vhnt, số 179
29 April 1996
Trong số này:
thư vhnt...................................................BTL (guest editor)
T h ơ :
1 - Trôi theo mệnh nước .......................................Sao Băng
2 - Anh đã về .............................................Phạm Mỹ Nhung
3 - Còn đâu ................................................Quách Cường
4 - Nói chuyện âm nhạc ..................................Vũ Tiến Khôi
S á n g T á c N h ạ c P h ẩ m & L ời :
5 - Nhớ về Ðà Lạt .................................................K.H.
T r u y ện N g ắn / S án g T ác :
6 - Vượt biển ...........................................Bùi Thanh Liêm
7 - Stalin của Tố Hữu (truyện sử) .................Nguyễn Kỳ Phong
Tháng trước, nhân một bữa tiệc ở nhà người quen, có một người bạn của tôi đưa ra một câu hỏi ngắn gọn: "Bạn nghĩ gì về ngày 30 tháng 4?". Câu hỏi được xoay quanh bàn tiệc, để mỗi người trả lời". Mỗi người là mỗi câu trả lời khác nhau, nhưng phần đông cho rằng đó chỉ là một ngày như mọi ngày, đến rồi đi. Cái thảm nạn tháng Tư đen giờ đây chỉ còn là một cái gì rất mù mờ và mơ hồ trong ký ức của thế hệ trẻ hôm nay.
Lịch sử đã sang trang. 30 tháng 4, 75. 30 tháng 4, 96. 21 năm dài, khoảng thời gian dài đủ để bôi xóa và hàn gắn, đủ để trưởng thành một thế hệ mới, đủ để lãng quên một thế hệ cũ, đủ để xây dựng và đủ để phá đổ, đủ dể nhớ và đủ để quên.
30 tháng 4, 21 năm về trước, bạn đang làm gì? Nếu bạn đang trong lứa tuổi thanh niên, rất có thể bạn đang cầm súng, cho phía bên này hay phía bên kia. Bạn đang gẫy súng, ngậm ngùi trong thất thủ, trong những cuộc triệt thoái đầy máu và nước mắt. Hay là bạn đang say men chiến thắng, hăm hở trong hành trình Nam tiến, tưng bừng trong đại thắng mùa xuân, trong khí thế giải phóng miền Nam. Giải phóng miền Nam ư? "Anh giải phóng tôi, hay tôi giải phóng anh (Lời nhạc Nguyệt Ánh)". Lịch sử 21 năm dài đã trả lời cho câu hỏi đó.
30 tháng 4 có thể chỉ là một ngày như mọi ngày, có thể đã bị người ta cố tình lãng quên. Tuy nhiên đối với nhiều người trong chúng ta ngày 30 tháng 4 vẫn còn hằn in trong tâm khảm, vì đó là ngày loạn ly, đánh dấu một sự đổi đời của hầu hết mỗi người trong chúng ta. Ngày đó đã cướp mất đi nhiều người thân yêu của chúng ta; con mất cha, em mất anh, vợ mất chồng, và mất mát to tát mà ai cũng phải nhận lấy là mất nước. 30 tháng 4. Ngày đó đã dẫn đến thảm kịch biển Ðông kéo dài suốt hai thập niên. Ngày đó đã biến nước Việt Nam thành một nhà tù vĩ đại. Ngày đó đã kéo mảnh đất hình chữ S tụt xuống hàng của một trong những quốc gia nghèo đói nhất thế giới.
Không. Chúng ta không thể cố quên cái ngày đánh dấu biến cố lịch sử này được. Nhân dịp 30 tháng tư năm nay, xin mời bạn cùng chúng tôi dành một phút để hồi nhớ về một ngày đã qua đi. Xin hãy đốt một nén hương để tưởng niệm cho những ai vị quốc vong thân và cùng cầu nguyện cho một ngày tự do sớm trở lại trên quê hương.
Chúc các bạn một ngày nhiều suy tư.
Bùi Thanh Liêm
(viết thay PCL 1 kỳ)
Trôi Theo Mệnh Nước
Khi em cất tiếng chào đời,
Quê hương khói lửa ngậm ngùi binh đao.
Tháng ngày nối tiếp theo nhau,
Cha đi chinh chiến trấn vùng Buôn Mê. (1)
Nơi nhà tần tảo mẹ quê,
Sớm hôm coi sóc trẻ thơ, cụ già.
Một ngày trong tiết tháng ba,
Vô tình mẹ đã rời xa em rồi!
Trẻ thơ sớm mất nụ cười,
Thiếu bầu sữa mẹ vắng lời ru êm.
Mùa hè đỏ lửa quê em,
Chợt nghe tin báo từ xa đưa về:
Cha người ở tận sơn khê,
Hành quân tử trận giữa lòng quân binh.
Bà nhìn em mắt lệ rưng,
Khóc con, thương cháu mồ côi lạc loàị
Trẻ thơ nào biết sự đời,
Ngây thơ hỏi nội: "Sao bà không vui?"
Bà rằng: "Tội nghiệp cháu tôi!
Ðầu xanh vô tội, cậy nhờ ai đây?"
Ngó lên cao chín tầng mây
Than rằng: "Con Tạo, sao mày đùa chi?
Gây điều nghịch cảnh trớ trêu
Ðể tre già phải khóc măng như vầy!"
Hôm xưa cũng bởi ngày này
Em đem thân phận lạc loài bơ vơ
Hòa cùng mệnh nước tiêu sơ
Theo dòng di tản cập bờ Ðại Tây. (2)
Ngày dài tháng rộng trông mây
Thả tơ dệt mộng, "Trở về quê thôi!"
Ðường về xứ Việt xa xôi,
Nước ơi, có biết lòng tôi ngậm ngùi.
Viết cho các trẻ mồ côi và nạn nhân trong cuộc chiến tranh Việt Nam nhân kỷ niệm ngày 30 tháng 4.
Sao Băng
(1) Buôn Mê Thuộc
(2) Ðại Tây Dương
Anh Đã về
Anh đã về đây một chiều mưa
Trên chiếc băng ca máu nhạt nhòa
Hàng cây đứng lặng... sầu ly biệt
Thành phố u buồn khóc tiễn đưa...
Anh đã về đây, anh có hay?!
Người yêu anh đó tóc buông dài
Với tà áo trắng chiều tan học
Mắt lệ dâng trào khóc tiễn ai!
Anh đã về đây với nước non
Thân trai nợ nước đã vuông tròn
Anh hiên ngang đi vào quân sự
Từ đó mẹ hiền dạ héo hon.
Anh đã về đây với quê hương
Bằng chiến công đầu tận biên cương
Xác anh bồi đấp quê hương mẹ
Mưa rớt mộ phần ngập xót thương
Phạm Mỹ Nhung
(1970)
Còn Ðâu
Mưa ướt trong hồn, ướt cả tim,
Ai về đất Việt , giúp tôi tìm,
Ngày xưa đất nước chưa nhuộm thắm
Tuổi trẻ nô đùa, những chân chim!!!
Mưa ướt trong hồn, ướt cả tim,
Ai về đất Việt, giúp tôi tìm,
Căn nhà yêu mến, giờ mất dấu,
Tiếng mẹ hiền xưa, cũng bặt im!!!
Mưa ướt trong hồn, ướt cả tim,
Ai về xứ Việt, giúp tôi tìm,
Ngày xưa đất nước, chưa nhuộm thắm,
Phố cũ trường xưa đã lặng im!!!
