vhnt, số 183
8 May 1996
Trong số này:
thư vhnt..................................................................PCL
T h ơ :
1 - Olga Bergon: Không đề .......................Phạm Xuân Nguyên dịch
2 - Trên những lối về của biển .........................Phan Lê Vũ
3 - Tu hú kêu lạc mùa ....................................Nguyễn Thị N.D.
4 - Chơi mùa trăng ...........................................Phạm Chi Lan
5 - Ly biệt ...............................................Trần Thái Vân
6 - Magnolia ...........................................................CỏMay
D i ễ n Ð à n V ă n H ọ c :
7 - Lời ngỏ cho dịch phẩm "Trong Gọng Kềm Lịch Sử",
("In the Jaws of History" của Bùi Diễm).................Phan Lê Dũng
8 - Chương 0: Trong gọng kềm lịch sử ...Bùi Diễm/Phan L Dũng dịch
T r u y ện N g ắn / S án g T ác :
9 - Mùa hè năm ấy .......................................Bùi Thanh Liêm
Bạn đọc thân mến,
Diễn đàn VHNT được khởi xướng là một diễn đàn văn chương vị nghệ thuật, và tất cả mọi sáng tác trên diễn đàn này sẽ không mang tính chất chính trị hay tuyên truyền cho một chủ thuyết nào. VHNT sẽ luôn giữ mãi tôn chỉ này. Tuy nhiên, có những tác phẩm văn chương với chủ đề nội dung có tính chất chính trị nhưng lại thuộc về lịch sử và nghiêng về mặt nghệ thuật văn chương, như những tác phẩm của văn học thế giới nói về một thời cuộc, thì lại được đánh giá và nhìn nhận như một tác phẩm nghệ thuật nói về điều nhân bản con người. Văn chương chính là khoa học về con người, tìm hiểu con người qua khía cạnh nghệ thuật!
VHNT số này sẽ khởi đăng một dịch phẩm của anh Phan Lê Dũng, "Trong Gọng Kềm Lịch Sử", là một thiên chuyện mang nỗi buồn triền miên của một thế hệ của chết chóc và chiến tranh. Chiến tranh đã kéo quá dài qua vài ba thế hệ trước, và âm hưởng đau thương của chiến tranh sẽ còn dài hơn cả cuộc chiến, bởi nỗi đau này là một vòng tròn khép kín mà cả dân tộc phải gánh lấy. Vòng tròn khép kín ấy có khi cần được mở ra để hòa giải nỗi buồn.
Theo lời nhập của Phan Lê Dũng: "Tất cả những danh từ nói về những cảm quan cũng như các biến cố quá khứ đều nằm gọn "trong gọng kềm lịch sử," một bầu không khí khắc nghiệt, mang tính chất định mệnh (Historical Determinism) chẳng khác nào bầu không khí của "Chiến Tranh và Hòa Bình," kiệt tác của Leo Tolstoy. Quyển sách dù nặng phần chính trị nhưng mang đầy tính chất văn chương trong lời viết. Có lẽ lối viết là do nỗ lực cố đem cảm quan của riêng người kể (hoặc thế hệ người kể như đã minh xác trong lời mở đầu) đến với người đọc nên mặc dù quyển sách được viết từ lối nhìn chủ quan, chính cảm quan của người kể đã mang lại tính chất văn chương trong lối diễn tầ" (trích bài giới thiệu dịch phẩm của PLD)
Khi nhắc lại một nỗi đau, gợi lại một nỗi nhớ, không hẳn để ta oán hờn hay ray rứt khổ, mà chỉ với mục đích đo lường vết thương xem đã lành chưa, để tìm sự hóa giải cái nặng nệ sau những ngày tháng khép kín. Cởi mở và tìm hiểu là thái độ của thế hệ trẻ, thế hệ đi sau cần chữa lành vết thương của thế hệ trước. Vì mục đích đó mà VHNT sẽ đăng những chương của dịch phẩm mà anh Phan Lê Dũng đã hoàn tất nhưng ấp ủ sáng tác này gần 10 năm chưa từng phổ biến. Chúng ta hãy đọc và tìm hiểu một tác phẩm xem như một tác phẩm văn chương, và hãy lắng nghe định mệnh đã nói gì với chúng ta.
thân ái,
PCL/vhnt
Không Đề
Anh hãy trở về trong giấc mơ em
Dẫu trong mơ anh không còn như ảnh
Anh một thuở như cuộc đời, như chim, như nắng
Như tuổi thanh xuân, như hạnh phúc vô bờ
Anh bây giờ đã ở cách xa
Khoảng cách bao la xóa nhòa hình dáng
Chỉ còn lại trong tim nắm tro tàn ảm đạm
Chẳng thể nào cháy lửa nữa đâu anh.
Chỉ mình em có lỗi, chỉ mình em
Vì đã vội buông anh ra quá sớm,
Vì vẫn sống trái tim đầy kiêu hãnh
Ôi lòng khát thèm chẳng thể nào yên.
Anh hãy trở về trong giấc mơ em
Dẫu trong mơ anh không còn như ảnh
Anh một thuở như cuộc đời, như chim, như nắng
Như tuổi thanh xuân, như hạnh phúc vô bờ...
Olga Bergon
Phạm Xuân Nguyên dịch
Trên Những Lối Về Của Biển
Khi những rặng thuỳ dương đã khuất
Người đã đến và người sẽ đi
Vào những dấu phai mòn của cát
Rời ngọn đồi cao
Vượt những vườn hồng rực rỡ
Có phải chỉ riêng em
Biết và nhớ về miền đất này
Con nước đỏ phù sa
Một mùa biển cũ
Tôi có cả một thời ngư phủ
Thưở nước dâng
Bềnh bồng một con thuyền nhỏ ra đi
Ðã không biết chở theo gì
cho hết được
những miền không nguôi cát trắng
Ðể mãi mãi về sau
Những xót xa
Cuồn cuộn xoáy không tan giọt mặn
đi vào lòng biển lớn
Ngày nối ngày
Có nắng cháy trên lưng
những nỗi nhớ in về
Và đêm
Có những đêm một mình
Tôi nằm rất im nghe
Tiếng nguồn xưa dậy sóng
Gió qua suốt mấy khoang hồn lồng lộng
Ðể rồi một cơn bão tố nào
Chừng như quen thuộc lắm
Về như xô đẩy hẹn thề sau tiếng mưa giăng
Những bão tố cuồng điên tuổi trẻ nơi tôi
Những giọt mưa trở mùa thiếu nữ nơi em
Những bủa vây sợi mềm
Níu giữ
Ðan những tấm lưới lòng
Cho tôi thả muôn lần
trên đầy vơi
quay quắt
Nhưng vốn biết
sẽ không bao giờ vớt hết
những con trăng của em mùa cũ
Em ơi,
Chiều nay
Con nước lại đổi màu
Gió lại dạt tôi về một lối biển nào
Thấp thoáng bóng em
hao gầy
mùa sang đất vỡ
Thì cũng xin giữ dùm nhau
Một dấu chân son đỏ
ngày xưa
em hở ...
lephan
Tu Hú Kêu Lạc Mùa
Tu hú lại kêu rồi
Mùa nước sa tràn bãi
Những con cua thơ dại
Bò ngang con nước lên
Nhịp thời gian triền miên
Sói mòn bên sông lở
Cái nắng hè đóng cửa
Bỏng rát hoài tiếng ve
Vải chẳng chín đầu hè
Mà tiếng chim vẫn rộn
Hương thơm không chào đón
Mà ngóng khô mắt tre
Một mình dưới bờ me
Chát chao từng nỗi nhớ
Em mãi là cái thủa
Lạc mùa tu hú kêu
Nguyễn Thị N. D.
