vhnt, số 171
8 April 1996
Trong số này:
thư vhnt.................................................Chinh (guest editor)
T h ơ :
1 - Tướng thắng trận qua đại bản doanh ...............Phan Lê Dũng
2 - Mimosa ....................................................Ðinh Ngọc Nga
3 - Cảnh tượng II ...................................................Chinh
4 - Tri kỷ ..........................................Nguyễn Hiện Nghiệp
5 - Tôi mơ thấy ...............................................Ðức Lưu
6 - Cảm xúc ............................................Trần Viễn Khách
D i ễ n Ð à n V ă n H ọ c :
7 - Cổ thi: Hoàng Mai Kiều Vãn Diểu ..........Thân Bá Trường Sơn
T r u y ện N g ắn / T ả n V ă n :
8 - Cành Lê Trắng Ðiểm Một Vài Bông Hoa ........Tôn Nữ Lan Khuê
9 - Con dế .........................................................Phú Lê
10- Ván cờ định mệnh .....................................Sung Nguyễn
Ðã từ lâu, tôi vẫn hằng mong có dịp tâm sự với bạn một điều gì đó về thi ca, về văn chương, hay có thể về một chuyện rất tầm thường trong đời sống nhỏ nhắn này. Ðã từ lâu, tôi vẫn hằng mong có dịp làm tặng bạn một bài thơ, hay một câu thơ ngắn nguỉ để cảm ơn cho hạnh ngộ sơ khôi. Nhưng, tự buổi đầu gặp gỡ, cho đến giờ, tôi vẫn chưa làm được điều tôi mong muốn. Cũng vì tôi chưa bao giờ viết được một câu thơ đắc ý nhất để tặng bạn. Chưa viết được câu thơ đắc ý, hoặc cũng có thể sẽ không bao giờ viết được. "Ta hồ! Ta hồ! Văn Chương Chi Sự, Thốn Tâm Thiên cổ" (Than ôi! Than ôi! Cái sự văn chương, tấc lòng thiên cổ). Cũng như Nguyễn Du đã nói: Ngã Hữu Thốn Tâm Vô Dữ Ngữ (Tấc lòng biết ngỏ cùng aỉ). Làm sao ta nói được hết tấc lòng thiên cổ ở trong ta, phải không bạn? Nhiều khi tôi vẫn tự hỏi: tại sao Nguyễn Du phải chờ đợi tri âm ở người ba trăm năm sau. "Bất tri tam bách dư niên hậu. Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như" ("Ba Trăm năm nữa mơ màng, Có ai thiên hạ khóc chàng Tố Như."). Tại sao, Nguyễn Du lại muốn qua bao nhiêu là mùa màng, bao nhiêu là tóc trắng, là đoạn trường, chỉ để được gặp một tri âm vô hình nào đó trong chiêm bao âm u đổ nát? Tiếng kêu đoạn trường năm xưa, phải chăng chỉ là tiếng kêu bất lực và cô đơn nhất của một đời người ngắn ngủi? Người ta đã nói đúng: thiên tài vốn dĩ cô đơn. Cô đơn trong ý thức, trong chiêm bao, định mệnh. Nguyễn Du cô đơn. Paul Valery cô đơn. Antonio Machalo cô đơn ("Poet, what do you seek in the sunset?"- Nachalo). Và Tô Thùy Yên của ngày nay vẫn là vậy: "Hoàng hôn xô bóng ta trên cát Ta lớn lao và ta cô đơn".
Trong vườn tược trần gian thoáng hiện thoáng mất này, may mắn thay chúng ta vẫn còn có nhau. Chúng ta đang có với nhau một nối kết thơ mộng nhất. Bởi vì, nối kết đó, là thơ, là nhạc, là họa. Là một nối kết bằng nghệ thuật. Hẳn nhiên. Tất cả làm thành một chiếc cầu không bao giờ đứt đoạn. Thiên tài vốn dĩ cô đơn. Nhưng cô đơn là gì nếu chẳng phải là nỗi niềm sâu thẳm nhất trong mỗi chúng ta.
Chúc bạn một ngày vui, có nhiều cảm hứng. Chúng ta hãy cùng nhau lấy tiếng cười làm miếng giẻ xóa đi những bận lòng không đáng trong đời. Bạn nhé!
Chinh
(guest editor)
thư vhnt.................................................Chinh (guest editor)
Tướng Thắng Trận Qua Đại Bản Doanh
To General Robert E. Lee
Tướng thắng trận về ngang đồng nội
Nay hùng quân đã trôi nổi ngàn phương
Ðây hào cao, kia lũy đắp thảo lương
Ngựa thong thả chẳng cần phi nước đại.
Tướng thắng trận về ngang đồng nội
Phía sau lưng cầu gãy trận năm nào
Trước mặt là hào cao đá lở
Gió lốc xì xào, cỏ cháy chơ vơ.
Tướng thắng trận về ngang đồng nội
Ngựa ngập ngừng né hố đạn sâu nông
Tướng đi qua đồng ruộng mênh mông
Chiều đã xuống khoảng không đen thẫm.
Tướng thắng trận về ngang đồng nội
Ngựa ngoái đầu trông phía đại bản doanh
Tướng giật cương cho ngựa đi nhanh
Tướng thắng trận, đại bản doanh mất tướng.
Phan Lê Dũng
Mimosa
Mimosa tỏa ngát hương
Vàng trong ta với nỗi buồn hoàng hôn
Trổ ra từ đáy linh hồn
Những cành thương nhớ từng cơn dịu dàng
Mimosa nở trong tôi
Nụ ngày nắng ấm, nụ đời vô tư
Nụ hoa hạnh phúc hiền như
Giọt sương đọng, ấp ủ từ đêm qua
Mimosa, phải em là
Ngọt ngào? Phiền muộn? Chan hòa? Ðầy vơi.
Là lần nắng ấm tim côi
Là vương vấn tháng ngày tôi đi về
Mimosa của hẹn thề
Của e thẹn đợi, của đam mê chờ
Của âm thầm với ước mơ
Của bao la rụng vần thơ trao người
Ðinh Ngọc Nga
Cảnh Tượng II
Những khúc thơ rời vô nghĩa trong cuộc chiêm bao
âm u dưng gặp được Người.
