vhnt, số 167
30 March 1996
Trong số này:
thư vhnt................................................................PCL
T h ơ :
1 - Hội Lim ...............................................Vũ Ðình Minh
2 - Em về ..............................................Phạm Thế Ðịnh
3 - Cảnh tượng ....................................................Chinh
4 - Em bé tát dầu ...........................................Ðức Lưu
5 - Mùa xuân buồn ...............................................James N
D i ễ n Ð à n V ă n H ọ c :
6 - Phỏng vấn nhà thơ Tô Thùy Yên ..............Nguyễn Mạnh Trinh
T r u y ệ n N g ắ n / T ù y B ú t :
7 - Bà tôi .....................................................Ý Thu Thu
Bạn đọc thân mến,
Xin cáo lỗi vhnt ra trễ vài hôm vì nhóm chủ biên có chút bận rộn và người chịu trách nhiệm bị ốm không gửi báo ra như đúng hạn định.
Số này xin gửi đến bạn đọc những sáng tác chọn lọc của các cộng tác viên và bài phỏng vấn nhà thơ Tô Thùy Yên, là một trong những khuôn mặt nổi bật của nhóm Sáng Tạo thập niên 60. Nhà thơ sẽ chia sẻ với chúng ta quan niệm về sáng tác, cái nhìn về thơ, của người cầm bút đối với thời cuộc, và sự gắn bó cuộc đời ông đối với văn học. Sau số này, sẽ có thêm một bài tiểu luận cũng của nhà thơ Tô Thùy Yên đọc trong buổi thuyết trình ra mắt tuyển tập thơ của ông mới đây tại Houston, do ông ưu ái gửi tặng độc giả vhnt. Xin đón xem vào số tới, để chúng ta tìm hiểu cái nhìn về thơ và văn học của một nhà thơ lớn của Việt Nam.
Chúc bạn đọc một cuối tuần an lành, nhiều niềm vui đón xuân đang nở rộ ngát.
thân ái,
PCL/vhnt
Hội Lim
Tôi trót biết đời riêng em trắc trở,
Nên hội này xem hát chẳng vô tư.
Nón thúng quai thao em thẹn thò che má
Hát đắm say cho đứt ruột gan người
Hát như thể cuộc đời toàn nhàn hạ
Chỉ để yêu, để nhớ, để thương thôi.
Xin gió lạnh đừng lật nghiêng vành nón
Kẻo tôi nhìn thấy nước mắt em rơi...
Vũ Ðình Minh
Em Về
Em về lộng lẫy đường khuya
Bước tuy nhỏ động nẻo kia chốn này
Em về ấm khoảnh tường gầy
Ðường xanh cỏ sáng,
trắng mây nẻo tà
Em về ngày tháng trong ra
Từ bi cõi sống
gợi xa ý thiền
Em về thân phủ lụa tiên
Ru thơm lời hỏi
giải phiền hư không
Em về mưa hạ nắng đông
Thả hương tóc ủ đôi lòng tương tư
Em về lá chợt vàng thu
Công viên bỗng lặng nước hồ trở xanh
Em về phố bớt quẩn quanh
Ðèn khuya gợi cảm lạc chân sao trời
Em về đỏ lá cây đồi
Một nheo mắt lại một đời hoang mang
Em về mưa bụi giăng ngang
Tàu vòng chân núi chiều sang thăm người
Gặp em tươi lại nụ cười
Lặng thinh cảm nhận mộng đời cạn, dâng
Phạm Thế Ðịnh
Cảnh Tượng
(nhớ VH-họa sỹ)
Mùa đông dài
Khoả thân màu đỏ thẫm
Không gian xanh
Sâu hút lưng đồi
Em nằm giữa tôi
Ngả nghiêng cùng chai rượu
Trong vắt em và,
trong vắt tôi.
Mùa đông buồn
Khỏa thân màu lam ngọc
Không gian mù
Rượu buốt cả giòng sông
Em hẹn giữa đời
Cùng tôi bước xuống
Cuộc vui ban đầu,
"sơ ngộ màu hoa" .
Mùa đông tàn
Khoả thân màu xám ngắt
Không gian buồn
Như mặt trời xa
Gắng gượng chút hơi
tàn trong thớ cổ
Khoả thân có còn
trong vắt
như?
Chinh
Thằng Bé Tát Dầu
(Bởi cả nhạc khúc cùng tên của Phan Văn Hưng)
Trưa hôm ấy, buổi trưa hè rạc nắng
Vài con diều đứng chết lặng trên không
Gió man mác, vờn mặt sông phẳng lặng
Ðưa từng con sóng đục chảy xuôi dòng.
Ở cuối bãi, nơi gầm cầu gác trạm
Một con xuồng trốn nắng, đứng chênh vênh
Hai đứa bé lưng gầy, da cháy xạm
Vớt cặn dầu giữa đám sóng bập bềnh.