Quách Cường
Calif. 03/95
Nói Chuyện Âm Nhạc
Em bảo em yêu nhạc vĩ-cầm
Cây đàn nho nhỏ với que xăm
Ðưa qua kéo lại, buồn da diết
Cò kẻ cò ke tiếng khóc thầm!
Em bảo em mê giọng Khánh Hà
Chiều nàng, anh nịnh nọt: "Ca va!"
Trịnh Nam Sơn - cái người phi thuốc?!?
Cười xã giao, anh khẽ: "... Í à!"
Bị hỏi về ca sĩ Việt Nam
Bí lù, anh xổ đại: "... Hương Lan!"
Em nhạo: "Sao mà quê rụng rốn,
Cải lương thì bé chỉ... xin van!"
Anh nói rằng anh thích Ý Lan
Em phê: "Cô í điệu vô vàn!"
Ơ hay, con bé này ngon thiệt,
Nói cái gì em cũng chặn ngang!!!
Anh định khai rằng thích Thái Thanh
Nhưng mà sợ bé lại phang anh
(Chê anh là cụ, taste già quá)
Thôi! cứ vòng vo, tán chuyện quanh...
Vũ Tiến Khôi
7/94
(tặng cô họ Hoàng)
Nhớ Về Ðà Lạt
1.
Về đứng bên giòng sông
Bỗng nhớ nguồn suối nhỏ
Một thoáng hương từ xa
Là nhớ thành phố hoa
Ngồi hát trong chiều mưa
Bỗng nhớ màu nắng lụa
Nhớ về từng bàn tay
Nhóm lửa ấm trời đêm.
Này em,
Dù xa,
Dù xa quê hương ngàn hoa.
Lòng ta,
Nhiều khi,
Còn nghe mưa gió thầm thì.
Ơi con đường,
Ơi con đường quanh co dốc caọ
Ta đi hoài,
Ta đi hoài,
Nhưng chưa hề mỏi bước em ơi.
2.
Ngồi nhớ lên đồi thông
Ðể thấy lòng gió lộng
Màu tím khi chiều buông
Làm nhớ tà áo em
Làn gió mang từ xa
Câu hát gợi nhớ nhà
Nhớ về từng nụ hoa
Hé nở giữa trời xuân.
Này em,
Dù xa,
Dù xa quê hương ngàn hoa.
Lòng ta,
Nhiều khi,
Còn nghe mưa gió thầm thì.
Ơi con người,
Ơi con người,
Bao nhiêu ngày gian lao bước quạ
Ta yêu hoài,
Ta yêu hoài,
Như yêu về Ðà Lạt em ơi.
K. H.
(1987)
LTG: Nhân dịp ngày 30 tháng 4 năm nay, tôi xin chia sẻ với các bạn một truyện ngắn khá bi đát. Câu chuyện mà tôi sắp kể ra đây là hoàn toàn có thật, trăm phần trăm, được kể lại từ nhân vật chính trong truyện. Mới đầu, tôi muốn dùng để viết lại một phóng sự giật gân, và muốn được như vậy tôi phải thêm thắt khá nhiều chi tiết, nhưng rồi suy đi nghĩ lại, tôi quyết định giữ nguyên cốt truyện, không thêm không bớt. Một sửa đổi duy nhất là tên của nhân vật chính không phải là tên thật. Bây giờ mời các bạn vào chuyện.
BTL
oOo
Vượt Biển
Thời gian: Năm 1979
Không gian: Không rõ lắm, chỉ biết là ở giữa biển Ðông. Trên là trời, dưới là nước, đất liền không thấy, chung quanh một màu xanh biếc bao la, vô tận.
Câu chuyện bắt đầu:
- Chiếc ghe nhỏ, dài khoảng 11 thước, rộng 2 thước rưỡi. Trên ghe có 86 người, cộng thêm 1 ấu nhi nữa là thành 87 người.
- Ghe rời cửa biển Vũng Tàu khoảng 2 ngày thì gặp bão, xuôi theo chiều gió của bão khoảng 5 ngày thì hoàn toàn mất phương hướng, ráng cầm cự thêm 2 ngày nữa thì hết dầu.
Bình ngừng kể, rít thuốc, nghiêng qua một bên phà khói, rồi kể tiếp:
- Lênh đênh trên mặt biển tổng cộng là 54 ngày. Hết nước và thức ăn, phải cởi áo ra hứng nước mưa rồi vắt ra uống và lặn xuống đáy ghe để bắt những con hà mà ăn, đến nỗi đáy ghe láng o.
Tôi ngắt lời anh:
- Khoan, khoan. Tôi cần biết thêm chi tiết, phải có đầy đủ chi tiết thì câu chuyện mới sống động được.
Bình nhíu mày, thả hồn về quá khứ:
- Có một ông bác sĩ đem cả đồ nghề đi theo để đỡ đẻ cho vợ. Khi đẻ xong, vì thiếu nước nên cả 2 mẹ con đã chết. Biết rõ gia đình chủ ghe còn thủ được vài can nước nên ông bác sĩ đã cố gắng xin ông chủ ghe một muỗng nước cho con uống vì ông bác sĩ nghĩ rằng nên cho con một mình uống thử một chút gì cho biết cảm giác trên đời. Tưởng cũng nên nhấn mạnh ở đây, chủ ghe chính là cháu ruột của ông bác sĩ.
"Rồi sao?" Tôi hỏi.
- Ông bác sĩ đã bị người chủ ghe cự tuyệt. Chủ ghe nêu lý do là nếu đã biết là chết rồi thì không nên phí nước như thế. Ông bác sĩ cũng là người đã bỏ tiền ra cho cháu, tức ông chủ ghe, đóng ghe và bao cho cả nhà ông chủ ghe đi không mất một số tiền nào cả. Ông bác sĩ có thể sẽ không bao giờ tha thứ cho hành động vô nhân đạo của ông chủ ghe. Tuy nhiên gia đình ông chủ ghe, mặc dù đã thủ riêng một số nước và thực phẩm, cuối cùng 2 người con trong gia đình cũng chết, vì bước sang tuần lễ thứ tư là bắt đầu...
Bình ngập ngừng không muốn kể tiếp. Tôi không thúc giục, mặc dù trong lòng đang nôn nóng muốn nghe việc gì đã xảy ra. Một hồi sau anh run giọng kể tiếp:
- Là bắt đầu màn ăn thịt người.
"Thế anh..." Tôi ngập ngừng không dám hỏi tiếp.
Bình gườm mắt nhìn tôi:
- Anh muốn hỏi tôi có ăn thịt người không chứ gì? Nếu nói là không hóa ra tôi nói dối, bản năng sinh tồn của con người mà anh. Nhưng tôi thú thật với anh là tôi ăn thịt rất ít, chủ yếu là ăn... óc.
- ???
- Sự thật thì trên ghe chúng tôi đâu có ai chết vì đói, vì chưa kịp chết đói đã chết vì khát nước. Ông bác sĩ mà tôi vừa kể hồi nãy mách cho tôi biết rằng trên cơ thể con người, cơ quan lưu trữ nước nhiều nhất là não bộ.
Tôi ngạc nhiên, hỏi lại:
- Chứ không phải trong máu à?
Bình lắc đầu:
- Có nhiều người cũng lầm như anh. Cũng dễ hiểu thôi, bản năng tự nhiên của con người là khi khát thì tìm chất lõng để uống. Trên ghe tôi có nhiều người cứ nhè xác chết mà hút máu, chỉ vài phút sau thì lăn quay ra chết theo. Ông bác sĩ giải thích rằng trong máu có nhiều chất muối, uống máu chỉ làm tăng thêm cơn khát mà thôi.
