vhnt, số 29
19 August 1995
Trong số này:
+ thư ngỏ / thư tín
+ tin tức văn nghệ
+ post 1 - thơ: Risk, PCL
+ post 2 - thơ Lý Hồng Văn
+ post 3 - biên khảo: Nguyễn Trãi, Dương Hùng
Thân chào các bạn,
Khi mở vhnt số này, hẳn bạn thấy có chút thay đổi về hình thức? Chúng tôi dự định cải đổi hy vọng rằng sẽ cải tiến vhnt mailing list này được phong phú và có tổ chức hơn. Kể từ số này, mỗi kỳ vhnt gửi ra sẽ có phần mục lục nhỏ mở đầu để bạn đọc biết sơ về nội dung.
Sau khi dời về server saomaịorg, lại nhằm ngày cuối tuần nên vhnt không nhận được nhiều bài vở như những ngày trong tuần, có phải vì các bạn không access hay đã quên vhnt? Xin hãy cổ động và góp bài, gửi về cho vhnt@saomaịorg nhé :).
Chúng tôi, nhóm thực hiện, cũng đang dự định làm một Home Page giới thiệu về VHNT, với một ít bài tiêu biểu, giới thiệu vài tác giả gửi bài thường xuyên, và để cổ động thêm những độc giả mới. Các bạn nào có thể giúp một tay thực hiện project này thì thật là tốt. Xin cám ơn các bạn đã ủng hộ vhnt.
VHNT dự định sẽ mở một ít mục thường xuyên do những người phụ trách coi sóc, chẳng hạn như mục Thư Tín, Biên Khảo, Tin Tức Văn Học, văn nghệ v.v... thử nghiệm với số này. Xin các bạn đóng góp, cho ý kiến xây dựng, hoặc volunteer giữ một column, để chúng ta có một diễn đàn nghệ thuật ý nghĩa và phong phú hơn. Cũng mong các bạn góp ý về những đề tài do bạn đọc gửi đến chia sẻ để học hỏi và trao đổi, đừng quên những câu hỏi đặt ra, hoặc quá im lặng làm không khí trở nên lắng đọng :)
Cũng xin gửi lời chào thân ái đến một số bạn đọc mới gia nhập, xin chúc các bạn tìm được những phút thư thả thoải mái với vhnt, và xin nhớ gửi bài và giới thiệu thêm bạn mới.
Thân ái,
vhnt
Tin Văn Nghệ
Đêm Mai Thảo ở Little Saigon - Một nhóm văn hữu của nhà văn Mai Thảo, đứng đầu là nhà thơ Du Tử Lê và họa sĩ Khánh Trường sắp tổ chức một "Đêm Mai Thảo" để tuyên dương sự đóng góp 40 năm của nhà văn cho văn chương, đồng thời đánh dấu 14 năm hiện diện của tạp chí Văn tại hải ngoại. Khắp Little Saigon đã thấy có dán bích chương quảng cáo cho sinh hoạt ca nhạc này. Tấm bích chương có dán hình nhà văn Mai Thảo đang ngồi chờ xe bus, hậu cảnh là hình mờ của chiếc xe bus đang chay qua. Bức hình thật đẹp, thật đúng "chất Mai Thảo". Ông đã nửa đùa nửa thật về tấm hình: "tôi chờ xe buýt. Cho tới khi nó tới Nhưng nó chạy luôn, có dừng lại đâu !" Gần đây Mai Thảo sức khoẻ sa sút, nên lời than của ông có chút ngậm ngùi.
Giải Văn Chương Magsaysay 1995 - Pramoedya Ananta Toer, nhà văn lão thành của Nam Dương vừa được Philippine trao tặng giải thưởng Magsaysay năm 1995 về báo chí, văn chương và nghệ thuật sáng tạo. Tổ chức giải thưởng Magsaysay cho biết họ đã tuyên dương các tác phẩm của Pramoedya Ananta Toer vì "đã soi sáng được bằng các câu chuyện nổi bật về sự thức tỉnh lịch sử và kinh nghiệm hiện đại của nhân dân Nam Dương. Nhà văn 70 tuổi này hiện đang sống ở Java.
