vhnt, số 164
22 March 1996
Trong số này:
thư vhnt................................................................NPN
T h ơ :
1 - Thơ trẻ Saigon .................................................DN p/t
- Bông bí ....................................................Thiên Ân
- Tiếng vọng ............................................Trần Hoa Khá
- Tuổi 20 ..............................................Ðinh Thu Hiền
2 - Ðôi bạn .....................................................Văn Cao
3 - Lời hẹn cuối đông ..........................Huỳnh Ngọc Phước
4 - Trên dốc hoang đường tôi thấy em ........................Chinh
5 - Những ngày tháng không quên .....................Trần Thái Vân
D i ễ n Ð à n V ă n H ọ c / Ð i ể m S á c h :
6 - Cảm nhận Ðinh Hùng (1/2) ........................Phạm Thế Ðịnh
7 - Nét đẹp phụ nữ trong văn học:
Cái nhìn của Khái Hưng trong "Anh Phải Sống" .........Dức Lưu
T r u y ện N g ắn / S án g T ác :
8 - Tiếng vọng của biển ..........................................BCCB
Anh Nguyễn Phước Nguyên gửi đến bạn đọc bài viết "nhịp cầu và nghệ thuật", thay cho mục "thư vhnt" hôm nay. Chúc bạn đọc một ngày vui, để chờ đợi một cuối tuần thật đẹp, nhiều êm dịu nhẹ nhàng của tiết lập xuân.
PCL/vhnt
oOo
Nhịp Cầu và Nghệ Thuật
Thành quả của tư tưởng là sáng tác. Nghệ thuật là sáng tác của linh hồn - ít ra, nó phản ảnh hoặc chuyên chở được linh hồn (hay con tim) của tác giả. Những sáng tác nghệ thuật thành công là những sáng tác nối liền hai linh hồn hay hai con tim, giữa kẻ sáng tạo và người thưởng ngoạn. Ở đó, nghệ thuật đã tự nó đã đi vào chiều sâu của tư tưởng. Của tâm linh. Ở đó, nghệ thuật có một linh hồn riêng của chính nó. Cho chính nó. Tuyệt đối. Vĩnh cửu.
VHNT-LM tự nó chỉ là thành quả, là sáng tác của một (hay vài) tấm lòng yêu nghệ thuật. Nó không có một giới hạn nào trong hướng đi của tư tưởng. Nhưng nó có một hướng đi của linh hồn - Nơi tư tưởng được đổi trao, sáng tác được chia xẻ, quan niệm sẽ luân lưu. Nơi quá khứ không chỉ là mốc điểm để phản ảnh hiện tại, mà được nối liền với hiện tại. Nơi kinh nghiệm không phải chỉ được dùng để phán xét trình độ, mà để bù đấp cho sự non kém của trình độ.
Sự khác biệt không chỉ là hữu ích, mà còn là cần thiết cho người sáng tạo. Những ưu khuyết điểm của một trường phái, một phong trào, một cá nhân cần được nhìn qua lăng kính của tâm hồn - tâm hồn yêu nghệ thuật.
Khởi điểm của xây dựng một cây cầu không bao giờ là để đem khoảng cách giữa hai bờ sông gần lại với nhau, hay xóa đi khoảng cách đó. Nó bắt nguồn từ nhu cầu của hai tâm hồn ở hai bờ sông khác biệt muốn nhìn thấy nhau rõ hơn, ở những gì của nhau, trong nhau.
Ðời sống có rất nhiều trói buộc cho những kẻ mà sự sáng tạo nghệ thuật không nằm trong phương diện toàn thời. Những vật lộn với mưu sinh, những chắt chiu với thời gian hầu như đã làm cho những sáng tác nghệ thuật, và thân phận của nó sau khi nó ra đời, trở nên hẩm hiu hơn bao giờ hết. Nhưng có khi chính những trói buộc đó đã trở thành mầm mống của nhu cầu sáng tạo, cơ hồ để thỏa mãn cho một cơn đói linh hồn, mà thức ăn là tác phẩm, khi tư tưởng đã thành hình. Linh hồn phải tự nuôi cơn đói của chính nó khi nó bị trói buộc bởi những đòi hỏi của cuộc đời.
Kẻ sáng tạo có thể vì đòi hỏi của linh hồn mà quì gối với cuộc đời, nhưng không thể nào vì đòi hỏi của cuộc đời mà quì gối với linh hồn, với con tim. Ðó là giòng nước giữa hai bờ sông - một bờ là lý trí, một bờ là lương tâm.
Kẻ sáng tạo vả chăng là người đã bắt được cây cầu qua giòng nước đó trong chính linh hồn mình.
Nguyễn Phước Nguyên
Bông Bí
Cô gái gùi bông bí
vàng cả lối đi
Chập chờn đôi bướm
Em khuất mất, màu hoa kia cũng mất
Chỉ còn đôi bướm khoảng trời xanh
chỉ còn màu bông bí
Và anh
Thiên Ân (Kontum)
TIếng Vọng
Sông cõng gió băng qua vùng ký ức
Em đưa tay lần đếm dấu chân người
Ta lạc lõng bến mê cười ngây ngất
Như dại khờ tóm được ánh sao rơi!
Ðêm trắng quá trên môi trần mệt lả
Nghe mơ hồ một nỗi nhớ không tên
Vừa thoáng qua đây tiếng con dế lạ
Uống cạn sương đêm trên đầu cỏ mềm
Ðêm rộng quá, tiếng vọng ai, người hỡi
Hay câu thơ điên nhảy xuống giữa vờỉ
Ta hoá đá miệng cắn nghẹn lời câm
Em xoè tay bỗng dậy thì xuân sắc
Phố thực hư đã bày ra trước mặt
Những hoa đèn hình ảo giác bùa mê
Tiếng vọng lòng ta tràn cơn thác lũ
Bến sông xưa, em còn có kịp về.
