vhnt, số 201
1 July 1996
Trong số này:
thư vhnt............................................Nguyễn Phước Nguyên
thư bạn đọc ..............................................................
T h ơ :
1 - Trái tim cho Ðà Nẵng ...............................Trần Hoài Thư
2 - Thơ trẻ Sài Gòn ..................................Nguyễn T Dũng p/t
- Tiếng chim buổi sáng .....................................Hồ Thi Ca
- Chuyến tàu cuối năm ............................Phạm Thanh Chương
3 - Giới thiệu thơ Omar Khayyam ................Nguyễn Phước Nguyên
- The Rubaiyat (8 selected quatrains) ..........................Omar Khayyam
- 8 khúc tứ tuyệt chuyển ngữ .............Nguyễn Phước Nguyên
4 - Ngày xưa tôi yêu em .................................Tôn Thất Hưng
5 - Ðoản khúc II .....................................................Chinh
6 - Hè và nỗi nhớ ...............................................Ðan Vy
D i ễ n Ð à n V ă n H ọ c :
7 - Phỏng vấn nhạc sĩ Lê Uyên Phương ..............Sung Nguyễn/vhnt
8 - Ghi chép tin tức văn học ...........................Nguyen T Dung p/t
T r u y ện N g ắn / S án g T ác :
9 - Ông Taylor ........................Augusto Monterroso / Trần Phú dịch
Bạn,
Chiều ngang của nghệ thuật là kỹ thuật. Chiều sâu của nghệ thuật là tâm hồn. Cả hai đều cần thiết cho sự sáng tạọ Tuyệt tác vả chăng là sự kết hợp diệu kỳ, nếu không muốn nói là hoàn hảo, của tâm hồn và kỹ thuật. Thiếu, hay chưa đủ, một trong hai yếu tố đó, tác phẩm sẽ không đạt, sẽ không vượt được giới hạn của ngôn ngữ, của thời gian, của tâm linh.
Thiếu một trong hai, tác phẩm sẽ chỉ là phản ảnh của bản ngã, không chuyên chở trọn vẹn được sự giao cảm giữa tiềm thức và tư duy, giữa cảm nhận và ghi nhận, giữa khát khao của con tim và thỏa mãn của tư tưởng. Và khi nó chào đời trong Sự-thiếu-một-trong-hai đó , tác phẩm sẽ tật nguyền và tắt thở trong cơn tự mãn trẻ con của tác giả - Vì tác giả đã không đủ tâm hồn hay kỹ thuật (hay cả hai) để khai triển bản ngã của mình bằng cách vượt qua (hay khai tử) nó trong khi sáng tác.
Sáng tạo vốn dĩ không biên thùy. Bởi tâm hồn có thể đi đến những nơi mà lý trí không thể nhận thức, không thể phân tách. Nhưng nếu kỷ thuật không thể chuyên chở tâm hồn vào những chốn-vô-biên-thùy đó, tác phẩm sẽ hấp hối trên chính thân phận của nó.
Khi chọn bước vào một bộ môn nghệ thuật mới, kẻ sáng tạo cần phải cân nhắc về chiều sâu cũng như chiều ngang của tác phẩm mình.
Người thưởng thức có thể cảm thông với những đóa hoa đầu vụng dại được dâng hiến với tấm lòng tri túc.
Nhưng nếu những đóa hoa đầu tay đó là một sự khoe khoang bản thân của tác giả, ngay khi nó không hội đủ hai yếu tố tâm hồn và kỹ thuật, tác phẩm không khéo chỉ là những tâm niệm cỏ gai mọc vương vãi trong khu vườn nghệ thuật mà thôi.
Bạn nghĩ sao?
Nguyễn Phước Nguyên
T H Ư B Ạ N Ð Ọ C
Thơ Xuân Quỳnh (đính chính)
Trong VHNT 200, tôi post bài "Thơ tình cho bạn trẻ" của Xuân Quỳnh; thật đáng tiếc tôi vô ý để sai một lỗi đánh máy khá đáng kể:
Buổi chiều này sặc sỡ như thêu
Muôn màu áo trong hoàng hôn rạng rỡ
Bàn tay ấm, mái tóc mềm buông xoã
Anh mắt nhìn như chấp cả vô biên:
Câu cuối cần phải đọc lại là:
Ánh mắt nhìn như chấp cả vô biên:
Thành thật xin lỗi bạn đọc.
Ðinh Nho Hào
Trái Tim Cho Ðà Nẵng
Tôi ở miền Ðông xa phố xá
Tháng giêng hai bão tuyết ngập trời
Chim vịt chưa về, ngóng mãi dài hơi
Mây im ỉm, hồn cũng đầm nước lớn
Muốn lên núi nhìn giang sơn dưới thấp
Ngại đường trơn, xe cũ, tay run
Thôi thì đành tưởng tượng xa xăm
Lên đỉnh Hải Vân nhìn về Non Nước
Em ở dưới, ngàn ngày rồi, mắt ướt
Lời ca xưa buồn cả lá rừng phong
Học trò trở về, lá rụng Quang Trung
Tôi bỏ biệt, qua đèo không dám khóc
Nhớ quán Chợ Cồn chờ em đến lớp
Chờ em hoài, chờ cả sớm chiều trưa
Chờ em cả đời, sợi nhớ nắng mưa
Sợi tơ tóc của vuông trời dưới phố
Tôi cũng biết. Trời nơi nào - cũng thế
Sông nơi nào, cũng nước rút nước dâng
Phố ở đâu cũng vẫn phố vẫn phường
Sao Ðà Nẵng chiếm tâm hồn tôi quá đỗi
Thành phố ấy có biển rừng sông núi
Mây Sơn Chà trắng bãi cát Tiên Sa
Em còn lên đồi lộng gió Nam Ô
Nghe lại tiếng vỗ về của sóng
Em có nhặt những lá vàng để khóc
Không còn tôi, lệ em chẳng ai lau
Em có nhìn lên một Hải Vân quan
Tội nghiệp lắm cho những người xa cách
Thành phố ấy, gió mang mùi muối mặn
Ðể hoà chung màu man dại Trường Sơn
Màu xanh vô cùng của Thái Bình Dương
và vô lượng như chuông chùa Thạch Ðộng
Thành phố ấy, cõi lòng tô mì Quãng
Rãi cho đều. Ðậu phụng với rau xanh
Em giãi dùm tôi: mì sợi vàng tươi
Hay Ðà Nẵng lòng người đầy ngập nắng?
Thành phố ấy, chiều sông Hàn gió lộng
Hàng sầu đâu già quá, rũ bờ xa
Lịch sử nào như thể hôm qua
Cơn tang hải còn buồn trang sách cổ
Cảm tạ em, cả một đời gian khổ
Nhưng con tim thì bát ngát bao dung
Ðà Nẵng tuyệt vời, Ðà Nẵng trăm năm
Tôi xin đặt vào một nơi trên tất cả
Trần Hoài Thư
THƠ TRẺ SÀIGÒN
Tiếng Chim Buổi Sáng
Tôi trở dậy trong tiếng hót của chim
Líu lo kêu mặt trời ngái ngủ
Chiếc lá khóc hay sương?