Risk
To laugh is to risk appearing the fool.
Laugh anyway.
To weep is to risk appearing sentimental.
Weep anyway.
To reach out for another is to risk involvement.
Get involved anyway.
To expose feelings is to risk exposing your true self.
Be vulnerable anyway.
To place your ideas and dreams before the crowd is to risk their loss.
Present your ideas anyway.
To love is to risk not being loved in return.
Love anyway.
To hope is to risk despair.
Hope anyway.
To try is to risk failure.
Try anyway.
To live is to risk dying.
Live anyway.
anonymous
(Phạm Chi Lan sưu tầm)
Ngà Say
Thổi vào ly rượu ấm hơi
Cho quên đi nỗi bồi hồi nhớ Em
Trải bao năm tháng say mềm
Sao Em vẫn đứng bên thềm ngó Anh
Mắt Em trong suốt trời xanh
Nên ngàn ly rượu dựng thành buồn thôi
Ai đem giông bão tơi bời
Thổi qua chính giữa ngăn đời đôi ta
Trong tay ly rưụ ngà ngà
Âm ba vang vọng lúc xa lúc gần
Tưởng Em ẻo lả ngoài sân
Cho Anh âu yếm một lần nầy thôí
Một Năm
Chỉ một mùa Hè
Lòng Anh rực lửa
Chỉ một mùa Thu
Hồn phách tang hoang
Chỉ một mùa Ðông
Tình đã dở dang
Chỉ một mùa Xuân
Trời đầy hoa tím
Nốt ruồi đen và Khánh Hà
Giọt đen nhỏ xuống một vùng
Tuyết sương bỗng rực cháy bùng đam mê
Ta đem trăn trở theo về
Gục đầu đỉnh ngọc hôn mê một lần
Giọng ca đó viễn du từ muôn kiếp
Theo khói sương thơ mộng chảy về đây
Làn môi cong ngàn câu nói vun đầy
Ðang hé mở câu u mê tình tự
Ai gửi muôn lời qua mắt nâu
Không gian như trải khắp một màu
Cô liêu như đọng nhiều trong gió
Chợt hất rung lên tóc đổi màu
Ngón dài ai khoát bóng hư không
Thử hỏi Ta sao chẳng chạnh lòng
Nghĩ nhiều số kiếp hay duyên kiếp
Hay cả trần gian một chữ không
Lý Hồng Văn
NHẬP THẾ
Trong lịch sử văn chương VN, Nguyễn Trãi (1380-1442) và Nguyễn công Trứ (1778 -1859) là hai gương mẫu nhà nho nhập thế một lòng vì dân vì nước. Hai vị sống cách nhau gần 400 trăm năm nhưng triết lý nhập thế hầu như không khác; khi "lên voi" thì theo đường Khổng học, khi "xuống chó" thì nương ý thức Lão Trang, nhờ Thiền Tịnh Ðức Phật để dưỡng ý, định tâm rồi trở lại giúp nước giúp đân. Ảnh hưởng của ba dạo giáo Khổng, Lão và Phật thể hiện rất sâu đậm trong kho tàng thơ văn phong phú cụ Nguyễn Trãi đã để lại cho hậu thế.
Xin đóng góp bài luận nhỏ, trong khuôn khổ Net, cùng quý bạn.
Dương Hùng - 081995
oOo
NGUYỄN TRÃI (1380-1442)
Nguyễn Trãi was the brilliant strategist for King Lê Thái Tổ (Lê Lợi) the founder of Lê dynasty (1428-1788) and a famous poet in chữ nôm. Nguyễn Trãi was well known for his outstanding psychological warfare during the Lam Sơn Uprising (1418-1428) Lam Sơn is the name of Le Loi's native village and the diplomatic ending of the Ming occupation.