Thằng anh lớn nhoẻn cười, lòng hớn hở
Nhìn đứa em giương cặp mắt tròn to
- Dầu lênh láng! Ôi, dầu vô số kể...!
Hẳn phen này chúng được bữa cơm no.
Phiên chợ tới sẽ mua vài đấu gạo,
Dăm cân ngô, một vài mẻ thuốc thơm
Về nuôi mẹ đang trong cơn bệnh hoạn
Hòng thoả lòng những bữa cháo thay cơm.
- Giá hôm nao cũng như hôm nay nhỉ?
Sẽ mua quà, mua áo ấm cho cha!
Người đàn ông ngoài tấm hình cũ kỹ
Mà chưa lần chúng được gặp mặt qua.
Nhưng chưa dứt những ước mơ suy nghĩ
Chúng thấy rồi, lũ ó chẳng buông tha,
Mắt đỏ rực, mặt đằng đằng sát khí
Môi lạnh lùng, tay nạp khẩu a-ka.
Và thằng bé vụt trở về thực tại
Khi chợt nghe hàng súng lạnh lên cò
Chiếc xuồng con đà bắt đầu vùng vẫy
Như chở che đôi chim nhỏ dại khờ.
Hai đứa bé quơ đôi dầm cố sức
Chèo vào bờ mà xuồng vẫn không đi
Ðôi dầm nhỏ cuống cuồng khua sóng nước
Cố thoát xa loài quỷ đỏ đen lì.
Tràng đạn đã nổ giòn trưa hôm ấy
Nhỏ buông dầm, tay ôm ngực, cắn môi
Mắt nhìn em, đôi chân gầy giãy nãy,
Lằn đạn đen đã giết chết em rồị
Thằng em nhỏ ôm anh mình, bật khóc
Tay run run che vệt máu đỏ loang
Ðôi dầm nhỏ như cũng buồn rưng rức
Nằm ngỡ ngàng, bất động trên khoang...
Trưa hôm ấy, buổi trưa hè rạc nắng
Từng con diều đứng chết lặng trên không.
Thằng nhỏ chết đôi mắt còn trợn trắng
Bên dòng sông đuà sóng gợn rưng rưng...
oOo
Ta chỉ có vài giòng tâm sự nhỏ
Liệm hồn em, một em bé tát dầu
Cùng cả vạn tâm hồn chừ xiêu đổ
Vẫn ngậm ngùi, hờn tủi kiếp thương đau...
Ðức Lưu
Mùa Xuân Buồn
Xuân đã ra đi trên cánh đồng
Như con thuyền nhỏ giữa dòng sông
Ðể tôi nhớ mãi chiều hôm ấy
Thổn thức nhìn theo, nát cõi lòng.
Nếu ai có hỏi, xin đừng kể
Những mẩu chuyện tình giữa phu thê
Cho người đang ở bên kia đó,
Ngoảnh mặt khoanh tay, khép lối về.
Người bảo là tôi có lỗi rồi,
Vậy làm sao được, hỡi trời ơi
Tháng ngày trôi qua, trong giây lát
Ðã mấy xuân rồi, buồn chẳng vơi.
Còn mấy hôm nữa đón Xuân sang
Pháo nổ to vang khắp cả làng
Xuân về Xuân nhớ tìm tôi nhé
Gánh bớt nỗi sầu tôi vẫn mang.
Tối qua thức giấc bừng cơn mộng
Ngơ ngác nhìn ra giữa cánh đồng
Ước ao thấy được con thuyền cũ
Lướt gió buông buồm cặp bến sông.
Ðã mấy xuân rồi, buồn chẳng vơi
Thương nhớ hoài mong có mấy lời
Cầu xin mà vẫn tìm đâu thấy,
Thôi thế là tôị.. chết cả đời.
James N.
(viết trong nỗi buồn của những ngày cuối năm 94)
Nói Chuyện Với Nhà Thơ TÔ THÙY YÊN
- Xin anh cho một vài dòng về tiểu sử của mình.