Trần Hoa Khá (Qui Nhơn)
Tuổi 20
Vắt ngang anh một nỗi buồn
Con sông chảy ngược vẫn còn mông mênh
Ném ngây thơ giữa tim mình
Chiếc nơ để ngủ trong tình còn say.
Thôi em khóc giữa ban ngày
Lời thề như chiếc khăn tay ướt rồi
Tuổi hai mươi, tuổi hai mươi
Có khi yêu cả tiếng cười cũ xưa.
Vắt ngang anh một lời đùa
Anh đâu dại dột đón đưa hão huyền
Chỉ riêng em mải mê tin
Thôi đành dồn hết hồn nhiên cho người.
Tuổi thơ ta đã nhạt rồi
Xin đừng đuà giỡn trò chơi cuối cùng
Ðinh Thu Hiền (Hà Nội)
(TT 02-01-1996)
Ðôi Bạn
Tặng Nguyễn Tuân
Chúng tôi hai người
Thường gặp nhau hàng ngày
Buổi sáng trên một cái bàn
Thuộc từng lớp bụi
Một căn phòng không bao giờ dọn dẹp
Những đồ vật càng cũ nét từng ngày
Chúng tôi nói như không nói
Im lặng
Nói nhiều hơn
Không ai nghe chuyện riêng của nhau
Mắt anh và mắt tôi
Một lớp tro
Ðang ròng ròng kéo sợi
Như ta nhận
Trong không gian đầy nước
Phủ các đồ vật cũ
Phủ lên cả chúng ta
Ðến lúc không còn thấy nhau nữa
Chúng tôi
Hai người
Một bóng.
Văn Cao
Lời Hẹn Cuối Ðông
Người đi rồi lại đến
Chập chờn giữa hoang mang
Hương quỳnh hoa vội vã
Thấp thoáng bờ quan san
Tiển người ly rượu nhỏ
Tiển ta chung rượu đầy
Mai sau đời tát cạn
Cũng còn một âm say
Hỏi con tim còn đập
Hỏi ngày tháng mang mang
Bạt ngàn rừng hương quế
Vẫn thơm trời quế hương?
Ta đi tìm chút nắng
Tàn đọng giọt sương đêm
Bốc tung vùng ký ức
Dấu tích thời xa xăm
Những mãnh đời phố thị
Những con đò ấu thơ
Chiếc võng hè êm ả
Hiên nhà nắng chia đôi
Lối về bay gió đỏ
Áo người trắng chang chang
Rừng Lao Xao bát ngát
Cao Nguyên bạt gió ngàn
Những mãnh đời ban đêm
Những con đò gần sáng
Những trưa hè trăng thức
Những lối mòn cuối giấc
Những áo trắng mơ tan
Những rừng hoang trằn trọc
Những bạt ngàn trở trăn
Người về thơm hương lúa
Miền miên viễn đơm bông
Nhắc lời hẹn cuối đông
Sông trăng thuyền sướt mướt
Lần lữa buổi ra khơi
Bày ra đây chung ngọt
Rót cho tràn trăng sao
Say sưa vùng hương quế
Mai sáng rồi ly bôi
Mai rồi một mình tôi
Trong muôn ngày tỉnh giấc
Mộng mị một góc đời
Huỳnh Ngọc Phước
Trên Dốc Hoang Ðường Tôi Thấy Em
(của H)
Ðêm tắt lửa mong manh
Ðêm huyền hoặc vô ngôn
Chân dung của người chết,
hiện về với tôi một đêm rượu không đủ uống.
Tôi gạch một đường than trên nền nhà hoang mốc
Khuôn mặt của người -
khuôn mặt đã nín câm bao nhiêu năm ...
Những lời thề thốt hoang đường của một trò chơi đã qua.
Tôi trở lại tôi sau cơn mất trí chôn vùi.
Hãy đổ rượu xuống dòng sông
Và uống cạn nước sông trước mùa hạn hán.
Những nụ hoa sắp bung nở trong lo âu
Tôi nằm xuống đây
đợi chờ
cơn bão tới.
Mưa ào tuôn trên người tôi rửa sạch một hồn đầy bụi bặm
(Mưa cuối mùa luân lạc quyến rũ lạ lùng).
Tôi lê người về nơi chốn cũ nghe lại giọng em giữa phố quen.
Thành phố đầy ắp em
Và, đầy ắp hình ảnh chia tay ngày cũ.
Tiếng hát em vang xa như tiếng chuông
Tôi ngẩn ngơ tìm ngọn cây rũ dại,
ngồi ôm chặt một bóng hình sắp vỡ.
Dấu đi bóng mình trước khi ngày tắt tiếng.
Ðiều gì đã chết trong tôi - kẻ tội đồ bỏ trốn?
Thanh bình /chim chóc/ mặt trăng/mặt trời/ mùa màng?
Và em - đã đi mất dạng mấy mùa xa xôi héo úa?
Trở lại một lần có ích gì
Con đường em đi mãi mê rũ quyến cỏ hoa bung nở.
Tôi trong chiêm bao nghẽn lối,
nhớ em khôn nguôi
trên dốc
hoang đường.
19 tháng 3 1996
Chinh
Những Tháng Ngày Không Tên
* tặng võ thị tùng,
"bụi vướng ngang đầu mong nhớ mong"
Ðêm nay gió trở muà đông lại
Hoa tuyết rơi đầy trên áo ai
Vũ trụ vầng quay, thời gian dại
Nỗi nhớ nào ghi đủ hình hài?