Nguyễn Trãi was born in Nhị Khê township, Hà Ðông province; his mother was from the Trần Royal Family and his father Nguyễn Phi Khanh (1) was also a renown scholar. Nguyễn Phi Khanh served the Hồ dynasty as an official of the court and the Regent (Tư Nghiệp) of the National College (Quốc Tử Giám) (2). When the Ming armies invaded VN, Nguyễn Phi Khanh was captured and detained in China. Nguyễn Trãi and his youngest brother Nguyễn Phi Hùng followed their father to China out of filial piety. At the border, Phi Khanh urged Nguyễn Trãi to return home and wash away the national and family shame:
"Ta già rồi, chết cũng chẳng tiếc, con có học, có tài nên về tìm chân chúa lo trả thù cho cha, rửa hận cho nước. Thế mới là đại hiếu, sao lại khóc lóc như đàn bà con trẻ!" (3)
tentative English translation:
"I am old and will not regret if I have to die. You have education and talent so go home, serve a genuine leader to revenge this family insult and to wash away the national shame. That is filial piety, do not cry like children and women!"
Phi Khanh died in detention, Phi Hung collected his father bones and brought back to VN and buried in Bái Vọng Mountain. Nguyễn Trãi became Lê Lợi 's strategist and trusted advisor; he was one of the original 18 pioneers of the Lam Sơn Uprising. In 1428, Nguyễn Trãi helped Le Loi conclude the war in a diplomatic settlement to save face for the Chinese.
King Le thai To (1428-1433) changed Nguyễn Trãi name to Lê Trãi (4), made him Marquis ( phong tước Hầu) and appointed him Prime Minister at the Court (Nhập Nội Hành Khiển). Nguyễn Trãi retired in 1439 and lived in Côn Sơn (Chí Linh, Hải Dương) where he was raised by his maternal grandfather. Le Thai To reign was plagued with internal power struggle in the Court, a few founding members of the dynasty were executed and Nguyễn Trãi himself was put in jail for a short period.
In 1442, King Le Thai Ton visited him in Con Son and took Thị Lộ (5), one of Nguyễn Trãi concubine back to the Court. With Thị Lộ at his side, The King died on the way back to the capital, he was 20 years old. The Royal Court accused Nguyễn Trãi and Thị Lộ of killing the King and executed all three generations of the Nguyễn family. It was on the 16th day of the 8th month Nhâm Tuất year (1442). Nguyễn Trãi family met the fate of a long list of founding members (khai quốc công thần) of the Le dynasty killed under false accusations: Phạm văn Xảo, Trần Nguyên Hãn, Lê Sát, Lê Khả, Lê Khắc Phục...
Nguyễn Trãi passed Thi Hội Examination in 1400; he was a renowned poet in both chữ nho (chinese characters) and in chữ nôm under the penname Ức Trai. His most famous historical document was Bình Ngô Ðại Cáo (The Proclaimation of Victory over the Chinese). Ức Trai thi Tập (Úc Trai Collection of Poems) was a six volume collection of Nguyễn Trãi's poems in Chữ Nho. His poems in chữ nôm were recorded in Quốc Âm Thi Tập (Poems in National Language) and Gia Huấn Ca (6) ( Family Education Long Poems).
Nguyễn Trãi brought the chữ nôm literature to a higher plateau and his execution had been a set back for this popular literary movement until King Le Thanh Ton came to power. A poet himself, King Le Thanh Ton sponsored the Tao Ðàn Literary Club. The King's chư nôm poems and literary works of the 28 members of the club were published in the Hồng Ðức Collection of Poems in National language (Hồng Ðức Quốc Âm Thi Tập).