- Tôi tên thật là Ðinh Thành Tiên, sinh năm 1938 tại Gò Vấp, Gia định. Cha mẹ và mấy đời ông bà nội ngoại đều ở tại đất này. Tôi theo học tiểu học ở trường tỉnh Gia Ðịnh, trung học ở trường Petrus Ký, đại học ở trường Văn Khoa Sài Gòn. Lúc mới vào đời, trong mấy năm , tôi dạy học và làm báo. Cuối năm 1963, tôi bị động viên vào trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Ðức và tôi đã phục vụ trong quân đội cho đến những giờ phút cuối cùng của chế độ miền Nam, phần lớn thời gian trong ngành Chiến Tranh Chính Trị. Cấp bực cuối cùng là Thiếu Tá và chức vụ cuối cùng là Trưởng Phòng Văn Nghệ Cục Tâm Lý Chiến. Sau ngày 30 tháng 4 / 1975, tôi bị đưa đi cải tạo hơn 10 năm, trong đó có 6 năm lưu đày ở miền Bắc và chịu quản chế hơn 3 năm sau đó. Khoảng cuối năm 1988, tôi bị cầm tù hết mấy tháng vì một chuyến vượt biên thất bại. Trong lần tù này, khi ở biệt giam, tôi đã cắt đứt động mạch nơi cườm tay tự tử nhưng rồi được cứu sống vào những hơi thở tưởng là cuối cùng của tôi. Rồi đến năm 1991 tôi lại bị bắt, lần này tại nhà với những tội danh lần lượt gán ghép: Sáng tác thơ văn chống chế độ xã hội chủ nghĩa, hoạt động gián điệp, âm mưu lật đổ chính quyền nhân dân. Tổng cộng cả 3 lần, tôi đã ở tù gần 13 năm. Cuối năm 1993, tôi cùng gia đình được đưa ra khỏi nước, theo diện cựu tù nhân chính trị, và tái định cư từ đó đến nay tại Saint Paul, Minesota, Hoa Kỳ.
- Anh bắt đầu cầm bút từ lúc nào? Anh viết những tác phẩm đầu tay trong trường hợp nào? Có kỷ niệm nào đặc biệt không?
- Tôi say mê chữ nghĩa từ hồi còn nhỏ, rất nhỏ, 13, 14 tuổi gì đó. Và tôi cũng đã rón rén tập tành làm văn, làm thơ từ cái tuổi đó, mặc dầu lúc bấy giờ cũng như mãi về sau rất lâu, tôi hoàn toàn không có ý thức và càng không có ý muốn sẽ ăn ở một đời, sống chết với văn chương. Ðầu hè 1954, sau mùa thi, tôi lãnh một cơn bệnh thập tử nhất sinh, nằm liệt mấy tháng liền, và cứ mỗi lần tỉnh sốt, tôi lại ngấu nghiến sách vở, lúc nhìn ra bãi cỏ trước sân nhà xanh rỡ sau những cơn mưa. Lúc đó, tôi thèm một cách thảm khốc được sống, được đi, được trở lại căn nhà lá nhỏ lẫn khuất giữa khu vườn cây ăn trái, có những lối đi cỏ mát chân trần mà tôi đã ở qua hồi cùng mẹ và các em tôi chạy loạn ngoài chiến khu kháng Pháp. Và lúc đó tôi thấy cần làm thơ, cần hơn tất cả mọi thứ cần khác. Một trong những bài thơ làm lúc đó, tôi gởi cho tạp chí Ðời Mới do nhà văn lão thành Nguyễn Ðức Quỳnh chủ trương biên tập. Bài thơ đó đã được chọn đăng với lời nhắn của ông Nguyễn Ðức Quỳnh muốn tôi đến gặp ông. Lúc đó tôi vừa 16 tuổi và tôi chợt lờ mờ hiểu rằng dường như giữa tôi và văn chương đã manh nha một ràng buộc định mệnh chờn rờn nào đó, một ràng buộc mà về sau có nhiều lần tôi muốn tháo bỏ mà rồi vẫn không tháo bỏ được. Tuy rằng bài thơ đầu tiên đăng báo đó chắc chắn không phải là một bài thơ hay và ngày nay tôi chẳng còn nhớ nó như thế nào nữa.
- Anh đã sinh hoạt với nhóm Sáng Tạo khá lâu, vậy anh có thể kể lại để phác họa một thời kỳ rất đặc sắc của văn học miền Nam 1954 - 1975?