Bóng lẻ trên đường xa thao thức
Dáng gầy chân bước nhẹ trong đêm
Dõi mắt ngẩng trông vùng ký ức
Tìm đoá hoa xuân rụng bên thềm
Văng vẳng tiếng giày xa vọng lại
Cuối nẻo đường đi hướng trở về
Như luyến tiếc ngày xưa chân vại
Còn cố tìm một dấu sơn khê
Hay có thể trong vùng vô thức
Ðã thấm đau thức giấc một ngày
Chim qua trễ trong lòng ray rứt
Kêu một lần vỡ giọng rồi bay
oOo
Xa lắm, ngày đầu tiên đến Mỹ
Mảnh đời xơ xác, tuyết thâu đêm
Bạn bè, người thân đường thiên lý
Nỗi nhớ hao gầy, nhung nhớ thêm
Cút kít vang ồn ta cuối đẩy
Chiếc xe thực phẩm nặng đầu tay
Ngẩng đầu ta chẳng hề trông thấy
Nhà ai rộn rịp. Thấy mây bay
Ðường về gác trọ sao xa quá
Té, ngã bên lề tuyết trắng tươi
Ta cuối đầu thương mình xứ lạ
Như thương cá biển lạc sông trời
Ta nhớ làm sao một mái ấm
Bếp lửa quây quần tiếng mẹ, cha
Ta ngỡ thời gian đi rất chậm
Chiều buông mơ tiếng tụng di đà
Băng nhạc cũ mềm quay qua, lại
Nửa hồn về gọi nửa hồn đau
Ta sợ một lần không trở lại
Rồi quên tình cũ, mộng ban đầu
Hình như có lần đi xem lễ
Hương ai thơm quá ngỡ hương xưa
Tự trách rằng mình không thực tế
Nghèo rớt mồng tơi vẫn chưa chừa
Nhìn dáng đài trang lòng xao xuyến
Ngẫm lại cuộc đời tựa áng mây
Một đêm ta mất toàn gia quyến
Ngàn năm hoài nhớ nỗi đau này
Nửa tách cà phê ta thấy đắng
Màu đen trên tuổi nhỏ tàn phai
Nghĩ đến tương lai vùng hoang trắng
Chạnh lòng chợt hiểu chữ trần ai
Quán vắng ngồi đây nhìn thiên hạ
Nhộn nhịp trên đường vui rất vui
Ta nhớ cảnh chợ Cồn chi lạ
Tiếng ai rao đậu hũ ngọt bùi
Ta nhớ đến rừng xanh, biển thẳm
Những bãi, cồn, dốc đá cheo leo
Ta nhớ những hoàng hôn tím thẳm
Mây trắng giăng ngang trắng chân đèo
Căn gác nhỏ nhoi mười đứa ở
Dăm đứa thất tình, dăm đứa điên
Ðêm nằm nghe gió tương tư trở
Nghe tiếng mưa rơi nhỏ giọt phiền
Nói chuyện đời xưa, ngày tháng cũ
Mơ hồ tựa những khúc đồng dao
Tiếc những chuyện đời chưa được thử
Ðộng tình sỏi đá cũng nôn nao
Tưởng tượng một lần về nơi ấy
Trùng dương sóng vỗ, nhạn xa khơi
Có mẹ tiễn đưa bàn tay vẫy
Tóc bạc, chân run, khóc nghẹn lời
Một bóng cha già gầy guộc quá
Quê người lưu lạc vẫn quê hương
Dẫu thế cha đau niềm xứ lạ
Miền Bắc cha mơ mấy con đường
Những ngày đông lạnh cha nhung nhớ
Cố quận mưa phùn, rét cắt da
Cha nhớ ngày hè hoa gạo nở
Nỗi nhớ bây giờ đã chuyển qua
Ta khóc vì thương hai thế hệ
Triệu người chỉ một mệnh cung thôi
Cha phải xa con, chồng xa vợ
Ðịa cầu chia cắt, nước ngăn đôi
Thùng quà nhỏ quá cho không đủ
Áo quần, thuốc thiếc chẳng là bao
Vỏn vẹn mấy đồng tay đếm thử
Xem còn có thể mua thứ nào
Viết về cho chị bài thơ ngắn
Ngưạ hồng đã lạc dấu chân son
Thơ chảy giữa dòng ra nước mắt
Vội vã lau khô sợ chị buồn
Chị vẫn thầm mơ xuân sang bến
Hồng đào tương ánh sánh hồng nhan
Liễu yếu xuôi tay dòng sông mệnh
Chị bỏ cuộc vui đứt cung đàn
Em ở nơi nào ta chẳng biết
"Ngàn trùng xa cách" hát một đêm
Hai chuyến phi cơ đời ly biệt
Chiếc gối bông nằm tưởng là em
Ta nhớ tay em, bàn tay nhỏ
Thương bàn tay mẹ thuở còn xuân
Mơ bàn tay con hồng thật nhỏ
(Thuyết tái sinh ta đã tin rằng)
Còn bạn xuôi Nam miền sương trắng
Thỉnh thoảng thư từ đến hỏi thăm
Hai đứa thở than ngày xuân thắm
Ra đi không hứa hẹn, âm thầm
Hãng gà, hãng bánh bạn hai jobs
Vợ trẻ, con thơ khổ thấu trời
Mười chín tuổi đời đà thấy ngộp
Cúi đầu không một tiếng than ôi
oOo
Có thể ngày sau ta chẳng nhớ
Cái thời cầm tấm check welfare
Có thể vì rằng ta mắc cở
Mấy kẻ trong đời xấu đem khoe?
Vì ta hoá kiếp thân lưu lạc
Như loài chim biển kẹt phương trời
Mơ ước một ngày tung cánh bạc
Muà xuân nào đó sẽ lên ngôi
Ðêm nay nhớ mười lăm năm trước
Ðọc truyện Kiều chợt thấy bâng khoâng
Một đời người có bao mộng ước?