Ngày bận bịu việc mệt nhoài thường trú.
Tôi xem lịch Tam Tông Miếu: nắng-mưa
Mở sổ tay, ngồi vào máy tính
Lóc cóc gõ văn chương lên bàn phím
Nghe đời mình thoáng một chút robot.
Xếp lại drap giường sau giấc mơ hờ
Sợi tóc trắng một đêm rơi trên gối
Tuổi đời mông mênh...
tuổi đời hấp hối...
Ðêm đã dài, ngày lại dài hơn.
Con chim nhỏ thảng thốt kêu lên
Trời đã bắn vào tim tia cực tím
Tôi bước ra ngoài thảng thốt kêu lên
Cao ốc lô nhô lòng người nhỏ xíu.
Tìm vào quán cà phê
Kề vai những lão già hai thế kỷ
Ngắm mình qua đường chen chúc ngựa xe
Thấy mình hóa đèn lúc xanh lúc đồ
Hồ Thi Ca
oOo
Chuyến Tàu Cuối Năm
Trên chuyến tàu cuối cùng chiều ba mươi Tết
Tôi trở về với nỗi buồn một ngày
Không có ai đồng hành với tôi trong chuyến đi
Nắng đã úa trên hàng cây ven đường.
Những nguời trở về trên chuyến tàu
Không có ai buồn hay vui
Họ lặng lẽ ngồi nghe con tàu đang chạy
Gió ngoai trời lạnh buốt chiều cuối năm.
Ðứa bé có đôi mắt to đứng nhìn tàu đi qua
Gương mặt lem luốc áo quần tơi tả
Làm sao tôi biết được điều em đang nghĩ
Em mong gị Em mơ ước gì không?
Trời lạnh căm căm trên cánh đồng cỏ úa
Ai đốt lửa khói lên bên trên triền núi
Rồi chuyến tàu cũng đỗ lại ở sân ga
Khônhg có ai quen trong đám người đến đón.
Phạm Thanh Chương
GIỚI THIỆU THƠ THẾ GIỚI - Omar Khayyam
Omar Khayyam là người Trung Ðông, sống vào đầu thế kỷ 12. Ngoài là một nhà toán học, ông còn là một triết gia và một thi sĩ.
Quan niệm cõi đời phù du, Omar Khayyam có một lối sống rất phóng túng. Và cũng là một tửu đồ trung thành của men say. Vì thế, trong thơ ông thường nhắc tới chữ rượu, chuyện uống rượu - trong trường thi Rubaiyat, ít nhất 30 lần. Thậm chí ông hay dùng những chữ như "Thee" ( "Em" ) hay "Ah Love !" ( "Em yêu !" ) để gọi... "Nàng Rượu" của ông.
Thơ của Omar Khayyam xoay quanh những đề tài như: sống cho hôm nay, sống cho nhục cảm, đừng xá chi giáo điều của thế nhân, v.v...
Tuy nhiên, cái hay của bài trường thi Rubaiyat là những quan niệm sâu sắc về cuộc sống ẩn hiện trong dòng thơ phong lưu. Lấp lánh vô vi. Chập chùng tự thức.
Rubaiyat là một thể thơ tứ tuyệt. Mỗi khúc có bốn câu (quatrains). Chữ cuối của câu 1, 2 và 4 dùng một vần giống nhau - Giống như những bài thơ bốn câu, bảy chữ của thi ca sau này.
Năm 1859, nhà thơ Edward Fitzgerald dịch bài thơ này qua Anh ngữ. Sau đó, bài thơ này đã được dịch ra hầu hết mọi ngôn ngữ của thế giới. Thậm chí bài trường thi Rubaiyat của Omar Khayyam đã ảnh hưởng ất nhiều đến sắc thái phong trào thơ Anh Quốc (fin de siècle poetry) vào cuối thế kỷ 19.
Nguyễn Phước Nguyên
oOo
The Rubaiyat
(8 selected quatrains)
Omar Khayyam
Look to the blowing Rose about us - "Lo,
Laughing," she says, "into the World I blow,
At once the silken Tassel of my Purse
Tear, and its Treasure on the Garden throw."
And those who husbanded the Golden Grain,
And those who flung it to the Winds like rain,
Alike to no such aureate Earth are turn'd
As, buried once, Men want dug up again.
With them the Seed of Wisdom did I sow
And with mine own Hand wrought to make it grow
And this was all the Harvest that I reap'd -
"I came like Water, and like the Wind I go."
There was the Door to which I found no Key;
There was the Veil through which I might not see:
Some little Talk awhile of Me and Thee
There was - and then no more of Thee and Me.
And if the Wine you drink, the Lip you press,
End in what All begins and end in - Yes;
Think then you are To-day what Yesterday
You were - To-morrow you shall not be less.
When you and I behind the Veil are past,
Oh, but the long, long while the World shall last,
Which of our Coming and Departure heeds
As the seás self should heed a Pebble-cast
The Moving finger writes; and, having writ,
Moves on: nor all your Piety nor Wit
Shall lure it back to cancel half a Line,
Nor all your Tears wash out a Word of it.
Ah Love ! could you and I with Him conspire
To grasp this sorry Scheme of Things entire
Would not we shatter it to bits - and then
Re-mould it nearer to the Heart's Desire !
Thơ Tứ Tuyệt
(8 khúc chọn lọc)
Omar Khayyam
Em, hãy ngắm cành Hồng lay trong gió
Nói cùng ta: "Nụ hàm tiếu dâng cho
Ðời, mai sẽ theo cuồng phong từng cánh
Tả tơi rơi lên Nhân Uyển hư vô. "
Hỡi những kẻ nuôi mầm đời một thuở
Và những người gieo hạt sống vào mưa
Vẫn trái đất quay một vòng nhân thế
Ðã vùi chôn, nay đào xới nghìn xưa
Ta là kẻ trồng hạt mầm tri bỉ
Này bàn tay vun đấp gốc huyền vi
Gom tất cả vào một ngày nhắm mắt -
Ðến cùng mưa, và theo gió ra đi
Ðời - cánh cửa không bao giờ mở rộng
Người - màn che qua từng ánh mắt trông
Ðến trong nhau bằng những lời đã nói
Quên vội vàng như bèo giạt trôi sông
Khi môi đã chén rượu đời uống cạn
Chuyện tử sinh nào khác lúc hợp, tan
Ta-nay thế. Ta-ngày-xưa đã thế.
Ta-ngày-mai sẽ thế, giữa trần gian.
Qua, em nhé, qua cùng ta kiếp sống
Sau màn đời, cuộc trần lụy mênh mông
Vẫn riêng ta một chốn-đến-đi-về
Hồn sỏi đá ôm chìm lòng biển rộng
Những dòng mực ngón-tay-đời viết xuống
Trang giấy thời gian ghi khắc tích tuồng
Ðổi hết trí khôn, tâm thành, nước mắt
Có xóa được đâu một chữ tịch dương
Em yêu! Hãy cùng ta và Tạo Hóa
Gom những giáo điều nhân thế đặt ra
Phá tan đi! Và ta hãy bắt đầu
Sắp xếp lại - Từ tim mà ra cả.
chuyển ngữ: Nguyễn Phước Nguyên
(cho BBBB)
Ngày Xưa Tôi Yêu Em
Ngày xưa tôi yêu em
Có mặt trời làm chứng
Có ngọn cỏ bên đường
Ðàn gà con chim chíp
Ngày xưa tôi yêu em
Mượn đất người quê mẹ
Ươm ngọn cải bẹ xanh
Trồng giàn bầu, giàn mướp
Nồi bánh chiều ba mươi
Vầng trăng ngày tháng chạp
Một lát khoanh giữa trời
Ngọn lửa ngồi thâu đêm
Nồi xoong khua thay pháo ...