- Thơ tôi lần lượt xuất hiện trên những số đầu tiên của tạp chí Sáng Tạo bộ cũ do Mai Thảo chủ trương. Lúc đó tôi 17 tuổi. Tuổi cuả Rimbaud Le Bateau Ivre khi chàng bỏ trốn gia đình lang thang dưới bầu trời chì quặn thắt, gió xấụ On n'est pas sérieux quand on a dix sept ans... Một số những tác giả hợp tác với tạp chí Sáng Tạo, mấy năm sau quây quần thành ban biên tập chính thức, trong đó có tôi của tạp chí Sáng Tạo bộ mới, sau một thời gian ngắn đình bản để chỉnh đốn hàng ngũ và chủ trương. Những tác giả đó đều lớn tuổi, kể cả Thanh Tâm Tuyền cũng lớn hơn tôi 2 tuổi. Ðương nhiên tôi là đứa em út trong đám, le benjamin de la troupe. Ðó là thời kỳ hoang tưởng nhưng cũng là thời kỳ định hình của riêng tôi. Còn về phần cả nhóm thì có lẽ không cần phải nhìn kỹ cho lắm, người ta cũng có thể nhận ra ngay rằng chúng tôi hoàn toàn khác biệt nhau, mỗi người một vi bộ riêng tư và chúng tôi chỉ thuần nhất với nhau ở mỗi một sắc thái: muốn làm mới văn học nghệ thuật, cải đổi nhận thức thẩm mỹ. Trong những năm tháng đầu tiên, những năm tháng thuyết phục, nhóm Sáng Tạo, đặc biệt là Thanh Tâm Tuyền tứ bề thọ địch mặc dù tạp chí Sáng Tạo được độc giả, chủ yếu là độc giả trẻ đón nhận nồng nhiệt, càng lúc càng nồng nhiệt, người viết khí thế bừng bừng đã đành mà cả người đọc cũng vậy. Tiện đây tôi xin ở ngoặc: Không thể trông mong có được một nền văn học nghệ thuật đổi mới nếu như không có một lớp quần chúng sôi nổi khởi đầu. Tất nhiên chẳng phải lúc nào lịch sử cũng sẵn sàng một cơ hội hào hứng. Và cái cơ hội hào hứng mà chúng tôi may mắn có được đã chẳng kéo dài bao lâu. Chiến tranh gia tăng cường độ, nới rộng địa bàn, tình hình chính trị càng lúc càng rối ren, mờ mịt. Thanh Tâm Tuyền vào lính. Ít lâu sau, đến lượt tôi vào lính. Quần chúng lông lốc đảo điên trong cơn bão lốc mỗi ngày một hung hãn, khốc liệt. Riêng tạp chí Sáng Tạo tồn tại cho đến năm 1962 thì đình bản, vĩnh viễn đình bản. Nhưng tình bạn thắm thiết giữa chúng tôi, những người hợp thành nhóm Sáng Tạo, đã chẳng chấm dứt tại đó, giấc mơ chung nối kết chúng tôi đã chẳng tan biến tại đó. Chắc chắn mãi mãi chúng tôi còn muốn mình là những kẻ tiên phong đi cùng những lớp người tiên phong trẻ mới. Liệu rồi trong quãng đời còn lại của chúng tôi, lịch sử có còn kịp một cơ hội hào hứng nào nữa hay không?
- Anh cầm bút có chủ đích nào không? Nếu có, chủ đích đó có thay đổi tùy theo thời kỳ mà anh đã sống không?
- Tất nhiên là có chủ đích. Tôi thiết nghĩ ai cầm bút cũng phải có chủ đích. Viết, theo tôi, là một hành vi chung hậu khi không còn một hành vi khả thi nào khác nữa, chung hậu đến độ có thể coi như đó là mưu toan tuyệt cùng của vô vọng cũng đúng. Vậy chủ đích của tôi là gì ư? Chủ đích của tôi cực kỳ đơn giản, rõ rệt: nỗ lực thể hiện đến mức tối đa mà tôi có thể, bằng phương tiện chữ nghĩa, tất cả những gì tôi nghe thấy được về đời sống ở nơi tôi. Và ngoài chủ đích đó ra, tôi hoàn toàn không có một vọng động, một lung ảo nào khác về việc cầm bút. Thành thử chủ đích của tôi trong thể loại hành vi này trước sau vẫn không hề thay đổi dù rằng đời sống của tôi có thay đổi, thay đổi đến cỡ nào đi nữa cũng vậy. Cũng theo chỗ tôi thiển nghĩ, tất cả việc làm của người cầm bút trong tư cách nghệ sĩ chỉ là đặt, và thường khi là đặt lại những vấn đề nào đó, chớ người cầm bút không có trách vụ cũng như khả năng đưa ra những giải pháp này nọ. Nghệ thuật phát sinh từ những vấn đề trôi nổi và tự sát ở những giải pháp hình thành. Hơn nữa, điều rõ ràng ai cũng nhận thấy là ngôn ngữ như mọi hình thức nghệ thuật nào khác, vốn chỉ là một phương tiện có giới hạn, rất giới hạn. Cái nói lên của nghệ thuật không giống như cái nói lên của một logic bình thường, do đó không thể nào tường tận, khúc chiết được. Nhìn chung, nghệ thuật vẫn là một thách đố nào đó giữa người làm nghệ thuật và người thưởng ngoạn nghệ thuật trong bối cảnh hằng có của một thách đố lớn lao hơn, do đó cũng hùng vĩ hơn giữa một bên là nghệ thuật và một bên là đời sống.
- Anh có coi công việc làm thơ là một thiên chức cao quí hay cũng chỉ là một công việc bình thường của đời sống mỗi người?
- Tôi coi công việc làm thơ là một công việc bình thường trong đời sống của tôi. Chỉ sau khi bài thơ đã thành hình là một bài thơ được đưa đến người đọc rồi, lúc đó bài thơ tự nó có một thiên chức nào hay không là hoàn toàn do chính nó, tác giả thôi không còn dính dáng gì nữa, không còn quyền hạn gì nữa. Nói cách khác, thơ có thiên chức nhưng thi sĩ thì không. Ðơn giản, thi sĩ chỉ là người ráng làm cho được những bài thơ, những bài thơ hay.