(Hanoi)
Chơi Mùa Trăng
khi những chiếc lá xếp tàn y
và mặt trời lịm tím đồi
ta rủ nhau chơi mùa trăng thứ nhất
nắng vàng làm vỡ một hoàng hôn
chiều nằm xuống
ta rủ nhau chơi mùa trăng kế tiếp
xế bóng những mùa trăng êm ả
và ảo tưởng ngây ngất
rọi sáng vào ký ức mầu xám
mùa trăng cuối cùng
lung linh một mảnh vỡ
rơi rớt ngoài cõi không.
Phạm Chi Lan
5.96
Ly Biệt
Một, hai, ba bốn, năm...
Một, hai, ba, bốn năm...
Em đếm đi đếm lại
Những con búp bê khờ dại
Gương mặt xinh xinh
Trong những chiếc áo đầm mới tinh
Và mái tóc vàng ngàn tơ óng ánh
Em nhìn ra đường chiều đông cô quạnh
Hoa tuyết rơi rơi, bão tuyết tơi bời
Thiên hạ yên ngủ trong đời
Em thở dài - tiếng thở dài não ruột
Nghe như sự đợi chờ thườn thượt
Mà người ta ít nghe qua ở một cô bé tuổi lên mười
Bố mẹ em se mối duyên trời
Như những cuộc tình thơ mộng nhất
Họ làm thơ, hát nhạc
Trên những cánh đồng lúa chín lừng hương
Họ trao nhau những tờ thư yêu đương
Nồng nàn hơn hoa cau buổi sáng
Câu chuyện tình yêu lãng mạn
Trong cuộc thế giao thời
Ðẹp như một ánh trăng ngời
Bàng bạc như câu chuyện cổ tích
Rồi họ kết hôn trong đêm trừ tịch
Lúc loạn ly lễ nghiã chỉ gọi là
Hai mái đầu xanh niềm hạnh phúc chan hòa
Hẹn chung vui đến ngày sau tóc bạc
Hương tình yêu ngào ngạt
Hơi thở ấm cùng say
Vũ trụ mệt nhoài, trời đất lăn quay
Trong giấc ngủ giòng sông sau mi mắt
Chảy thâu đêm cuộn thành giấc mộng
Chảy thâu đêm quên đời dậy sóng
Họ ôm nhau hai hiện hữu ngọc ngà
Hai tâm hồn cùng nở một đóa hoa
Hai hơi thở thổi về chung bến mộng
Như một dòng sông
Cuộc đời cũng âm thầm chảy
Bãi cạn, mưa sa, mùa qua, nước xoáy
Nước xa nguồn không trở lại nguồn đâu
Người qua quãng đời không trở lại với nhau
Thì đừng nói làm gì chuyện tiếc nuối
Họ không còn chung lối
Khi trời buông tay nới lỏng tơ tình
Một đoạn duyên tình
Tàn tạ như cành hoa khép nụ:
Cũng sau mi mắt, về đêm, gió cuồng cơn luân vũ
Sóng triều dâng, giông tố động đôi mi
Vỗ vào bờ những giấc mơ chưa từng được tiên tri
Sỏi đá trở mình thức giấc
Tình yêu đối diện sự thật
Giấy trát toà thừa chữ, vô ngôn
Tình đi, nghiã chẳng còn
Em mười tuổi đầu chưa hiểu thấu
Tưởng cha xa nhà công tác phương xa
Một ngày qua, một ngày qua
Mỗi tháng gặp cha chừng hai bữa
Cơm tối gia đình thiếu người dư đũa
Những câu hát hò lạc giọng, khô âm
Em mơ về tiếng kể chuyện thì thầm
Và những trận cười dòn tan như bắp nổ
Em có buồn không, có vì mái ấm gia đình nhung nhớ?
Có thể là em chưa biết trả lời
Câu hỏi của cuộc đời tinh vi như thế
(Nhưng cũng có thể
Em đã hiểu rồi vì đó chỉ là câu hỏi bẩm sinh!)
Tôi từng gặp nhiều em bé
Thèm cơm ăn, mắt khờ dại, mặt u hoài
Và đôi đứa dư ăn nhưng sắc diện cũng u hoài
Chắc ở trên đời những Buồn, Vui, Ðau khổ
Hạnh phúc, Tình yêu, Khốn khó
Ðều bắt nguồn từ một dòng sông
Chảy âm thầm đàng sau mi mắt?
trần thái vân
Magnolia
Và tôi đứng
Chênh vênh bờ vực thẳm
Chút lao đao
Nghe tiếng khóc
Vọng về
Và tôi đứng
Bên lầm than gió cuốn
Tìm lại mình
Của màu mắt ngày xưa
Magnolia
Loài hoa đen mộng mị
Vẫn hoang đàng
Trong thơ của Lorca
Magnolia
Vài khi đen,
Vài khi tím sẫm
Trong tranh anh muộn phiền.
(Magnolia, không phải hoa mà là mắt em
Tím ngát
Trong anh)
Những cặp mắt mù sa mưa thuở ấy
Vẫn
Tìm nhau
Trong mỗi ngậm ngùi
Magnolia
Những cặp mắt đuổi dài theo số phận
Ðã
Mệt nhoài,
Ðắng cay
Tôi
Soi mắt mình
Vào mắt anh đau đớn
Mãi chẳng tìm lại được màu mắt ấy
Ngày xưa...
Cỏ May
Mai 1996
Lời Người Dịch
Ðã có nhiều quyển sách viết về Việt Nam trong những năm vừa qua, trong số này, không ít đã diễn tả tường tận những cảnh tượng đồi bại của chế độ cũ, những cuộc tranh chấp ngấm ngầm trong chánh phủ hay trên bàn đàm phán. Tất cả đều viết về những việc thật gần, thật cận, hoặc từ năm 1960-1975, hoăc từ những năm sau. Mỗi quyển đều nói lên cương vị của người viết hay về một giai đoạn đặc thù của lịch sữ. Nhưng quyển Trong Gọng Kềm Lịch Sử, nguyên tác In The Jaws of History, của ông Bùi Diễm và David Chanoff có lẽ đã ám ảnh người đọc sâu xa hơn tất cầ
Chỉ nói riêng về chiều dài, tác giả đã đi ngược suốt từ thời Pháp Thuộc qua thời kỳ Bảo Ðại, ông Diệm cho đến những ngày chót khi Miền Nam Việt Nam sụp đổ và đề cập đến những nhân vật chìm, nổi trong chính trường từ lúc phôi thai như những học sinh ở trường Thăng Long cùng Ban Giảng Huấn cho đến những sảnh đường quyền lực ở Hoa Thịnh Ðốn. Trong suốt 343 trang sách, ông Bùi Diễm, nguyên Ðại Sứ Việt Nam tại Hoa Thịnh Ðốn, con ruột học giả Bùi Ưu Thiên và cháu ruột sử gia Trần Trọng Kim đã thuật lại cuộc đời của mình cũng như cuộc đời của những người cùng lứa tuổi trong một thế khóa oái oăm của lịch sữ. Từ ngày biết nhận xét cho đến lúc đã thực sự bị cắt rời khỏi đất nước, cuộc đời tác giả được mở ra gần như trọn vẹn trong 36 chương sách: "Gọng Kềm, Hội Kín, Khủng Bố, Lập Trường... Ðảo Chánh..." Tất cả những danh từ nói về những cảm quan cũng như các biến cố quá khứ đều nằm gọn "trong gọng kềm lịch sử," một bầu không khí khắc nghiệt, mang tính chất định mệnh (Historical Determinism) chẳng khác nào bầu không khí của "Chiến Tranh và Hòa Bình," kiệt tác của Leo Tolstoy. Quyển sách dù nặng phần chính trị nhưng mang đầy tính chất văn chương trong lời viết. Có lẽ lối viết là do nỗ lực cố đem cảm quan của riêng người kể (hoặc thế hệ người kể như đã minh xác trong lời mở đầu) đến với người đọc nên mặc dù quyển sách được viết từ lối nhìn chủ quan, chính cảm quan của người kể đã mang lại tính chất văn chương trong lối diễn tả.