"Bất Tri Tam Bách Dư Niên Hậu..."
Nguyễn Du
Hãy ngủ đi. Ngủ yên như viên sỏi kia rơi vào hồn.
Ðã chết cả.
Khúc hát thanh xuân thuở đầu hạnh ngộ.
Người tỉnh giấc sau ba trăm năm
Mà tri âm chẳng hề chờ đợi.
Bến sông không đò về,
Nên lời ru chẳng ai buồn nghe.
Cô đơn mênh mông và mệt mỏi
Như đàn ngựa già kéo xe lên dốc ngược
Thiên tài vốn dĩ cô đơn. Người đã nói.
Tôi nằm yên nhìn thế kỷ
Thế kỷ vỡ ngàn trăng sao
Tôi ngồi đếm những giọt lệ
Chảy xuống và tan biến
Ôi ba trăm năm dài bưng bít chiêm bao.
Hãy ngủ đi. Ngủ yên như viên sỏi kia rơi vào hồn.
Mặt đời im vắng.
Ðoạn trường vô âm.
Sao người mãi nhớ đến nàng,
nhớ đến sự trầm mình ngu muội.
Hòng rửa oan một tội đồ.
Bất lực rửa oan.
Sông Tiền Ðường chảy ngàn đêm xưa.
Có cuốn đi chiêm bao rời rã?
Hãy nói với nhau một điều gì đi
Hãy ôm lấy hạnh phúc rã vụn cuối ngày
Hãy uống với nhau chút rượu sót
Hãy hẹn hò ba trăm năm sau
Với một tri âm chẳng hề biết mặt.
4.2.96
Chinh
tri kỷ
đem con tim mình man dại
rao cùng nhân loại, mời mua
rủ người đời nhập cuộc đua
ai người tới sau, sẽ thắng
những quân cờ đen, cờ trắng
trăm ngàn thế chắn, thế lui
ô hay! chỉ một cuộc vui
mà sao kẻ đui, người sáng?
này đây, linh hồn ta bán
giá hời! một ván cờ vây
mời tri kỷ! hãy ngồi đây!
ta nhìn đổi thay, đánh cuộc
đã đi bên ngoài ràng buộc
nào cần phải thuộc luật chơi
hơn, thua - nhẹ tựa làn hơi
thả theo mây trời êm ả.
này đây, lòng ta vô ngã
từ đời vô ngã, trong ta
mời tri kỷ ghé bước qua
cùng ta ngợi ca trần thế
bởi trong một chiều nắng xế
một đời dâu bể, rồi qua.
nguyễn hiện nghiệp
Tôi Mơ Thấy
Tôi mơ thấy,
Lão ăn mày,
Tóc bạc.
Tay lão què,
Áo quần rách nát,
Lê tấm thân
Khắp chợ Hoà-Hưng (1)
Lạy từng đồng,
Từng cắc
Nuôi thân.
Sáng hôm nay,
Thức dậy,
Nữa bâng khuâng,
Nữa còn áy náy,
Ghi vào đây
Lão ăn mày,
Trong giấc mơ ấy.
Tôi mơ thấy,
Bà cụ ròm,
Mắt ướt.
Lưng bà còm,
Trĩu đôi thùng nước.
Ðôi chân già,
Từng bước run run.
Rồi té nhào,
Ðôi nước
Ðổ tung.
Sáng hôm nay,
Thức dậy,
Nửa bâng khuâng,
Nửa còn áy náy,
Ghi vào đây
Bà cụ ròm,
Trong giấc mơ ấy.
Rồi tôi mơ thấy,
Anh dạo đàn,
Chuối chợ Vườn-Chuối (2)
Chân anh cùi,
Bàn chân lở lói,
Chốc chốc xông lên
Một mùi tanh khó ngửi,
Vây xung quanh
Từng đám ruồi xanh
Cứ rì rào hoạ nhanh
Từng giọng ca hờn tủi,
Rồi mắt anh sáng trưng
ay tần ngần,
Xá vội
Khi một lòng nhân
Mua thí anh
Dĩa bánh ít trần
Nóng hổi.
Sáng hôm nay,
Thức dậy,
Nửa thở dài,
Nửa lại áy náy,
Ghi vào đây,
Anh dạo đàn
Trong giấc mơ ấy.
Tôi cũng mơ thấy,
Chị bán bánh mì
Góc đường Trần-quốc-Toản.
Và gã Công-an,
Ừ,
Thằng cướp làng khốn nạn,
Cùng lũ lâu la
Ập vội đến xe,
Gậy gộc, ba-toong sáng loé,
Trong phút chốc,
Thịt, bánh, dưa, cà,
Bị hất văng tung toé.
Thằng con thơ,
Vừa thiêm thiếp trong mơ
Chợt oà lên khóc ré.
Chị oặn người,
Níu gã Công-an
Rồi kêu van,
Khóc kể,
Ðôi mắt phong trần
Hằn nỗi bi thương,
Cứ trào tuôn,
Những lệ.
Sáng hôm nay,
Thức dậy,
Nửa thở dài,
Nửa còn ngần ngại,
Cũng ghi vào đây,
Chị bán bánh mì
Trong giấc mơ ấy.
Tôi lại mơ thấy,
Thằng bé gầy,
Da đen lì,
Cháy xạm.
Móc bao ni-lông
Dưới cầu Trương-minh-Giảng (4)
Rồi nó cười tênh hênh
Khi vớt lên,
Một quả tròn xam xám.
Một tay lắc,
Tay kia cầm móc sắc,
Thằng bé cạy ngòi.
Nhưng trễ rồi,
Tay nó run,
Mặt hãi hùng,
Tái mét.
Một tiếng nổ,
- Ðùng !!!
Khét nghẹt...
