vhnt, số 191
3 June 1996
Trong số này:
thư vhnt..................................................................PCL
T h ơ :
1 - Vô đề II..........................Nguyễn Hiện Nghiệp / PN dịch
2 - Bạn qua ................................................Trần Hoài Thư
3 - Chưa kịp ......................................................Trúc Lê
4 - Hỏi ..............................................................Cỏ May
5 - Thu ...................................................Ðặng Khánh Vân
6 - Cánh cửa linh hồn .......................................Chung Trần
D i ễ n Ð à n V ă n H ọ c :
7 - Những con cá trong dòng nước .........................Phạm Chi Lan
8 - Tác giả và tác phẩm:
Trần Hoài Thư và tập truyện "Ra Biển Gọi Thầm" .............
T r u y ện N g ắn / S án g T ác :
9 - Người về trăm năm ................................Trần Hoài Thư
3 tháng 6, 1996
"Thơ"
"Rồi một hôm đến một tuổi nào đó trong đời thơ chợt tìm đến với tôi. Tôi không biết, tôi không hiểu tại sao? thơ đến từ đâu? thơ đến từ mùa đông, thơ đến từ dòng sông? Tôi không hiểu bằng cách nào và từ bao giờ. Không, chẳng phải thơ từ âm thanh hay từ lời nói, hay từ sự thinh lặng vô tận... có thể thơ đến từ đường phố, từ những nhánh cửa của đêm, từ những câu nói đột ngột của kẻ chung quanh, giữa ngọn lửa suy tư cuồng bạo, hay sự trở về hiu hắt giữa đêm khuya không một ai chờ đợi... tất cả chợt làm cho tôi rúng động, tôi không biết nói gì nghĩ gì, không thể thốt một lời nào với những từ ngữ và những cái tên tôi gọi thường ngày. Mắt tôi như người mù lòa... rồi bỗng chợt lòe sáng một điều nào đó hiện lên trong hồn tôi. Giống như một cơn sốt dữ dội, một đôi cánh bị quên lãng vừa tìm thấy. Và tôi tự tìm cách dập tắt ngọn lửa ấy bằng lời lẽ lạ lẫm tôi chưa bao giờ viết, hoàn toàn vu vơ, hoàn toàn trong trắng, hoàn toàn ngây dại như một kẻ không hiểu biết về một điều gì, tôi viết bài thơ định mệnh đầu tiên, không biết từ đâu ra... Lúc đó, tôi chợt nhìn thấy cánh cửa thiên đàng mở ngỏ !"
(PCL trích và dịch từ "poetry" của Pablo Neruda)
oOo
Gửi đến bạn đọc vhnt #191, vẫn những bài viết chọn lọc và đặc sắc. Phần "tác giả và tác phẩm", xin giới thiệu nhà văn Trần Hoài Thư và truyện ngắn "Người về trăm năm", mở đầu cho những đóng góp của anh cho vhnt.
Ðể tiếp tục cho phần thảo luận văn học, mục diễn đàn văn học đăng lại một bài viết ngắn của PCL từ diễn đàn Ô-Thước, đáp lại bài viết của nhà văn Nguyễn Tấn Hưng về quan niệm văn chương, sáng tác, và kinh nghiệm viết văn đã đăng ở vhnt số 190. Bạn đọc có thể góp tiếng cho các đề tài đăng trong mục này, gửi về vhnt@saomai.org, hoặc trực tiếp cho tác giả.
Chúc bạn một ngày đầu tuần bình an và nhiều niềm vui.
thân ái,
PCL/vhnt
Vô Ðề II
tặng PN
Cô phong đỉnh đơn nhân
Ðộc chước tửu vi thân
Lãm nguyệt giai cuồng tiếu
Thế sự nhược phù vân
Nguyễn Hiện Nghiệp
oOo
Một mình trên đỉnh đơn côi
Rượu buồn ta rót, ta mời chính ta
Cười điên cùng ả Hằng Nga
Mộng đời trôi nổi như là bóng mây
Phùng Nguyễn phóng dịch
Bạn Qua
tặng BD+TT
Bạn mang chai rượu từ kinh Bắc
Ta ở Ðông Tà hơn chục năm
Ngày một ngày hai tìm ngọn gió
Thổi hướng nào hơi hướm tình thân
Lòng ta cửa nẻo không hề khép
Sao cái cô liêu cứ phủ đầy
Chai rượu chẳng bao giờ mở nắp
Bạn bè thì ngọn cỏ ngọn cây
Bạn qua. Chơi xỏ ta một độ
Bạn nhắc gì về xứ Nha Trang
Xứ gì. Ta nhắm lòng ta khóc
Mấy chục năm rồi xa cố hương
Bạn qua. Ðọc mãi bài thơ cũ
Thằng yếu như ta phải chạnh lòng
Trời ơi, yêu dấu bên trời ấy
Cứ mãi liêu trai mãi chập chờn
Bạn qua. Khích mãi đời lang bạt
Ta bỗng dưng nổi máu anh hùng
Ngày xưa ra trận ta tu rượu
Bây giờ há mấy lít phù vân
Bạn qua. Vợ bạn là thi sĩ
Nên lòng ta chợt ấm quá chừng
Biết đâu cốc rượu ta chia bạn
Nàng sẽ về ca ngợi thủy chung
Bạn qua. Qua ải. Ải môn quan
Xứ Bắc mang theo rượu với lòng
Ta uống cái tình tri ngộ ấy
Một lần cũng nhớ mãi ngàn năm
Trần Hoài Thư
NJ 1-5-96
Chưa Kịp...