Ngày xưa tôi yêu em
Thơ tình trao vụng trộm
Thơm cồn cào ký ức
Chưa nhòa phai nét mực
Ôi ngày xưa, ngày xưa!
Ta thành nàng Tô Thị
Hóa đá đến bây giờ
Ôm một đời tình tự.
Philippines, 1990
TTH.
Ðoản Khúc II
(gửi sinh nhật T)
(1)
Sinh nhật, cùng em.
Gió. Mùa thu.
Sinh nhật, rượu uống đầy.
Sương mù.
Gió bay rời rã,
muôn tâm sự.
Thời gian là aỉ em là ai?
(2)
Sinh nhật, cùng em.
Rhapsody in Blue.
Sinh nhật, tháng năm nghe mưa mù.
Tóc em rối giữa
ngày lung lạc
Chào vẫy tôi vào
trong cuộc vui.
(3)
Mùa qua mùa qua,
chân ngựa xa.
Trùng vây
sông núi, dắt nhau về.
Ðỏ môi, rượu buốt,
hàng cây phố.
Qua những lối mòn,
như nhớ ai...
(4)
Em mãi mãi là một ngày rất xa.
Tôi mãi mãi là
một chiều rất vắng.
Ngựa hãy về đây
cho kịp độ thụ
Ai thắp cho ai
Nến lay lắt nhớ?
Chinh
24 tháng 6/96
Hè và Nỗi Nhớ...
Mùa hè, có nỗi nhớ nào không
Nghe xa xăm ngày tháng phượng hồng
Em còn ôm cặp, chiều nghiêng nón
Ðâu biết đời nhiều những nhánh sông
Mùa hè, có sợi khói nào vương
Mây lang thang, phượng đỏ sân trường
Góc bàn hoen nắng, dòng lưu bút
Dòng đời gõ nhịp theo mưa tuôn
Mùa hè, ai giăng nỗi niềm thương
Chùm hoa xinh anh tặng cuối đường
Bài thơ nho nhỏ còn trong cặp
Em thầm len lén nỗi vấn vương
Mùa hè, trời không dứt cơn mưa
Mưa vội vàng trong nắng ban trưa
Cổng trường im vắng, anh còn đợi
Sao lòng em ngỡ chỉ vu vơ...
Mùa hè, đâu đó những ước mơ
Mơ làm phượng đỏ nụ tình thơ
Hoặc làm mưa nhỏ, lòng chân thật
Làm hạ vàng trên cát ngu ngơ...
Ðan Vy
PHỎNG VẤN Nhạc Sĩ Lê Uyên Phương
Chúng ta có dư thừa dưỡng khí
để thở;
nhưng hình như lúc nào
chúng ta cũng hổn hển thở
trong cuộc chạy đua bất tận
trong đời sống của mình.
- LUP -
VHNT:
Xin nhạc sĩ Lê Uyên Phương cho bạn đọc vài nét về cuộc đời và quá trình sáng tác của mình?
LUP:
* Tên viết nhạc của tôi là Lê Uyên Phương
* Sinh trưởng ở Ðà Lạt
* Sáng tác đầu tay được viết năm 1960
* Thành hôn với Lê Uyên năm 1968
* Cùng trình diễn với Lê Uyên dưới tên chung là Lê Uyên và Phương từ năm 1970
* Vượt biển năm 1979 đến Indonesia, hiện định cư tại California Hoa Kỳ
* Tác phẩm:
- Ðã in:
Yêu Nhau Khi Còn Thơ, Khi Loài Thú Xa Nhau, Biển - Kẻ Phán Xét Cuối Cùng và tập truyện ngắn tùy bút Không Có Mây Trên Thành Phố Los Angeles
- Chưa in:
Uyên Ương Trong Lồng, Con Người-Một Sinh Vật Nhân Tạo (I & II), Bầu Trời Vẫn Còn Xanh, Trại Tỵ Nạn Và Các Thành Phố Lớn, Trái Tim Kẻ Lạ, Lục Diệp Tố, Tình Như Mây Cõi Lạ, và Hãy Yêu Nhau Như Trong Bi Kịch.
Tôi không viết từng bài hát với những đề tài khác nhau mà tôi luôn viết ca khúc thành từng tập dưới cùng một đề tài; tôi muốn đào sâu mỗi đề tài cho một tập nhạc đến tận cùng khả năng của tôị Vì vậy, nếu các bạn theo dõi những tập nhạc tôi viết theo thư tự thời gian, các bạn có thể nhìn thấy được nét phát họa tương đối khá rõ của tiến trình tâm thức tôi.
VHNT:
Trong số những tác phẩm của mình anh thích tác phẩm nào nhất?
LUP:
Tôi yêu mọi khoảnh khoắc mà từ đó tôi đã có những cảm xúc để tạo nên tác phẩm, vì thế mỗi bài hát khi tôi đã giữ lại đều mang một ý nghĩa nhất định trong đời sống của tôị Tôi không thích một tác phẩm này hơn một tác phẩm khác; tuy vậy, có thể nói những tác phẩm mang đặc tính của tôi đậm nét như: Vũng Lầy Của Chúng Ta, Trên Da Tình Yêu, Hãy Ngồi Xuống Ðây, Ðang Mùa Hạ Trên Cao...
VHNT:
Khi nhạc LUP xuất hiện lần đầu đã gây một tiếng vang lớn trong làng nhạc ở Sài Gòn vì nhạc của anh mang âm hưởng và giai điệu khác lạ , xin hỏi sáng tác của anh chịu ảnh hưởng xu hướng của ai không?
LUP:
Tôi chơi đàn từ khi còn bé và tôi đã không bỏ qua bất cứ một cơ hội nào để học hỏi và tìm tòi. Tôi không có định kiến trong âm nhạc và sẵn sàng tiếp thu mọi loại hình thức, mọi khuynh hướng âm nhạc đến từ bất cứ đâụ Tôi yêu tất cả những nhạc phẩm từ cổ diễn đến hiện đại thật sự có giá trị và đã học hỏi từ đó một chút gì, có thể những gì tôi yêu thích quá nhiều cho nên ẩn hiện đâu đó trong nét nhạc của tôi mà cảm giác tôi không hề nhận ra.
VHNT:
Âm nhạc là tiếng nói chân thật nhất của người viết nhạc, nhạc của anh mang nhiều giai điệu buồn, phải chăng đã phản ảnh cuộc đời và cuộc tình của anh?