- Theo anh, thế nào là một bài thơ hay?
- Giải thích thế nào là một bài thơ hay quả là một điều không thể nào làm được dù rằng người đọc, một người đọc có năng khiếu thưởng lãm thơ, nhận biết dễ dàng bài thơ nào là một bài thơ hay. Phù, thi chi, nan ngôn dã. Ôi, thơ là điều khó nói vậỵ Chắc chắn Cao Bá Quát không phải là người đầu tiên hay là người cuối cùng kêu như vậy bởi lẽ tôi nghĩ không thể có một khuôn mẫu nhất định, bất biến nào cho thơ nói chung. Thơ hay, hay theo từng bài, mỗi bài hay một cách, không bài nào hay giống bài nào. Do đó, nếu tìm một quy định thơ hay phải như thế này hoặc phải như thế kia thì một quy định như vậy, cứ tạm cho là tìm được đi, đương nhiên sẽ khiếm khuyết, què quặt một cách thảm hại, sẽ khoanh vùng, hạn chế một cách ngu đần phạm vi hiểu biết và thưởng lãm thơ. Trong khi đó, cõi bay lượn của thơ thì vô cùng, vô định. Nên cái khó khăn duy nhất, đầu tiên và cũng là cuối cùng của người đọc, đó là chính người đọc phải cố gắng thi triển trọn vẹn, đôi khi vượt quá khả năng bình sinh của mình bay đuổi kịp theo cái hay thiên hình vàn trạng, biến ảo khôn lường của thơ như một kỳ công phóng lượn vô song, tuyệt vời của hồn người chưa từng khứng chịu giam hãm, vùi dập. Bài thơ hay không đứng đợi những người đọc nặng nhọc, bài thơ nào đứng đợi như vậy, chắc chắn chẳng phải là một bài thơ hay, chẳng phải là thơ. Phần tôi, nếu như có người bạn nào cứ một mực khăng khăng đòi tôi giải thích cho kỳ được thế nào là một bài thơ hay, có lẽ tôi phải tạm bằng lòng với ý nghĩ rằng một bài thơ hay là bài thơ mà sau khi đã được đọc thấy rồi, bài thơ đó một cách vô thức mặc nhiên trở thành một phần hồn của người đọc. Thơ hay, thơ có hồn, và cái hồn đó của thơ không thể chỉ tồn tại ở bài thơ mà nó phải đáo nhập vào hồn của người đọc, hiển lộ trọn vẹn sinh kiếp ở nơi đó và chỉ ở nơi đó mà thôị Tôi xin lỗi không thể nói được rõ ràng hơn. Khôn ngoan một chút, nói về thơ, bao giờ cũng nên xin lỗi trước.
- Ðiều gì xảy ra để anh làm thơ: cảm hứng tức thời hay là những nung nấu lâu ngày trong tâm tưởng? Có phải thơ cũng như rượu, càng ủ lâu càng ngon...?
- Làm thơ, cũng như làm bất cứ thể loại nghệ thuật nào khác. Ðương nhiên đòi hỏi trước tiên phải có cảm hứng, tia sét thần khải đánh vỡ khối đá câm đặc ôm giấu trong lòng viên ngọc ẩn. Tuy nhiên, nghĩ cho cùng, cảm hứng đó do đâu mà phát sinh, nếu chẳng phải là từ những nung nấu trường kỳ đến mức đã trở thành những ám ảnh một đời của tác giả. Bản thân tôi không tin là có thể có những cảm hứng ngẫu sinh. Dĩ nhiên, bài thơ thành hình không chỉ thuần với cái cảm hứng đầu tiên khai ngộ đó. Từ cái cảm hứng đầu tiên khai ngộ đó đến cuối bài thơ được hoàn thành, với tôi, luôn luôn là một con đường xa vợi, nhọc nhằn, lắm khi tuyệt vọng ê chề vì lực bất tòng tâm. Tôi thọ nhận lời dạy của Paul Valéry: Nàng Thơ ban cho thi sĩ câu thơ đầu, còn những câu thơ sau, thi sĩ phải tự tìm kiếm lấy. Thành quả nào cũng phải là thành quả của cơ duyên, tu luyện và lao động. Một nghệ sĩ hoàn chỉnh nào cũng phải là một nghệ nhân hoàn chỉnh trước đã. Hiển nhiên quan niệm này chẳng phải là quan niệm riêng biệt của Paul Valéry. Ông chỉ lặp lại một quan niệm đã có từ trước, trước cả thời của những Malherbe hay Boileau, nhằm nhắc nhở. Tôi cũng tâm niệm lời hứa của Ðỗ Phủ: Ngữ bất kinh nhân, tử bất an. Nói không làm người sợ, chết không yên. Dường như chẳng bao giờ tôi ngừng nghỉ kiếm tìm