Bình mò túi áo, tìm gói Winston. Anh run run đánh lửa, rồi kể tiếp:
- Tôi không bao giờ quên được cái giây phút ấy, với từng khuôn mặt của những người còn sống trên ghe. Bọn tôi có một thỏa thuận là không được làm thịt người sống, mặc dù chỉ là sống ngoi ngóp. Có một ông chồng, vợ chết trên tay, nhất định không để cho ai rớ tới, nhưng rồi cũng không ngăn cản được ai. Anh thử tưởng tượng xem, một mình ông ta làm sao chống cự lại được mấy chục mạng. Họ đòi ăn ngay cho nóng, vì sợ để lâu bị trương phình. Bây giờ nhớ lại cái cảnh đó tôi còn sởn gai ốc. Cái cảm giác nhớ đời, anh ạ! Ai cũng rình rập nhìn nhau, chỉ chờ đối phương gục ngã là đè ra ăn tươi nuốt sống. Ðến nỗi buồn ngủ cũng không dám chợp mắt, mặc dù biết rằng trước khi ăn thịt mình, họ phải kiểm soát kỹ lưỡng, biết chắc mình đã tắt thở. Nhưng sợ thì vẫn phải sợ. Cái cảm giác sợ hãi đó đã bám theo tôi suốt mười mấy năm dài, và có lẽ cho đến mãn kiếp.
Không muốn để anh sống lại với quá khứ hãi hùng, tôi muốn chấm dứt buổi phỏng vấn:
- Như vậy cuối cùng bao nhiêu người sống sót, thưa anh?
- Khoảng trên dưới 30, tôi không rõ lắm. Ðến ngày thứ 54 thì chúng tôi được chiến hạm của Mỹ vớt. Thuyền trưởng hỏi mọi người muốn vào Singapore hay Hồng-Kông. Tất cả đồng ý vào Hồng-Kông, nhưng khi vào gần tới nơi thì lại không được phép cập bến vì sơn của tàu đã cũ. Tàu cuối cùng phải quay trở lại Subic Bay, Phi Luật Tân.
- Anh có thể vắn tắt lại quá trình phục hồi của anh được không ạ?
- 3 tuần đầu tôi phải ngồi xe lăn ở bệnh viện Manila, sau đó được đưa vào Bataan, hễ ngửi thấy mùi thịt thì sợ đó là thịt người. Thậm chí, cho đến bây giờ tôi còn không dám rớ đến món thịt bò.
Bình dụi tắt điếu thuốc, nói tiếp:
- Hy vọng đã cung cấp cho anh đủ dữ kiện để xây dựng câu chuyện anh muốn. Còn nhiều chi tiết dài dòng không thể kể ra ở đây được, mong anh thông cảm.
- Tôi hiểu, và cũng xin thành thật cảm tạ anh đã dành thời giờ cho buổi nói chuyện hôm nay.
Câu chuyện vượt biển của Bình đã rơi vào quên lãng. Anh hiện giờ đã hoàn toàn hồi phục, đã lấy vợ, có con và hiện đang định cư tại một thành phố nhỏ thuộc tiểu bang North Carolina. Bây giờ thỉnh thoảng trong những lúc trà dư tửu hậu, Bình vẫn thường kể lại chuyến vượt biên đó cho chúng tôi nghe một cách tự nhiên, không còn xúc động mãnh liệt như phút ban đầu. Tuy nhiên, có một điều mà tôi biết rõ là cho đến ngày hôm nay anh vẫn không ăn được món thịt bò.
Bùi Thanh Liêm
Tháng 4, 1996
Stalin Của Tố Hữu
Xta-lin! Xtalin! Yêu biết mấy nghe con tập nói
Tiếng đầu lòng con gọi Xta-lin...
Thương cha thương mẹ thương chồng
Thương mình thương một thương ông thương mười...
Ngàn tay trắng những băng tang
Nối liền khúc ruột nhớ thương đời đời
Tố Hữu khóc Stalin trong bài "Ðời Ðời Nhớ Ông"
Vào ngày ăn mừng sinh nhật năm mươi tuổi, Stalin nói với các uỷ viên chính trị đang tham dự tiệc sinh nhật một ước mơ của mình muốn thấy giai cấp địa chủ, tiểu tư sản, và tư sản mại bản bị hoàn toàn tiêu diệt trong trong một thời gian thật ngắn, để con đường tiến về xã hội chủ nghĩa cộng sản được gần hơn. Những người có mặt trong ngày sinh nhật không để ý nhiều về lời tuyên bố của Stalin. Họ không để ý vì, thứ nhất, không người nào trong bộ chính trị muốn có ý kiến ngược lại Stalin. Thứ hai, họ nghĩ chữ tiêu diệt mà Stalin dùng chỉ có nghĩa, tất cả tài sản và đất đai của địa chủ và tư sản Kulaks sẽ bị tịch thu mà thôi… Cho đến năm đó, đâu ai ngờ Stalin dùng chữ tiêu diệt với tất cả giá trị của nó: tiêu diệt có nghĩa là xoá bỏ, thủ tiêu, giết chóc, lưu đày, hay bỏ đói cho đến chết. Cũng trong ngày sinh nhật thứ năm mươi, không ai có thể đoán được một ước khác, không kém quan trọng, mà Stalin đang giữ kín: hắn muốn được tôn thờ như một vị vua không ngai của 150 triệu dân Nga. Trong ý nghĩ thầm kín của Stalin, tiêu diệt giai cấp địa chủ, tiểu tư sản, chỉ là giai đoạn đầu của phong trào khủng bố; Tiêu diệt những người bạn đời cùng làm cách mạng, hay những tư lệnh quân đội đang được nhiều người biết danh hơn Stalin, sẽ là giai đoạn kế tiếp. Đó là năm 1929. Chỉ 12 năm từ sau ngày Cách mạng Tháng 10 thành công, nhưng nhiều thay đổi đã xảy ra trong Đ.ảng cộng sản Nga. Lenin đã chết được hơn năm năm. Trotsky đã bị đuổi ra khỏi nước. Những tay cách mạng cùng thời với Lenin ở Petrograd như Zinoviev, Bukharin, Kamanev đều bị mất chức ở bộ chính trị, và đang bị cô lập. Những bộ mặt quan trọng còn lại là Chicherin, coi về ngoại giao; Voroshilov, quốc phòng; Yagoda, mật vụ; và dĩ nhiên, Stalin thì coi tất cả!
Lúc đó, ở Nga còn một nhân vật khác rất được trung ương đảng kính nể. Người đó là Kirov. Kirov rất thân cận với Lenin vào thời tiền cách mạng, và cũng là người có thể thay Stalin trong tương lai. Nhưng Kirov, vì không thích Stalin, ở lại Leningrad. Dạo đó, người ta nói rằng những ai không phải cộng sản loại bolsevich đều bị Stalin thanh trừng. Nhưng có sống qua giai đoạn đó rồi, những người thoát chết mới biết rằng chỉ có cộng sản bolsevich loại Stalin mới không bị giết. Nhưng chính điều này cũng không chắc lắm: Không có gì chắc chắn dưới thời của Stalin.
Một buổi chiều mùa đông năm 1933. Ngày của tháng Hai rất ngắn; ở Leningrad ngày càng ngắn hơn. Nắng tắt, buổi chiều yên lặng như ngủ vùi trong mùa giá lạnh. Một đôi trai gái vừa đi vừa thì thầm to nhỏ:
- Petrovich, anh sẽ đi đâu? cô con gái hỏi.