LUP:
Âm nhạc của tôi luôn gắn liền với cuộc đời của tôi, trong đó có tình yêu và mọi thứ khác liên quan đến cuộc sống. Tôi không viết ca khúc bằng sự tưởng tượng, tôi mong muốn những ca khúc của mình có được sự thật thà đối với tôi và thật thà đối với người nghe chúng. Tôi rất cảm ơn các anh chị cho tôi cái cảm giác được quan tâm đến, có thể nào tôi hy vọng cái buồn trong những giai điệu của tôi đánh thức trong lòng anh chị một chút gì đó hết sức thi vị của cuộc đời chăng?
VHNT:
Khi hỏi anh câu này, trong tôi còn vương vấn câu nhạc của anh: Hãy ngồi xuống đây, trên lưng cuộc đời, thách đố thương đaụ.. Ðó là câu hát 20 năm về trước mà nhiều người khoái nhất. Ðã hơn 20 năm rồi, 20 năm thách đố thương đau, hôm nay, anh có suy nghĩ gì khi nghe lại câu hát đó.
LUP:
Cho đến khi nhắm mắt lìa đời, mỗi người vẫn còn mãi phải đương đầu với những mâu thuẩn đến từ mối tương giao của nhân loại mà ta gọi chung là cuộc đời. Sự mâu thuẫn đó không phải chỉ tìm thấy trong thời đại của chúng ta, lại càng không phải chỉ tìm thấy ở một vùng địa lý đặc biệt nào. Nó đã có từ lúc CÓ loài người và nó sẽ tồn tại mãi khi CÒN loài người trên mặt đất này . Có phải thế không anh/chị? Chúng ta có dư thừa dưỡng khí để thở; nhưng hình như lúc nào chúng ta cũng hổn hển thở trong cuộc chạy đua bất tận trong đời sống của mình . Tôi rất thích câu hỏi này.
VHNT:
Trong làng âm nhạc, anh thích nhất nhạc sĩ nào, ca sĩ nàỏ
LUP:
Tôi thích tất cả những nhạc sĩ có những ca khúc hay và tôi thích tất cả các giọng ca làm rung động được trái tim của ít nhất là hơn một ngườị Vì nếu chỉ làm rung động được trái tim của một người thôi, mà người đó lại là người yêu mình thì không có gì đảm bảo cho lắm, phải không. :-)
VHNT:
Ngoài viết nhạc ra anh còn viết truyện ngắn và tùy bút; xin anh cho biết nguồn cảm hứng của anh qua tập Không Có Mây Trên Thành Phố Los Angeles.
LUP:
Tôi biết viết văn trước khi biết viết ca khúc, tuy nhiên cảm hứng để hình thành tập truyện ngắn và tùy bút trên là những cảm hứng mà tôi không thể nào thể hiện nó qua ca khúc của tôi được.
VHNT:
Anh có dự tính cho ra cuốn CD băng nhạc đầu tay ở Hải Ngoại không?
LUP:
Khi mới tới Mỹ, tôi đã cho thâu vài ba cuốn băng (Khi Xa Sài Gòn, Xin Cho Yêu Em Nồng Nàn, Biển - Kẻ Phán Xét Cuối Cùng) Vài năm sau đó tôi có ra cuốn băng Trái Tim Kẻ Lạ; tất cả các cuốn băng nhạc này đã tuyệt bản . Tôi đang sửa soạn cho thâu toàn bộ các nhạc phẩm của tôi trong nay mai. Rất cảm ơn sự ủng hộ của các anh chị.
VHNT:
Ðời sống có chia ly và hạnh ngộ. Trong ngày xưa hạnh ngộ nhạc sĩ LUP đã ca ngợi tình yêu ngạo nghễ của những kẻ dám dấu theo trong ta một trái tim hồng, dám yêu nhau giữa một thế giới lạnh lùng, hồn nhiên như bầy thú hoang... Trong ngày xưa chia ly, anh đã hát về tình yêu như một sự quay lưng giữa hai người thành thật nhưng phũ phàng khi họ đang lừa dối nhau, đến với nhau bằng trái tim kẻ lạ... Hôm nay, trong buổi tương phùng giữa nhạc sĩ và người ái mộ Lê Uyên Phương, xin hỏi sẽ được nghe những gì trong thời gian tới?
LUP:
Những tập nhạc tôi như những tập nhật ký, khởi đi bằng tình yêu của thuở thiếu thời (Yêu Nhau Khi Còn Thơ), rồi ngụp lặn trong thế giới của tình nhân (Khi Loài Thú Xa Nhau), rồi hôn nhân (Uyên Ương Trong Lồng), rồi liên quan đến ý thức xã hội (Bầu Trời Vẫn Còn Xanh), rồi đi vào đời sống tâm thức qua các tập: Con Người, Một Sinh Vật Nhân Tạo, rồi vượt biển (Biển - Kẻ Phán Xét Cuối Cùng), rồi đổ vỡ trong hôn nhân (Trái Tim Kẻ Lạ), rồi đi vào thế giới bên ngoài tâm thức (Lục Diệp Tố), rồi hôn phối với xúc cảm người khác qua phổ nhạc tập thơ Tình Như Mây Cõi Lạ, rồi cuộc đời như một vở kịch trên sân khấu (Hãy Yêu Nhau Trong Bi Kịch)... mà không biết khi nào sẽ kéo màn . Tôi chưa biết lúc nào thì tôi sẽ dừng lại, và những gì tôi viết sẽ được nghe bao nhiêu phần.
VHNT:
Anh nghĩ gì về nền âm nhạc Việt Nam hải ngoại hiện naỷ Trong khi các cuốn video ca nhạc Paris By Night, Làng Văn, Asia .. càng ngày càng có nguy cơ bị nhàm chán, anh có đề nghị đóng góp gì không?
LUP:
Tôi là người viết ca khúc; mong muốn của tôi là những ca khúc đó đến được với khán thính giả của mình; nhưng sự thực hiện điều này lại lệ thuộc vào tác động qua lại giữa những nhà sản xuất và khán thính giả, trong đó có sự nâng cao trình độ thưởng thức tuỳ thuộc vào khả năng tác động, ý thức và trình độ của những nhà sản xuất . Theo tôi, cho tới khi nào những nhà sản xuất sống được nhờ những sản phẩm có giá trị thật sự thì mới có sự thay đổi trong sinh hoạt văn nghệ Hải Ngoại.
VHNT:
Cuối cùng, anh có lời nhắn nhủ gì cho bạn đọc VHNT liên mạng không?
LUP:
Trước hết, xin cảm ơn tất cả các anh chị đã đặt cho tôi những câu hỏi hết sức chân tình và cho tôi cơ hội để tâm sự đôi điều với các anh chị . Cầu mong các anh chị sẽ thành công với ý tưởng tốt đẹp để thúc đẩy sự đi lên cho sinh hoạt văn học nghệ thuật trẻ Hải Ngoại.
KẾT:
Thay mặt bạn đọc báo VHNT liên mạng xin thành thật cảm ơn anh đã dành chút thời gian quí báu cho buổi tao ngộ hôm naỵ Chúc anh có nhiều sáng tác mới và ấn phẩm cho bạn đọc yêu thích âm nhạc.