Trong cái thế xiết chặt của lịch sử thì một cá nhân dầu có vùng vẫy cách nào cũng không thể thoát ra khỏi bước kềm tỏa. Một cá nhân dẫu ở cương vị nào, dẫu phấn đấu thế nào cũng không thể lay chuyển cả toàn cục diện.
Những cái buông, bắt ở một tư thế nào đó không còn thuộc phạm trù của tầm với đã biến con người thành một con ốc trong bộ máy to lớn của lịch sữ. Có những lúc lịch sử thoát thai, thành một quái vật khổng lồ đuổi bắt những người trong cuộc một cách nghiệt ngã. Lịch sử đã không cho phép những người trong cuộc giữ phần lèo lái. Khi bánh xe lịch sử chuyển hướng thì những người trong cuộc thường phải sững sờ vì lịch sử không còn đứng về phía họ. Trong cơn loạn đả, lịch sử đã trong một phút giây nào đó, bằng cách này hay cách khác, trở nên một con vật khổng lồ dồn họ về ngõ cụt. Dầu muốn, dầu không, bất thình lình những mộng ước cao xa, tuyệt vời bỗng chuyển thành những tăm tối bắt buộc. Những cơn phong ba của lịch sử đã dồn dần đám người nghiệt ngã vào một hố thẳm không cùng của tuyệt vọng. Trong cơn phẫn nộ điên cuồng, lịch sử đã dẫm nát mọi chướng ngại vật. Danh dự hoặc lương tâm, tâm hồn hay thể xác. Tất cả đều bị nghiền nát vì gọng kềm lịch s Giữa phút thăng hoa cuồng dại, lịch sử đã chẳng cần nhớ đến luận lý. Lịch sử đã hoàn toàn thoát khỏi phạm vi của lý trí. Những vết hằn của những con người bị nghiền nát đôi khi tản mát dần đi qua những tiếng thở dài bi phẫn, những cơn ủ dột triền miên, nhưng đôi khi những vết hằn đó, ở những góc độ khốc liệt nhất bỗng cô đọng, phát ra thành những tiếng kêu bi thảm. Tiếng kêu của lịch sữ. Những vết hằn đó đã điểm tô lịch sử, không phải bằng những vương miện của chiến thắng, không phải bằng những ân sủng không ngừng của danh dự, mà là điểm tô bằng những giòng máu, những giọt nước mắt, những cực nhục của những hòn đá xanh cục cằn không ai nhắc đến trong các đoạn đường lịch sữ.
Kể từ thời lịch sử phát sinh, người ta luôn nhìn về hào quang của những lúc chiến thắng. Người ta thường quên số phận của những kẻ kém may mắn hơn, số phận của những vết hằn.
Nhưng có một lúc nào đó, những vết hằn bỗng tỏa ra những hấp lực lạ kỳ, bỗng nhiên óng ánh, thiêng liêng trong bản chất chân thật cố hữu. Khi những tiếng ngợi ca chiến thắng đã trở thành một thứ "Tiếng Trống" bập bùng vô nghĩa, người ta bỗng phát hiện rằng những viên đá xanh đã góp phần không kém vào việc tạo dựng lịch sữ. Lịch sử đã chối bỏ vinh quang đối với những vết hằn, nhưng những vết hằn đã điểm tô cho lịch sữ. Những vết hằn, những cái nhìn từ những tư thế thảm khốc nhất, chẳng những chỉ điểm tô mà hóa thân trong lịch sữ. Chính những vết hằn là âm hưởng rõ rệt nhất, là hình ảnh sinh động nhất của lịch sữ. Những vết hằn là... lịch sữ.
Ðã 13 năm qua, lịch sử vẫn tiếp tục bằng những kế hoạch năm năm, bảy năm, bằng những trại học tập cùng khắp các miền xa xôi hẻo lánh bên nhà, bằng những hàng người lũ lượt theo nhau tản cư, bằng những đứa bé lớn lên hoàn toàn ngơ ngác, bằng những người lớn quật quã kinh hoàng hằng đêm. Còn, Mất, Xảo Trá, Bất Cận Nhân Tình, Mù Quáng, Hẹp Hòi, U Mê..., tất cả chỉ là những tên gọi khác nhau của những con người lỡ đứng về phía hố thẳm của trốn chạy. Lịch sử đã theo sát họ để ám ảnh. Ở bất cứ tư thế nào họ cũng nhìn thấy gọng kềm của lịch sử đang khép lại và họ phải u buồn nhận chịu những kiếp sống của một vết hằn. Ám ảnh của lịch sử là ám ảnh của đời sống. Chẳng những về một mặt mà là về mọi mặt. Không phải chỉ là một lúc mà là mọi phút, mọi giây. Tâm hồn, thể xác, suy tư, nội tâm, ngoại cảnh. Số phận cuả những vết hằn là số phận của những phẫn khích truyền kiếp luôn luôn phải trốn tránh một sự trốn tránh thật bất công.
Ðã 13 năm qua lịch sử vẫ theo sát những kẻ sống sót, vẫ toan tính nghiền nát số phận của những kẻ bất hạnh. Bên nhà, kẻ thắng cuộc nhất thời vẫn vẽ vời, tô son điểm phấn cho "Cuộc Ðại Thắng Mùa Xuân." Bên ngoài, từng loạt hồi ký của Neil Sheehan, của Frank Snepp, của David Halberstam, của... Khép giữa hai gọng kềm này là những vết hằn, những người khốn khổ trong cuộc đã ngàn đời im lặng hoặc vẫn thảm sầu trong im lặng của bất công. Hình như chẳng có gì đáng nhớ. Hình như chẳng có gì cao đẹp. Hình như tất cả chỉ là những thủ đoạn thần sầu cuả những người lãnh đạo đã mù quáng vì uy quyền, đã mất hẳn nhân tâm. Hình như... Chẳng có gì cần biết thêm. Chẳng có gì cần để học hỏi. Tất cả đều chỉ là lỗi lầm và tất cả đều là những việc đã qua, sẽ qua, hoặc nên cho qua. Ðã có lần người ta tin rằng sự thật chắc chắn phải nằm trong những quyển sách viết dài dằng dặc, đổ hất trách nhiệm về phía những vết hằn đang câm lặng. Nhưng người ta đã quá hấp tấp, vì những vết hằn đã lên tiếng. Tiếng nói thống khổ của những nạn nhân một đời đi tìm lý tưởng. Tiếng nói của tủi cực phải ấm ức phát ra từ tiềm thức vì những tai nạn chập chồng đã đẩy lui vào ký ức tầm mức quan trọng của những tai ương lần trước.
Câu chuyện bắt đầu bằng một ngôi trường và người kể vốn là một học sinh. Câu chuyện kéo dài, vô lý như cuộc chiến tranh dài đến gần như bất tận. Câu chuyện là chuyện của một ông thày đi ruồng bố, tiêu diệt ngay chính đám học trò của mình. Câu chuyện là chuyện của một nhóm bạn bè, sát cánh bên nhau ở những bước thập tử nhất sinh bỗng ra tay tàn sát lẫn nhau. Câu chuyện là chuyện của một bầu không khí yên lặng thôi miên trong lớp khi học sinh ngồi lắng nghe những bài giảng ly kỳ dần dà biến chuyển thành một bầu không khí đe dọa của những cuộc mất tích mà trong đó mỗi học sinh đã quen với thói quen "đưa tay sờ báng súng. "Câu chuyện là câu chuyện lan man từ buổi giao thời của chế độ phong kiến cho đến lúc bước sang chế độ quốc gia dân chủ. Mọi vật đều xoay chuyển và xoay chuyển với một tốc độ bàng hoàng, kinh dị. Tất cả những quan niệm về cuộc đời, về chính trị, về luân lý và về những điều cơ bản nhất đều biến đổi. Tiết tháo của những nhà Nho bị quật ngã vì những sự lừa đảo của Realpolitik. Những quan niệm Lão, Trang khách quan, trung dung bị đẩy vẹt đi vì những tiếng vọng thôi thúc từ thế giới bên ngoài. Những tiếng kêu gọi của luận lý bị xô ngã nhào bởi những vận động khéo léo bạo động hóa tình cảm của những kẻ đã quá lâu phải chịu bất công. Những cơn sóng tạo thành do những xuang đột kịch liệt của suy tư và hiện trạng loan ra cùng khắp từ Hà Nội cho đến tận những vùng rừng rú hoang sơ như Bái Thượng. Khung cảnh cứ biến dần, biến dần từ những bài học lịch sử của Napoleon, từ những nhì nhằng vớt vát của đế quốc Pháp khi chánh quyền thực dân đang ngã nhào cho đến những ngờ nghệch khiếp hãi của việc Hoa Kỳ can thiệp.