cho dù có khổ công đến đâu một chữ đắc, cái chữ độc nhất mà không một chữ nào khác cho là tương đương hòng thay thế được. Nói cách khác tôi chỉ chịu đi qua một câu thơ, một đoạn thơ khi nào tôi hoàn toàn kiệt quệ khả năng thể hiện hay hơn, gần hơn, sống hơn điều tôi ao ước thể hiện. Nhân đây, tôi cũng muốn góp phần soi sáng một điều thoạt đầu nghe có vẻ rất nghịch lý là làm việc nhọc nhằn với chữ nghĩa tuyệt nhiên không có nghĩa là kiếm tìm điên đảo những cái cầu kỳ, quái dị, mịt mờ biến chủ nghĩa thành diêm dúa, hợm hĩnh, giảo ngụy. Bậc võ công thượng thừa không để cho thấy chỗ tuyệt tử công phu của mình. Tôi nhại lời của Lão, Trang: mức cao nhất của chỗ tuyệt tử công phu xem ra chẳng khác gì với cái thoải mái hồn nhiên của kẻ chưa từng biết thế nào là thao luyện. Câu thơ hay nhất mà thi sĩ nào cũng mong mỏi làm được có lẽ là câu thơ gần gũi nhất với lối nói thông thường mà mới thoạt nghe ai cũng nhận ra ngay là thơ, không giải thích được, không diễn dịch được.
- Có phải Bạch Cư Dị đã luận: Thơ, tình là gốc, chữ là ngọn, âm thanh là hoa, nghĩa là quả. Và như thế, phần nào quan yếu nhất?
- Theo tôi, nói chung, phần nào cũng quan yếu hết. Còn phân lượng gia giảm như thế nào tùy ở mỗi bài thơ. Lời bàn ví von bóng bẩy đó của Bạch Cư Dị nghe ra chẳng khác nào một bài giảng cách trí đầu mình chân tay về thơ. Liệu người nghe có hiểu thêm chút gì về thơ không? Phần tôi thì không. Bởi đó vốn là những điều ai ai cũng biết cả rồi. Khổ quá. Tôi có cảm tưởng là Bạch Cư Dị đứng giữa nhà xác thơ, nói về những cơ phận của tử thi thơ. Mà thơ thì nhất định không thể là một cái xác. Thơ đã chết không còn là thơ nữa. Tôi không muốn nói trái ý Bạch Cư Dị. Ờ, thơ là một cái cây, và tôi chỉ muốn cảm nhận nó nguyên vẹn là một cái cây, một cái cây có sự sống của cây ở nơi tôi mà thôi.
- Làm thơ, có người chú trọng đến ngôn ngữ, có người lại để ý đến hình ảnh, hoặc âm điệu, vần điệu... Phần anh, anh để ý đến điều gì nhất ?
- Tôi không quen phân tích như vậy. Theo tôi, câu thơ đạt, bài thơ đạt phải là một toàn khối gắn bó hữu cơ. Chữ mà dùng tới đương nhiên hội tập đông đủ, mật thiết tất cả các điều mãnh liệt tối yếu đó. Thơ nương náu chờ đợi trong ngôn ngữ, nó chính là phần huyền nhiệm của ngôn ngữ. Và thơ xuất hiện hân hoan từ cơ may mãi mãi trước sau chỉ xảy ra mỗi một lần đó thôi của những chữ tiếng hằng thất lạc nhau trong mịt mùng hoài vọng, chợt tương phùng phối kết nhau, mừng tủi điếng lặng.
- Làm mới thi ca có phải là niềm băn khoăn thường hằng của thi sĩ?
- Không thể nào còn được thi ca, còn được nghệ thuật nếu như không có sự làm mới thi ca, làm mới nghệ thuật. Vấn đề cần đặt ra và đặt ra bất cứ lúc nào: như thế nào là làm mới và làm mới như thế nào. Nghệ thuật là bóng dáng của đời sống. Ðời sống biến thiên, nghệ thuật cũng biến thiên theo. Tôi thiển nghĩ nghệ thuật đạt là nghệ thuật hiển lộ được đến mức tối đa cái tướng tinh mà người làm nghệ thuật nhìn thấy được của đời sống. Và đạt được đến mức đó đương nhiên cũng là đạt được đến sự làm mới chính đáng của nghệ thuật. Người làm nghệ thuật nhìn ngắm đời sống mà tìm thấy nghệ thuật, chớ không phải nhìn ngắm nghệ thuật mà tìm thấy nghệ thuật. Tôi không tin là trong nghệ thuật lại có một phân lìa có thể nhận thức được của hình thức và nội dung. Nội dung nào có cái hình thức tương ứng đó và ngược lại, hình thức nào có cái nội dung tương ứng đó, không sai chạy đi đâu được.