Nguyễn Sung
thực hiện cho Văn Học Nghệ Thuật Liên Mạng
GHI CHÉP LINH TINH
Di cảo, di vật của văn hào Mỹ William Saroyan
Khi lìa đời tại bệnh viện Fresno cách đây mười lăm năm, văn hào Mỹ William Saroyan để lại cho hậu thế trên 1200 thùng giấy đựng những di cảo quí giá gồm truyện dài, truyện ngắn, kịch bản, tiểu luận, những bản ký họa... chưa hề được xuất bản. Kho di cảo ấy gồm bao nhiêu văn phẩm mà đựng đến 1200 thùng, lúc sinh thời Saroyan phải dành cả một ngôi nhà rộng để chứa? Không, kho di cảo dĩ nhiên rất đồ sộ, nhưng Saroyan là một người rất mê mình, ông sưu tập giữ lại cho hậu thế cả những thứ lặt vặt có dính dáng đến đời sống thường ngày của ông, như nhãn hộp thức ăn ông đã dùng, những lọn râu ông cắt, nói tóm lại theo ông nghĩ, bất cứ thứ gì ông động vào cũng sẽ trở thành vưu vật thiêng liêng cho hậu thế sau này, nay ông giữ thì hậu thế khỏi phải mất công đi tìm. Theo di chúc của nhà văn, thư viện Bancroft Ðại học Berkeley được quyền giữ tất cả những gì Saroyan sưu tập. Nhưng Thư viện Bancroft chỉ chọn giữ những gì thuộc về di sản văn học nghệ thuật của nhà văn quá cố, còn những thứ như dây giày, áo lót, bì thư đựng râu, vé métro thăm Paris... thì bỏ lại Fresno, quê hương của Saroyan. Tổ chức Saroyan Foundation ở Fresno khó nhọc bảo quản bấy nhiêu vưu vật linh tinh ấy suốt mười lăm năm qua, chắc hết kiên nhẫn, nên mới đây có thương lượng với Ðại học Stanford, ra điều kiện nếu Stanford chịu nhận tất cả 1200 thùng tài liệu Saroyan để lại và lập một nhà bảo tàng Saroyan quan trọng ngang hàng với nhà bảo tàng dành cho những văn hào cỡ Ernest Hemingway, thì tổ chức sẽ giao hết cả hoa lẫn rác cho đại học. Ðại học Stanford nhận lời ngay. Thế là chiến tranh bùng nổ giữa hai Ðại học Berkeley và Stanford. Berkeley bảo không phải bất cứ thứ gì nhà văn quá cố sưu tập đều là hoa, cái gì là rác thì phải cho vào sọt rác. Những lọn râu của Saroyan có thể rất quí, biết đâu sau này mỗi sợi có thể bán đấu giá được hàng ngàn đô la, nhưng một bì đựng râu là đủ rồi (trên bì thư Saroyan ghi rõ cả ngày cắt râu), giữ nhiều chỉ chật nhà kho. Stanford biết đối thủ có lý, nhưng muốn giành kho tàng Saroyan về cho mình, bảo cái gì Saroyan sưu tập cũng quí, kể cả rác rến. Chưa biết cuối cùng ai thắng ai. Trước mắt, rõ ràng tác giả "Chàng tuổi trẻ trên chiếc đu dây" đã thắng. Ông buộc giới nghiên cứu phải bỏ công soạn lại 1200 thùng tài liệu của ông, bắt họ phải phân biệt thế nào mới là hoa, thế nào là rác. Chuyện đó không dễ!
Nhà văn Garcia Marquez bị ép làm tổng thống Colombia
Nhà văn Gabriel Garcia Marquez, từng đoạt giải Nobel văn chương 1982, vừa lâm vào một tình huống gay cấn có thể đưa đến một thảm kịch lớn: một nhóm chuyên thực hiện các vụ bắt cóc ở Colombia cho biết ông là người sẽ quyết định sự sống còn của nạn nhân. Vụ này có dính líu đến đề tài tội phạm mà ông đã dành ra ba năm trời để viết trong cuốn sách nhan đề "News of a Kidnapping", trong đó ghi lại các vụ bắt cóc diễn xa trong cuộc "chiến tranh" của chính phủ Colombia chống tên trùm ma túy Pablo Escobar hồi năm 1990. Cuốn sách ghi lại mười vụ bắt cóc từng gây sôi động xứ Colombia diễn ra một thời gian ngắn sau khi Cesar Gaviria lên nắm chức tổng thống xứ này. (Gaviria giữ chức tổng thống từ 1990 đến 1994). Theo cựu Tổng Thống Gaviria thì nhà văn Garcia Marquez từng kêu gọi nên có một thái độ bình tĩnh khi đương đầu với các vụ bắt cóc do đàn em của Escobar thực hiện. Vị cựu tổng thống này, nay cầm đầu cơ quan Organisation of American States, đã giữ đúng thái độ bình tĩnh đó kể từ ngày 2 tháng Tư, khi một tổ chức bí mật tự xưng là "Dignity for Colombia" bắt cóc em ruột của ông, Juan Carlos, tại miền tây xứ Colombia. Ðây cũng là nhóm từng lên tiếng nhận trách nhiệm vụ mưu sát luật sư của Tổng Thống Ernesto Samper hồi tháng Chín năm ngoái cũng như vụ ám sát một ứng viên tổng thống cách đây hai tháng. Nhóm này nay đưa ra lời yêu cầu buộc nhà văn Garcia Marquez phải tước quyền thổng thống từ tay Samper để đổi lấy cho việc trả tự do cho người em của cựu tổng thống Gaviria. Cũng cần nhắc lại đương kim tổng thống Samper từng bị buộc từ chức vì các cáo buộc cho rằng ông nhận tài trợ từ các tổ chức buôn lậu ma túy trong thời gian vận động tranh cử. Nhà văn Marquez đã từ chối lời đòi hỏi này, lấy lý do nếu thực hiện điều đó thì ông sẽ là "vị tổng thống tồi tệ nhất" trong lịch sử xứ Colombia. Ông Marquez cũng đã có thái độ im lặng với một đề nghị mới đây, trong đó nhóm "Dignity for Colombia" đòi hỏi ông xác nhận là các đơn kê khai tài chánh của cựu tổng thống Gaviria không có dấu hiệu nào cho thấy có sự tham nhũng hay gian lận trong thời gian ông ta giữ chức tổng thống." Cũng trong cùng một bản thông cáo gửi đến nhà văn Marquez đòi ông phải lên nắm quyền tổng thống, những tay bắt cóc còn nhấn mạnh rằng ông Marquez cần phải loại bỏ ông Gaviria khỏi chức vụ giám đốc cơ quan Organisation of American States.
Dũng Nguyễn sưu tầm
(trích Văn Học tháng 6/1996)
Augusto Monterroso sinh năm 1921 tại Honduras. Cha là người Guatemala, mẹ người Honduras, ông giữ quốc tịch Honduras. Sống lưu vong ở Mễ Tây Cơ từ năm 1944.