Có mấy ai được sống hai lần?
trần thái vân
kỷ niệm một ngày mười lăm năm về trước
Ðến với vhnt từ thuở đầu tiên, tôi lấy làm lạ khi chưa hề thấy có ai giới thiệu hoặc đăng thơ của Ðinh Hùng, một nhà thơ tài hoa nhưng yểu mệnh, cùng thời với Vũ Hoàng Chương, Phùng Quán, Mai Thảo, Trần Dần... Tôi đã định viết một bài về Ðinh Hùng, người đã phụ trách Ban Thi Văn Tao Ðàn trên Ðài Phát Thanh Sài Gòn thập niên 60, tác giả của Mê Hồn Ca và Ðường vào Tình Sử, nhưng một phần vì lười, một phần vì không đủ tài liệu (trên tay chỉ còn giữ số Văn thương nhớ Ðinh Hùng số 91 ra ngày 1 tháng 10 năm 1967 do các bạn của Ðinh Hùng như Mai Thảo, Tạ Tỵ, Mặc Ðỗ, Vũ Hoàng Chương, Nguyễn Mạnh Côn, Du Tử Lê... viết nhân ngày thi sĩ qua đời) nên cứ khất lần cho mãi đến hôm nay. May thay, tình cờ được đọc bài viết "Cảm nhận Ðinh Hùng" của anh Phạm Thế Ðịnh, đúng với những gì tôi muốn giới thiệu với bạn đọc về Ðinh Hùng, nên tôi đã xin phép anh Ðịnh cho trích đăng lại trên vhnt cho mọi người thưởng thức, cũng là cách để bài viết ngọc quý của anh không bị lẫn vào trong bụi cát của SCV.
Dung Nguyen
oOo
Cảm nhận Ðinh Hùng
(1/2)
Trong lãnh vực thưởng thức thơ, có dạo tôi bị chao đảo giữa hai khuynh hướng:
Khuynh hướng thứ nhất là đọc thơ với sự giúp đỡ của lý trí, dùng đầu óc phân tích để tìm hiểu cặn kẽ ý nghĩa, nguồn cội, hoàn cảnh của từng tứ thơ, tức là những ý tưởng, những kỹ thuật xây dựng hình tượng, những xúc cảm khởi thủy, sự biến đổi theo từng câu thơ, lý do để tác giả có những cảm xúc độ . và hơn nữa mượn nhạc thuật, kiến thức trong ngành ngôn ngữ học hay âm học để tìm hiểu cái hay, cái dở của tính nhạc của một câu thơ .Sau đó dùng phép tổng hợp để nối kết tất cả những phân tích đó thành một hệ thống hầu có thể trình bày rõ ràng và hợp lý những nhận định đã tìm ra bởi sự phân tích.
Khuynh hướng thứ hai để sự nhận thức chủ quan điều khiển, đọc một bài thơ thấy hay, thấy đẹp, thấy xúc cảm là hay, không cần chẻ sợi tóc làm tư, làm tám, yêu là yêu theo như Xuân Diệu đã viết
Nào ai phân tích một mùi hương...
Thơ Ðinh Hùng đã đến với tôi bằng con đường thứ hai. Tôi yêu thơ Ðinh Hùng dưới tác dụng của một tiếng sét ái tình. Sức quyến rũ tàn bạo của cái đẹp, cái lạ đến một cách đột ngột, sững sờ vào tuổi thiếu niên. Dù rằng tôi cũng thích những bài học về thơ Việt Nam ở trường, hay một số đoạn thơ trích ở sách giáo khoa. Chẳng hạn, những bài thơ thất ngôn bát cú của Lê Thánh Tôn với
Nghi ngút đầu ghềnh tỏa khói sương
Miễu ai như miễu vợ chàng Trương...
Hay Chinh Phụ Ngâm với:
Ngòi đầu cầu nước trong như lọc
Ðường bên cầu cỏ mọc còn non
Ðưa chàng lòng dặc dặc buồn
Bộ khôn bằng ngựa thủy khôn bằng thuyền...
Tuy nhiên, những câu thơ loại đó, hay thì hay đấy nhưng quá cổ, quá xa, tên thiếu niên 12-13 tuổi như tôi lại thích tìm đọc những bài thơ tình tiền chiến của Nguyễn Bính, Huy Cận, Xuân Diệu... hơn Thú quá đi những câu thơ mang đầy hương đồng gió nội, đọc vào là hiểu ngay, là rung ngay tiếng lòng đơn sơ tình tứ:
Thôn Ðoài ngồi nhớ thôn Ðông
Một người chín nhớ mười mong một người
Gió mưa là bệnh của trời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng...
Tương tư, Nguyễn Bính
Hay sao là hay nét lãng mạn với lối dùng chữ Tây phương mà lòng lại rất Ðông phương như Xuân Diệu:
Cây cỏ bình yên, khuya tĩnh mịch
Bỗng đâu lên khúc Lạc-âm-thiều...
Nhị hồ để bốc niềm cô tịch
Không khóc mà sao buồn hiu hiu...
Nhị Hồ
Hồn tôi như được mở rộng để đón nhận nỗi buồn muôn thưở của các thi nhân đứng trước cảnh trường giang sóng vỗ, ngắm con thuyền xuôi, cành củi lạc:
Sóng bủa tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy giòng
Tràng Giang, Huy Cận
Vào những năm đầu thập niên 60, những thú tiêu khiển tinh thần chưa có nhiều như sau này, tủ sách nhà tôi thì nhỏ, quanh quẩn mãi với mấy cuốn truyện tàu, kiếm hiệp loại ba xu, mấy tập truyện ngắn của Tự Lực Văn Ðoàn. Một hôm tôi tự nhiên mượn được một tập báo Phổ Thông đóng bộ. Tôi tìm thấy trong những số báo này một đam mê văn học, có nhiều bài văn của ông Nguyễn Vỹ tôi không yêu lắm, nhưng cái tâm hồn yêu văn chương của ông ấy thì tác động mạnh trong tôi. Tờ Phổ Thông lúc đó có đăng những bài thơ hay, hiện đại hoặc tiền chiến. Hình như là tôi đã đọc bài thơ đầu tiên của Ðinh Hùng trong tập này thì phải, đó là bài Gửi Người Dưới Mộ. Sài Gòn đâu có mùa thu rõ rệt như ở Âu Châu, đâu có những con đường ngập đầy lá vàng khô trong cơn gió Bắc cuốn đi những kỷ niệm của năm tháng, những chiếc lá chết như trong thơ Jacques Prevert. Thế mà những giòng đầu của bài thơ Ðinh Hùng đã kéo tôi ngay vào không khí của một ngày cuối thu lạnh. Tôi run theo tiếng thủ thỉ của thi sĩ với âm hồn của mỹ nhân:
Trời cuối thu rồi em ở đâu
Nằm bên đất lạnh chắc em sầu
Thu ơi đánh thức hồn ma dậy
Ta muốn vào thăm nấm mộ sâu
Thuở đó tôi nào đã đọc Baudelaire để mượn cái dòng thơ tượng trưng của Fleurs du Mal (Ác Hoa), hay không khí của truyện "Những chuyện lạ lùng" (Histoires extraordinaires)* của Edgar Poe để cảm thơ Ðinh Hùng. Tôi cảm nhận trực tiếp những giòng thơ đó không cần sử dụng từ điển hay sách giáo khoa.