Sáng hôm nay,
Thức dậy,
Chợt bàng hoàng,
Thương thằng bé dại
Chết bẽ bàng,
Bên dòng nước chảy,
Rồi ghi vào đây,
Thằng bé gầy,
Bên vũng lầy
Trong giấc mơ ấy.
Và cuối cùng,
Tôi lại mơ thấy
Ðứa bé gái
Cúc-con (5)
Da nạm giòn
Những nắng.
Chân thoăn thoắt,
Ði nhặt củi khô
Trong Trú-khu
Lê-văn-Duyệt
Trưa hôm ấy,
Nắng thật gay,
Hè Sài-gòn,
Nắng sao kể xiết.
Nó mãi miết,
Trèo lên cành
Nơi Bộ Tư Lệnh Thành (6)
Hái trái,
Những trái Trứng-cá,
Chín hườm,
Bóng bẩy,
Phía bên đây,
Thằng gác trạm này,
Ừ,
Lại một thằng Công-an,
Mặt dày,
Mất dạy.
Nó đưa tay,
Không,
Vuốt một loại sói rừng man dại,
Chẳng phân vân,
Thong thả gạt cần,
Ní cho dòng điện chạy.
Từ trên không
Một tiếng nổ
- Bùng!!!
Xẹt lại,
Trên đám cỏ gai,
Con bé nằm sóng soài,
Oằn oại,
Bọt trên môi
Tủi hờn,
Cứ chảy...
Sáng hôm nay,
Thức dậy,
Chợt bùi ngùi,
Thương con bé dại
Chết ngậm hờn
Buổi trưa nắng cháy,
Lại ghi vào đây
Con bé gầy,
Nằm sóng soài
Trong giấc mơ ấy.
oOo
Ðêm qua,
Tôi mơ hết,
Ba thế hệ Việt-nam
Già, Trẻ, Thanh-niên,
Ðang nghẹn ngào giẫy chết.
Ðêm mai,
Tôi thấy gì đây?
Hồng-hà, Cửu-long,
Sóng trào dâng mãnh liệt?
Có qua đi,
Những giấc mơ dài
Khủng khiếp?
Những giấc mơ
Kinh hoàng,
Ác nghiệp?
Có về đây,
Những giấc mơ dài
Tha thiết?
Những giấc mơ
Êm đềm,
Bất diệt.
Giấc mơ chung
Của triệu con tim Việt!
Ðức Lưu
Chú thích:
(1) Chợ Hoà-Hưng: Nằm trên đường Cách-Mạng-Tháng-Tám (tức Lê-văn-Duyệt cũ) thuộc Q.10
(2) Chợ Vườn-Chuối: Nằm trên đường Phan-đình-Phùng (cũng thuộc điạ hạt Sài-gòn)
(3) Lê-văn-Duyệt: Một trong những con đường chính, và dài, nối liền từ Ngã Sáu Sài-gòn, chạy liên xuống trại lính Quang Trung xưa. (Sau đường đổi lại Cách-Mạng-Tháng-Tá)
(4) Gọi Cầu Trương-minh-Giảng, vì nằm trên con đường cùng tên, (sau này đường đổi lại Nguyễn-văn-Trỗi) Thuộc địa hạt Quận 03 TPHCM.
(5) Trú khu Lê-văn-Duyệt: Trước là trại gia-bing của đa số lính Công-binh (VNCH), vì nằm trên đừng Lê-văn-Duyệt, nên gọi Trú Khu LVD.
(6) Bộ Tư Lệnh Thành: Trước là Trại Yếu Ðiểm Nguyễn Trãi (VNCH), sau bị trưng dụng làm bộ ổng Tư Lệnh Thành Phố (HCM), nên gọi tắt là Bộ Tư Lệnh Thành, cũng nằm trên đường Lê-văn-Duyệt (Ngã sáu Sài-gòn)
Cảm Xúc
Có những ngày lòng buồn khắc khoải
Những vần thơ nhức nhối trong tim
Đời vô vọng?
Có thật đời vô vọng?
Nỗi khổ nào dường như vô tận
Cho con người chết gục giữa đau thương
Ôi Thượng Ðế, Chúa, Phật, bao phương
Sao nỡ để con người không lối thoát?
Này - em hỏi -
Sinh tử là chi, hạnh phúc là gì?
Sao có kẻ dường như không để ý,
Sao có kẻ không một giờ ngưng nghỉ?
Này - em hỏi -
Ai kẻ chí nhân, ai bần cùng,
Ai tìm lẽ sống, ai chỉ mong được sống?
Ta vụng cười, rỉ máu trong tâm:
Ðời vô vọng, qủa là đời vô vọng!!!
Trần Viễn Khách
Cảm xúc bài thơ "Chuyện Về Một Người Bạn" của Trần Thái Vân (VHNT #169)
Có lẽ các bạn trên vhnt còn nhớ bài giới thiệu về cuộn video Ru Tình của Trịnh Công Sơn và Vĩnh Trinh do anh Phùng trích đăng lại của một người bạn. Chính nhờ bài viết này mà tôi đã có được cuộn băng video quí giá (chỉ có 8 USD) Nhớ mùa thu Hà Nội của TCS và Vĩnh Trinh do Diễm Xưa thực hiện lại. Bây giờ anh bạn đó lại gửi đến chúng ta bài thơ chữ Hán về một cây cầu của Nguyễn Du kèm theo bài dịch và lời bình của anh. Theo anh, cây cầu thời nào cũng giống nhau ở chỗ đã chứng kiến bao bể dâu thương điền. Xa hơn, nhìn màu cầu mà ngẫm đến thời cuộc, ngày xưa cầu màu trắng khi đất nước chia ly, ngày nay cầu đổi màu xanh lam ủ rủ khi hai miền thống nhất, còn gì buồn hơn???
Dũng Nguyễn
oOo
Hoàng Mai Kiều Vãn Diểu
Hoàng Mai kiều thượng tịch dương hồng
Hoàng Mai kiều hạ thủy lưu đông
Nguyên khí phù trầm thương hải ngoại
Tình lam thôn thổ loạn lưu trung
Ðoản thoa ngư chẩm cô chu nguyệt
Trường địch đồng suy cổ kính phong
Ðại địa văn chương tùy xứ kiến
Quân tâm hà sự thái thông thông?