Câu chuyện thật là dài là vì câu chuyện của một thế hệ, nhưng câu chuyện không thể kể một lúc mà phải chuyển thành hồi. Mỗi hồi mở ra và rồi từ từ khép lại. Không phải không còn gì để kể mà là vì câu chuyện phải khép lại để nhường chỗ cho những hồi kế tiếp. Thảm kịch to lớn nhất, ám ảnh nhất được đưa lên đầu và rồi màn ảnh to tát được khép dần, khép dần, đi sâu vào ký ức của người kể và lại từ từ mở ra nối kết điểm ban đầu với điểm cuối, từ thuở ấu thời cho đến những sự kiện sau cùng và rồi hình ảnh được hoàn toàn hợp nhất, hoàn toàn quyện lại với nhau như một bức tranh vĩ đại và bi thảm. Câu chuyện từ nhịp, từ nhịp như nhịp điệu của tâm hồn, của con tim. Câu chuyện vẽ qua, vẽ lại như một đồ thị tuần hoàn của đời sống. Chuyện kể như ám ảnh của một bức tranh truyền thần khi đã ra khỏi tầm mắt thì để lại âm ba của một cái gì đứt đoạn, Ðọc xong có lẽ không thể nhớ được chuyện được kể từ đoạn nào vì tất cả đều nối liền như một vòng tròn khép kín.
Có lẽ nhịp điệu tuần hoàn của người kể chứng tỏ người kể đã bị ám ảnh vì nhịp điệu tuần hoàn của sự bất công. Có lẽ người kể đã mong mỏi tìm kiếm một sự tuần hoàn của lịch sử trong suốt cuộc đời. Cuộc đời người kể luôn luôn phải đứng vào nghịch cảnh, phải tìm những gì không hiện hữu. Người kể đã đi tìm ảo ảnh trong suốt cuộc đời và dĩ nhiên ảo ảnh đó, nếu hiện hữu cũng không thực sự nằm trong tầm tay người kể. Có thể lịch sử sẽ đến như những ước vọng của người kể trong tương lai, nhưng lịch sử đã không ở cùng người kể trong suốt cuộc đời. Có thể lịch sử sẽ tuần hoàn nhưng chu kỳ tuần hoàn đó dài quá, dài hơn tầm với của thế hệ người kể. Câu chuyện của người kể là câu chuyện của một kẻ đi tìm và đã tìm suốt một cuộc đời. Mục tiêu của cuộc tìm kiếm có thể là ảo ảnh nhưng chính sự đi tìm đã tạo nên ý nghĩa.
Trong suốt cuộc đời người kể, dường như mỗi bước đi là mỗi bước gấp rút không thể trở về. Mỗi điều trông thấy là mỗi điều ám ảnh không quên. Những chỗ đi qua bỗng thình lình mất đi: "Phủ Lý không còn nữa... Nó đã bị chính dân làng đốt cháy trong một cuộc chiến tranh tiêu thổ, dưới sự chỉ huy của Võ Nguyên Giáp." Những người vừa mới trông thấy đã tự nhiên vĩnh viễn chẳng bao giờ còn được gặp: "Một khi chúng tôi đã ở hai bên làn ranh giới Pháp Việt thì không ai có thể quả quyết được ngày gặp lại... Ðịnh mệnh đã không bỏ qua cho gia đình chúng tôi cũng như đã không hề bỏ qua cho bao nhiêu những gia đình khác." Cuộc đời người kể là một cuộc đời luôn bị xô đẩy, dồn ép. Khi thì ngược mạn Lào Kay, lúc thì lênh đênh trên giòng sông Ðáy. "Lúc đò lướt qua các vùng làng xóm, tâm sự của tôi cũng cay đắng như mùa đông bên ngoài... Mọi người đang tham gia trong một cuộc chiến mà chính tôi cũng rất muốn được góp phần. Nhưng 'hô đã ép tôi... Je suis un Évadé. Tôi là kẻ phản bội."
Trong khi vượt qua tất cả các đoạn đường, tác giả đã không quên mà vẫn nh Nhớ để kể. Từ chiếc máy bay P-48 năm 1945 cho đến cuộc tuyên án tử hình Việt Nam tại Capitol Hill. Từ thế giới tao nhã trừu tượng của những cơn đam mê toán học cho đến những xác chết đói dọc bên vỉa hè Hà Nội năm 44-45. Từ những mơ ước ngây thơ của các thiếu niên bên lửa trại bập bùng mơ tưởng về những luân lưu truyền thống lịch sử của dân tộc cho đến những cay đắng khi hoài bão dân chủ cuối cùng sụp đổ.
Trong cuộc chia cắt cuối cùng, người kể không còn dính liền được với đất nước. Ðất nước trong cơn dãy chết đã xô đổ tan tành hoài bão của cuộc đời người kể. Như những vòng tuần hoàn bắt buộc, những giòng người lại đổ xô, dày xéo lên nhau, chẳng khác nào những giờng người đã xô đẩy người kể trước đây trong cơn tao loạn, nhưng lần này người kể không còn là người trong cuộc. Vẫn những quận lị nối tiếp theo nhau xóa tên trên bản đồ, nhưng người kể đã chuyển thành một kẻ bàng quan bất lực ngồi lịm trước màn ảnh truyền hình. Người kể vẫn xem, nhưng là xem ở phương vị tách rời, xem sự thật đang lên khuôn thành những màn bi kịch. Và lần này, cũng chẳng khác gì những lần trước đây, người kể lại bị hất vào những tư thế bàng quan bắt buộc.
Cả câu chuyện là câu chuyện của chết chóc. Cái chết của từng người như các chết của Phúc, của Ðặng Vũ Chu, của Trương Tử Anh. Cái chết của các làng mạc, quận lị như Phủ Lý. Cái chết của những ước mơ, hoài bão trong tâm hồn các chính khách quốc gia như Bác Sĩ Quát. Cuộc đời của người kể dường như cuộc đời của một chứng nhân nhìn quê hương qua cơn hấp hối. Những giòng người xuôi Nam, những người cùng thế hệ, dường như tất cả đều chết, chỉ còn lại một nhân chứng khắc khoải với thời gian dài dằng dặc - Người Kể.
Câu chuyện ấp ủ một nỗi buồn triền miên vì là câu chuyện chết chóc của một thế hệ. Nhưng người kể luôn luôn tin tưởng ở tương lai. Cũng như những vòng tuần hoàn hoán chuyển trước mắt, người kể đã chờ, đã đỏ mắt tìm trông nhưng khi biết rằng việc chờ không nằm trong tầm với thì người kể lại chấp nhận. Vì lẽ người kể tin rằng việc chờ sẽ xảy ra trong tương lai. Cũng như người kể không nắm rõ được những định mệnh trong quá khứ, người kể không thể cầm chắc trong tay việc xảy ra trong tương lai.
Trong gọng kềm lịch sử, máu và nước mắt của một thế hệ đã đổ ra thành một thiên bi kịch dài triền miên suốt một giòng đời, và người kể kể lại bằng tâm thức từng cuộc sống của những vết hằn mà chính bản thân mình chứng kiến. Qua câu chuyện của người kể, những vết hằn quằn quại, di động trong khổ đau của hố thẳm im lặng, nhưng người kể không hề quên họ. Tất cả những gì đã mất, đã qua, đã khuất sâu trong âm ỉ của thời gian đều còn sống, mặc dầu chỉ còn sống trong ký ức và người kể vạch dần ký ức của mình để đưa ra những miểng đá hóa thạch cục cằn trong tâm tưởng.