Những lời nói mà Ðinh Hùng sử dụng để nói với thu, để gọi một hồn ma, đã có khả năng làm hồn tôi tách ra khỏi xác tôi trong một khoảng khắc thời gian nào đó, vượt ra cái vật chất để nhìn về nó, vượt lên trên cái thực mà vẫn sống với cái thực:
Em đã về chưa?
Em sắp về chưa?
Trăng sao tắt ngọn đèn mờ
Ta nằm rỏ lệ đọc thơ gọi hồn...
Cái sống và cái chết thoắt một cái về thành bạn với nhau, thần chết không còn nằm ở một cõi không đụng được, mà đến gần dương thế hơn:
Thần chết cười trong bộ ngực điên
Ta nghe em kể tiếng ưu phiền
Nỗi lòng xưa dậy tan Thanh Vắng
Hơi đất mê người - Trăng hiện lên
Tôi đã bị nhập vào thế giới của Mê Hồn Ca mà không hiểu tại sao. Sau này mới biết Ðinh Hùng có những lời thơ trên có lẽ vì chúng đã tả một mối tình thật của ông. Theo lời Mai Thảo, thuở trẻ, Ðinh Hùng đã phải đi làm cậu giáo kèm học tư gia cho một ông quan huyện tỉnh Thái Bình, Ðinh Hùng gặp gỡ và yêu cô học trò tên Liên, là con gái của ông quan huyện. Cô này chết trề Ðinh Hùng đau đớn lắm, có dạo đi đâu cũng mang theo di ảnh của cô Liên, nhưng không cho ai coi. Ðêm đêm ông quanh quẩn nơi ngôi nhà ở gần đê Yên Phụ, nơi cô Liên đã chết. Có đêm, ông đã chỉ uống nước lã và nằm ngủ ngoài đường để được gần gũi nơi mà người yêu đã trút linh hồn.
Có lẽ vì đã sống thực một cách lạ lùng như vậy mà lời thơ Ðinh Hùng mới có một sức mạnh tuyệt diệu, như thơ Hàn Mặc Tử, kéo độc giả vào một thế giới khác. Trong không khí của tập Mê Hồn Ca, đó là một thế giới siêu thực, tôi muốn nói một thế giới mà cảnh thực được xen kẽ với những hình ảnh của thế giới mộng và vô thức.
Sau khi đã yêu bài thơ trên, tôi dần chú ý đến những bài văn thơ, cũng như chương trình Tao Ðàn của Ðinh Hùng. Tôi đã đọc "Kỳ nữ gò Ôn Khâu", một chuyện dã sử của ông, dưới bút hiệu Hoài Ðiệp Thứ Lang và tôi không cho đó là một tác phẩm lớn. Chương trình thơ Tao Ðàn đã đưa tiếng thơ tới với mọi người yêu thơ miền Nam, một cách thực sự phục vụ nghệ thuật. Khác hẳn thơ miền Bắc đã bị ông Hồ đem thép cho vào. Những bài thơ hay của nhiều thi sĩ nổi danh trước và sau 1954 như Nguyễn Bính, Du Tử Lê, Nguyên Sa... đã được gửi qua làn sóng điện một tuần ba lần, mỗi tuần 45 phút. Giọng nói ngân nga, nghệ sĩ, rất "thơ" của Ðinh Hùng vẫn còn sâu đậm trong tôi "Ðây Tao Ðàn, tiếng nói của thơ văn miền Tự Do, do Ðinh Hùng phụ trách, với các giọng ngâm của Hồ Ðiệp, Hoàng Thư, Quách Ðàm... tiếng sáo Nguyễn Ðình Nghĩa...". Vậy thì nguyên soái thi ca miền Nam trong những năm đó đã là Ðinh Hùng rồi.
Ðến khoảng đầu năm 1971, tôi mua được tại nhà sách Khai Trí hai tập thơ của Ðinh Hùng, với hết cả tiền còn có trước khi rời đất nước.
Tập Mê Hồn Ca thật ra đã được xuất bản lần đầu ở Hà Nội, sau này nhà Khai Trí tái bản lại. Hình bìa của tập thơ này và của tập thơ thứ hai "Ðường vào tình sử" đều do Ðinh Hùng vể
Bài thơ vào đầu "Bài ca man rợ" đã cho tôi cái cảm nhận khác biệt với các giòng thơ tiền chiến cũ, Ðinh Hùng không đi vào dấu đại lộ của những đàn anh thi sĩ mà Hoài Thanh đã hết lòng xưng tụng. Tiếng thơ Ðinh Hùng mới quá nên Hoài Thanh không hiểu chăng, mà chỉ xếp ông vào nhóm thi sĩ ngồi bàn nhì, bàn ba chung quanh Xuân Diệu - Huy Cận. Tôi lại thấy thơ Ðinh Hùng không những chỉ hay, mà còn độc đáo, ông lên tiếng kết án nền văn minh đô thị, với những xa hoa, phù phiếm đã giết chết mất những tình cảm hồn nhiên
Lòng đã khác ta trở về đô thị
Bỏ thiên nhiên huyền bí của ta xưa
Bóng ta đi trùm khắp lối hoang sơ
Và chân bước nghe chuyển rung đồi núi...