- Anh sẽ về Cherkassy ở Ukraina. Người thanh niên trả lời.
- Cherkassy, trên bờ sông Dnepr? Tụi con gái ở đó đẹp lắm. Thế nào anh cũng yêu một nàng thôn nữ. Anh có chủ tâm xin về Cherkassy?
Người con gái hỏi trong một chuỗi cười ranh mãnh.
- Không, Ivana, không phải như vậy. Nếu muốn thì anh đã xin đi về Kiev rồi. Ba anh là tư lệnh quân khu Kiev. Anh muốn về Cherkassy vì đảng cần những thanh niên tiền phong như chúng ta để đương đầu với tụi địa chủ tiểu tư sản ở Cherkassy. Tụi đó cứng đầu lắm; không năm nào nạp lúa đủ cả. Đó là tụi phá hoại, tụi menshevich, tụi Trotsky. Mình phải đem sắt thép của bolsevich về trị chúng nó.
- Em chỉ đùa thôi, Petrovich. Em cũng được đưa về Ukraina, ở Kharkov - Người con gái xoa dịu.
- Khuya rồi, Ivana! Mình chia tay đi. Ngày mai có đồng chí Khatayevich ở Ukraina về nói chuyện để tiễn ta đi. Hẹn em ngày mai. Petrovich chào giã từ.
- Về đi Petrovich, về và ráng học điệu vũ Gopak của Ukraina, để có dịp gặp nhiều cô thôn nữ.
Người con gái vụt chạy vào nhà, bỏ lại sau lưng những tiếng cười. Petrovich Yakir và Ivana Marakov, cả hai đều 16 tuổi, là những thanh niên cộng sản tiền phong được đưa về Leningrad huấn luyện để đi thâu lúa của những địa chủ. Trong khoảng 1929-1934 là những năm của kế hoạch năm năm đầu tiên ở Nga. Suốt năm năm đó, số nông sản các nông xã đóng cho nhà nước không bao giờ đủ chỉ tiêu ấn định. Stalin nghĩ những địa chủ ngoan cố dấu lại lúa gạo. Thế là đoàn Thanh niên cộng sản tiền phong được thành lập, với nhiệm vụ đi lục soát lúa gạo của nông dân. Nhiệm vụ của họ là đi đến từng địa phương, từng nhà để tìm thêm lúa gạo. Nhóm thanh niên này được huấn luyện để hận thù địa chủ, tiểu tư sản và tư sản mại bản. Đó là nhiệm vụ chính của họ.
- Các đồng chí phải thi hành nhiệm vụ một cánh triệt để. Đừng động lòng trước những giọt nước mắt. Hãy liệng đi cái nhân bản của tụi tư sản. hãy đánh tụi nó để chúng không ngẫng đầu lên được. Muốn trở thành một đ.ảng viên chuyên chính thì đừng nghĩ đến tình thương hay sự đau xót. Người còn lòng thương hại thì không là người cộng sản. Các đồng chí chỉ có một lý tưởng mà thôi: phải huỷ diệt những gì không là cộng sản. Nhiệm vụ của các đồng chí là phải tìm cho ra lúa gạo mà tụi Kulak đang cất giấu. Bằng mọi cách dù phải dùng biện pháp mạnh. Phải đạt được chỉ tiêu; tìm ra thêm lúa gạo là một thách thức. Hãy thi hành nhiệm vụ theo tinh thần của các đồng chí mật vụ Cheka. Thà hành động quá tay hơn là hành động chưa đủ. Hãy hành động cho xứng đáng lòng mong đợi của đồng chí lãnh đạo thân yêu Stalin của chúng ta. Sau hết, các đồng chí hãy nhớ rằng: danh nghĩa cách mạng sẽ biện minh cho mọi hành động. Đó là lời tiễn đưa nhóm Thanh niên tiền phong của Khatayevich, chủ tịch Đ.ảng cộng sản nước Cộng hoà Ukraina. Nhóm thanh niên ra trường lần này phần lớn được đưa về những vùng như Ukraina, Bắc Caucasus, Volga, và Don. Vùng Don, nơi có dòng sông Don êm đềm của Solokov đang lững lờ chảy. Nhưng vào thời đó, ngay cả vùng sông Don cũng không còn được vẻ êm đềm. Cuối năm 1934 Stalin đã thanh toán được hầu hết các đồng chí của hắn ở bộ chính trị và trung ương đ.ảng. Năm đó cũng là năm Kirov bị ám sát chết. Người ta nghĩ Stalin ra lệnh cuộc ám sát đó: Ngay vào buổi chiều sau khi Kirov bị giết, Stalin đi ngay lên Leningrad để đích thân “điều tra”. Nhưng vụ án không còn ai là nhân chứng để được tra hỏi: thủ phạm đã bị tử thương trên đường đi đến nhà thương, sau khi bị thương trong một cuộc thẩm vấn của công an Cheka. Tất cả cán bộ thuộc phái Menshevich đang bị lưu đày ở Tomsk, bên kia dãy Urals. Hội cựu đ.ảng viên bolsevich bị giải tán. Và kể từ khi kế hoạch đánh tư sản được áp dụng cho đến nay, đã có hơn bốn triệu nông dân bị chết vì đói và bệnh trong lao tù. Nhưng không ai để ý đến thảm trạng đó. Họ đang phải lo bảo vệ chính mạng sống của họ. Hơn nữa, theo Stalin, những người tư sản không phải là người: họ ở dưới con người. Hung thần Stalin đã hiện ra nửa mặt. Quốc hội Soviet chính tức tôn thờ hắn: bốn năm trước, ở đại hội đ.ảng thứ 16, không một ai nhắc đến tên của Stalin. Ở đại hội đ.ảng năm nay mọi người đều lập lại câu “Lãnh tụ yêu quí Stalin của chúng ta…” Nhưng những gì đang xảy ra năm đó ở Soviet chỉ là những nhục hình tầm thường ở tầng thứ nhất của địa ngục. Nghe những gì cha mình nói, Petrovich thấy thất vọng. Không phải anh thất vọng vì nội dung của câu chuyện, mà thất vọng về thái độ của cha mình. Hay là cha mình đã mất lòng tin vào chủ nghĩa cộng sản? Hay cha mình muốn đảo chánh Stalin như một vài lời đồn mà anh nghe thoáng qua tai? Petrovich cố gắng yên lặng để nghe cha mình nói thêm:
- Con biết không, năm được mùa nhất là năm 1930, mà cả Ukraina chỉ có thể nạp được 7 triệu tấn lúa. Năm nay thất mùa như vầy thì nông dân ở đây làm gì có được 8 triệu tấn lúa để nạp cho Moscow. Đây là một đòi hỏi thật vô lý từ Stalin. Bí thư tỉnh Kharkov đã báo cáo là nạn đói đang hoành hành ở phân nửa Ukraina. Nhưng chẳng những Stalin không tin, trái lại còn mắng anh bí thư tỉnh là nếu anh ta nói dóc giỏi như vậy thì nên về viết tiểu thuyết tưởng tượng mà sống. Nhưng sự thật là nhiều người đã bỏ trốn khỏi nông xã vì không còn đủ đồ ăn. Đấy là một thảm hoạ chứ không phải là một kế hoạch.
- Nhưng tụi kulak ở Zhytomyr vẫn sống như thường, đâu có gì đâu- Petrovich nói cho cha mình nghe, khi nhớ lại chính chàng đã ghé ngủ qua đêm ở vùng đó nhiều lần.