Nguyễn Du
Hoàng Mai kiều thượng tịch dương hồng
Hoàng Mai kiều hạ thủy lưu đông
trên cầu Hoàng Mai nắng chiều rực đỏ
dưới cầu nước lững lờ chảy về hướng Ðông
làm liên tưởng đến Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu, với Hoàng Hạc lập đi lập lại mấy lần.
tích nhân dĩ thừa Hoàng Hạc khứ
thử địa không dư Hoàng Hạc lâu
Hoàng Hạc nhất khứ bất phục phản
như gợi lại mấy câu đầu của bài thơ phổ thành nhạc trong phim bộ Tam quốc chí
thâm thâm Trường giang đông thệ thủy...
thanh sơn y cựu tại - kỹ độ tịch dương hồng
nước Trường giang sâu thẳm trôi về Ðông...
núi xanh ngàn đời vẫn thế - biết bao thỏ lặn ác tà.
rồi nhớ tới những cây cầu trong Kiều, trong Chinh Phụ ngâm. Gặp gỡ tình cờ như Kiều và Kim Trọng bên cầu
dưới dòng nước chảy trong veo
bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha
chinh phụ bịn rịn tiễn chồng đến đầu cầu mới quay gót ngập ngừng trở lại
ngoài đầu cầu nước trong như lọc
đường bên cầu cỏ mọc còn non
[đưa chàng lòng dặc dặc buồn
bước đi một bước lâu lâu( giây giây) lại dừng]
ngày nay ôn chuyện cũ nhớ cuộc tình xưa lại ra ngồi bên cầu, chắc ngày trước đã từng hò hẹn nơi đây - giờ cầu còn người đi như nước chảy qua cầu
ta ngồi lại bên cầu thương dĩ vãng
nghe giữa hồn cây cỏ mọc hoang vu
Hoài Khanh
Ðâu đó có đọc thoáng một bài viết với đề tựa "Cây cầu trong văn chương " nhưng giờ muốn đọc lại thì tìm chẳng thấy. Chỉ nhớ mấy câu hò ru con ầu ơ thuở nhỏ
mẹ thương con [lên non] ngồi cầu Ái Tử
vợ trông chồng đứng núi Vọng Phu
hoặc
muốn sang thì bắt cầu kiều
muốn con hay chữ phải yêu lòng thầy.
nhưng nhớ nhiều nhất là cây cầu thuở trước giờ đã đổi màu, nằm co ro, nhỏ lại vì đất nước đổi cờ. Ðất nước đổi cờ cầu đổi màu sơn như chấp nhận một điều gì không may xẩy đến cho cầu, cho bà con xa gần nội ngoại. Ngày xưa đất nước phân kỳ, cây cầu màu trắng dụ, phản chiếu ánh sáng như tươi cười chào đón khách qua lại. Dù Huế mù sương xa xa cây cầu vẫn hiện rõ như dang tay rộng mở.Ngày nay cầu đổi màu xanh lam, ủ rủ, hấp thụ ánh sáng như cúi đầu nhẫn nhục, nhìn xa cầu chỉ còn đường ngang mờ tối, như cúi đầu nhận những thống khổ áp đặt. Bà con đồn rằng vì chi phí ít nhiều chạy lọt vào túi các đấng đỉnh cao trí tuệ nên không đủ tiền mua loại sơn trắng bạch như xưa đành phải mua sơn rẽ tiền màu lam mờ u tối đó.
Cầu Trường được khởi xây vào năm Thành Thái thứ 9 (1897), xong năm 1899, Thành Thái thứ 11.
một ngày vào thuở xa xưa trên đất Thần Kinh
người bỏ công lao xây chiếc cầu xinh [1]
Ðầu tiên cầu lót ván, và sau đó đúc lại xi măng
chợ Ðông Ba đem ra ngoài dại (gần sông)
cầu Trường tiền đúc lại xi măng. [2]
Cầu có sáu vài, mỗi vài 2 nhịp, dài hơn 400 mét, rộng chừng 6 mét 2
cầu Trường Tiền sáu vài mười hai dịp (nhịp)
em qua không kịp, tội lắm anh ơiiiii !
Tại các vài cầu có vòng nhỏ hình bán nguyệt nhô ra để khách qua cầu dừng chân lại hóng gió, ngắm cảnh. Nhược bằng cụ Nguyễn Du còn sống chắc cũng có Trường tiền kiều thượng
trên cầu phượng đỏ cờ hồng
bên cầu sắt vụn dưới cầu đĩ trông [3]
khách má hồng phận mong manh chờ khách trên sông đã đành, Trường tiền cũng lận đận truân chuyên, đổi tên, đổi màu theo vận nước, gãy nhịp biết bao lần chờ đợi mõi mòn đến cả hơn 20 mươi năm mới được nối nhịp.
Nguyên thủy cầu có tên Thành Thái, đó là tên Mít. Ai tiếng Tây thời thượng thì gọi là pont Clémenceau, nhưng bà con nhà mình chỉ gọi Trường Tiền. Năm 1904, bão Giáp thìn cầu bị sập 4 vài, không biết bao lâu được xây lại - chắc không đến nỗi phải hơn 20 năm mới xây lại được 1 nhịp bây giờ,
Sau đảo chánh 1945, cầu có tên mới: Nguyễn Hoàng. Không bao lâu cầu lại bị giật mìn, phá sập. Hơn 20 năm sau, Tết Mậu Thân cây cầu lận đận lại bị phá sập lần nữa, cũng do những bàn tay lông lá quen thuộc.