Lòng lạ lùng tìm ảnh với tìm hương,
Nhưng lẫn lộn chỉ thấy màu xiêm áo.
Trán thì phẳng-ôi đâu là kiêu ngạo
Ðâu hồn nhiên trên nét vẽ râu mày
Ông có thể đã là nhà thơ ecologist đầu tiên của Việt Nam, muốn trở về bảo vệ thiên nhiên, ông hung bạo với cuộc sống đô thị, máy móc.
Em còn trái tim nào đang xúc động
Em còn gì, trong xác thịt như hoa
Lạc thiên nhiên đến cả bọn đàn bà,
Với những kẻ dung nhan kiều diễm nhất
Ta lảo đảo vùng đứng lên cười ngất,
Ghì chặt nàng cho chết giữa mê ly.
Rồi dầy xéo lên sông núi đô kỳ,
Bên thành quách ta ra tay tàn phá.
Nhưng Ðinh Hùng còn muốn đi xa hơn nữa về một thời gian thăm thẳm trong thưở hồng hoang của nhân loại, nơi những dấu tích của nền văn minh con người không có mặt
Khi Miếu Ðường kia phá bỏ rồi
Ta đi về những hướng sao rơi
Lạc loài theo dấu chân cầm thú
Từng vệt sương sa mọc khắp người
...
Ta đến sườn non rẽ cỏ gai
Sống đây ghi trước mảnh hình hài
Lẫn trong kiến trúc tòa vân thạch,
Hồn cổ ngồi chung mộng vắn dài.
Từng buổi hoàng hôn xuống lạ kỳ,
Ta nằm trên cỏ lắng tai nghe...
Thèm ăn một chút hoa man dại,
Rồi ngủ như loài muông thú kia.
Những Hướng Sao Rơi
Khi đã sống với thiên nhiên, bỏ mặc những quan niệm gò bó của kiếp sống văn minh đô thị, tình yêu mới có thể được diễn tả đến tuyệt mức của nó
Những buổi đó ta nhìn em kinh ngạc
Hồn mất dần trong cặp mắt lưu ly
Ôi mắt xa khơi ! Ôi mặt dị kỳ!
Ta trông đó thấy trời ta mơ ước
Thấy cả bóng một vừng đông thưở trước
Cả con đường sao mọc lúc ta đi
Cả chiều sương mây phủ lúc ta về,
Khắp vũ trụ bỗng vô cùng thương nhớ
Người thơ đã vượt ra khỏi cái thế giới bình thường để đắm đuối trước tình yêu:
Ta run sợ cho yêu là mệnh số
Mặc tay em định hộ kiếp ngày sau.
Vì người em có bao phép nhiệm mầu
Một sợi tóc đủ làm nên mê hoặc
Ta đặt em trên ngai thờ Nữ Sắc
Trong âm thầm chiêm ngưỡng một làn da.
Buổi em về, xác thịt tẩm hương hoa
Ta sống mãi thở lấy hồn trinh tiết...
Kỳ Nữ
Đinh Hùng là người sống dâng hiến tất cả cho tâm hồn mình, cho tiếng thơ của mình, không chịu phục tòng tiếng nói của xã hội lúc bấy giờ là giai đoạn kháng chiến. Ðến nỗi vào năm 1947, Ðinh Hùng khoảng 26 tuổi và cùng Vũ Hoàng Chương tham gia Hội Văn Nghệ Liên Khu Ba, thế mà ông ta đã không biết lá cờ đỏ sao vàng là lá cờ của đảng Cộng Sản Việt Nam. Một sáng đi dạo phố Chợ Ðại Cống Thần, tình cờ nhìn thấy lá cờ đó phất phới trên kỳ đài, Ðinh Hùng sửng sốt hỏi "Cờ của nước nào thế kia ?". Ði kháng chiến mà hai ông nhà thơ vẫn quần lượt áo là, và có cả tiểu đồng đi theo bưng bàn đèn thuốc phiện. Nhưng theo Phạm Duy thì lúc đó, có tới 90% các văn nghệ sĩ vào lớp tuổi đó hoặc già hơn, mắc vào tật hút thuốc phiện, riêng Ðinh Hùng thì nghiện nặng, và không giấu diếm chuyện hút của mình.
Giai đoạn này thơ của Ðinh Hùng nói lên sự lạc loài kinh rợn, có lẽ đó là tiếng cô đơn của con người thơ trước một cận ảnh xáo động:
Trăng ơi! Ðừng bỏ kinh thành!
Hồn cố đô vẫn yên bình như xưa.
Nhỡn tiền chợt sáng thiên cơ.
Biết chăng ảo phố mê đồ là đâu?
Sông Núi Giao Thần
Hãy ra sa mạc, cõi Thơ Vàng
Vào trận cuồng phong, loạn hỗn mang
Nghìn lá cờ ma sầu địa chấn.
Hát lên, ôi dòng máu Bình Vương!
Bộ lạc ta xưa mất hải tần
Buồn nghiêng nội địa cháy tà luân
Ðêm thiêng thổn thức hồn du mục
Ta vọng lên non tiếng ác thần
Lạc Hồn Ca
Phạm Thế Định
Một Nét Đẹp Phụ Nữ Trong Văn Học
(Cái nhìn của Khái Hưng trong "Anh Phải Sống")
Chuyện vào đề với không gian một con đê Yên Phụ, cạnh con sông Nhị Hà. Thời gian, một nuổi chiều mùa hạ, khi con nước đỏ lợ đã bắt đầu lên cao, cuồn cuộn chảy.