As an outstanding stateman, Nguyễn Trãi helped build the longest dynasty in the VNmese history; as a typical confucian gentleman he fulfilled his filial piety to his father, his duty to the country and his loyalty to the King. As a man of letters, his contributions to the chữ nôm literature were overwhelming and lasting. Themes for his poetic works were directly from his rich, although tragic, life experiences as typified by the following octet written while he waited to be sentenced by the Court (7):
Góc thành Nam một lều căn, *
No nước uống, thiếu cơm ăn.
Con lợn chạy dễ ai kiếm,
Ðàn ngựa kia thiếu kẻ chăn.
Ao vẫn hẹp hòi khôn thả cá,
Nhà quen thuế thái đếch nuôi vằn.
Quân triều chẳng phải, ẩn chẳng phải.
Góc thành Nam một lều căn.
tentative English translation:
My hut is at the southern corner of the city,
I am full of water, but not enough rice to eat .
There is nobody to catch the roaming pig,
My horses miss the herdman.
The pond is still too small to raise fish,
I have nothing in the house so need no dog
I am neither an official at the court, nor an hermit.
My hut is at the southern corner of the city.
* The 8th verse of this poem repeats the first verse; it is called Thủ Vĩ ngâm ( poem with the same head and the tail).
The sentiment is resigned, the philosophy is Taoist, the wording and the allusions are simple, indigenous, and this five century old poem seems like just being written yesterday. Nguyễn Trãi saw glory, had power, enjoyed wealth now in the last days of his life he missed his estate, his pig, his horses, his dog... Water was keeping him alive (uống nước cầm hơi) and his grave might be "at the southern corner of the city".
In the 5th year of Quang Thuận (8) reign (1465), King Lê Thánh Tôn issued an royal decree, on the anniversary of this infamous injustice, to clear Nguyễn Trãi name. The King found one surviving descendant, Nguyễn Anh Vũ, and appointed him official of the court.
Dương Hùng
081995
(1,2) Nguyễn Phi Khanh real name was Nguyễn Ứng Long; he married Nguyễn Trãi's mother without the approval of the Trần royal family although Phi Khanh got the blessing from Nguyễn Trãi maternal grand father, General Trần Nguyên Ðán. Phi Khanh passed the Thi Hội but the King voided the doctorate degree for his offense. Phi Khanh made a living as a Thầy Đồ (private teacher) to support the family; he change his name from Ứng Long to Phi Khanh when Hồ Quý Ly became King and joined the Hồ Royal Court.
(3) Phạm văn Sơn, Việt Sử Tân Biên , Vol. 2, page 511
(4) Traditionally some VNmese Kings allowed their distinguished officials to carry the royal family name.
(5) One day on the way back home, Nguyễn Trãi saw a very pretty young woman selling reed mats; he questioned her with this poem:
Ả ở đâu mà bán chiếu gon?
Chẳng hay chiếu ấy hết hay còn?
Xuân thu nay độ bao nhiêu tuổi?
Ðã có chồng chưa, được mấy con?
tentative English translation:
Young woman, where do you come from?
How good is your reed mats sale today ?
Can you give me your approximate age?
Are you married, and how many children do you have?
Thị Lộ, the young woman, replied:
Tôi ở Tây Hồ bán chiếu gon,
Nỗi chi ông hỏi hết hay còn?
Xuân Thu tuổi mới tròn trăng lẻ,
Chồng còn chưa có, có chi con?
tentative English translation:
I live near West Lake, and I sell reed mats
Why do you inquire about my sale?
My age is approximately over Full Moon,
No husband yet, how can I have children?
Impressed with her literary skill, Nguyễn Trãi married her as concubine.
(Dương Quảng Hàm, Việt Nam Văn Học Sử Yếu, pp 276-277)
(6) Some researchers believed that Gia Huan Ca and some of Nguyễn Trãi chữ nôm poems were written by Nguyễn Trãi admirers. The wording used these literary works was too contemporary for the 15 century circa.
(7) PV Son, VSTB, Vol 2 , page 598
(8) King Le Thanh Ton used two different names for his reign: Quang Thuận (1460-1469) and Hồng Ðức (1470-1497)