Chưa kịp có vần thơ cho mùa Thu, lá Thu đã phai màu , người về đâu có nghe sầu Ðông dâng đầy. Nhìn gày tháng như bóng câu qua cửa, sợi thời gian nhuốm bạc mái đầu xanh khi cơn mơ không còn.
Có ai đã nói rằng "Giấc Tình như sóng vỗ đầu ghềnh"; vừa dữ dội đã thành bọt sóng . Một phần tư đời người có mấy lần yêu, và có bao lần tan vỡ. Ôi con tim nhỏ bé đáng thương hơn triệu triệu lần nhịp nhịp: nhịp nào hạnh phúc, nhịp nào đớn đau; ai hiểu nổi. Em xa rồi, xa cả nhịp tim anh.
Chưa kịp có vần thơ cho mùa Thu, tình Thu tàn úa, đàn chim xa xứ nhói lòng cuối trời xa. Ta khép lại một trang đời, dong ruổi ra khơi. Lời nào gió thoảng, lời nào mây bay, làm sao ta bắt kịp. Chỉ vầng trăng ẩn hiện ngàn xưa.
Chưa kịp đặt lên môi em những nụ hôn nồng mật ngọt; lời tạ từ đã tràn lấp môi anh. Ta không trách em, vì ta sinh ra với mệnh làm pho tượng, không tình yêu trơ trọi giữa đồng xanh. Mắt không hồn và môi luỡi vô ngôn... vì tất cả đi tìm em hoài năm tháng.
Chưa kịp yêu, đã sợ mất tình yêu
Chưa kịp thở, đã tìm lời trăn trối
Chưa kịp lìa đời, đã muốn được hồi sinh
Trúc Lê
Hỏi
(cho một lần chia tay)
Hỏi ngọn nguồn
Có biết
Sao anh đi mà không ở
Hỏi ngọn nguồn
Có nhớ
Ánh trăng xanh một thuở đợi chờ
Ôi, mảnh trăng sầu hạ, buổi chiều tím than van, những câu ru
Và
Nắm diêu bông
Theo nước
Xuôi dòng
Ðá trơ vơ, dạ cũng trơ vơ
Chờ
Một lời yêu chưa nói
Ðã tắt vùi trên môi.
Hỏi ngọn ngành
Người xưa sao không cũ
Tháng ngày qua, hình dáng phôi phai
Tên, họ, mắt, môi, giọng nói, tiếng cười
Chẳng còn nhớ
Chẳng còn muốn nhớ
Cớ vì sao hình bóng ấy
Và phôi pha ấy
Vẫn trùm dâng, che khuất cả trời xanh.
Cỏ May
May 1996
Thu
Thu gieo đời mộng cuồng si
Thu ôm gót ngọc, hồn di lạc loài
Con phố nhỏ vướng ưu hoài
Thu nằm thiêm thiếp chợt ngày dẫm qua
Sáu, bảy năm tháng mù xa
Thu sang mấy độ cõi ta úa vàng
Chiều ngang phố nhỏ, khẽ vang
Tiếng thu nức nở
mộng tàn, thu ơi!
Giữa trời chiếc lá chơi vơi ...
ĐKV
Thu '96
cánh cửa linh hồn
nếu có lần đi về ngang cửa nhỏ
hãy thăm tôi với nửa mảnh linh hồn
then thôi cài từ ngày em qua đó
cửa vô tri khép mở từng hôm
tôi vẫn ở bên căn phòng nhỏ bé
rất khang trang từ cuối một mùa đông
nếu lạc lối xin hãy dừng chân bước
cứ gọi thầm tôi sẽ đến tìm em
từ buông bút không viết vần thơ nữa
chợt cuộc đời nghe cằn cỗi từng đêm
cửa linh hồn không cầm chân được khách
nên vô tình để hoang vắng nhiều thêm
nếu có lần em về ngang lối nhỏ
hãy ghé vào dù chỉ một phút thôi
từ em đi mây giăng kín hồn tôi
mặc mưa gió thay phiên nhau khép mở!!!
cd
Những Con Cá Trong Dòng Nước
(Bài viết này là bài gửi nhà văn Nguyễn Tấn Hưng đăng trên diễn đàn Ô-Thước (o-thuoc@saomaịorg), đáp lại bài "Vượt vũ môn: thư gửi các bạn văn trẻ" của anh Hưng đăng trên o-thuoc và vhnt #190).
