cho dì Lưu. Quyên bảo: "Chị cho Mị cái áo". Cái Mị cười bẽn lẽn bảo :"Em cám ơn chị".
Tôi bảo dì Lưu: "Cháu về đây". Tôi nhét trả dì Lưu hai nghìn đồng xuống gối rồi về.
Ở nhà đang tuốt lúa. Chị Ngữ hỏi :"Con bé Quyên có xinh không!". Tôi bảo: "Xinh".
Ăn cơm tối xong thì tối mịt. Trời đổ mưa rào. Sấm sét nổ vang trời. Cả nhà tôi lục đục chuyển thóc ra khỏi chỗ dột.
Xong mọi việc thì đồng hồ đã 11 giờ khuya. Trời vẫn mưa. Tôi bỗng thấy bồn chồn trong dâ không ngồi yên được. Tôi bảo mẹ tôi: "Con muốn ra đồng bắt ếch. Mưa này có nhiều ếch". Mẹ tôi bảo: "Con không sợ sấm sét ư con ?". Tôi cười. Mẹ tôi chẳng hiểu nụ cười của tôi đâu. Tôi cười như một tên thổ phỉ, cười như một gã nặc nô, cười như một tên quỷ sứ cười móng chân tay mình sao lại đen dài như thế.
BÀI HÁT PHỤ ÐỒNG BẮT ẾCH
Hồn ếch ta đã về đây
Phải nằm khô cạn, ta nay lên bờ
Ở bờ những hốc cùng hang
Chăn chiếu chẳng có trăm đường xót xa
Lạy trời cho đến tháng ba
Ðược trận mưa lớn ta ra ngồi ngoài
Ngồi ngoài rộng rãi thảnh thơi
Phòng khi mưa nắng ngồi ngoài kiếm ăn
Trước kia ta vẫn tu thân
Ta tu chẳng được thì thân ta hèn
Ta gặp thằng bé đen đen
Nó đứng nó nhìn nó chẳng nói chi
Ta gặp thằng bé đen sì
Tay thì cái giỏ tay thì cần câu
Nó có chiếc nón đội đầu
Khăn vuông chít tóc ra màu xinh thay
Nó có cái quạt cầm tay
Nó có ống nứa bỏ đầy ngoé con
Nócó chiếc cán thon thon
Nó có sợi chỉ son son dài dài
Ếch tôi mới ngồi bờ khoai
Nó giật một cái đã sai quai hàm
Mẹ ơi lấy thuốc cho con
Lấy những lá ớt cùng là xương sông
Ếch tôi ở tận hang cùng
Bên bờ rau muống phía trong bè dừa
Thằng Măng là con chú Tre
Nó bắt tôi về làm tội lột da
hằng Hành cho chí thằng Hoa
Nắm muối cho vào cay hỡi đắng cay
Bụt ơi bụt hiện xuống đây
Lượm oan hồn ếch đón bay về trời
Trăm năm lẫn lộn khóc cười
Kiến ếch kiếp người cay hỡi đắng cay...
Nguyễn Huy Thiệp
(còn tiếp phần 2)