- Con chưa biết được sự thật. Dân làng Zhytomyr là dân công giáo, họ có tục lệ chôn đồ trang sức quí giá trong hòm cùng với xác của thân nhân quá cố của họ. Ba có nhận được báo cáo nói là ban đêm những người dân làng bí mật đào mộ thân nhân lên, lấy lại vòng vàng để đổi lấy gạo, khoai, bánh mì hay bất cứ cái gì có thể ăn để sống qua ngày. Tụi mật vụ đóng chung quanh vùng Zhytomyr đều giàu. Tụi nó đổi những đồ ăn thừa để lấy vàng và những đồ quí của dân làng.
Petrovich nghe cha mình nói chàng tưởng như trên trời rớt xuống. Chàng biết kế hoạch đánh kulaks đã ảnh hưởng rất nhiều, làm cho những địa chủ rất khổ. Nhưng khổ đến như vậy sao? Vì luật pháp không cho dân ở nông thôn đi vào thành phố đó là kế hoạch của đ.ảng dùng để bao vây và cô lập địa chủ nên chàng chưa thấy tận mắt những cái khổ của nông dân bao giờ. Những lần đi thâu lúa, chàng chỉ đi đến những nông xã, và nếu có đi vào nhà dân thì chỉ là nhà hoang vườn trống. Sau khi nghe cha mình nói, đến bây giờ Petrovich mới những đôi mắt sợ hãi, những cái nhìn hận thù của nông dân khi chàng tịch thu lúa gạo của họ. Cũng như tiếng khóc của những đứa trẻ đang đói, tiếng gào của những bà mẹ khi thấy một nắm gạo cuối cùng bị tịch thu. Nhưng không, Petrovich nghĩ, anh không thể để lòng thương xót của mình lấn áp nhiệm vụ.
Một ngày trước đó, chàng chứng kiến cảnh một người nông dân liệng một đứa bé thơ vào thân cây vì anh ta không còn chịu đựng được tiếng khóc rên rỉ của thằng bé vì nó quá đói. Những cảnh đó không làm anh mất lòng tin vào cách mạng cộng sản. Tướng Iona Yakir nói tiếp:
- Ba phản bội Nga Hoàng để đi theo Hồng quân của bolsevich, đi theo cuộc cách mạng của Lenin. Ba tin vào chủ nghĩa cộng sản. Nạn đói đang hoành hành toàn cõi Ukraina, nhưng ba không làm gì được. Tuy là tư lệnh của quân khu Kiev, nhưng ba vẫn nằm dưới quyền của bí thư tỉnh Khatayevich. Đường lối kế hoạch nhà nước thuộc về chính trị, ba không thể nào xen vào được. Nhưng ba đang hoài nghi về sự thành công của kế hoạch triệt tiêu kulaks và nông xã hoá của chủ tịch Stalin. Kế hoạch này được thực hiện quá nhanh, được áp dụng quá khắc khe. Nông dân bị tịch thu tất cả thì làm sao họ sản xuất được. Giai cấp địa chủ là đi ngược lại chủ nghĩa cộng sản. Nhưng đó không phải là một cái tội, và đ.ảng không thể nào bỏ đói họ như vậy được. Con cứ thi hành lệnh của đ.ảng như được huấn luyện. Nhưng khi thấy những gì đi quá lố, ngược lại luật của đ.ảng thì hãy báo cáo với cấp trên. Ba đang chuẩn bị một hồ sơ về nạn đói để tường trình với Stalin vào năm tới. Và con cũng đừng quên liên lạc thường xuyên với gia đình. Petrovich định hỏi cha mình thêm vài câu nữa, nhưng lại thôi. Chàng đang nghĩ tới một chuyện khác: khi nãy ông có nhắc đến vùng Kharkov, nghe tên vùng đó, chàng liên tưởng đến Ivana. Không biết bây giờ nàng như thế nào rồi. Khi nghe tin Kamenev, Zinoviev và Bukharin bị xử bắn ở khám đường Lefortovo, tướng Yakir bắt đầu lo ngại. Nhất là tin nói cả ba nhận tội chống lại Đảng cộng sản. Đó là ba người cuối cùng của những tay cách mạng bolsevich cũ ở Leningrad. Phải có bàn tay của Stalin trong vụ này. Nghĩ đến Stalin, Yakir lo lắng hơn: ông vừa nhận được một điện tín cách đây không lâu. Trong đó Stalin mắng là ông không được xen vào vấn đề chính trị. Đó là bức thư trả lời cho bản báo của Yakir về nạn đói ở Ukraina. Mới đây, Ivan Dubovoi, tư lệnh quân khu Kharkov bị thuyên chuyển đi Siberia chỉ vì ông này không ngăn cản lính khi họ bố thí đồ ăn cho những nông dân đang chết đói. Yakir nghĩ còn ai trong bộ quốc phòng ông có thể liên lạc để biết chuyện gì đang xảy ra. Tổng trưởng quốc phòng Voroshilov? Không ông này quá thân cận và nịnh bợ Stalin. Hay là Nguyên soái Mikhail Tukhachevski, một người bạn đời của ông khi cả hai còn trong quân đội Nga Hoàng. Yakir gật gù trong ý nghĩ: phải, chỉ có Tukhachevski thì mới đủ thân tình để thổ lộ những ý nghĩ của mình. Tướng Yakir định gởi một điện tín về Moscow, xin gặp Tukhachevski, nhưng lại thôi. Liên lạc như vậy quá nguy hiểm. Tụi mật vụ của Yagoda sẽ biết được ngay. Ông quyết định về thẳng Moscow để gặp Tukhachevski. Hơn nữa, ngoài chức vụ trung tướng tư lệnh quân khu, ông còn là một đại biểu quốc hội Soviet. Có chuyện gì xảy ra cho ông, quốc hội phải biết phải biết và có ý kiến. Yakir nghĩ một cách rất tự tin. Nhưng đó cũng là những gì Kirov, Kamenev, và Bukharin đã tin để rồi bị chết. Quốc hội Soviet lúc đó chỉ là một bộ máy bỏ phiếu. Và Stalin là người vận hành cái máy đó.