Bài viết của anh Hưng có thể đặt lại tựa: "thư ngỏ gửi những người viết trẻ", riêng cho đám quạ Ô-thước này thì xin đặt tựa là... "thư ngỏ gửi những con bọ nước lăng quăng" :) [per previous posts of anh Dũng Florida, anh Phạm Thế Ðịnh, anh Phùng, và quí bạn hiền (hello Nguyên :)] Lan nghĩ những bài viết loại này có ích cho sự trao đổi giữa chúng mình, những người cầm bút hoặc có chút liên quan dính líu một chút đến văn nghệ Chính sự bộc lộ này cho mình biết rõ về sự khác biệt về ý nghĩ, quan niệm, và lập trường sáng tác của nhau. Sự khác biệt nếu được xem như là yếu tố cần thiết để... bổ túc và tăng cường sự trưởng thành của nhóm, thì âu cũng là một điều tiện lợi thôi.
Sẵn trong tinh thần chia sẻ và không khí cởi mở vui vẻ này, cho phép Lan trao đổi với anh Hưng và các anh chị trong nhóm vài lời tâm sự, như một chút bày tỏ của một người em gái nhé.
Lan tin chắc không một người viết nào mà không muốn bài của mình được người khác chia sẻ. Ngay cả khi viết nhật ký, người viết cũng có thể nghĩ sẽ có người đọc ý nghĩ riêng tư này, nghĩ sẽ có ngày chính mình trở lại đọc lời của mình, độc giả sẽ là chính mình, thì ngòi bút dù có ngang tàng phá phách đến đâu cũng phải quí trọng độc giả của mình không thể nói sai ý nghĩ thật của mình. Tuy nhiên, sự trung thực trên văn chương, thưa anh Hưng, chỉ là loại văn tả chân, hồi ký, hay tùy bút chi chi đó, chỉ là một phương diện của văn chương, không có nghĩa văn chương luôn luôn phải viết đúng như sự việc xảy ra ngoài đời sống thật. Văn chương là một phương tiện, một thứ dụng cụ để diễn đạt tư tưởng, truyền đạt ý nghĩ giữa con người với nhau (a medium of communication). Có rất nhiều thể loại văn chương, riêng về loại tả chân: nhật ký, hồi ký, sử ký, du ký, tùy bút ký, vũ trung tùy bút (cảm xúc ký), tản mạn ký, vân vân... loại văn này dĩ nhiên cần trung thực và càng thành thật bao nhiêu càng thành công và được sự cảm mến chia sẻ của độc giả bấy nhiêu. Như một loại văn chương... thỏ thẻ tâm sự giữa những người bạn với nhau, ai mà không quí sự thành thật.
Riêng loại văn chương vị nghệ thuật, thì nó còn đi xa hơn là chỉ dùng những dữ kiện sự thật. Không giống như loại văn kể lể tâm sự, văn chương vị nghệ thuật có thể với bất cứ hình thức nào đó, mang lấy chức năng để diễn đạt một triết lý, bộc lộ một nhân sinh quan, một tư tưởng, một vấn đề, v.v... Cũng giống như hội họa có nhiều trường phái, như tả chân, siêu thực, ấn tượng, lập thể, dị thể (dadaism), v.v..., thì văn chương cũng có rất nhiều trường phái khác nhau nhưng cùng một mục đích - nói về cái đẹp của nghệ thuật, dùng văn chương làm "medium" cho sự diễn đạt tâm hồn, làm trung gian cho sự truyền đạt tư tưởng giữa con người. Xin nêu lên vài thí dụ về văn chương siêu thực nhưng có giá trị, loại văn chương của Gabriel Garcia Marquez và Franz Kafka không thể xem là loại văn tả chân được. Ðó là loại văn chương ảo thực/siêu thực, loại văn chương biểu tượng để nói về thân phận con người và sự phức tạp tâm lý (loại văn chương này đòi hỏi người đọc có cùng trình độ suy nghĩ mới có thể cảm thông được). Văn chương họ là những kiệt tác và họ là những kẻ bịa chuyện rất có trình độ. Kafka khi còn sống chẳng một ai thèm ngó ngàng đến loại văn "khùng điên" của một người bị cho là "dở hơi", nhưng chính kẻ dở hơi này bao nhiêu năm sau mới chứng minh đưọc thế nào là nghệ thuật phân tích những ngõ ngách phức tạp nhất của tâm thần, của trí óc con người, qua mặt nghệ thuật sáng tạo, và văn chương Kafka rất khó đọc, ít người hiểu được văn ông.
Dù dùng cách diễn tả thế nào, thì người viết cũng chỉ mong văn mình đem đến cho người đọc một sự cảm nhận nào đó, một cảm giác êm ái thoải mái hay sự suy nghĩ ray rứt không yên; văn chương có giá trị phải được trao gửi từ tấm lòng chân thành của người cầm bút. Viết mà không ai thèm đọc văn mình hoặc xem thường tác phẩm của mình thì ai mà chẳng đau lòng. Ðó là số phận hẩm hiu của một số tác phẩm kém may mắn không tìm ra người đọc đồng cảm.