Trong thế kẹp ác liệt của lịch sử những vết hằn từ từ hiện rõ, chỗ đỏ ối, chỗ tím, chỗ thâm quầng, chỗ đen đủi, nhưng tất cả đều hiện diện. Và những vết hằn đứng đó, mãi mãi điểm tô cho lịch sữ.
Falls Church, Virginia 1987
Phan Lê Dũng
Lời Nói Ðầu
Tôi viết quyển sách này vì cảm thấy có trách nhiệm với một bổn phận, bổn phận chẳng những đối với hàng trăm ngàn người đã hy sinh trên con đường đấu tranh giành độc lập và tự do cho Việt Nam, mà còn là bổn phận đối với hàng triệu người khác, quân cũng như dân, những người đã từng phải chịu đựng những nỗi khốn khó, cực nhọc của một cuộc chiến tranh dài dằng dặc mà nay vẫn phải trằn trọc, thống khổ vì những hậu quả khốc liệt của sự thảm bại.
Ngày trước, nghĩa trang quân đội nằm ở ngoại thành Sài Gòn là nơi an nghỉ của hàng ngàn chiến sĩ Việt Nam. Không khí thiêng liêng nơi đó đang bị hủy diệt. Tuy nhiên có một sự hủy diệt khác còn trầm trọng hơn. Sự hủy diệt của quên lãng. Nếu những hy sinh và thống khổ của tất cả những người mơ về Việt Nam như một quốc gia hoàn toàn thoát khỏi ách thống trị của cả thực dân lẫn cộng sản phải trở thành những vết bụi mờ của lịch sử thì quả thật không có gì tàn khốc hơn. Vinh danh những nạn nhân chiến cuộc Việt Nam, tôi xin được phép ngỏ lời tri ân hàng ngàn chiến hữu người Hoa Kỳ, người Úc, người Ðại Hàn, và những chiến hữu đã nằm xuống trên ngả đường tranh đấu cho Việt Nam.
Quyển sách này là một phần của câu chuyện Việt Nam và các cuộc đấu tranh giành chủ quyền, độc lập và tự do. Tuy cả cuộc sống lẫn suy nghĩ của riêng bản thân đã khiến tôi cảm thấy bối rối khi phải chọn cách viết qua lối nhìn chủ quan, tôi vẫn thấy rằng đời sống của mình chẳng qua chỉ là một phần của những người Việt Nam bình thường khác trong cùng thế hệ. Vì vậy, để câu chuyện được sinh động hơn, tôi xin được phép mời độc giả cùng chúng tôi sống lại những biến cố đã qua bằng con mắt của chính những người trong cuộc.
Khi viết, tôi cũng hy vọng sẽ đóng góp được phần nào vào những công cuộc tìm tòi truy nguyên những nguyên nhân dẫn đến cuộc chiến Việt Nam. Tìm hiểu về cuộc chiến Việt Nam lúc nào cũng là một công việc khảo cứu khó khăn đầy chông gai, trắc tr Những khó khăn phần nhiều thường là do quan niệm sai lầm của cả hai phía Mỹ, Việt. Tôi cũng mong quyển sách sẽ diễn tả rõ rệt hơn những bài học đáng nhớ trong giai đoạn bi thảm nhưng cũng không kém phần anh dũng này. Vì thế, trong phần kết tôi đã không ngần ngại rút ra những kết luận bằng vào sự suy diễn chủ quan của chính tôi về sự thật, về những nỗ lực dung hòa và những giải pháp cho tương lai. Sau đây tôi xin ngỏ lời tri ân ông Peter Braestrup, chủ bút báo The Wilson Quarterly, và ông Philip N. Marcus, cựu viện trưởng viện Giáo Dục Sự Vụ đã khích lệ và giúp đỡ tôi từ bước đầu khi tôi bắt tay vào việc viết.
Thành thật cảm tạ hai người bạn cũ đã cùng làm việc ở Việt Nam với tôi là ông Ogden Williams và ông George McArthur. Ông Ogden Williams đã giúp tôi lúc tôi thảo những bản nháp đầu và xếp đặt quyển sách. Ông George McArthur đã cho tôi rất nhiều ý kiến phê bình xây dựng và tóm tắt. Xin ngỏ lời tri ân bà Muriel Nellis, chuyên viên cổ động và quảng bá văn chương đã cho tôi những ý kiến nghề nghiệp đáng giá.
Tôi cũng xin cảm tạ các bạn người Hoa Kỳ, nhất là ông William P. Bundy, người đã cho tôi toàn quyền xử dụng tất cả những tài liệu chưa xuất bản riêng của ông về chiến tranh Việt Nam.
Xin đặc biệt tri ân ông David Chanoff, với sự giúp đỡ tận tình trong công việc tìm tòi, viết lách và chọn lựa những bản thảo.
Sau cùng, tôi xin thành thật cảm ơn các viện Earhart Foundation, The Smith-Richardson Foundation, The Institute for Education Affairs, The Woodrow Wilson International Center for Scholars, và The American Enterprise Institute. Nếu không nhờ các viện kể trên giúp đỡ thì quả thật tôi chẳng bao giờ nghĩ đến việc hoàn thành quyển sách.
Như vậy, đã có nhiều người giúp đỡ tôi trên phương diện viết lách, nhưng những trách nhiệm do những kết luận và phán xét trong tất cả những trang sách này hoàn toàn thuộc phần tôi nhận lãnh.
Bùi Diễm
Mùa Hè Năm Ấy
Mỗi năm đến hè lòng man mác buồn...
Ngày xưa, mỗi lần nghe bà ca sĩ Thanh Tuyền cất cái giọng kim cao vút của bả để trình bày ca khúc trên, là tự nhiên trong tôi có một cảm giác buồn vu vơ chợt "len lén vào hồn". Bài ca đó như muốn nhắc nhở tôi sắp đến ngày bãi trường; ngày chia tay bạn bè, thầy cô; ngày chuẩn bị cho những cánh cổng trường khép kín, để lại bên trong hoa phượng vĩ đỏ thắm ngập lối đi. Tuy nhiên, cái cảm giác buồn này chỉ chợt đến rồi đi, vì hồi còn nhỏ tôi ham chơi lắm, chỉ đợi đến 3 tháng hè ở quởn để đi phá làng phá xóm.
Mãi cho đến sau này, vượt biên tỵ nạn, đi học đại học bên Mỹ, thì cái cảm giác buồn vui lẫn lộn của ngày xa xưa hoàn toàn không còn nữa, bởi vì tôi còn phải lăn lộn trong cuộc sống mưu sinh trên xứ người. Bốn mùa hè ở trường là bốn mùa tôi phải đầu tắt mặt tối, lao động vinh quang.
Mỗi dịp hè, trong khi bạn bè đổ xô nhau đi làm co-op hay kỹ sư tập sự cho các hãng xưởng trong vùng, để đánh bóng cái resume của bọn nó, với chút vốn kinh nghiệm của ba tháng hè, thì tôi lại ở lại trường để sơn mấy cái dorm. Mùa hè đầu tiên, tôi nghĩ rằng mình chưa có đủ kinh nghiệm để đi kiếm kinh nghiệm, vì mấy lớp học của niên học đầu tiên toàn là mấy lớp căn bản, chưa đi sâu vào ngành học, thôi thì làm tạm một cái gì, để mùa hè năm tới tính sau. Nhưng rồi đúng là nghiệp chướng, và cái nghiệp thợ sơn này đã bám theo tôi suốt mấy mùa hè liên tiếp sau đó.