giặc đã qua đây
cầu thân ái đêm nay gãy một nhịp rồi
nón lá sầu khóc điệu Nam Ai
tiếc thương lời vắn dài [4]
vài cầu bị giật sập được nối lại bằng cầu nổi gập ghềnh khó đi. Tay dắt xe đạp, học trò cẩn thận từng bước, từng đoàn qua cầu nổi trở lại trường học. Công binh dùng thêm phà đưa học trò qua sông, từ bến Phu Văn Lâu qua bến đò Thừa phủ, và từ đó học trò tản mác đến Ðồng Khánh, Quốc hay Ðại Học Huế. Còn nhớ một buổi sáng, phà đầy cả học trò, nhất là đám nữ sinh áo trắng. Phà ghé bến vội vàng đụng phải vào đá, vài cô học trò trong áo dài trắ ng như "lụa thinh không", rơi bì bỏm xuốg sông. Còn đâu
ngày xưa trên những chuyến đò
có cô con gái học trò sang sông [5]
Hoàng Mai kiều thượng gợi lại chuyện ngày xưa, cầu cũ, dòng sông, con đố Nguyễn Du ngao du núi Hồng sông Lam nhưng vẫn không nguôi bầu tâm sự u hoài trong buổi giao thời - Hậu Lê và Tây Sơn, nhà mất, anh em tan tác (vô gia, huynh đệ tán). Trước cảnh thiên nhiên lồng lộng, nắng chiều, dòng nước lờ lững, sương mù, ý và âm điệu bài thơ gợi buồn. Sương mù trôi nổi ngoài biển xanh - nguyên khí phù trầm thương hải ngoại, cùng với hơi núi sau cơn mưa (tình lam) ẩn hiện như thở ra ít vào (thôn thổ) giữa giòng nước chảy cuồn cuộn - tình lam thôn thổ loạn lưu trung, nhắc nhở thay đổi của cuộc đời, hưng suy của triều đạị Tả cảnh để gởi gắm tâm tình, như chứng nhận lẽ vô thường.
Tâm trạng bơ vơ như ngư ông dưới cầu nước chảy, trong chiếc thuyền con cô độc gối áo tơi nằm ngủ (đoản thoa: áo tơi ngắn) trong ánh trăng mới lên
đoản thoa ngư chẩm cô chu nguyệt
và tiếng sáo chiều buồn vang trong gió của chú mục đồng đang lững thững đưa trâu về trên con đường mòn cũ
trường địch đồng suy cổ kính phong
Hơi núi mờ như sương, nước chảy lững lờ, ráng hồng rực đỏ, tiếng sáo chiều, ngư ông co ro buồn ngủ, trăng vừa lên là văn chương của trời đất. Cớ sao tác giả vẫn không vơi bớt nỗi sầu.
đại địa văn chương tùy xứ kiến
quân tâm hà sự thái thông thông
trên mặt đất rộng lớn không đâu mà chẳng có cảnh đẹp để làm nguồn thi hứng, cớ sao anh quá bồn chồn, vội vàng tìm kiếm chi cho mệt. Nói người (quân tâm) nhưng thật sự là chính mình - thấy người mà nghĩ đến ta - là trạng thái tâm linh của tác giả, của Kiều khóc Ðạm Tiên, nhưng chợt giác ngộ rằng "đói thì ăn, mệt thì ngủ" cần chi thiền đạo phiền phức. Văn chương khắp cả, ngay trước mắt mình - tất cả tại tâm -đâu phải tìm kiếm xa xôi.
Thì thôi, chấp nhận đất nước đổi cờ, cầu đổi màu sơn. Chiều nào đó ghé lại bên cầu, trong tiếng cười oang oang xa lạ lẫn với mùi bia HUDA từ quán nổi Hương Giang, dù u sầu chi mấy mượn 2 câu của Vũ Hoàng Chương cũng đủ để gởi gắm nỗi niềm.
Gần xa chiều xuống, đâu quê quán?
Ðừng giục cơn sầu nữa sóng ơì!
dù sông Hương hiền hòa sóng rất nhẹ.
Thân Bá Trường Sơn
oOo
buổi chiều đứng trên cầu Hoàng Mai ngắm cảnh
tà dương nhuộm đỏ Hoàng Mai
dưới cầu dòng nước chảy dài về Ðông
nổi chìm trời biển mênh mông
Hơi non tỏa xuống dòng sông từng luồng
gối trăng ngư phủ thuyền đơn
tiểu đồng thổi sáo lối mòn heo may
phong quang nào thiếu đất này
việc gì vội vã cho rầy tấm thân
Chi Ðiền, Hoàng Duy Từ - Nguyễn Du Thơ Chữ Hán
(Hoàng Tuấn Lộc, California, 92646, USA xuất bản)
Trong Nguyễn Du Thơ Chữ Hán tựa đề là Hoàng Mai kiều thượng vãn điểu nhưng theo Thiều Chửu, diểu: ngắm, ngắm cảnh
Hoàng Mai không rõ ở đâu (chú thích của Chi Ðiền).
Phía Bắc tỉnh Nghệ An, đườg quan lộ đi qua sông Hoàng Mai, nhưng sông nầy tương đối rộng, hồi trước chưa chắc đã có cầu.
thôn thổ: thôn (nuốt vào, thôn tính) thổ (ói ra, mửa ra, thổ tả0
[1], [4] Chuyện một chiếc cầu đã gãy, Trường Thanh
[2] ca dao
[3] cầu đã sửa xong nhưng vật liệu phế thải còn nằm trơ trơ trước toà Khâm cũ, hữu ngạn sông Hương. Cạnh cầu về phía Ðập Ðá, có quán ăn Hương giang trên mặt nước, dành cho có lẽ du khách và cán bộ - dưới cầu ngắm cảnh, và uống bia HUDA - Hãy Uống Ði Anh cán bộ. Lon bia gần 10000 đồng (1 đô la) dân chúng làm chi có tiền mà uống. Bia HUDA có nhập khẩu vào Mỹ với nhãn hiệu Hue Beer.
[5] thơ Võ Quê,
Thừa Phủ ơi! Lòng ta hồng biển lửa.
Ngày xưa trên những chuyến đò *
có cô con gái học trò sang sông *
ngày nay cờ đỏ màu hồng
o con gái nọ tìm chồng đã lâu
chồng o học tập nơi đâu
rừng thiêng nước độc thâm sâu khó về.
* chi tiết về Cầu Trường tiền do 1 bác lớn tuổi cung cấp.