Trong số những truyện ngắn củ Khái Hưng, tôi chuộng "Anh Phải Sống" vì lẽ, cả nghệ thuật lẫn nội dung đều xúc tích, cô đọng.
Cái lối đối thoại của ông ở đây không rườm rà, dư chữ. Nó thực. Cái thực của những cuộc đối thoại thường nhật, thực đủ để khiến ta không còn cái cảm giác của một độc giả, thay vào đấy, là một kẻ thứ ba vô tình hiện hữu trong cái không gian lúc ấy, một nhân chứng của cuộc đốt thoại đôi bên vậy:
...
- Mình đã đến nhà bà Ký chưa?
- Ðã.
- Thế nào?
- Không ăn thua. Bà ấy bảo có đem củi vớt đến, bà ấy mới giao tiền. Bà ấykhông cho vay trước.
- Thế à?...
...
Chị yên lặng đăm đăm đứng ngắm, đợi khi chồng làm song công việc, mới bước vào thuyền hỏi:
- Mình định đi đâu?
Thức trừng mắt nhì vợ cất tiếng gắt:
- Sao không ở nhà với con?
Lạc sợ hãi ấp úng:
- Con...nó ngủ.
- Nhưng mình ra đây làm gì?
- Nhưng mình định đem thuyền đi đâu?
- Mình hỏi làm gì? Ði về!...
Lối tả lại gẫy gọn, cứng cỏi, không mông lung. Lời văn không rườm rà. Ở đây tác giả không nặng về hình thứkhông cần trau chuốt, những lối ngắt gọn, nhanh, dứt khoác, là nghệt thuật độc đáo lồng ta vào cái thời gian cấp bách hiể nghèo với nhân vật. Hãy duyệt qua những nơi ngừng của tác giả:
...
Lạc nghe rùng mình. Gió thổi vẫn mạnh, nước chảy vẫn dữ, trời mỗi lúc một đen...
Hoặc là:
...
thuyền vẫn bị trôi phăng xuống phía dưới, khi nhô, khi chìm, khi ẩn, khi hiện trên làn nước phù sa, như chiếc lá tre khô nổi trong vũng máu, như con muỗi mắt chết đuối trong nghiên son.
Ðó là nghệ thuật hành văn, cái đẹp chính trong Anh Phải Sống khiến tôi điểm lại tác phẩm nhỏ này không ngoài cái cốt lõi câu chuyện - Một nét đẹp của người phụ nữ Việt qua cái nhìn của Khái Hưng - Qua lối viết, tác giả ý chừng giữ một thái độ vô tư, lãnh đạm với nhân vật, càng dửng dưng, cái suy diễn tư duy, cách bộc lộ nội tâm của nhân vật càng tự nhiên, qua đó, độc giả càng dễ nhận chân ra cái mộc mạc, bình dị của nhân vật, một đặc thù chung cho những cô gái quê, trong Anh Phải Sống - chị Lạc:
...
Chị Thức lẳng lặng ngồi ôn lại cuộc đời đã qua. Bộ óc của chị nhà quê giản dị, không từng biết tưởng tưởng tượng, không từng biết xếp đặt trí nhớ cho có thứ tự. Những điều chị nhớ lại chen chúc nhau hỗn độn hiện ra như những hình người vật trên một tấm ảnh chụp. Một điều chắc chắn chị ta nhớ ra một cách rành mạch là chưa bao giờ hưởng chút sung sướng thư nhàn như những ngườii giàu có...
Năm mười hai, mười ba, cái đĩ Lạc, tên tục chị phó Thức, xuất thân làm phu hồ. Cái đời chị, nào có chi lạ. Ngày lại ngày, tháng lại tháng, năm lại năm...
Nếu Bính trong Bỉ Vỏ cuả Nguyên Hồng dạn dĩ, cứng cỏi, lõi đời trong vai vế đàn chị của giới móc túi nhà nghề tỉnh thành, thì Lạc ở đây của Khái Hưng ý chừng đơn giản hơn, không phức tạp, yêu chồng và không chống đối, biết lo cái nỗi lo chung, biết chia cái gian khổ chung cùng chồng. Từ Lạc, tác giả gói ghém một cái gì đó rất thực, bình thường nhưng lại rất tiêu biểu của một người vợ trong xã hội của tầng lớp nghèo:
...
Thức trừng mắt nhìn vợ, cất tiếng gắt:
- Sao không ở nhà với con?
Lạc sợ hãi ấp úng:
- Con... nó ngủ...
- Nhưng mình định đem thuyền đi đâu?
- Mình hỏi làm gì? Ði về!
Lạc bưng mặt khóc. Thức cảm động:
- Sao mình khóc?
- Vì anh định đi vớt củi một mình mà không cho tôi đi.
Thức ngẫm nghĩ, nhìn trời, nhìn nước, rồi bảo vợ:
- Mình không đi được... nguy hiểm lắm.
Lạc cười:
- Nguy hiểm thì nguy hiểm cả...
Nhưng cái đẹp trong Lạc không chỉ đơn thuần có thế, nó sâu hơn, đậm hơn trong tác giả - tấm lòng người mẹ - Không do dự, Lạc đã đồng ý trả một giá đắc, thật đắc để mưu cầu hạnh phúc cho ba đứa con thơ khi giữa hai mạng sống của vợ chồng chi phải hy sinh một:
...
Mấy phút sau, chồng nghe chừng càng mỏi, hai cánh tay rã rời. Vợ khẽ hỏi:
- Có bơi được nữa không?
- Không biết. Nhưng một mình thì chắc được.
- Em buông ra cho mình vào nhé?
Chồng cười:
- Không! Cùng chết cả!
Một lát - một lát nhưng Lạc coi lâu bằng một ngày - Chồng lại hỏi:
- Lạc ơi? Liệu có bơi được nữa không?
- Không!... Sao?
- Không. Thôi đành chết cả đôi.
Bỗng Lạc rung khẽ nói:
- Thằng Bò! Cái Nhớn! Cái bé!... Không!...Anh phải sống!