Cho đến mùa hè thứ tư thì có thể nói là tôi đã trở thành một thợ sơn chuyên nghiệp. Tất cả những công việc từ nhỏ cho đến lớn, như chạy băng keo ven theo lề tường, trộn sơn, sơn tường, sơn trần nhà, cầu thang, hành lang, cửa sổ, hay chà giấy nhám mấy cái kệ tủ, đánh vẹc-ni, tôi làm một cách thành thạo và nhuyễn nh
Bốn mùa hè trôi qua là bốn tốp thợ sơn khác nhau được nhà trường mướn lại với đồng lương tối thiểu. Bốn toán thợ sơn nhưng duy chỉ có mình tôi là tồn tại năm này sang năm khác. Riết rồi già Mac, lão supervisor của nhóm lao động mùa hè, nhìn mặt tôi mãi phát chán. Kể sơ về lão già tên Mac này: Lão là một người Mỹ da trắng thuộc loại nhỏ con. Có lần lão kể cho tôi nghe là lão xuất thân từ tiểu bang Kentucky, nơi nổi tiếng của những cuộc đua ngựa hàng năm. Với vóc người nhỏ thó trời cho, hồi nhỏ Mac nuôi ước mơ được trở thành kỵ mã của những kỳ thi Kentucky Derby, nhưng trong một lần tập đua, lão ngã ngựa và bị gãy xương ống quyển nên đành giải nghệ. Tuy nhiên bây giờ lão vẫn để dành tiền và bay từ California về Kentucky để dự kiến những kỳ thi Kentucky Derby hàng năm.
Công việc của già Mac rất nhàn hạ, lão chỉ việc huấn luyện lại toán thợ sơn trong vòng tuần lễ đầu, sau đó lão chỉ việc chỉ tay năm ngón. Cả ngày bọn tôi không biết già đi đâu, buổi sáng sau khi phân công cho mọi người xong là già biến mất, do đó bọn tôi tha hồ mà câu giờ; có đứa còn chui vô phòng đóng cửa mà ngủ cho đẩ Tôi còn nhớ trong toán thợ sơn của mùa hè thứ hai có một thằng Mỹ trắng tên là Adam, nổi tiếng lười. Trong khi mọi người làm việc thì thằng con chui vô mấy cái phòng trong dorm, khóa kín cửa mà ngủ. Một hôm, trời trở lạnh. Khí hậu Cali nhiều khi quái đản lắm, mùa hè lạnh căm căm là chuyện thường. Bọn tôi phải mặc áo len đi làm. Mấy thằng còn đang bận sơn quét cái hành lang thì thấy có một cái bóng to lớn ở phía cuối dãy hành lang. Tôi chỉ về phía cái bóng đang nhấp nhô, hỏi thằng Ken:
- Ê, Ken. Ai vậy mày?
Thằng Ken dừng sơn, cầm cái roller chĩa về phía cái bóng, nói như ra lệnh:
-Thằng nào đõ Làm cái gì trong này?
Tụi tôi rón rén bước theo thằng Ken đi về hướng cái bóng, đến gần thì tụi tôi nhận ra là thằng Adam đang hít đất. Thấy bọn tôi, nó dừng lại, thở, và than:
- ÐM, hôm nay trời lạnh quá, nằm một chỗ lạnh quá chịu không thấu, tao phải làm vài động tác thể dục cho nóng người.
Một hôm bọn tôi đang làm việc thì già Mac đi đến kiểm tra. Mỗi lần già Mac đến tụi tôi có thể biết trước từ mấy chục thước. Già Mac có cái tướng đi khập khiểng, kết quả của lần ngã ngựa, do đó bước đi của gã tạo ra một âm thanh đặc biệt. Thêm nữa già thường hay huýt sáo và cầm chùm chìa khóa lắc lắc nghe leng keng. Bọn tôi nghĩ rằng già cố ý tạo ra những tín hiệu này cho bọn tôi biết trước từ xa, để già khỏi phải chứng kiến cái cảnh mấy thằng ngồi không câu gi Hôm đó nghe thấy tiếng già Mac từ đằng xa, thằng Adam từ trong phòng vội chạy ra chụp vội cái cọ, nhúng sơn, rồi làm bộ quệt quệt vô góc tường. Tôi vừa nhìn nó vừa ôm bụng cười. Thằng Adam nổi sùng, nhìn tôi:
- Mày cười cái chó gì, hả thằng Mít tị nạn?
Cả bọn dừng tay làm việc, lắng nghe. Tôi nói:
- Mày nhìn lại mày đi, không giống ai hết.
Thằng con nhìn lại nó rồi nhìn lại chúng tôi, và dần dần vỡ lẽ; trong khi bọn tôi thằng nào thằng nấy mình mẩy dính sơn thì nó sạch sẽ từ đầu đến chân. Già Mac đã gần kề, tiếng huýt sáo nghe rất rổ Không một phút do dự, thằng Adam cầm nguyên sô sơn tự tạt mạnh lên mình một cái ào.
Những bước chân của già Mac nhỏ dần và nhỏ dần, thì ra già chỉ đi ngang qua mà không thèm vào thăm bọn tôi, làm uổng công thằng Adam hy sinh cái áo T-shirt mới toanh và cái quần jean Levi đắt tiền. Ðợi già Mac đi xa, cả bọn ôm bụng cười lăn, trong khi thằng Adam đứng yên như trời trồng, với khuôn mặt méo xệch lấm tấm bọt sơn trắng, trông y như thằng hề bozo.
Thằng Adam chỉ có cái tội là làm biếng ra mặt thôi, chứ thật ra bọn tôi thằng nào cũng lười thầy chạy, chỉ có khác ở chỗ là kín đáo hơn nó mà thôi. Riêng về phần tôi, không những lâu lâu bắt chước 2 câu thơ hưởng nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm "ta dại ta tìm nơi vắng vẻ, người khôn người kiếm chốn lao xao" mà tôi lại còn hay thích hù cha con tụi nó. Lâu lâu tôi bắt chước già Mac, cầm xâu chìa khóa rung leng keng, vừa đi vừa huýt sáo, lắm phen làm cha con nhà nó tưởng già Mac thiệt nên vội lật đật trở lại làm việc. Ðến khi thấy tôi đút đầu vô phòng, mấy thằng biết bị là lừa nên nổi sùng, không ngớt lời văng tục. Mặc kệ cho tụi nó ghét bỏ và hăm dọa, tôi cứ tiếp tục cái trò hù đồng nghiệp này. Tôi khoái làm sao khi nhìn thấy cái bản mặt ngẩn tò te của tụi nó, khi vỡ lẽ là tôi chứ không phải già Mac.
Tuy nhiên cái trò hù này chỉ kéo dài một thời gian là mất hiệu lực, vì riết rồi tụi bạn không còn tin tôi nữa. Cho đến một hôm, tôi đang ngồi sơn trong phòng một mình, mấy thằng bạn Mỹ yêu dấu của tôi đang phè cánh nhạn ở phòng bên cạnh, nằm tán dóc và kể chuyện tục cho nhau nghe, thì bỗng dưng từ đằng xa nghe có tiếng leng keng và huýt sáo. Tôi nghe giọng thằng Ken:
- ÐM, lại thằng Quynh nữa chứ không ai vô đây hết!
Tiếng thằng Adam phụ họa:
- Cái thằng Á-Ðông tị nạn này sao lì quá. Nó tưởng tụi mình sợ già Mac hay sao, mà bày đặt hù hoài.
Bước chân già Mac đến gần. Tôi bụm miệng, nén tiếng cười. Giọng thằng Adam oang oang:
- Lão lùn Mac ơi! Tụi tao đang ở trong đây ngồi chơi nế ÐM, mày dám làm cái gì, khôn hồn đi chỗ khác chơi, rút đầu vô đây tao đập lòi shit...
Sau đó là giọng già Mac:
- Cái gì? Mày vừa nói cái gì?
Tôi nghe tiếng chân cả bọn chạy rầm rầm. Già Mac nói như ra lệnh:
- Tất cả đứng lại. Thằng Adam mày vừa nói cái gì? Mày đòi đập tao lòi...