Thưa anh Hưng và các bạn, khi viết người viết thường nhắm tới một số độc giả nào đó, hoặc một số đông độc giả thuộc vài thành phần gần gũi với người viết, nhưng không thể nhắm tới mọi giới đọc giả bởi vì cũng như thưởng thức tranh, tranh đẹp ở con mắt người xem, thơ hay ở sự cảm nhận của người thưởng thức, văn chương hay ở sự hiểu và chia sẻ của một loại độc giả nào cảm thấy có sự gần gũi. Sự thành công hay thất bại của một tác phẩm cũng giống như một thứ định mệnh riêng của nó. Có rất nhiều tác phẩm hay nhưng không ai biết tới, ít người đọc chia sẻ, hoặc bị vùi dập vì nhiều lý do không đến được với độc giả thích hợp. Cũng có những cuốn sách "best seller" bán chạy như tôm tươi nhưng phẩm chất nghệ thuật thì rất dở và rất tầm thường, loại sách viết ra chỉ để đáp ứng sự hiếu kỳ của quần chúng, một loại văn chương cho thị hiếu chẳng hạn.
Những loại sách này chưa chắc sống lâu với thời gian, có thể nó được người ta bỏ ra $30 dollars mua đem về đọc chỉ để thoả lòng tò mò, đọc xong có thể bỏ quên ở xó xỉnh nào đó vì nó chẳng để lại một chút ấn tượng nào trong lòng mình, đúng như nghĩa bóng của câu thơ Nguyễn Du "mua vui cũng được một vài trống canh...". Xin nêu một ví dụ điển hình, cách đây 2 năm Lan tò mò vào tiệm sách, thấy cuốn "Bridges of Madison county" mua về đọc thử vì thấy báo Văn Học có nhắc tới tên quyển này cùng nói về trường hợp thành công của Robert Waller (trở thành triệu phú sau khi phát hành sách và bán bản quyền cho hãng phim"). Ðọc xong cuốn này, theo quan niệm riêng của Lan, thì câu chuyện cũng tầm thường, như một loại chuyện tình cảm của các cô các bà đọc để mơ mộng và giải trí. Có thể mỗi người có một quan niệm thưởng thức riêng, truyện của mari-sến có thể làm rơi nước mắt của các bà các cô, nhưng không đem lại chút "ép phê" nào cho các ông hay cao hơn nữa là giới phê bình văn chương, vì giới phê bình văn chương là những kẻ có tiêu chuẩn đánh giá một tác phẩm trên mặt phẩm chất và nghệ thuật (các học giả của hàn lâm viện Thụy Ðiển chắc hẳn có bàn thảo rất nhiều về quan điểm đánh giá một tác phẩm hay về văn chương và nghệ thuật).
Dear anh Hưng, chúc mừng anh đã thành công trên mặt phát hành những tác phẩm của anh, và rất vui cho anh đã có một số đông độc giả yêu mến loại văn chương miền Nam của anh. Không có những tư liệu của anh về miệt vườn Việt Nam, thì làm thế nào lũ nhỏ như Lan trưởng thành ở Mỹ biết đến đời sống và sinh hoạt của người dân chất phác đồng bằng sông Cửu Long? Làm sao hiểu tâm lý người miền Nam chân chất, cách nói chuyện, dùng từ ngữ của người miền Nam thế nào? Anh đã có chỗ đứng riêng trên văn đàn, có thể xếp văn anh cùng thể loại văn chương với Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Hồ
Biểu Chánh... Anh là con cá đã tự hóa rồng vùng vẫy ở sông Cửu Long trong văn chương quê hương miền Nam của anh. Anh là con cá hóa long trong các trang sách, trong lòng những độc giả thông cảm chất quê hương trong truyện kể của anh :) :) và quan trọng ơn cả là con rồng chính trong lòng anh, trong dòng nước riêng biệt của chính anh :) Và Lan trân trọng sự thành công cùng sự hài lòng của anh với văn của chính mình. Tự tin và hài lòng về mình là một thái độ với văn chương, có mấy ai trong làng văn có được sự tự tin này? Có lẽ đó là một lợi điểm của người viết chăng? Có rất nhiều những con cá trong các dòng nước còn đang mắc cạn... trong chính loại nước mình pha chế ra, không thể nhập vào một dòng lớn làm sao đi ra biển mà hóa rồng ?
Ðiều Lan chỉ muốn nói ở đây, mỗi người chúng ta có một cách nhìn về nghệ thuật, và có một chiều hướng, quan niệm riêng biệt về sáng tác. Mọi sự chia sẻ về bất cứ kinh nghiệm nào cũng có giá trị. Riêng quan niệm về sự thành công, có người cho rằng mình thành công nếu được nhiều người biết tới, được nổi tiếng có sách tái bản nhiều lần, được có bài đăng ở những tờ báo có số lượng độc giả lớn, thì là một nhà văn lớn đã thành công. Lại cũng có người quan niệm sự thành công không dựa vào sự hưởng ứng của một cuốn sách bán chạy, mà về phẩm chất văn học theo một quan niệm riêng biệt, chủ quan của một nhóm người đọc. Chẳng ai có thể nhận định rõ tiêu chuẩn nghệ thuật của một tác phẩm, vì nó nằm ở một chốn riêng tư trong lòng từng người đọc. Một cuốn sách nội dung dở nhất cũng có thể tìm ra được những đoạn những câu những ý tưởng hay. Người ta chỉ có thể đánh giá nó qua sự bộc lộ của văn phong người viết, một phần nào, ở một khía cạnh nào, sự chân thành và nỗ lực truyền đạt khi người viết đã bỏ tâm huyết và trí lực ra để tìm đến với người đọc.