*Bài dịch khác: Sau đây là bài dịch của một thân hữu, tiện đăng cho các bạn cùng xem:
Buổi chiều ngắm cảnh trên cầu Hoàng Mai
Dưới cầu, con nước chảy về đông
Hoàng Mai nhuộm ánh tịch dương hồng
Biển xanh mờ mịt màn sương toả
Giòng biếc chập chờn khói núi xông
Thuyền con, áo trắng, trăng cô lẽ
Lối nhỏ, tiêu dài, gió long đong
Vội vã làm chi, người viễn xứ
Văn chương đầy dẫy cõi mênh mông!
Phùng Nguyễn
Cành Lê Trắng Ðiểm Một Vài Bông Hoa
Nơi tôi ở là trung tâm của dị ứng (allergies). Mùa xuân đến, đài khí tượng để máy trên mái nhà, đo dộ phấn hoa cao nhất nước Mỹ. Sau hai tháng mưa hè, cỏ ra hoa hai nhánh, phấn theo gió bay đi, người bị dị ứng với phấn hoa đau khổ không ít.
Vào đầu tháng ba, bạn có thể lấy ngón tay viết lên xe, lên cửa kính đầy phấn thông vàng. Cuối tháng ba thành phố như đổi thành màu trắng, hoa "dogwood" nở đồng loạt, rụng trắng đường đi. Thành phố này yêu hoa dogwood, bạn chỉ cần gọi điện thoại, nhân viên thành phố sẽ đến trồng cây con miễn phí trong vườn bạn.
Dọc hai bên đường gần trung tâm thành phố và trường đại học là các dảy lê "Bradford pears". Loại cây này hoa lá đều đẹp, đến mùa xuân hoa phủ trắng. Hoa rụng, lá xanh mướt, bóng rợp đường đi.
Ai cũng cho hoa lê Bradford đẹp, nhưng tôi lại thích hoa lê Tàu (Asian pears) hơn. Ở đây khí hậu không đủ lạnh nên lê Tàu ít hoa ít trái, nhưng vì thế vẻ đẹp của hoa thật đặc biệt. Hoa không lấn kín cành như Bradford pears, cũng không lộng lẫy như hoa đàọ Hoa lê chỉ điểm vài nụ, dáng dấp phong nhã cao sang. Mỗi mùa xuân đến, ngắm hoa lê trước nhà, tôi nhớ câu thơ trong truyện Kiều: "Cành lê trắng điểm một vài bông hoa". Xin kể các bạn một kỷ niệm thời còn đi học.
Năm tôi học đệ tứ (sau này gọi là lớp chín), vào giờ Việt Văn, một người bạn khi lên bảng trả bài đã đọc câu "Cành lê trắng điểm một vài bông hoa" thành câu "Cành lê điểm trắng một vài bông hoa". Khi nghe bạn tôi đọc câu này, bỗng nhiên thầy Việt Văn nỗi giận, và ông đã dành cả giờ học hôm đó để giảng cho chúng tôi nghe cái hay của hai chữ "trắng điểm" trong câu Kiều. Thầy dạy Việt Văn là một nhà thơ khá tăm tiếng, ông đã có thơ đăng trên tập "Thi Nhân Tiền Chiến", nhiều người nói ông thuộc lòng tập truyện Kiều. Sau này mỗi lần nhớ lại câu thơ trên, tôi cãm nhận cái hay, của hai chữ "trắng điểm", nhưng mơ hồ, hay như thế nào, và vì sao hai chữ này lại đặc biệt đến thế.
Ngày đầu tháng tư, tôi xin gởi đến các bạn hình ảnh trang nhã tươi đẹp của cành hoa lê.
Lan-Khuê
Con Dế
Hồi tuần rồi không hiểu bằng cách nào nhà tôi lại có một con dế lọt vộ Nếu nó không gáy vang rân thì chắc tôi cũng chả hay biết, đằng này nó đánh thức hai vợ chồng tôi dậy với cái âm thanh dai dẳng trong đêm đô Vợ tôi lầu bầu trong miệng khi phải đột nhiên thức giấc vào lúc nửa đêm. Riêng tôi thì khoái hết sức. Tiếng gáy của nó đã đưa tôi trở về những kỷ niệm êm đềm của tuổi thơ, và dĩ nhiên tiếng gáy ấy cũng đã ru tôi trở lại một giấc ngủ ngon không mộng mị liền ngay sau đó.
Tuổi thơ VN ai mà không mê chơi dế, nhất là dế đá. Tuy nhiên ngày còn nhỏ tôi biết dế có nhiều loại, đại loại như:
Dế cơm. Sau những trận mưa đầu mùa, ai ở vùng quê nếu để ý sẽ thấy trên những bãi đất trống có vài ụ đất nhỏ đùn lên. Người tinh mắt sẽ nhận ra những ụ đất đó được đào bởi dế cơm hay bởi các loại côn trùng khác. để bắt dế cơm tôi thường hay gạt đất qua một bên xong rồi xách lon nước đổ vào cái lỗ sâu hun hút ấỵ độ một lát chú dế ngộp chịu hết nổi lóp ngóp bò ra. Bắt cho có vậy thôi chứ dế cơm chả có gì vui để mà chơi với nó hết. Ai hay đi chợ chim đường Hàm Nghi cũng thấy tới mùa người ta bán dế cơm đựng trong thùng thiếc. Chúng màu nâu, có con lớn bằng ngón chân cái và dài cả 4, 5 phân.
Dế mọi. Mấy chú dế mọi trống cũng biết gáy nhưng không biết đâ Nhỏ hơn dế mèn một chút, mình mẫy màu nâu đen nhưng mấy chú này chỉ để dành làm mồi nuôi chim hay gà là thượng sách.
Dế mèn hay dế đá Màu đen tuyền lóng lánh được gọi là dế than, còn mấy chú màu đỏ au như lửa thì được gọi là dế lửạ đầu mùa hè, sau những trận mưa đầu mùa là đã thấy chúng xuất hiện. Tôi nhớ có năm, không rõ năm nào dế xuất hiện rất nhiều. Tối tối ra trước ngõ, dưới cột đèn điện mù mờ vàng vọt, chúng tôi chờ dế bay đến mà bắt. Kỷ niệm với chúng vẫn còn đọng lại trong tâm tư tôi.