Ông Taylor
Một ông khác nói:
- Câu truyện của ông Percy Taylor săn đầu người ở rừng Amazon điển hình hơn, dù không lạ bằng. Năm 1937 nghe nói ông ta rời Boston thuộc tiểu bang Massachusetts, tâm hồn trong sáng đến nỗi không có một đồng xu dính túi. Năm 1944 lần đầu tiên ông xuất hiện ở Nam Mỹ, trong vùng Amazon, và sống với người da đỏ thuộc một bộ lạc không đáng nhớ tên.
Vì vết quầng dưới đôi mắt và bộ dạng chết đói của ông, người ta gọi ông là "thằng Mẽo ăn xin" và ngay cả lũ học trò cũng chỉ trỏ và ném đá mỗi khi thấy ông đi ngang với bộ râu lấp lánh dưới ánh mặt trời vàng rực nhiệt đới. Nhưng ông Taylor khiêm tốn không thấy khổ, vì ông đọc thấy trong cuốn đầu bộ Toàn tập của William C. Knight nói rằng cái nghèo không phải là điều hổ thẹn nếu đừng ganh tị với kẻ giàu có.
Chỉ vài tuần sau dân địa phương đã quen với ông và y phục kỳ dị của ông. Ngoài ra, vì mắt ông xanh và giọng nói thoáng âm hưởng ngoại quốc, Tổng thống và Bộ trưởng Ngoại giao sợ có chuyện rắc rối quốc tế nên đối xử với ông kính nể đặc biệt.
Ông nghèo nàn rách rưới đến nỗi một hôm phải đi vào rừng kiếm rau cỏ gì ăn được. Khi tình cờ thấy một cặp mắt da đỏ trong bụi rậm theo dõi, ông cứ bước đi không dám quay đầu lại. Một cái rùng mình chạy dọc theo sống lưng nhậy cảm của ông Taylor. Nhưng ông Taylor gan dạ của chúng ta thách thức mọi hiểm nguy và tiếp tục đi, miệng huýt sáo như thể không thấy gì.
Một thổ dân da đỏ nhảy vọt ra (tại sao lại gọi là như mèo?) trước mặt ông và hét lên:
- "Mua đầu không? Tiền tiền."
Dù tiếng Anh của hắn quá tệ, ông Taylor, cảm thấy hơi khó ở, cũng hiểu rằng tên da đỏ chào bán cho ông cái đầu người rút nhỏ kỳ quặc trên tay hắn.
Dĩ nhiên ông Taylor không có tư cách gì trong chuyện mua bán, nhưng vì ông có vẻ như không hiểu nên tên da đỏ đâm ra ngượng vì nói tiếng Anh dở. Hắn xin lỗi ông và tặng ông cái đầu người.
Lúc quay lại túp lều của mình ông Taylor rất đỗi vui mừng. Tối đó, ngả lưng trên tấm chiếu bằng lá dừa tạm bợ, chỉ bị tiếng vo ve của lũ ruồi say sưa bay quanh hành lạc một cách tục tĩu quấy rầy, ông Taylor thích thú ngắm nghía rất lâu món đồ ông rơi vào tay ông một cách lạ lùng. Óc thẩm mỹ của ông cảm thấy thoả mãn nhất khi đếm từng sợi râu cằm và ria mép và nhìn thẳng vào cặp mắt thoáng vẻ mỉa mai như đang mỉm cười để tỏ lòng biết ơn về sự quan tâm của ông.
Là một người đầy văn hoá, ông Taylor thường hay trầm ngâm, nhưng lần này ông sớm cảm thấy mệt mỏi với suy tư triết học của mình và quyết định biếu cái đầu cho người cậu là ông Rolston ở Nữu Ước vốn rất quan tâm đến những biểu thị văn hoá Mỹ châu La Tinh từ khi ông còn thơ ấu.
Vài ngày sau, cậu ông Taylor yêu cầu ông (trước cả việc hỏi thăm tình trạng sức khoẻ của cháu) gửi thêm năm cái đầu nữa. Ông Taylor vui vẻ chiều theo ước muốn của ông Rolston - chẳng ai mà biết ông ta làm thế nào - bằng cách hồi âm rằng ông "rất vui mừng thoả mãn lời yêu cầu". Ông Rolston cực kỳ biết ơn hỏi thêm mười cái nữa. Ông Taylor "vui lòng đáp ứng". Nhưng tháng sau, khi ông cậu bảo gửi thêm hai mươi cái nữa, ông Taylor vốn là người đơn giản và râu ria nhưng với linh cảm nghệ sĩ tinh tế nghi rằng em của mẹ mình đang bán mấy cái đầu lấy lời.
Và quả thật là đúng như vậy. Hoàn toàn thành thật, ông Rolston cho cháu biết sự thực trong một bức thư đầy phấn khởi với ngôn từ thuần túy thương mại đã làm rung động tâm hồn nhậy cảm của ông Taylor một cách chưa từng thấy.
Họ lập công ty ngay tức thì. Ông Taylor đồng ý tìm và gửi một số lượng lớn đầu người rút nhỏ cho ông Rolston bán trong nước với giá cao nhất.
Ðầu tiên cũng có vài khó khăn phiền phức với một số thổ dân. Nhưng ông Taylor hồi còn ở Boston đã được điểm cao nhất trong bài khảo luận về Joseph Henry Silliman, đã chứng tỏ là một chính trị gia khéo léo và được giới chức có thẩm quyền không những cấp giấy phép xuất cảng mà còn được độc quyền trong chín mươi chín năm nữa. Thật chẳng có gì khó khăn trong việc thuyết phục viên Tổng tư lệnh Chiến sĩ và Ðại biểu Thầy pháp trong Quốc hội rằng hành động yêu nước này sẽ làm cho cộng đồng giầu mạnh, và chẳng bao lâu sau tất cả thổ dân mỗi khi khát khô cổ (khi cần nghỉ giải khát lúc sản xuất đầu người) sẽ được uống nước sô đa ướp lạnh làm bằng công thức huyền bí do ông cung cấp.
Khi các thành viên trong Nội các sau một buổi vận động trí óc ngắn ngủi nhưng hiệu quả hiểu được những lợi ích này, lòng yêu nước của họ dâng trào và trong ba ngày họ ban bố một đạo luật ra lệnh cho dân chúng xúc tiến nhanh việc sản xuất đầu người thu nhỏ.
Vài tháng sau, như chúng ta đều biết, ở nước của ông Taylor đầu người trở nên thịnh hành. Ðầu tiên chỉ những gia đình giầu nhất mới có, nhưng dân chủ là dân chủ, và không ai có thể chối rằng trong vài tuần ngay cả thầy giáo cũng mua được.
Nhà nào không có đầu thu nhỏ sẽ bị xem như một gia đình thất bại. Chẳng bao lâu sau các nhà sưu tập xuất hiện, tạo ra một số mâu thuẫn như: sở hữu mười bảy cái đầu được xem là không có óc thẩm mỹ, nhưng có mười một cái lại là độc đáo. Ðầu người trở nên thông thường đến nỗi người thực sự tao nhã bắt đầu chán và chỉ mua nếu nó có một vẻ gì rất đặc biệt khác thường. Một cái đầu rất hiếm với bộ ria Phổ, lúc sống thuộc một viên tướng đầy chiến công, được tặng cho Viện Danfeller và viện này lập tức tặng ba triệu rưỡi đô la cho việc phát triển văn hoá đầy hứng thú này của các dân tộc Mỹ châu La Tinh.