Mỗi người có một thái độ và mục đích với sự sáng tác của mình. Viết vì khoả lấp khoảng trống trong lòng, viết vì muốn chia sẻ cái "tôi", không phải cái tôi của sự tự tôn mà cái tôi chân thật khiêm nhường, dám thú nhận và chấp nhận những cái xấu và lầm lỗi của mình, dám thành thật chia sẻ những hạnh phúc cảm xúc thật (loại nhật ký, tùy bút, du ký...), thì đó là một loại văn chương giá trị cần đọc để tìm hiểu. Lại có những người viết tự khoác cho mình một thứ "thiên chức" hay một kẻ muốn ảnh hưởng đời, thì sự thành công hoàn toàn do sự đáp ứng của người đọc. Người đọc họ rất khôn, họ tinh tế và bén nhạy. Dù cho người viết có nói xạo, có "dựng đứng sự thật" (trong loại văn chương hồi ký hay sử ký) thì người đọc sớm muộn gì cũng khám phá ra mà thôi.
Khi người viết bắt đầu viết và viết với tham vọng thành danh hoặc chỉ vì lòng háo danh, thì kết quả có khi ngược lại. Viết với một tấm lòng đơn giản, viết chỉ để viết, chỉ để giải toả cái đam mê văn chương, viết với tâm hồn và tinh thần của một đứa trẻ lên ba, có lẽ văn chương trong sáng và thanh sạch, dễ đến với người đọc hơn chăng?
thân mến,
Phạm Chi Lan
Trần Hoài Thư là một nhà văn, nhà thơ đã từng góp mặt trên các tạp chí ở Sài Gòn trước 1975 cũng như các tạp chí văn học ở hải ngoại sau này. Với sự ưu ái đặc biệt, anh đã đồng ý cho VHNT trích đăng phần tiểu sử cũng như các truyện ngắn trong tập truyện "Ra Biển Gọi Thầm" xuất bản năm 1995 của anh. Trong số này, ngoài phần tiểu sử, VHNT sẽ đăng "Người Về Trăm Năm" trong tập truyện "Ra Biển Gọi Thầm" của Trần Hoài Thư. Thành thật cám ơn anh.
VHNT
oOo
TRẦN HOÀI THƯ : VÀI NÉT TIỂU SỬ
TRẦN HOÀI THƯ LÀ BÚT HIỆU, SINH NĂM 1942 TẠI ÐÀ LẠT.
TRƯỚC 1975:
* Trung đội trưởng thám kích bộ binh vùng II và phóng viên chiến trường Quân Ðoàn 4.
* Ba lần bị thương trận.
* Ðã cộng tác với Văn, Bách Khoa, Văn Học, Vấn Ðề, Trình Bày, Ý Thức, Khởi Hành, Thời Tập, Ðời, Nghiên Cứu Văn Học v.v...
ÐÃ XUẤT BẢN:
* Nỗi bơ vơ của bầy ngựa hoang (Ý Thức)
* Những vì sao vĩnh biệt (Ý Thức)
* Ngọn cỏ ngậm ngùi (Ý Thức)
* Một nơi nào để nhớ (Con Ðuông)
SAU 1975:
* 4 năm khổ sai tại các trại tù dọc biên giới Miên Việt.
* Vượt biển và định cư tại Hoa Kỳ năm 1980.
* Cữ nhân Ðiện Toán và Cao Học Toán (Hoa Kỳ).
* Hiện là chuyên viên điện toán.
TÁC PHẨM MỚI NHẤT:
* Ra Biển Gọi Thầm. XUẤT BẢN NĂM 1995.
Ra Biển Gọi Thầm là một tập truyện gồm bốn truyện đã in trên các tạp chí văn học Saigon trước 1975 và được viết lại: Quán Biên Thùy (Bách Khoa), Cánh Bướm Của Mùa Luân Lạc (Văn), Nhật Ký Hành Quân (Văn) và Khi Mùa Hoa Cà Phê Nở (Thời Tập) và các truyện còn lại được viết ở quê người.