- Jan Skacel viết: Thi sĩ không sáng tạo thi ca. Thi ca là một chốn nào đó ở đằng sau. Ðã ở đó từ thời gian dài thật dài. Mà thi sĩ mãi miệt mài tìm kiếm. Như vậy, thơ chỉ là tìm kiếm những cái đã có sẵn chứ không có tính sáng tạo. Theo anh, có kết luận nào không? Và đó có phải là một quan niệm để làm mới thi ca không?
- Dường như tôi hiểu lời của tác giả anh vừa trích đọc đó khác anh. Tôi cũng vừa nói qua thơ nương náu chờ đợi trong ngôn ngữ. Trạng thái thơ là trạng thái có sẵn trong tâm khảm của loài người. Vậy tại sao cuộc miệt mài tìm kiếm thơ của thi sĩ lại chẳng phải là một sự sáng tạo, một sự làm mới thi ca? Thử hỏi sự tìm kiếm nào chẳng phải là một sự sáng tạo? Hơn nữa, trong bản chất, sự sáng tạo nghệ thuật là gì, nếu chẳng phải là sự tái tạo, sự dựng lại một cách chủ quan bằng những phương tiện riêng khác những cái vốn đã có sẵn trong ký ức tồn đọng từ muôn nghìn năm rồi bây giờ được tìm thấy lại của đời sống?
- Milan Kundera đã thắc mắc trong việc phân biệt âm điệu và vần điệu trong thơ văn xuôi và tản văn. Theo anh, có khi nào một bài tản văn hoặc tùy bút lại rất giống với một bài thơ văn xuôi?
- Tôi thật không hiểu, qua điều dẫn nhập của anh, Milan Kundera nhằm mục đích gì khi phân biệt như vậy qua hai thể loại văn chương khác biệt nhau là thơ văn xuôi và tản văn. Tác giả đó nhằm đi đến cái kết luận là có những áng tản văn nào nó bàng bạc chất thơ, do đó nên được coi là những bài thơ văn xuôi chăng? Nếu vậy, tôi sẽ không đồng ý với ông ta. Theo tôi một áng tản văn dù có chan chứa chất thơ đến đâu cũng không thể đồng hóa với một bài thơ văn xuôi được. Một bài tản văn còn có thể diễn dịch ra trong cùng ngôn ngữ đó theo một cách thức khác mà không suy xuyển gì giá trị của nó, nhưng với một bài thơ dù là thơ văn xuôi thì nhất định chẳng thể làm như vậy được. Bài thơ khi được diễn dịch ra tức khắc sẽ tan biến, không còn là bài thơ, chính bài thơ đó nữa. Bởi lẽ một bài thơ được hình thành bằng những chữ không thể đổi khác được, nó là một toàn khối khắn khít đá vàng của những chữ hội ngộ hân hoan. Người ta cần đọc thuộc bài thơ nhưng không cần đọc thuộc áng tản văn. Cũng vì lý do đó, riêng tôi, khi đọc thơ nước ngoài qua một chuyển ngữ nào đó, tôi vẫn thích đọc một bản dịch sát sao từng chữ, từng dòng hơn là đọc một bản dịch bằng thơ cho dù bản thơ dịch đó có là tài tình đến đâu đi nữa. Bài thơ dịch Phong Kiều Dạ Bạc của Tản Ðà, chẳng hạn, không ai không nhận là tuyệt vời, nhưng đối với tôi, dường như đó là bài thơ của riêng Tản Ðà chớ không phải là bài thơ của chính Trương Kế. Trường hợp bản chuyển kiệt tác bằng thơ Anh của Edward Fitzerald những bài thơ Rubaiyat của Omar Khayyam cũng vậy.
- Triết học và thi ca là những phạm trù khác nhau. Nhưng có nhiều người làm thơ triết học. Theo anh, có biên giới nào giữa thi ca và triết học không?
- Có thật một loại thơ gọi là triết học sao?
- Anh theo học chương trìng Pháp từ trung học. Và chắc rất quen thuộc với những nhà thơ Tây Phương. Như vậy, tự nhìn ngắm mình, anh thấy có những ảnh hưởng nào?