Thức bỗng thấy nhẹ hẳn đi. Cái vật nặng không thấy bám vào mình nữa. Thì ra Lạc nghĩ đến con đã lẳng lặng buông ty ra để mình chìm xuống đáy sông, cho chồng đủ sức bơi vào bờ...
Ngày Phụ Nữ Việt Nam tuy đã qua, nhưng cái đẹp, cái hay của họ vẫn còn mãi đó - Thậm chí còn đẹp hơn, hay hơn dưới cái nhìn của văn học. Nhân ngày Phụ nữ Việt-nam (08-03), xin mượn tác phẩm truyện ngắn Anh Phải Sống của Khái Hưng làm mục điểm sách kỳ này hầu tặng mẹ, chị, và em, những người con gái đất Việt vậy.
Ðức Lưu
Tiếng Vọng của Biển
Thương về STH & PTD
Tôi yêu biển. Biển bao trùm tất cả mọi sinh vật. Biển âu yếm hát ru tôi ngủ trong những chiều vàng hanh nắng. Biển vô thủy vô chung. Biển là Mẹ là Em là tất cả. Tôi chỉ biết có biển. Tiếng nói của biển là tiếng nói của chính lòng tôi. Còn tiếng nói của cuộc đời, đối với tôi thật là lạ lẫm.
Tôi xa biển xa Mẹ xa Em từ một dạo mùa hạ. Nắng hạ đi, mây trôi lang thang cho hạ buồn... Biết đâu tìm lại tiếng sóng vỗ rì rào êm dịu của Thái Bình Dương ngày nào ở một vùng sa mạc khô khan như thế này!
Một bà cụ trước kia làm nghề chèo đò trên dòng Trà Khúc mỉm cười nhìn tôị Bà bảo: " Cháu hãy tìm đến dòng Rio Grandẹ Ở đó cháu có thể hiểu được lời ru của biển." Rio Grande, một dòng sông hiền hoà chứa đựng rất nhiều cặn bã của chất thải công nghệ. Ðã lâu lắm rồi, tôi có xem một bức ảnh rất đẹp chụp hình một dòng sông len lỏi giữa hai hàng cây lá vàng rực rỡ của mùa thu.
Trong hình ảnh cái gì cũng đẹp hơn hoặc xấu hơn trên thực tế. Dòng sông đó trên thực tế cũng không còn vẻ nên thơ mỹ miều của hình ảnh. Mùa đông. Những hàng cây trụi lá. Dòng nước đen đầy cặn bã và chất phế thảị Nhưng nó chứa đựng những gì thật nhất. Nước.
- Dòng sông này quá nhỏ hẹp. Không có âm thanh rì rào của biển. Không có mặt nước mênh mang vô cùng tận của đại dương. Không có chiều sâu thẳm của lòng biển vô cùng tận.
Nghe tôi phàn nàn, bà cụ mỉm cười cất giọng hát:
- Ngủ, ngủ đi con. Mẹ ru mà con ngủ. Năm canh chày, mẹ thức đủ năm canh...
Tôi nhắm mắt như trẻ thơ thiếp đi trong cơn mộng diễm ảọ Nha Trang. Từng đợt sóng xanh biếc êm ả vỗ về bãi cát trắng phau tinh khiết. Biển ngập nắng. Màu của biển cũng là màu xanh vời vợi của bầu trờị Tôi cầm một chiếc vỏ sò múc nước biển đem lại khoe với bà cụ Bà cười nhẹ và bảo:
- Cháu hãy nhìn kỷ chút nước biển nàỵ Biết bao điều kỳ diệu chứa đựng trong đó, bao động thực vật. Nhưng màu nước này sẽ không xanh mát như nước của biển trước mắt cháu bởi vì với cái nhìn nhỏ hẹp, sự vật sẽ không còn vẻ đẹp tự nhiên vốn có của nó. Cháu hãy sống như trẻ thơ đứng trước biển lấy vỏ ốc mà đong lường sự to lớn của biển, hãy mở rộng lòng bao dung với cuộc đời như tấm lòng của biển đối với vô vàn loài vật mà nó bảo bọc chở chẹ
Một giấc mơ tuyệt vời của cuộc đời! Chỉ là một giấc mơ mà thôi và cũng là giấc mơ của chính cuộc đời tôị Trong tôi mãi là hình ảnh của biển mênh mông. Biển của những câm nín thầm lặng. Biển của những ngày dông giô Biển của Mễ Biển của những nhung nhớ diệu kỳ.
Biển nhớ. Khi tôi nhớ Mẹ, Em thì cũng là lúc Em gởi cho tôi một lá thư. "Lá Thư Ngày Tết". Dư âm của giọng hát ngọt ngào của Em như vang vọng mãi trong lòng tôi: "Ngày Tết đến, được thư Anh là niềm vui bất ng Ngày Tết đến, rất nhớ Anh tựa một nổi nhớ nhà. Nhớ tiếng pháo giờ giao thừa, lòng rộn ràng mong đón xuân quạ Những tiếng hát từ cõi lòng, đàn trẻ mừng như lá như hoẳ " Em chỉ đề vài chữ sau bức ảnh: "Gởi cho anh chút hương vị của biển." Hình của biển. Biển Nha Trang lộng giô Thái Bình Dương. Biển của quê hương thân yêụ Biển của chiều sâu vô cùng tận với những bí ẩn muôn đờị Biển giản đơn song vô cùng khó hiểụ Biển và cuộc đời vốn không hai không khác. Chỉ có biển...
Tôi xa biển, có lẻ là vĩnh viễn. Nhưng tiếng sóng biển hay tiếng nói thật sự của cuộc đời sẽ luôn luôn tồn tại trong chính tôị Ðó là thứ tiếng nói chân thật, giản đơn của biển cả mênh mông. Tiếng của Mẹ. Tiếng vọng của biển...
BCCB
Lư Ngọc Dung