Người Về Trăm Năm
Chị Th. đang ở trước mặt tôi. Gương mặt vẫn tỏa ra nét dịu dàng, và đôi mắt vẫn mang theo một nỗi buồn của ngày nào. Chỉ có mái tóc của chị, là không còn nữa. Mà làm sao còn nữa, khi ba mươi mấy năm trôi qua. Khi chúng tôi mỗi người đã có một định mệnh riêng, một đời sống riêng. Chẳng thà không biết thời thôi. Biết rồi... Vâng, chẳng thà Tân không được biết chị... Tôi đã dấu cõi lòng xúc động, cố tìm một lời, một lời thôi để phá tan nỗi yếu mềm. Nhưng tôi cứ đành câm nín. Chị Th. thì vẫn rộn ràng với bao nhiêu câu chuyện. Về Huế. Về Phủ Cam, Bến Ngự, Nam Giao. Về Quốc Học, Ðồng Khánh. Kỷ niệm này đến kỷ niệm khác. Kỷ niệm bàng hoàng, ngẩn ngơ, như sóng cuồn cuộn, như mây bão chập chùng. Tôi nhìn chị. Mái tóc của chị đâu rồi. Mái tóc mà ngày xưa, từ bàn dưới của một lớp học bên cạnh giòng sông, tôi mê man chìm đắm. Tôi đã uống từ màu nắng vàng chiếu qua khung cửa lớp và đọng trên giòng suối mượt óng tựa mun, từ những ngón tay thon mềm của chị, khi chị làm duyên, vuốt hoài mái tóc. Chị Th., ngày ấy chị không biết đâu. Khi chị từ dốc xuống cầu, khi chị giữ tà áo đừng bay, khi chị cứ che nghiêng vành nón lá, có một tên si chị đến tội tình. Mà có gì đáng tội khi một tên học trò yêu mái tóc kia đâu. Bởi mái tóc của chị phủ cả bờ vai, mỗi ngày cứ óng thêm, mun thêm, chớm thêm một chút. Chị không biết, mấy chục đứa học trò, và cả ông thầy trẻ cũng mê mệt vì mái tóc của chị mà. Có phải vậy không, hở chị?
Tôi đã rót đầy cốc rượu mạnh. Chai rượu trơ vơ giữa bàn tiệc, không ai màng đến. Nhưng chỉ có một mình tôi. Tôi nốc vào. Cho say một chút. Cho ấm đời thêm một chút. Cho tuổi trẻ lai láng thêm một chút. Cho tôi can đảm thêm một chút. Trên bục gỗ, ban nhạc đang chơi những bản nhạc vui. Phải, hôm nay là ngày đám cưới, làm sao mà không vui được. Nhưng tôi thèm nghe lại một dư âm nào. Không có trăng sao thì tôi sẽ tưởng tượng một bầu trời trăng sao, để tôi còn nhớ về một đêm nào ở Huế. Về những vì sao in lung linh trên tàu dừa, và bên trong khung cửa nhà ai, tôi còn thấy lại dáng một người con gái, ngồi trước chiếc đàn dương cầm. Mái tóc của chị chảy xuống, nổi bật giữa vùng điện sáng loáng. Trên bục đàn là chậu hoa. Ðêm nào cũng vậy, đứa học trò hàng xóm của chị cũng đứng nín thở, và nhìn sang bên kia. Nhìn để làm gì. Học trò nghèo mang áo vá, làm gì mà được quyền mơ ước một nàng công chúa. Phải không chị Th. ?
-Tân ơi, mình nói cho Tân nghe...
Chị Th. cầm tay tôi, thân mật. Giọng nói cũng như ngày xưa, dịu dàng và thân thiết như thể từ một kiếp nào. Tôi đợi chị đây, chị Th. Tôi đợi chị sau mấy mươi năm trầm luân, lặn hụp. Chiến tranh, tù tội, vượt biển. Tôi đợi chị, như đợi một điều gì mà tôi không thể tìm nỗi ở cõi thế gian này. Mình nói cho Tân nghe. Phải rồi, chúng ta vẫn như ngày nào, gọi nhau bằng mình, bằng Tân, bằng bao nhiêu ân cần của tuổi học trò. Chị Th. tôi đã chờ đợi một ngày như thế này.
- Mình nghe anh Trinh kể là Tân ở tù, sau đó đi bán cà rem, có phải vậy không?
- Thưa chị phải. Bán cà rem, bửa củi mướn, khiêng gạch thuê, chở gạo lậu...
- Mình thật có lỗi với Tân...
- Tại sao chị lại nói thế?
Chị Th. cầm lấy tay tôi, rất tự nhiên. Phải chi ngày xưa tôi cũng được chị cầm tay như thế. Không, ngày xưa nếu Th. cũng cầm tay Tân như thế, thì mọi sự có thể thay đổi. Hết tương tư. Hết nhớ nhung. Hết chập chùng khổ lụy. Chợt nhìn vào đôi mắt. Dấu xưa. Th. ơi, ngày xưa Th. ở bên kia hàng dậu, sân cuội trắng lót ả lối đi. Cây nhản trước nhà, hàng bông thiên lý vàng rộ dưới nắng vàng. Và con đường nào dẫn từ ngôi nhà thờ xuống chiếc cầu đá, để mỗi ngày Tân đứng chờ đợi trên cầu. Có bao vòng sóng đã lan dần trên giòng sông An Cựu. Có bao hồi chuông lể lướt thướt, để Th. phải nhắm mắt lại, làm dấu. Rồi con đường chạy theo bờ sông, hàng bàng, ngâu, sung, mù u, đoát. Giòng sông An Cựu nắng đục mưa trong, cũng chảy len qua tấm lòng đứa học trò mới lớn. Ðôi khi, con người chỉ sống cho một thời, và cũng chết cho một thời. Ai biết, những trang giấy cứ tô hoài cho một giòng suối tóc. Ai biết, gót chân người nào, đẫm trên lối cuội, tà áo vạt trước vạt sau, mắt nhìn thẳng, tấm thân yểu điệu thon mềm thục nữ, để mình và Tân, Tân và mình. Ai biết con đường đã thấy bao nhiêu lá vàng, lá rụng cuống quít, lá đậu lại dưới gót chân người. Th., Tân đang bồi hồi quá đổi. Cơn mơ hay là thực đây.