Trong khi đó, bộ lạc đã tiến bộ rất xa, giờ đây đã có con đường riêng đi vòng quanh Cung Lập pháp. Vào những ngày chủ nhật và dịp lễ Ðộc lập, các đại biểu Quốc hội cỡi xe đạp do Công ty tặng chạy quanh con đường vui nhộn đó, họ hò hét, phô trương lông chim cài đầu, và cười vẻ nghiêm trang.
Nhưng chuyện phải đến sẽ đến. Cuộc vui phải có lúc tàn. Lần đầu tiên đầu người khan hiếm xảy ra một cách bất ngờ.
Rồi đoạn hay nhất của cuộc vui bắt đầu.
Chết tự nhiên không còn đủ nữa. Ông Bộ trưởng Y tế vốn tự xem mình là một người chân thành, vào một đêm tối trời sau khi tắt đèn ông mơn trớn ngực vợ như không bao giờ dứt và thú nhận với vợ rằng ông tự nghĩ không có khả năng nâng cao tử suất đến mức đủ thoả mãn lợi ích của Công ty. Vợ ông trả lời rằng ông không nên lo lắng, mọi thứ đâu sẽ vào đấy và tốt nhất là họ nên đi ngủ.
Nhiều biện pháp mạnh ban ra để bù cho sự thiếu hụt trong quản lý này, và luật tử hình nghiêm khắc được công bố.
Bồi thẩm đoàn hội ý và nâng cả những tật xấu nhỏ nhất lên thành tội ác với án treo cổ hay xử bắn tùy theo tầm mức nghiêm trọng của sự vi phạm.
Ngay cả những lỗi lầm đơn giản cũng trở thành hành động tội ác. Thí dụ như nếu trong lúc chuyện gẫu một người bất cẩn nói: "Trời nóng quá". Và sau đó nếu người ta có thể chứng minh với hàn thử biểu trong tay rằng trời không nóng chút nào hết, người đó sẽ bị phạt một món tiền nhỏ và bị xử tử lập tức. Cái đầu của anh ta sẽ được gửi tới Công ty, và công bằng mà nói, thân thể và tứ chi của hắn sẽ được trả về cho tang quyến.
Bộ luật về bệnh tật gây tiếng vang rộng rãi và thường được bàn cãi trong Ngoại giao đoàn và trong các toà đại sứ của các cường quốc bạn.
Theo bộ luật độc đáo này, người bịnh nặng có hai mươi bốn giờ để thu xếp công việc của mình rồi chết. Nhưng nếu trong lúc đó họ may mắn lây bệnh sang gia đình thì cứ mỗi người bị lây họ sẽ được hoãn một tháng. Những người bịnh nhẹ hay chỉ cảm thấy hơi khó ở sẽ bị cả nước nguyền rủa, và bất cứ ai đi ngang cũng có thể nhổ vào mặt họ. Lần đầu tiên trong lịch sử người ta thấy được tầm quan trọng của bác sĩ không chữa bệnh (trong số đó có vài ứng viên giải Nobel). Chết trở thành biểu thị yêu nước cao nhất, không những trong tầm vóc quốc gia mà vinh dự hơn ở cả mức độ lục địa.
Với sự phát triển của các kỹ nghệ phụ (thí dụ như kỹ nghệ sản xuất hòm với sự trợ giúp kỹ thuật của Công ty) tổ quốc đi vào giai đoạn được gọi là phồn thịnh kinh tế mạnh mẽ. Tiến bộ này biểu hiện qua con đường mới đầy hoa để vợ các đại biểu tản bộ, những cái đầu bé nhỏ xinh đẹp của họ gói trong nỗi u sầu của chiều thu vàng gật gật vâng, vâng, mọi việc đều suông xẻ để trả lời câu hỏi của một anh chàng nhà báo nào đó mỉm cười giở nón chào họ trên con đường bên kia.
Tôi nhớ có lần một trong những anh nhà báo này chẳng biết làm sao anh ta lại hắt hơi như sấm. Thế là anh ta bị buộc tội cực đoan và bị đưa đứng dựa lưng vào tường của đội xử bắn. Chỉ sau cái chết vị tha của anh ta, các nhà hàn lâm ngôn ngữ mới biết anh nhà báo có cái đầu mập nhất nước, nhưng khi rút nhỏ lại vẫn không thấy khác biệt với mấy cái đầu khác.
Còn ông Taylor hả? Lúc này ông được phong chức Cố vấn đặc biệt cho Tổng thống Hiến định. Là một điển hình cho thành công của sáng kiến cá nhân, giờ đây ông đếm đô la bạc ngàn, nhưng ông ta chẳng mất ngủ tí nào vì ông đọc trong cuốn cuối của bộ William C. Knight Toàn tập rằng làm triệu phú chẳng có gì là xấu nếu đừng khinh rẻ người nghèo.
Tôi tin rằng tôi đã nói là cuộc vui phải có lúc tàn.
Với sự thịnh vượng của Công ty như thế thì cũng phải đến lúc chỉ còn vợ chồng các giới chức thẩm quyền, và vợ chồng các nhà báo. Chẳng phải cố gắng gì nhiều, ông Taylor kết luận rằng giải pháp độc nhất là tuyên chiến với các bộ lạc láng giềng. Tại sao không? Ðây chính là tiến bộ đấy chứ.
Chỉ cần vài khẩu đại bác nhỏ, bộ lạc đầu tiên bị chặt đầu gọn ghẽ trong vòng ba tháng. Ông Taylor nếm mùi vị huy hoàng của sự bành trướng lãnh thổ. Rồi bộ lạc thứ nhì, thứ ba, thứ tư và thứ năm. Công việc tiến triển nhanh đến nỗi chẳng bao lâu sau không còn bộ lạc lân cận nào để gây chiến, bất kể là các chuyên gia có cố gắng đến mấy đi nữa.
Ðó là lúc khởi đầu của đoạn kết.
Các con đường bắt đầu hoang phế. Thỉnh thoảng lắm mới thấy một mệnh phụ hay một nhà thơ trúng giải nào đó cầm sách trên tay đi tản bộ. Cỏ dại lại mọc lan trên hai con đường làm đau gót chân mềm mại của các bà mệnh phụ. Số xe đạp giảm theo số đầu người, và những lời chào hỏi vui tươi lạc quan hầu như biến mất.
Nhà hòm u ám và tang tóc hơn bao giờ. Và mọi người đều cảm thấy như nhớ về một giấc mơ êm đềm, một loại giấc mơ kỳ diệu trong đó bạn tìm thấy một cái ví đầy ắp tiền vàng. Bạn đặt dưới gối rồi ngủ tiếp để khi thức dậy vào sáng sớm hôm sau bạn đi tìm và chỉ thấy trống không.
Chẳng may thay, công việc buôn bán vẫn cứ tiếp tục như thường, nhưng ai cũng khó ngủ, sợ rằng lúc thức dậy thì đã bị xuất cảng.