Tiếng thằng Adam lí nhí xin lỗi. Ðến nước này thì tôi không còn nén được nữa. Tôi há miệng, cho tràng âm thanh tuôn trào qua khé mép, vang rộn khắp căn phòng. Tôi còn đang ôm bụng rũ rượi thì thấy bóng già Mac và thằng Adam xuất hiện nơi cánh cửa. Thằng Adam chỉ tôi, nói:
- Tất cả tại nó!
Tôi không nói gì, tiếp tục ôm bụng cười lăn, cười nghiêng ngửa trời đất, cười đến muốn lòi phèo. Ðám đồng nghiệp còn lại thấy vậy cũng phụ họa cười theo. Sau đó tôi và Adam được mời lên văn phòng. Hai thằng chỉ bị cảnh cáo nhẹ, già Mac không dám đuổi tụi tôi, bởi vì lúc đó nhà trường không mướn được người thay thế vì cái job này sinh viên nào cũng chê, hơn nữa lúc đó công việc chồng chất, bọn tôi đang chạy theo sau thời khóa biểu ấn định.
Hết kỳ hè năm ấy Adam với tôi thân hơn một chút, sau này tôi với nó còn có dịp gặp nhau nhiều hơn vì hai thằng học cùng chung một ngành. Hễ gặp nhau, cứ nhắc đến chuyện cũ là tôi với nó lại ôm bụng cười.
Mùa hè năm thứ tư, tôi lại có mặt trong toán thợ sơn của trường. Thật ra tôi tham gia nhóm thợ sơn kỳ này là vì già Mac. Lúc đó tôi chuẩn bị tốt nghiệp và đã được công ty Lockheed ở dưới Sunnyvale nhận. Thấy già Mac năn nỉ ĩ ôi quá, cộng với mối thân tình của tôi và già được hình thành qua 3 khóa hè trước, tôi quyết định ở lại thêm một lần rồi thôi.
Khác với những lần trước, trong đội sơn nghiệp dư kỳ này xuất hiện hai em Mỹ trắng, là Rhonda và Janice. Sự xuất hiện của hai nàng đã vô tình khuấy động lòng tà đang bị dồn nén trong tôi trong suốt mấy tháng hè "nhàn cư vi bất thiện" này. Janice thì tôi không để ý, vì nhìn cô nàng chẳng có gì là lôi cuốn; con gái Mỹ gì mà ngực nghiếc phẳng lì như phi đạo, khuôn mặt thì lúc nào cũng quạu quọ, cau cô Còn ở Rhonda thì hoàn toàn trái ngược; ở nàng, tất cả những vẹn toàn của nữ phái có thể thấy được, với đôi mắt xanh lơ đa tình, làn da trắng mướt, đôi môi căng hồng nhìn vô là muốn hun ngay một phát, còn thân hình thì khỏi nói, không khác nào một tòa thiên nhiên lộng lẫy, lúc nào cũng mời gọi. Nói chung, nhìn qua Rhonda là thằng thanh niên nào cũng muốn ở tù liền.
Tôi mưu toan trả thù dân tộc. Mấy tháng hè sẽ trôi qua nhanh, tôi phải đánh nhanh, rút lễ Bằng bất cứ giá nào, tôi nhất định phải để lại một kỷ niệm với người em bản xứ trong mùa hè năm nay. Thế là tôi tiến hành kế hoạch tán tỉnh Rhonda. Nhưng kẹt cho tôi là mỗi lần tôi rủ nàng đi chơi là nàng liền bán cái sang Janice. Nàng nói:
- Sorry, tao bận. Sao mày không thử con Janice xem? Nó nói với tao là nó thích coi xi-nê lắm.
- Nhưng nó đã có bồ.
- Nó xạo mày đô Tao biết rất rõ là nó vẫn còn "available".
- Vậy chắc nó không thích tao, giả bộ nói có bồ để tao đừng hó hé, phải không?
- Mày khờ lắm, Quynh à! Tự ái con gái bắt nó phải nói như vậy, chẳng lẽ nó phải nói với mày là nó đang ế bộ
Trời! Tôi không ngờ con gái Mỹ cũng có cái tự ái kiểu này. Tuy nhiên tôi muốn rõ ràng với Rhonda:
- Ðó là chuyện của nó, mắc mớ gì đến tao? Tao có để ý nó bao giờ, tao chỉ muốn rủ mày đi chơi thôi mà!
Rhonda cười ruồi, trả lời thẳng thắn:
- Tại vì mày nói mày muốn chơi với Mỹ cho biết nên tao mới đá mày qua con Janice. Về phần tao, tao không cần nói xạo mày, mày cũng không cần biết là tao có bồ hay chưa, mày chỉ nên biết một điều này: Mày không phải là "type" người của tao, chỉ có thế thôi.
Câu nói đó của Rhonda không làm tôi nản chí anh hùng. Tôi áp dụng chiến thuật "li huyền". Tôi hy vọng nàng sẽ xiêu lòng. Mấy tháng hè vù vù trôi qua, đã gần đến ngày tôi về Sunnyvale trình diện Lockheed mà Rhonda vẫn cự tuyệt. Tôi cuối cùng phải bỏ cuộc, tôi không thể thả mồi bắt bóng mãi, tôi phải binh đường khác, đường nào cũng được, miễn là khóa hè này tôi có một kỷ niệm với người em bản xứ là được. Cuối cùng tôi quay mũi dùi qua tấn công Janice, lần này tôi không gặp một sự phản kháng nào.
Tôi hẹn Janice đi xem ciné, vì tôi còn nhớ có lần Rhonda mách cho tôi hay là Janice rất thích xem phim chiếu bóng. Hơn nữa, rạp hát cũng là nơi thuận tiện cho tôi làm ăn. Nhưng không hiểu tại sao đến gần ngày hẹn đào đi chơi mà tôi chẳng thấy háo hức chút nào. Cái cảm giác mong chờ đến ngày đón em ở trước cổng Trưng Vương hay Gia Long chắc chẳng bao giờ có thể tìm lại được.
Tôi đến nơi hơi trễ chút xíu. Từ xa tôi đã thấy bóng Janice. Nhìn nàng hai tay giữ chặt chiếc váy đầm để gió khỏi tốc lên làm tôi nhớ lại hình ảnh người xưa đang quấn quít vân vê tà áo, đứng đợi tôi ở trước cổng trường đại học Văn Khoa năm nào.
Tôi xin lỗi đến trễ vì bị kẹt xe. Janice nói không sao, xong rồi cô nàng chìa ra tấm vé, nói:
- Tao đã mua vé trước cho mày, như vậy mày thiếu tao 5 tì.
Tôi chỉ cái túi giấy Janice đang cầm, hỏi:
- Cái gì trong đó vậy?
Janice trả lời:
- Ồ, tao thủ sẵn thức ăn, lỡ lát nữa xem phim đói bụng có cái ăn cầm hơi. Ðồ ăn trong này tụi nó chặt đẹp lắm. Ủa, mày không mang theo đồ ăn hả Quynh?
Tôi móc bóp, tìm ông tổng thống Lincoln trao cho Janice. Tôi nhủ thầm: "Lãng mạn kiểu Mỹ là như thế này đây hả trời?". Tôi nhìn thẳng vô hai con mắt xanh lè như hai viên bi, nói:
- Hôm nay mày đi chơi với tao, một thằng Mít tị nạn chưa mất gốc, mày phải tuân theo luật chơi kiểu Việt Nam tao, và một trong những điều luật đó là khi thằng con trai rủ bạn gái đi chơi nó có nhiệm vụ bao thầu hết các khoản chi phí ăn uống.
Nói xong tôi giằng lấy cái túi giấy từ tay Janice, ném vào trong thùng rác, sau đó đi ra mua bắp rang tẩm bơ và nước ngọt. Tôi hành động nhanh quá làm Janice không kịp trở tay. Tôi quay trở lại trao cho Janice cái hộp đựng bắp rang và nắm tay cô nàng, hai đứa chúng tôi nối tiếp dòng người, vào bên trong rạp hát.