- Ngày còn đi học, mình thấy đôi lần Tân đứng yên, mà quá buồn đi, mình và H. không dám an ủi. Mình hiểu rõ hoàn cảnh của Tân, nhưng Tân vẫn biết mình là con gái...
Chị Th. ơi, tại sao chị biết Tân buồn. Phải, xứ Huế thật kỳ lạ. Nó bắt trăm thằng con trai, trăm thằng đều mang nỗi buồn rất sớm. Khói sương cứ lãng đãng. Ðứng ở bờ sông này thì cứ nhìn về phía bờ sông kia mà tìm gì và thấy gì. Trời đất thì u hoài mênh mông, hay mưa dầm ủ dột suốt ngày. Xứ Huế cứ nghe hoài tiếng rao hàng cô độc từ đường Trương Ðịnh, đến tận Vườn Ðoát. Xứ Huế cứ guốc gõ trên vỉa hè để đau thêm con tim những thằng con trai mới lớn. Như vậy làm sao Tân không buồn được. Nhất là Tân là đứa học trò nghèo. Tân nghèo theo từng vòng xe vận tải để nương náu khắp Huế, theo người cha gà trống nuôi con. Từ Bến Ngư lên Nam Giao. Từ Âm Hồn qua Âm Phủ. Từ Phủ Cam đến Morin...
- Mình thật không thể ngờ có một ngày lại gặp lại Tân tại đất Mỹ. Tân không biết, khi mình biết Tân về đây, mình đã xin anh Trinh sắp xếp cho mình được ngồi cạnh Tân. Mình đã không thể ngũ được. Mấy mươi năm rồi Tân hỉ.
- Vâng, mới đó mà mấy mươi năm.
Mấy mươi năm. Th. ơi, Tân vẫn còn sống sót, và Th. vẫn còn sống sót. Có những điều gì kỳ lạ đôi khi không sao cắt nghĩa nỗi. Không có gì che dấu dưới ánh mặt trời. Câm nín rồi cũng ngày bật tung. Dối gạt rồi cũng có ngày hé lộ. Nước mắt chia ly rồi cũng có ngày hạt lệ vui mừng. Nhưng ba mươi năm thì quá dài, và quá trể.
- Th. hãy kể cho Tân nghe về Th. đi.
- Từ ngày Tân rời Huế thì mình đi lấy chồng.
- Vâng, Tân biết. Ngày ấy, tin Mừng đăng khắp báo Sài Gòn. Người chúc mừng toàn là Bác Sĩ Kỹ Sư Luật Sư Trung Tá Ðại Tá.
- Tân ơi, đừng hiểu lầm mình.
- Tại sao Th. lại nói như thế. Với một người chồng học rộng bằng cấp cao thì Th. phải hảnh diện chứ. Và nhất là một người con gái đẹp như Th.
- Mình không có ý nghĩ như vậy đâu. Mình nghe lời cha mẹ. Có điều mình được may mắn. Ảnh rất thương mình và rất tốt với mình. Bọn mình sống rất hạnh phúc. Hôm nay rất tiếc ảnh đi không được. Ảnh phải trực ở bệnh viện.
Chị Th. nhìn trong khoảng không, mắt long lanh lệ. Tôi không can đảm để hờn lẩy, tị hiềm. Phải, mỗi một đời sống đều có một phần định mệnh không thể cưỡng chống. Mà tôi đâu có gì với chị Th. để phải giận dỗi vu vơ như thế này. Nếu có là kỷ niệm. Cái kỷ niệm vàng ngọc phải giữ gìn, phải cất dấu để mà nâng niu trìu mến. Cái kỷ niệm học trò dại khờ, buồn lẫn vui, hạnh phúc lẫn đau khổ. Cái kỷ niệm quí báu ngọc ngấ Chắc gì ở dời sống tôi, và chị Th., và ngay cả ở những người mật thiết, gọi là vợ hoặc chồng đi nữa, cũng không thể tìm được những vòng tròn lan dần, lớn dần trên mặt nước, như đậu lại rồi tan đi, và cuối cùng là đậu lại. Ngôi trường cũ có bao nhiêu ô cửa. Ðể tôi về đếm những đám mây. Bao nhiêu đám mây đã bay qua trên đầu chúng ta, nhưng đôi khi, cũng có những đám mây không bao giờ chúng ta quên được. Chị Th., Tân biết, bây giờ, chúng ta đã có con cái, đã tuân phục qui luật của cuộc đời, nhưng ít ra, chúng ta vẫn có những đám mây bất diệt. Ðừng hiểu lầm Tân nghe chị Th. Tân sẽ gọi chị là bà bác sĩ T. bằng tất cả sự mến trọng, nhưng bây giờ cho phép Tân được gọi chị là Th. như thưỏ nào.