-… Petrovich, em viết thư này cho anh trong một trạng thái rất xao xuyến. Những chuyện em thấy được, và những chuyện đang xảy ra làm lòng em mềm đi. Hôm nay ông bí thư tỉnh của em vừa bị xử bắn. Cấp trên nói là ông làm việc quá chậm. Đó là một cái chết của hơn 200 cái chết em thấy được ngày hôm nay. Em chưa bao giờ thấy những cảnh thê lương như thế này: người chết bắt đầu đông hơn người sống. Anh ơi, em đang ngồi ở ga xe lửa Kursk. Những gì xảy ra trước mắt em, em sẽ không bao giờ quên được. Hàng ngàn nông dân, phần lớn là đàn bà và trẻ con, bụng đói, họ ngồi chờ xe, không hành lý, không đồ ấm cho mùa đông. Họ chỉ còn một bộ đồ trên thân; đ.ảng đã tịch thu hết những gì họ có. Nhiều người đàn ông gần như là ở trần; họ cởi đồ ra để che chở cho vợ con họ. Đám người đó đang bị đuổi đi, nhưng khơng nơi nào nhận họ. Họ phải đi, phải tiếp tục di chuyển cho đến khi nào kìệt sức. Và khi chuyến xe lửa đến, tụi mật vụ sẽ lùa đám nông dân lên xe như một đàn thú. Chuyến xe đó sẽ là một chuyến quan tài: xe sẽ chạy không ngừng về trạm kế tiếp. Trạm kế tiếp nằm cách đây chín ngày đường. Làm sao họ nhịn đói được trong chín ngày? Đây là cách mạng sao anh? Em đang cầm trong tay một lệnh nhận được từ Moscow. Vì vùng Kharkov không nạp đủ số lúa (đó là lý do tại sao ông bí thư tỉnh của em bị tử hình), nên từ đây tất cả mọi tiếp liệu đều bị cấm chở vào, và không người nào được ra khỏi đây. Toán tụi em vào tận thị xã để coi tình hình nhưng phải quay về. Một toán đàn bà khoảng chừng hai ba trăm người đang bao vây phòng làm việc của toán Thanh niên tiền phong. Họ đòi sữa để nuôi con, còn không phải cho họ ăn cái gì để họ có sức làm việc và có sữa cho con bú. Nhìn những thân thể xanh xao run rẩy của những người đàn bà đó, em thấy cách mạng bolsevich không còn thánh thiện nữa. Em đâu được huấn luyện để giết những đứa trẻ thơ; em đâu muốn là kẻ giết người… Em chỉ rảnh được một đôi chút để viết cho anh thư này. Em sẽ đi Odessa vào tháng tới. Ở đây em nghe tin là ba anh đã được cử làm tư lệnh cả quân khu Ukraina, không biết có đúng không. Thôi mình hy vọng gặp lại nhau sau khi cách mạng thành công… Petrovich đọc những gì Ivana viết và không ngạc nhiên lắm. Tất cả những gì Ivana viết đều là sự thật. Nhưng Petrovich vẫn tin vào những gì chàng đã được tuyên truyền để tin. Đ.ảng đã không cho phép chàng nao núng trước những giọt nước mắt. Chàng đã thấy cảnh đó, nhưng cách mạng phải ở trên tất cả. Petrovich viết vài hàng vội trả lời cho Ivana. Trong thư có một đoạn chàng nhắn nhủ Ivana: “Ivana, em phải chấp nhận những thảm cảnh đó. Vì đó là những cần thiết để tạo lịch sử: Lịch sử của bolsevich…”. Petrovich, trong thư, trách Ivana là nàng quá yếu mềm; là tình cảm của nàng vẫn còn là tình cảm của tư sản. Tội nghiệp cho Petrovich, trước thảm cảnh đang xảy ra cho những nông dân vô tội, anh vẫn dửng dưng tin vào những gì anh đã tin.
Nguyên soái Mikhail Tukhachevski và trung tướng Iona Yakir gặp nhau ngoài ngoại ô Moscow. Họ uống rượu của Tukhachevski mang theo.
- Iona, bạn về đây bất ngờ quá! Có chuyện gì không? Hay là bạn đã biết chuyện Voroshilov đề cử bạn làm tư lệnh quân khu Ukraina rồi? Tukhachevski tươi cười hỏi bạn mình.
- Mikhail, anh đừng đùa với tôi như vậy. Tôi về đây định hỏi chừng nào thì tôi sẽ bị cách chức. Và bây giờ tôi là tân tư lệnh của Ukraina?
- Thật đó Iona. Tôi vừa gởi cho bạn một điện tín chúc mừng. Voroshilov chọn bạn là xứng đáng lắm!
- Tukhachevski nghiêm nghị trả lời.
- Tôi muốn hỏi anh tại sao Bukharin, Ramenev và Zioniev bị xử bắn? Iona hỏi.
- Iona, đừng xía vào chuyện đó. Tôi biết chuyện Stalin yêu cầu anh đừng xía vào chuyện chính trị một lần rồi. Và khi Stalin nói, anh phải để ý. Tukhachevski trả lời Iona sau một khoảng yên lặng.
Iano lắc đầu nói với bạn:
- Mikhail, tôi với anh là bạn với nhau từ hồi mình còn là những tên thiếu uý quèn. Tôi không sợ khi phải nói với anh những gì tôi sẽ nói. Đã hơn tám triệu nông dân bị chết. Chỉ riêng Uraine đã có bốn triệu người trong số đó. Tôi biết chắc chắn có hơn 100.000 nông dân bị thanh trừng. Và tội của họ: Kẻ thù của đ.ảng. Tai sao đảng lại có nhiều kẻ thù vậy? Stalin phải biết về những vụ xử bắn đang xảy ra. Kế hoạch nông xã của Stalin sẽ không bao giờ thành công. Nông dân Uraine sẽ không bao giờ nạp đủ số lúa mà Stalin yêu cầu trong kế hoạch năm năm. Stalin muốn 8 triệu tấn, nhưng cả Ukraina chưa sản xuất tới 6 triệu tấn. Từ 1930 đến nay tất cả dân tư sản và điền chủ đã bị tiêu diệt hoặc bị đưa trại tập trung. Người chết vì đói nhiều hơn người còn sống để làm ruộng. Cả Ukraina không còn gì để ăn. Hàng ngày tụi thanh niên tiền phong, mật vụ đi lục từng nhà để truy tầm nông dân dấu thực phẩm của nông xã. Mikhail ơi, tôi không hiểu kế hoạch về nông xã và đánh địa chủ này có thành công không. Đây là một kế hoạch kinh tế hay là một chiến dịch tiêu diệt nông dân. Quá nhiều người chết đói. Có nhiều làng nông dân phải ăn thịt người để sống: họ giết những người sắp chết để nuôi những người đang sống. Tôi kể cho anh nghe một bí mật này mà anh chưa nghe được ở Moscow: Bà Allilueva, vợ của Stalin, tự tử chết chứ không phải bị bệnh ruột dư mà chết như bác sĩ đã chứng nhận. Tại sao Stalin phải dấu? Và về chuyện các đ.ảng viên bị tội phản đảng: Tại sao lời thú tội của những người bị xử tử chỉ được đưa ra sao khi họ chết? Và tên trùm mật vụ Yagoda là cái gì mà nó có quyền bắt người một cách dể dàng như vậy? Biện lý chính phủ Vyshinski ở đâu. Mikhail, chừng nào đến lượt tụi mình đây? Nguyên soái Tukhachevski nghe Iona nói, yên lặng một chút rồi nói:
- Iona, những gì anh đang nói quá nguy hiểm, nhất là ở Moscow. Tôi nói cho anh biết, Yagoda bị cách chức rồi. Theo lời Stalin nói là Yagoda làm việc quá chậm. Yezov đang nắm quyền mật vụ. Anh nói đúng, có rất nhiều chuyện đang xảy ra mà mình không giải thích được. Tôi muốn anh trở lại Ukraina và đi thanh tra các tỉnh trong địa phận của anh ngay. Tôi sẽ gặp anh ở Nikolayev khi tôi đi thanh tra ở đó vào tháng tới. Nhưng trước khi chia tay, nói cho tôi nghe về vụ bà Allilueva.
- Anh có được bằng chứng gì?