Nhu cầu ở nước của ông Taylor dĩ nhiên vẫn tiếp tục tăng. Ðồ giả xuất hiện hàng ngày nhưng chẳng lừa được ai, và người ta vẫn cứ đòi mua cho được những cái đầu thu nhỏ ở Mỹ châu La Tinh.
Cuộc khủng hoảng cuối cùng đã gần kề. Ông Rolston tuyệt vọng liên tục đòi thêm đầu mới. Mặc dù cổ phần của Công ty xuống giá thê thảm, nhưng ông Rolston vẫn tin cháu ông sẽ cứu vãn được tình thế.
Hàng nhận giảm xuống còn một chuyến mỗi tháng, tuy vậy lại còn gồm cả đủ thứ: đầu con nít, đầu mệnh phụ phu nhân, cả đầu đại biểu.
Bất thình lình mọi sự chấm dứt.
Vào một ngày thứ sáu xám đen nặng nề, từ Thị trường Chứng khoán về nhà vẫn còn choáng váng vì tiếng la hét của bạn bè và vẻ hoang mang rầu rĩ của họ, ông Rolston quyết định nhảy qua cửa sổ (thay vì dùng súng - ông sợ tiếng nổ) sau khi mở gói bưu kiện và thấy cái đầu rút nhỏ của ông Taylor đang mỉm cười với ông từ chốn xa xăm, từ Amazon hoang dã, với nụ cười trẻ thơ giả tạo dường như đang nói: "Cháu xin lỗi, cháu thành thật xin lỗi, từ nay cháu sẽ không làm thế nữa."
oOo
Khủng Long
Khi hắn tỉnh dậy, con khủng long vẫn còn đó.
oOo
Nhật Thực
Khi sư huynh Bartolomé Arrazola cảm thấy bị lạc, ông chấp nhận sự kiện là ông sẽ chết. Rừng rậm mãnh liệt của Guatemala, dữ dội và tận cùng, đã lấn át ông. Chấp nhận sự kém cỏi về địa hình của mình, ông bình tĩnh ngồi xuống đợi cái chết. Ông muốn chết ở đó, vô vọng, đơn độc, trí ông nghĩ về Tây Ban Nha xa xăm, đặc biệt là về Tu viện Los Abrojos, nơi đã có lần Charles V đức cao danh trọng hạ cố tới thăm và nói rằng ngài đặt lòng tin vào nhiệt huyết tôn giáo và công nghiệp cứu rỗi của ông.
Khi thức giấc, ông thấy một nhóm da đỏ với bộ mặt vô hồn bao quanh đang chuẩn bị tế ông trước bàn thờ, bàn thờ dường như là cái giường nơi cuối cùng Bartolomé sẽ an nghỉ, thoát khỏi sự sợ hãi, số phận và chính mình.
Ba năm sống ở vùng này ông hiểu được tàm tạm một số ngôn ngữ địa phương. Ông thử nói vài tiếng. Ông nói vài chữ hiểu được.
Rồi một ý chợt loé lên mà ông cho là xứng với tài năng và học vấn rộng và kiến thức uyên thâm về Aristotle của ông. Ông nhớ rằng nhật thực toàn phần sẽ xảy ra hôm đó. Và trong đáy thâm tâm ông quyết định sẽ dùng kiến thức đó để đánh lừa những kẻ áp bức ông và tự cứu đời mình.
Ông nói: "Nếu các ngươi giết ta, ta sẽ làm mặt trời trên cao tối lại." Mấy người da đỏ nhìn ông và ông thấy vẻ nghi ngờ trong mắt họ. Ông thấy họ hội ý với nhau và ông đợi với vẻ tự tin mà không phải là không có một chút khinh miệt.
Hai giờ sau trái tim của sư huynh Bartolomé Arrazola phun ra những tia máu nồng nhiệt trên tảng đá tế thần (rực rỡ dưới ánh sáng mờ đục của mặt trời nhật thực) trong khi đó một người trong nhóm da đỏ đọc đều đều, chậm rãi, từng chữ một từ bảng kê dài dằng dặc những ngày nhật thực và nguyệt thực mà các nhà thiên văn Mayan đã tiên đoán và ghi lại trong sách luật của họ chẳng cần tới ước đoán của Aristotle.
AUGUSTO MONTERROSO - Complete Works & Other Stories
Edith Grossman dịch ra Anh ngữ
Will H. Corral giới thiệu
University of Texas Press, Austin, 1995
Ý Nghĩ Lúc Hai Giờ Sáng
Ðêm. Hai giờ sáng, và em không ngủ được.
Trong cơn trằn trọc của giấc ngủ, nhìn qua cửa sổ em thấy những hàng cây trần truồng không lá. Mùa xuân năm nay đến muộn; vì mùa đông giã từ rất trễ. Những lá cây nõn nà không dám trở lại với thân cây vì cái lạnh vẫn còn muốn dan díu.
Trong đêm tối, những cành cây không lá nhìn giống ngư một đám tình nhân đang ôm nhau. Và khi có một cơn gió thổi qua, những cành cây kia run lên như người tình nhân đang run lên vì cái cảm giác họ đang nhận và cho nhau.
Một đêm, hai giờ sáng chưa ngủ được, em nghĩ về những câu hỏi của anh về em. Berezina, Berezina, tại sao là Berezina.
Nó là một con sông nhỏ, rất thơ mộng, chảy vào con sông hùng vĩ Dnepr của Belorussia. Nhưng đó cũng là nơi của nhiều hận thù chinh chiến trong lịch sử của Belorusia.
Anh hãy tưởng tượng con sông Nhật Lệ ở Quảng Bình, Việt Nam. Con sông với một cái tên thật đẹp nhưng lại là một biểu tượng cho sự chia cách, hận thù của quê hương. Sông Nhật Lệ, nơi có Lũy Thầy, sông Gianh, nơi chia ra ý thức hệ Nam Bắc nguyên thủy. Sông Nhật Lệ, một con sông có nước mắt cho tình yêu lẫn hận thù.
Một đêm, hai giờ sáng. Không biết anh có bao giờ nghĩ tình yêu nào cũng có một giới hạn của nó. Ðến một lúc nào đó mĩnh phải ngừng đi tìm tình yêu, và trở lại khám phá tình yêu mình đang cô Anh nói "Nietzsche nghĩ những kẻ chung tình là những kẻ lười biếng về tình dục."
Không hẳn như vậy. Theo ý em, chính những kẻ đa tình mới là những lười biếng: họ không bỏ thì giờ ra để khám phá một thân-xác-tâm-hồn đang đưa tay đón nhận mình. Ða tình chỉ thú vị trong tuổi thanh xuân. Ở tuổi trung niên, tâm hồn yêu một tình yêu qua cái Bản Thể hơn là cái Hữu Thể của "tình yêu." [in the sense of Essence vs Existence]. Mình yêu tình yêu hơn là người yêu, đó là triết lý của em.
Một thân xác lạ cho ta một thú vị ngỡ ngàng; trong khi một thân xác quen thuộc cho ta không làm cho ta ngỡ ngàng trong thú vị. Và đó là những chọn lựa tùy theo đối tượng.
KyPhong