- Gặp lại Tân hôm nay, thú thật mình rất mừng. Mình đã chấp tay cảm tạ Chúa. Mình thấy Tân hôm nay vui, thì mình không còn bâng khuâng trong lòng nữa.
- Tân cũng vậy. Tôi trả lời. Tôi muốn nói thêm:. Nhưng mà làm sao chị Th. biết Tân vui, hở chị? Tân đang rót thêm cốc rượu mạnh đây mà. Tân đang uống vào một chút nước mắt đây mà. Ðọan trường nước chảy qua cầu. Gặp nhau sông núi trở màu đắng cay đây mà.
Ngày hôm sau căn bệnh cũ của tôi lại tái phát. Những năm dài của chiến tranh, tù tội, từ lâu đã tích lũy trong xương tủy máu huyết, lúc này dường như bộc phát. Ðó là qui luật của trời đất, dĩ nhiên. Cơ thể đã bước vào tuổi về chiều, làm sao nó có thể chống trả lại những đêm mưa, ngày nắng, đói khát chập chùng, âm ỉ réo gọi cơ hội bung lên. Và cứ mỗi lần, có một cơn mưa trái mùa, hay bất chợt, lúc trời nắng gắt, thì đầu óc tôi lại nóng sốt liệm mê, ôm cây ôm cột. Từ những hôm về thành phố này, tôi đã trải qua những buổi nhậu này qua buổi nhậu khác, lại gặp thêm một đám mưa giông hôm qua nữa, làm sao tôi thể ngã bịnh được. Những người bà con của tôi cuống cuồng chở tôi vào bệnh viện thành phố. Nhưng bác sĩ lại thả tôi trở lại nhà, sau khi cho toa thuốc trị sốt và an thần. Họ bảo tôi chỉ cần tịnh dưởng vài ngày là khỏe. Và tôi đã nằm trong căn phòng của anh Trinh, tỉnh rồi mê, mê rồi tỉnh. Từ cửa sổ, bên ngoài là sân cỏ, bờ thành, bên cạnh hoa thiên lý vàng thắm. Giữa vườn, giàn bầu xanh tươi. Tôi lại nhớ đến Th. Tôi cảm động trước một người vẫn còn biết giữ gìn kỷ niệm. Chỉ còn vài ngày nữa là Tết. Nhà anh Trinh đang chuẩn bị mâm đèn hoa quả, bình mai, mứt bánh. Lại thêm một cái Tết xa hương, và thêm những ngọn gió từ một cõi nào rất xa, nhưng cũng rất nồng nàn, để người xa quê phải quay quắt, phải ngậm ngùi, và phải không cầm lòng nỗi để thắp lại nến hồng, vái lại bàn thờ gia tiên. Th. ơi, con người cần phải có những thứ vô hình vô ảnh như thế, để mà sống, và tiếp tục cuộc sống. Người ta nói là cổ truyền, phong tục, luân lưu từ đời này qua đến đời khác... Riêng Tân thì có mỗi một đời này, trăm năm này, ngọn tóc sẽ vẫn còn dài, mái tóc sẽ vẫn còn bóng tựa mun chảy xuống cả bờ lưng mềm, nắng sẽ mãi đậu lại vĩnh cữu, hương tóc sẽ ngất ngây cả đời cả kiếp, những ngón tay thon sẽ trắng ngà để yên trên màu suối tuyền... Th. ơi, hãy cho phép Tân được trở lại một thời, côi cút thêm một ngày, hẩm hiu thêm một buổi. Ngoài trời, lại một cơn giông. Sấm gầm và những chớp lóe sáng. Trời đâm tối sầm. Và tôi lại thiếp. Trong trạng thái chập chờn hư ảo, giữa mộng và thực, tôi lại nhận ra ai đó, cúi đầu xuống tôi, đôi mắt quá đổi dịu dàng từ ái, và cả mái tóc thề xa xưa nữa. Ai đó, bước đã dẫm một lần, lời nói mình và Tân, Tân và mình đã trao gọi một lần. Ai đó, bay xa, để không bao giờ tay tôi chụp tới, xa và cao, như định mệnh vào lòng bàn tay, để tôi phải cuống cuồng chụp bắt. Tôi sộ chúng mất đi, bỏ tôi mà đi. Và tôi đã ôm lấy ai.Tôi nghe tiếng thốt lên như thất thanh: "Tân, mình đây mấ Mình và chồng mình đến thăm Tân đây mà!"
Trần Hoài Thư