- Để dò xét tình hình, Stalin cho Allilueva về vùng Odessa dạy học. Lớp học của bà càng lúc càng vắng học trò. Một hôm có một đứa học trò mách với bà là một vài đứa bạn trong lớp đã bán thịt người. Không tin, Allilueva bắt một đứa học trò để tra hỏi. Tên học trò thú thật với bà là mẹ hắn đã giết hai đứa em nhỏ, yếu đuối nhất trong nhà để nuôi những đứa khỏe mạnh còn lại. Khi Allilueva đem chuyện đó kể lại cho Stalin nghe, ông ta mắng vợ mình là chỉ nghe tin đồn của tụi Trotsky, và cấm bà ta không được nói về những chuyện đó nữa. Mấy tháng sau đứa học trò cũng bỏ học luôn vì cả nhà bị đưa đi trại tập trung nông xã. Quá khủng hoảng vì bị ám ảnh bởi những gì đã chứng kiến, Allilueva tự tử chết. Tên bác sĩ ở bệnh viện Odessa được lệnh chứng nhận bà ta chết vì bệnh ruột. Tôi không có dịp nói chuyện với tên bác sĩ đó, vì hắn đã bị bắt giam về tội biển thủ ngân quỹ sau đó vài ngày! Cả hai người ngồi nhìn nhau. Tukhachevski nhếch miệng cười.
- Thôi uống nốt chút rượu còn lại đi, Iona.
- Mikhail, thôi tôi đi. Hẹn gặp lại anh sau. Iona đứng lên chào Tukhachevski, Tukhachevski chào trả lễ. Hai người hùng của quân đội không ngờ đó là lần cuối cùng họ chào nhau trong bộ quân phục Hồng quân Soviet. Cuộc gặp gỡ giữa Iona Yakir và Tukhachevski được mật thám báo về cho trùm mật vụ Yezov ngay buổi chiều hôm đó. Yezov báo cáo cho Stalin. Nửa đêm, Stalin gọi lại cho Yezov:
- Nikolai, bắt ngay Tukhachevsy, bắt tham mưu trưởng Hồng quân Egorov; tư lệnh hải quân Bokis; Bắt tất cả bộ tư lệnh hải quân Baltic. Về chuyện tên tư lệnh biệt khu Ukraina: cho một chuyến xe lửa về Kiev, mời Yakir về đây để nhận chỉ thị, nhưng đưa hắn thẳng về khám đường Lubyanka. Không cần phải cho biện lý quân đội Rozovski biết. Gọi cho tôi khi tụi nó trình diện đầy đủ ở nhà tù Lubyanka.
- Thưa vâng. Nhưng tôi có phải báo cho biện lý chính phủ Vyshinski biết về vụ này không? Yezov hỏi thêm, nhưng Stalin đã cúp máy. Nhà tù Lubyanka ở trung tâm thành phố Moscow, toạ lạc trên một con đường mang tên của trùm mật vụ Cheka đầu tiên là Dzerzhinski. Thời Nga Hoàng, mỗi ngày có cả trăm tù nhân bị xử bắn ở đó. Thời Stalin, cả ngàn người bị xử tử là chuyện thường. Đó là một con số khó tin. Nhưng nếu chia 400.000 cho một năm rưởi thì người ta sẽ thấy được con số bị bắn mỗi ngày. Đó là một nơi không có một anh hùng nào còn sống khi ra khỏi tù; nếu họ còn sống thì họ không còn là anh hùng nữa. Ban đêm, ở bất cứ thời nào của Nga Sô, khi một người bị gọi dậy mời về Lubyanka, người đó dù có gan lì đến đâu cũng bị run rẩy. Lubyanka là nơi duy nhất trên đất Nga nhân viên được phép uống rượu trong giờ làm việc. Một ca cho nhân viên văn phòng và thẩm vấn; hai ca cho đao phủ thủ và lao công đi rửa máu: mùa đông máu của người bị xử tử rất khó rửa. Máu đóng chặt vào những bức tường ở pháp trường. Stalin, Yezov và Vyshinski có mặt ở phòng thẩm vấn khi Tukhachevski được đưa vào. Vyshinski, sếp bộ tư pháp mở lời:
- Mikhail, đồng chí bị bắt về tội: thứ nhất, liên lạc với Trotsky để chống lại đảng. Thứ hai, liên lạc với Đức Quốc Xã để âm mưu đảo chánh. Đây là những bằng chứng đ.ảng có về sự liên lạc của đồng chí. Vyshinski đưa cho Tukhachevski một xấp giấy. Trong đó có một lá thư của Tukhachevski hứa hẹn với đại tướng Đức Hans Von Seeckt là Đức Quốc Xã sẽ được chia phía tây của Ukraina nếu cuộc đảo chánh thành công. Đọc xong những tài liệu, Tukhachevski chưng hửng: Đúng là chữ ký của mình; đúng là dấu mộc của bộ quốc phòng Hồng quân. Nhưng mình đâu có bao giờ liên lạc với Von Seeckt. Phải có một sự giả mạo nào đây. Tukhachevski quay sang nói với Stalin:
- Thưa đồng chí, trong đời, tôi chỉ có liên lạc với tụi Đức một lần: Đó là lần đồng chí Lenin, và chính đồng chí gởi tôi đi ký hiệp ước Rapallo năm 1921. Và sau đó tôi không bao giờ liên lạc gì nữa với Von Seeckt. Đây là một kế hoạch của tụi tình báo Đức. Đồng chí phải điều tra lại.
- Bằng chứng đã hiển nhiên như vậy, Mikhail, đồng chí hãy nhận tội, đảng sẽ tha thứ cho đồng chí
- Vyshinski vừa nói vừa đưa tay lấy lại tập hồ sơ. - Các đồng chí, tôi hoàn toàn vô tội. Tôi là một đ.ảng viên bolsevich chân chính. Nếu các đồng chí muốn buộc tội tôi, các đồng chí phải chứng minh là tôi có tội. Mikhail nói với một vẻ bực tức.
- Mikhail, luật của bolsevich không cần phải chứng minh người bị bắt có tội; người bị bắt phải chứng minh mình vô tội. Ông biện lý tư pháp của Soviet trả lời thay cho Stalin.
- Vyshinski, đó là cách buộc tội của thời trung cổ. Cách mạng đã đưa chúng ta đi xa hơn thời trung cổ của tụi tư sản lâu rồi. Đồng chí không thể nào đối xử với một đ.ảng viên bolsevich như vậy. Tôi yêu cầu đồng chí Stalin phải có ý kiến. Tukhachevski vừa trả lời vừa nhìn Stalin. Stalin nhìn Tukhachevski nhưng không nói gì rồi bỏ ra khỏi phòng thẩm vấn. Đi theo sau là trùm mật vụ Yezov. Chờ cho Stalin đi rồi, Vyshinski nói với Tukhachevski với một nụ cười:
- Mikhail, nếu đồng chí muốn vợ con của đồng chí được yên thân thì nên ký giấy nhận tội: vợ và con gái của đồng chí đang bị bắt giữ. Với tướng Iona Yakir thì cuộc thẩm vấn ngắn và gọn hơn. Chỉ có một mình Nikolai Yezov trong phòng với Yakir. Yezov mở đầu:
- Iona, đồng chí đã cùng với Tukhachevski liên lạc và thông đồng với bọn quân phiệt Đức để chống lại đ.ảng. Tên Nguyên soái Tukhachevski nhận tội rồi, đồng chí muốn được đ.ảng khoan dung, muốn vợ con được yên thân, thì hãy tự khai.
- Nikolai, mày đã biết tao từ 15 năm nay. Tao không dính dáng gì với tụi Đức, Trotsky, hay bất cứ một nhóm phản cách mạng nào khác. Tao không thể nhận tội nếu tao không làm gì có tội - Yakir nói như hét vào mặt Yezov.