Tôi nhớ rõ như in ngày còn học lớp hè. Một buổi sáng đến trường. Trước cổng thấy người đàn ông trung niên dựng xe đạp mang theo vài ba cái giỏ tre đan kín mít. Không thấy gì ngoài những sợi râu ngo ngoe lọt ra ngoài giỏ với tiếng gáy hoà lại thành những âm thanh điếc tai. Tôi là một trong những đứa trẻ bu quanh ông vào lúc đó. Nhìn ông ta bắt ra từng con cho những đứa trẻ may mắn, đổi lại những tờ giấy bạc, mà tôi phát thèm. Tôi nhớ ngày hôm đó tôi đã không học vô được một chữ nào vì tâm trí mải vương vấn với tiếng gáy và những con dế xinh xắn dễ thương này.
Tôi cưng quá cái con dế đầu tiên mà tôi có. Phải nhịn quà sáng hai hôm liền tôi mới đổi được chú dế than này. Cái màu đen tuyền với những cái vân trên đôi cánh mới mỹ miều làm saọ Rồi lại ngẩng cao cổ, hai chân trước giơ lên vuốt hai sợi râu sao mà hùng quâ đặc biệt tiếng gáy thật là thanh tao đễ thương. Con dế yêu quý của tôi. Nhìn chú ta đi lại trong cái lon thiếc mà tôi không chán. Cả ngày tôi không rời cái lon phút nào, chỉ khi đi ngủ tôi mới bỏ vào ngăn bàn học mà trước đó không quên đục vài lỗ nhỏ trên nắp cộng với vài cọng giá bỏ vô trong cho chú ăn. Giá ba tôi không la rầy thì tôi cũng muốn ôm lấy nó mà ngủ.
Rồi tôi nhập bọn với lũ trẻ mà chơi đá dế sau đó. Lần đầu tiên đem cục cưng ra sân tôi hồi hộp không ít. Chỉ nghĩ đến lúc nó thua trận, sứt càng gãy gọng thì không khỏi đau lòng. Nhưng tuổi trẻ mà, mới phút trước lo lắng cho cục cưng nhưng chỉ vài phút sau, tôi đã giựt sợi tóc mình ra mà đút anh chàng vô quay cho choáng váng. Rồi cười hả hê khi thấy dế mình đang rượt địch thủ chạy có cờ. Cũng có lần thua, tôi cáu tiết đem chú ra mà quay nữa, cho phờ râu luôn.
Biết bao nhiêu chú dế nữa đã qua tay tôi. Có con sống với tôi một hai tuần và cũng có con chỉ sống được vài ba giờ. Có con đã ở thung dung trong hộp bánh bích quy với cái hang mà tôi đã moi đất lên đắp lấy với đủ loại cây cỏ rau cải mà tôi đã không quản công tìm hái bỏ vộ Và cũng có những con đã ở trong cái bao diêm chật hẹp, bị bỏ đói khát đến nỗi phải cắn nát một đầu bao chui ra và trốn thoát. Ôi biết bao nhiêu điều để viết.
Hôm cuối tuần ở nhà đọc báo. Bỗng nhiên tiếng gáy cất lên. Quái lạ, sao hôm nay con dế trong nhà tôi lại mò ra tận phòng khách. Mà ban ngày sao nó lại gáy, hay mấy hôm nay không có gì ăn nên nó đói quá mới rên la như thế nàỵ Tôi lần ra góc phòng, chỗ nó đang ẩn nấp, quyết tìm cho ra lẽ. À thì ra một chú dế mọi. Nhè nhẹ tôi cẩn thận dùng hai ngón tay nhón cổ chú lên. Ngữ này mà ở quê nhà thì tôi chỉ ném cho mấy con gà xơi cho được việc, nhưng ở đây không có dế mèn thì tiếng gáy của chú cũng làm tôi bồi hồi lắm. Thôi thì cửa mở rồi đó, giã biệt chú. Hãy sống cuộc đời tự do ngoài kiạ Và cám ơn đã cho tôi thưởng thức tiếng gáy của chú. Dù khàn khàn đục đục không thanh tao tí nào nhưng đã giúp khơi lại bao kỷ niệm thân thương của tôi, và ít ra cũng gợi cho tôi rất nhiều cảm hứng để viết bài này.
Phú Lê
(3/06/95)
Ván Cờ Định Mệnh
Đã 10 năm rời đô thành, vinh quang, và danh vọng, chàng đệ nhất kiếm khách kỳ khách, Kasu lừng lẫy khi xưa nay đã thành một thiền sinh an nhiên tự tại giữa thiền am của một vị thiền sư vô danh chốn thâm sơn.
Mõ sớm chuông chiều; rạng đông lời thầy, hoàng hôn huân tập; chốn thiền môn vô nhiểm bụi trần.
Tuy vậy, Kasu vẫn vương vương trong lòng một ý niệm không rõ ràng để có thể định nghĩa; đôi mắt xanh của chàng có lúc hướng xa xăm.
Kasu là một trong những đại đệ tử của thiềm am này; chàng là một biểu tượng của hạnh tinh tấn vì sự chăm tu học, hiểu đạo, và sự quan tâm của Kasu với bạn bè đồng môn. Chàng là nơi nương tựa của bạn bè, niềm tin của thầy, và là sự tự hào của thiền am. Nhưng chàng không bao giờ nghĩ đến điều đó, ngoài tâm quyết tu tập của chàng.
Trong những đại đệ tử của thiền am, chàng có một vi sư huynh; vị này không bao giờ ở lâu trong thiền am, nay đây mai đó; xuân hạ thu đông không vương vấn chuyện gì. Cả chàng và các bạn đồng môn đều quan tâm đến sự kỳ bí của vị đại sư huynh vô danh này. Có những đêm trắng, chàng biết sư phụ và sư huynh đang thức đàm luận trong chánh điện, và sáng sớm hôm sau, vị sư huynh đã mờ cánh nhạn ở cuối chân trờị Kasu suy nghĩ về thành quả tu học của mình, và buông tiếng thở dài.