Vào rạp tụi tôi chọn một chỗ khuất phía đằng sau. Tôi còn đang phân vân, không biết đã đến thời cơ chưa, thì Janice chồm qua bên tôi, nói:
- Quynh, hôn em đi Quynh!
Những gì tôi đã làm sau đó chỉ là tuân theo bản năng, bản năng của một thằng con trai còn dồi dào sinh lực. Suốt gần hai giờ đồng hồ trong rạp tôi chẳng biết trên màn ảnh đang trình chiếu phim gì. Những hình ảnh rời rạc thay phiên nhau nhảy múa trên khung hình đại vĩ tuyến. Bên dưới tôi và Janice còn đang gắn bó keo sơn, với những bàn tay năm ngón em vẫn kiêu sa, mò mẫm. Ôm Janice trong vòng tay mà trong đầu tôi lại liên tưởng đến Rhonda. Tôi biết tôi làm như vậy là sai, nhưng con tim đôi khi có lý lẽ của riêng nó, tôi biết làm sao hơn!
May thay cho tôi, ánh đèn trong rạp phựt sáng, cuốn phim vừa chấm dứt. Tôi ngượng ngập kéo Janice ra khỏi rạp. Trên đường chở nàng về ký túc xá, Janice quay qua hỏi tôi:
- Mày muốn đi đâu? Nhà mày hay nhà tao? Hay là mướn motel?
- Hả?
Tôi đã hiểu Janice muốn nói gì, tôi chỉ hơi xốc một chút. Tôi đã từng nghe kể về lối sống buông thả, tự do của con gái Mỹ. Hôm nay tôi mới cảm thấy thấm thía. Tôi còn đang do dự thì Janice nói tiếp:
- Hay là làm đại trong xe. Ừ, phải đó Quynh à, làm trong xe đi, để nhắc lại tao cái kỷ niệm thời còn trong trung học. Mình có thể đậu xe ở trong công viên thành phố, chỉ cách đây vài block đường.
Tôi tuân lệnh và làm theo ý nàng, cho xe rẽ vào trong khu công viên thanh vắng. Xe vừa đậu lại là Janice chồm ra băng sau, lôi kéo tôi theo. Nàng nhanh tay lột xác tôi rồi mới tự thoát y. Tôi nhắm mắt lại, nghe những cảm xúc trào dâng. Hình ảnh Rhonda lại hiện ra, rực rỡ kiêu sa. Janice chồm lên trên người tôi, bắt đầu những tiếng rên khe khể Tôi ôm chặt nàng trong vòng tay, và gọi tên "Rhonda". Janice dừng lại, hỏi tôi vừa gọi tên ai. Tôi như sực tỉnh, tôi vội đẩy cái thân thể lõa lồ ra khỏi mình, nói:
- Không thể được!
Janice nhìn xuống phía dưới, nói:
- Tại sao không, mày không muốn nhưng "nó" muốn.
Tôi xô Janice ra, xỏ quần áo vào, nói nhỏ:
- Tao thành thật xin lỗi mày. Tao không thể làm được, chắc tao suốt đời vẫn chỉ là một thằng Mít tị nạn, mãi mãi và mãi mãi.
Janice lấy áo che ngực, giọng nàng run lên vì giận:
- Tao không thể hiểu được mày!
Tôi lắc đầu, lầm bầm trong cổ họng:
- Tao cũng không biết làm sao để giải thích cho mày hiểu được.
Sáng hôm sau. Lần đầu tiên trong bốn khóa hè làm việc ở đây, ngày hôm đó có thể nói là ngày dài nhất. Qua giờ ăn trưa, Rhonda tìm đến tôi, nàng hỏi:
- Quynh, mày với con Janice có chuyện gì mà không nói chuyện với nhau? Hôm qua đi chơi vui không?
Tôi nhún vai, trả lời nhát gừng:
- Thấy chơi không được thì rã đám, tao thấy chẳng có chuyện gì đáng quan trọng!
Rhonda cười hề hề:
- Hóa ra mày cũng bị nhiễm tính Mỹ mất rồi, vậy mà tao tưởng đàn ông Á-Ðông ai cũng chung thủy.
Tôi biết giải thích làm sao Rhonda cũng không hiểu được. Cuối ngày hôm đó tôi lên tìm già Mac, báo cho già biết là hôm nay là ngày cuối của tôi. Tôi phải về vùng thung lũng Silicon chuẩn bị đi làm cho tuần tới. Già Mac nắm chặt tay tôi, luôn miệng chúc may mắn. Tôi ra đi, bỏ lại hai người em bản xứ không một lời từ giã, bỏ lại kỷ niệm sau lưng chưa được đánh dấu, bỏ lại mối thù dân tộc chưa trả được.
Tôi về Sunnyvale bắt đầu cuộc đời mới, tôi hy vọng những bận rộn trong công việc mới sẽ làm tôi nguôi ngoai. Nhưng không. Không hiểu sao tôi không thể quên được hình bóng của Rhonda. Mặc dù chỉ tiếp xúc nàng qua ba tháng hè làm việc chung, tôi với nàng chưa hề có được một cái nắm tay, mặc dù những cố gắng của tôi không khác dã tràng se cát vì nàng đã từ chối thẳng tay từ đầu đến cuối, nhưng tôi không hiểu sao hình bóng nàng lại ghi khắc vào trong tâm khảm của tôi đậm đến như vậy. Tôi thoáng rùng mình; hay là tôi đã yêu cô bé tóc vàng, mắt xanh này mất rồi. Nhưng tôi phì cười ngay sau đó, tôi nghĩ thầm làm gì có chuyện đó được. Tuy nhiên tôi phải công nhận một điều là những giây phút rảnh rỗi là tôi lại nhớ đến Rhonda, nhớ đến đôi môi xinh, đôi mắt đa tình, làn da trắng mướt, giọng cười trong như tiếng thủy tinh tan vỡ.
Nhưng trời đã không phụ lòng người. Một tháng sau. Rhonda lái xe hai tiếng đồng hồ từ trường về Sunnyvale đến thăm tôi. Nàng cho tôi biết là Janice đã kể cho nàng nghe tất cả việc gì đã xảy ra trong cái đêm hẹn hò của tôi và Janice. Nàng trách tôi sao ra đi không một lời từ giã. Nàng cho tôi biết là nàng đã yêu tôi từ cái hôm đầu tiên đến nhận việc trong toán thợ sơn. Nàng đã ghen thầm khi tôi rủ Janice đi chơi. Như vậy là nàng đã đóng kịch qua mặt tôi và mọi người thật tài tình.
Những ngày tháng sau đó là những ngày tháng êm đềm và tươi đẹp nhất trong cuộc đời của hai đứa tôi.
Ðến hôm nay Rhonda đã là vợ của tôi và cũng là mẹ của những đứa con của tôi. Bây giờ nhắc lại chuyện cũ, chúng tôi phải cám ơn lão Mac rất nhiều khi lão năn nỉ tôi ở lại làm việc trong mùa hè năm ấy. Nếu không thì làm sao mà chúng tôi có cơ hội gặp và yêu nhau. Bây giờ thỉnh thoảng tôi vẫn dẫn vợ con về trường thăm Mac. Lão năm nay già và yếu lắm, đến nỗi không còn có thể du lịch sang Kentucky hàng năm để xem giải đua ngựa Kentucky Derby nữa.
Bây giờ mỗi khi nhớ lại mưu đồ năm xưa khi tôi toan tính trả thù dân tộc bằng cách đánh dấu một kỷ niệm với người em bản xứ, tôi chợt cười vu vơ một mình. Mối thù dân tộc đã trả được rồi, và kỷ niệm với người em bản xứ không ngờ đã trở thành một kỷ niệm nhớ đời.
Bùi Thanh Liêm
Tháng Tư, 1996