- Iona, nghĩ kỹ lại đi. Đây chỉ là ngày đầu tiên của mày ở Lubyanka mà thôi. Sau đêm nay, mày không muốn ở đây thêm một ngày thứ hai nữa. Dẫn nó về phòng tra tấn. Yezov ra lệnh cho nhân viên. Ngày hôm sau, khi nhóm tra tấn xô Iona vào phòng của Tukhachevski, ông ta vẫn còn tỉnh, nhưng người đã đầy máu. Dựa vào bộ luật có tên là “Thân nhân và gia đình của những kẻ phản quốc” mà Stalin công bố vào năm 1934, mật vụ của Yezov đến bắt Petrovich và mẹ anh ta ở Kiev. Chiếu theo bộ luật đó, thân nhân và gia đình những người bị tình nghi là phản quốc phải liên đới chịu trách nhiệm về hành vi của người bị tình nghi. Tụi mật vụ đưa Petrovich và bà Iona về trại tù Lubyanka. Iona nói cho Tukhachevski biết, tụi mật vụ tra tấn ông thẳng tay sau khi ông từ chối ký tên vào bản nhận tội. Tukhachevski khuyên bạn mình một cách chua xót:
- Ký đại đi Iona. Mình không thể nào chịu nổi sự tra tấn của tụi mật vụ đâu. Đêm qua, có một tên đại tá Hồng quân người Litva bị kết án đào một đường hầm thẳng vào Kreml, đặt chất nổ mưu toan ám sát bộ chính trị. Anh ta van nài với tụi mật vụ là chỉ cho anh ta con đường hầm đó thôi, nếu có thật thì anh sẽ nhận tội. Tụi mật vụ biết là làm gì có con đường hầm đó, nên tụi nó đánh anh đại tá này cho đến khi nào anh ta nhận tội. Hồi sáng này, tôi nghe loáng thoáng hai thằng tra tấn đang tự hào là tụi nó chỉ cần một đêm thôi, bất cứ thằng tù nhân nào cũng tự nhận là vua nước Anh nếu tụi nó muốn.
- Mikhail, tôi không thể nào nhận tội phản cách mạng được. Nhục lắm. Petrovich sẽ nghĩ sao về cha của nó? Dù cho tụi mật vụ đánh tôi đến chết, tôi cũng không nhận tội. Và Mikhail, anh cũng đừng nhận tội oan như vậy. Mình phải chứng tỏ cho tụi Yezov biết là những thằng tư lệnh Hồng quân như tụi mình lì như thế nào. Tukhachevski nhìn bạn với một cặp mắt thương hại. Sau một chút do dự Tukhachevski khuyên bạn:
- Iona, tôi là một nguyên soái phụ tá cho Bộ trưởng quốc phòng. Tôi bị bắt như vậy mà Bộ trưởng Voroshilov không hề ló mặt đến hỏi tôi một đôi câu. Đây là một âm mưu của Stalin để giết tụi mình. Là sĩ quan cấp tướng, không ai có quyền đụng đến người tôi, chứ đừng nói chi đến chuyện tra tấn. Tôi sẽ ký tên vào bản án như một cử chỉ khinh bỉ Stalin chứ không phải là nhận tội. Lịch sử của tư bản hay bolsevich sẽ biết tôi là người vô tội. Iona, đừng chống cự lại tụi nó. Hãy cứu vợ anh và thằng Petrovich. Một trong những kỹ thuật tra tấn của những tên cai ngục tại Lubyanka, là phải hành hạ những thân nhân của những tù nhân, để làm áp lực cho tù nhân nhận tội. Tụi đồ tể ở Lubyanka áp dụng kỹ thuật đó với Iona Yakir. Sau khi đánh Krasna, vợ của Yakir và Petrovich nhừ tử, tụi tra tấn không cho họ ăn hoặc ngủ hơn hai ngày. Nửa đêm thứ ba, cả hai bị đem ra tra tấn tiếp. Trong lúc tra tấn, tụi cai ngục để máy ghi âm ngay trong phòng và chuyển loa phóng thanh vào tận phòng của Yakir. Yakir, nằm rên rỉ với những vết thương, chỉ biết rùng mình khi nghe những tiếng động ghi lại thảm cảnh vợ con mình đang chịu đựng. Tiếng của Krasna:
- Mình ơi, mình nhận tội để cứu em. Tụi nó làm nhục em, tụi nó đánh em. Đảng sẽ tha thứ cho anh nếu anh nhận tội. Đau quá mình ơi. Mình phải cứu em. Và tiếng van xin của Petrovich:
- Ba ơi, khai đi ba ơi. Tụi nó đánh con đau quá. Con đói, khát quá. Nhận tội đi để tụi nó tha con. Con đói quá ba ơi!
Mỗi lời van xin của vợ con mình như một làn roi đánh vào người của Yakir; ông quằn quại trên sàn xi măng lạnh cóng. Ông muốn thét lên, nói cho những tên cai ngục ngừng lại những nhục hình đang được áp dụng lên người của Krasna và Petrovich, nhưng ông không còn đủ sức để di chuyển. Yakir nằm đó nghe tiếng rên siết của vợ con và thấy mình là tên hèn mọn nhất đời. Những lời đồn về nhà tù Lubyanka quả không sai. Iona Yakir gan lì nhưng không bằng “sắt thép của bolsevich”. Trưa hôm sau ông nói với những tên cai ngục là ông sẽ nhận tội. Ông chỉ muốn ăn một bữa ăn và được gặp mặt Petrovich. Khi gặp mặt Petrovich, ông ôm đứa con mình vào lòng và khóc. Petrovich thổ lộ qua những tiếng nấc:
- Ba hãy tha lỗi cho con: con khai dối với tụi mật vụ là ba đã thông đồng Đức và tướng Tukhachevski để chống lại đảng. Con phải khai dối vì con không chịu nổi sự tra tấn của họ, ba ơi! Trước khi đặt bút ký tên nhận tội, Yakir có viết cho Stalin một bức thư: “… Đây là những ngày cuối cùng trong đời tôi. Tôi kêu gọi đồng chí và bộ chính trị hãy nghĩ đến sự huỷ hoại đang xảy ra cho đ.ảng. Tôi không bao giờ là kẻ phản quốc. Tôi đã theo Lenin; tôi không chống lại đảng và đồng chí. Hãy đọc bức thư này một lần trước quốc hội Soviet; hãy phục hồi uy tín của tôi đối với đ.ảng. Lá cờ bolsevich mà đồng chí đang phất lên trên con đường tiến về chủ nghĩa xã hội sẽ có những giọt máu của tôi…” Tukhachevski, Yakir và 14 sĩ quan cao cấp của Hồng quân bị xử bắn ở khám đường Lubyanka vài ngày sau đó. Petrovich và mẹ được “khoan hồng” và bị đưa đi trại cải tạo lao động ở Tomsk, ở phía đông Siberi. Khi đoàn xe lửa dùng để chở hàng hoá, với hàng chữ “thịt tươi” sơn ngoài hông xe, chở Petrovich và nhiều tù nhân trên đường về Tomsk, ghé lại Kharkov để lấy nước. Có một người con gái ngồi trên sân ga quan sát. Khi đoàn xe đi rồi, Ivana lấy bút ra viết: “Petrovich, tình hình ở đây khá hơn. Và chắc tình hình ở mọi nơi bắt đầu khả quan rồi. Em thấy có một đoàn xe chở thịt đi về hướng Tomsk. Những công nhân ở đó sẽ có được thịt tươi ăn để lao động nhiều hơn. Em hy vọng những ngày khó khăn sẽ qua”.
Nguyễn Kỳ Phong
1990