Sư phụ xuất hiện; nhìn chàng thương cảm. Chàng cảm nhận được tấm lòng và công ơn của thầy hơn mười năm qua; nước đổ lá môn.
Buổi chiều sớm thu, khi lá bắt đầu vàng, lông mày của Kasu đã điểm bạc. Kasu mở chiếc hòm đã đóng của chàng sau mười năm. Thanh kiếm năm xưa vẫn còn tiếng oai hùng; bộ kiếm phục năm xưa chưa hề phai nét phong lưu; chiếc áo nâu thiền đã vô nhiểm bụi trần; nhưng con đường chàng đi nghe chừng như xa quá.
Chàng và thank kiếm; núi thu và mây thu; chàng muốn chính chàng và thanh kiếm này sẽ là một. Xá về lều sư phụ, và tự đâm kiếm vào tim mình. Một chiếc lá vàng khẻ rơi, chàng giật mình vì sư phụ đang ở trước mặt. Thầy nắm lấy tay kiếm của chàng và mời chàng một ván cờ vào sáng sớm ngày mai.
Ván cờ này gọi là ván cờ định mệnh. Vì thua có nghĩa là mất mạng của mình. Chàng có một đêm an lành.
Chân trời đã hững nắng; Kasu dã có mặt ở điểm hẹn bên rừng. Tiếng gió ban mai xào xạt, tiếng chim ríu rít rời tổ, những tán lá tuy trở vàng nhưng vẫn xanh tươi trong nắng mai. Chưa bao giờ chàng cảm nhận được sự sống như lúc này.
Ngươi chơi cờ với chàng là vị đại sư huynh bí mật. Sư huynh trầm mặt trong sắc áo lam sờn; sư phụ và thanh gươm của chàng ra hiệu cho ván cờ bắt đầu.
Chàng nhìn nhưng quân cờ sống động, như sự sống của chàng. Chàng đi lại những nước oai hùng năm xưa, những nước cờ trí tuệ có một không hai; đi qua tuổi thơ của chàng - nhũng năm tháng học trò không thể quên được; sự thành công thời niên thiếu của chàng như còn vang vọng; rồi, lá thư hẹn hò đầu tiên với bạn gái - nhịp tim trẻ hôm nào còn rung hôm nay ; những trận quyết đấu, reo hò trong danh dự, bao nhiêu cao thủ thượng thặng của kinh thành lần lượt bó kiếm dưới tay chàng; xa gần không còn ai đủ khả năng và bản lĩnh đọ kiếm với chàng; vua phong chàng chức ĐỆ NHẤT KIẾM KHÁCH.
Những nước cờ đi qua; trời đã về chiều. Hơn 10 năm trước đây, chàng đã nghiệm cái vô nghĩa trong một phút chốc của vinh quang và danh vọng; chàng đã rời kinh thành, đến am thiền tu học. Sức học của chàng đã chuyển chàng từ một kiếm kỳ thủ số 1 thành một thiền sinh đệ nhất học giả am tườngkinh điển, đức độ chan hòa. Chàng vẫn còn bâng khuâng với cái ý nghĩa ở đời.
Thực tại đã làm chàng bừng tỉnh; sư huynh chàng đã đưa chàng vào thế bí; cái thế cấm kỵ của người chơi cờ, thua cuộc như chơi. (Sung nhớ là Song Mã Ẫm Tuyền, anh Dũng anh Phong nhớ thế này không?) Trán chàng đã lấm tấm nước; nhìn thanh gươm trên tay sư phụ, nhìn vẻ mặt thản nhiên của vị sư huynh, nhìn thế phải buông cờ, Kasu nghe cuồn cuộn sức sống bên trong, chàng không muốn nắng chiều phải tắt, chàng không muốn có một lần thất bại. Đối với chàng chỉ có chiến thắng. Chết với chàng có nghĩa là mất tất cả quá khứ hiện tại vinh quang.
Với thiên tài của mình, chàng đã lần lượt gỡ lại từng thế cờ, chẳng mấy chốc sư huynh chàng lâm vào thế bí; chàng đã chuyển bại thành thắng. Sư phụ vẫn đứng đó với thanh kiếm trên tay. Sư huynh vẫn trâm mặc an nhiên. Thế cờ đã đến lúc chấm dứt. Chiều đã buông nắng. Chỉ một nuớc nữa thôi chàng sẽ sống. Ôi một trận đấu gay go hơn mọi trận đấu, chàng đã thành công. Chỉ một nước nữa thôi, vị sư huynh của chàng sẽ rơi đầu trong tay kiếm sư phụ Sự sống quí vô vàn, chàng đã tìm được. Nhìn nắng chiều thêm một lần trước khi buông quân cờ, tia nắng cuối cùng cứ le lói mãi không chịu tắt ở cuối chân trời. Nhìn vị sư huynh im lặng trầm mặt. Sư phụ vẫn đứng đó với thanh kiếm trên tay. Chàng buông quân cờ mở đường thoát cho sư huynh.
Bàn cờ bị đứt làm hai mảnh dưới đường kiếm sắt của sư phụ Ông thân thương nhìn hai học trò của mình và nói. "Này Kasu, con đã đi lại con đường vinh quang danh vọng của mình. Cái ngã đã lớn lên như vậy. Hôm qua đây con sẵn sàng đâm vào tim con một nhát kiếm; ngày nay, con đã sinh tử từng thế cờ để bảo vệ những cái mà con không muốn mất. Con đã đi lại con đường không lối thoát của con. Cuối ngày, khi nắng chiều đã sắp tắt, hoa từ bi đã nở trong con. Ta đã thấy con ở ngày hôm nay." Vị sư huynh lại đã đi từ lúc nào. Kasu thấy mình như một cánh nhạn, phi điểu viễn xứ.
Sung Nguyễn