- Tôi học hỏi được rất nhiều nơi những nhà thơ Tây Phương thuộc mọi trường phái, khuynh hướng, kể cả những nhà thơ mà vì những nguyên do nào đó khác nhau, tôi đã chẳng thâm nhập được. Tôi không đặt biệt yêu mến một nhà thơ nào nhất định bởi lẽ ở mỗi giai đoạn của đời tôi, tôi lại phát hiện, yêu mến một hay những nhà thơ nào đó. Có rất nhiều nhà thơ tôi đã trở lại nhiều lần và mỗi lần trở lại, tôi đều khám phá thêm những điều mới lạ ở nơi họ và ở cả nơi tôi. Tôi nghĩ một tác giả lớn là một tác giả mà người đọc sau bao nhiêu biến thiên của đời mình, vẫn bị réo gọi phải trở lại và sẽ chẳng bao giờ múc cạn đựợc tác giả đó. Một tác giả lớn bao giờ cũng vô hạn. Nói chung, tôi đã chịu nhiều ảnh hưởng của thi ca Tây Phương. Nhưng ảnh hưởng như thế nào, đến mức nào thì quả tình tôi chẳng thể nhận biết thấu đáo được. Có lẽ tôi nên mượng câu hỏi này của anh mà đặt lại với anh, nhờ anh giải đáp giúp. Cùng lắm, tôi cũng chỉ có thể nói là kinh nghiệm thi ca Tây Phương phần nào đã cũng cố cho tôi niềm tin trong nỗ lực tăng cường khả năng chuyển vận của thi ca, cái khả năng mà tôi cảm thấy là còn bị hạn chế rất nhiều nơi thi ca Việt Nam, nói riêng và Ðông Phương, nói chung.
- Anh có đọc Ðường thi và Tống thi không? Ảnh hưởng của hai thời kỳ thi ca này đối với anh như thế nào?
- Có một thời gian khá dài, tôi đã mày mò chữ Hán để đọc thơ Trung Hoa. Chẳng những tôi ngưỡng mộ một số đông đảo những thi sĩ đời Ðường cùng một số tương đối ít hơn những thi sĩ đời Tống, Tô Ðông Pha, Vương An Thạch, Lục Du, Tân Khí Tật..., mà còn ngưỡng mộ những thi sĩ vô danh của Kinh Thi, và xây xẩm kinh hoàng trước Khuất Nguyên. Tôi cũng có lúc yêu thích Ái Thanh, có lẽ là khuôn mặt lớn gần như duy nhất của thi ca Trung Hoa trong thế kỷ này, một nền thi ca dường như càng lúc càng khan hiếm tài năng vì tính chất tiểu xảo đè nén cầm hãm lẩn quẩn muôn đời của nó. Nhìn toàn cảnh, thi ca Trung Hoa là một thế giới rất ư diệu kỳ và cũng rất ư cách biệt. Từ những thời kỳ xa xôi, thi ca Trung Hoa tự nó đã hoàn thiện chung quyết những biên cương nghiêm nhặt của nó để rồi không làm sao vượt thoát được chính nó nữa. Phải, sau những thời kỳ hoàn thiện cực kỳ rạng rỡ đó rồi, thi ca Trung Hoa hoàn toàn chẳng còn có được mọt thời kỳ hưng phấn kế tiếp nào nữa. Riêng đối với tôi, bất kỳ ở giai đoạn nào của đời tôi, bao giờ thi ca Trung Hoa cũng vừa quen thuộc vừa lạ lẫm, và tuy tôi đã trở lại gần như thường xuyên với nó nhưng không lần nào ở lại lâu dài được với nó. Tất nhiên qua cái gia sản thi ca Việt Nam mà tôi đã thọ lãnh từ lúc còn nằm nôi, ảnh hưởng của thi ca Trung Hoa đối với tôi chắc chắn là không nhỏ. Tuy nhiên, tôi ước lượng, hay đúng hơn là tôi mong mỏi, rằng những ảnh hưởng đó đối với tôi cuối cùng cũng tương tự như những ảnh hưởng nào đó của nó đối với Saint John Perse và Ezra Pound, chẳng hạn.
- Chiến tranh đã hiện diện trong đời sống cá nhân và thi ca của anh như thế nào? Trước năm 1975, anh là một người lính và là sĩ quan Tâm Lý Chiến. Vậy anh có tin tưởng nào về một chiến thắng không? Hay chỉ là thái độ hoài nghi như trong thơ anh đã bàng bạc có?
- Chiến tranh đã tiêu thụ gần như cả cuộc đời tôi. Cho đến những nông nỗi tù rạc, lưu vong sau này hẳn nhiên cũng là do chiến tranh mà ra. Trong gần 12 năm của tuổi trẻ, tôi đã làm một người lính, một người lính động viên nhưng không hẳn là bất đắc dĩ. Bởi vì chấp nhận vào lính, tôi chỉ tự nhủ mỗi một điều là tôi phải chia xẻ số phận của dân tộc tôi và tôi mong mỏi rằng lịch sử sẽ sang trang khi tôi vừa đi mòn một hay hai đôi giày trận. Tôi nghĩ một cách tự nhiên rằng không có lý do nào chính đáng biện minh được cho một cá nhân tìm cách thoát thân lấy một mình khỏi cái đại họa đang trùm phủ xuống tập thể mà mình trực thuộc. Nhất là khi cá nhân đó lại là người cầm bút. Do đó, rất nhiều khi tôi đã tự nguyện lao mình đi giữa chiến tranh chỉ vì tôi muốn nghe thấy trên làn da và trong tâm khảm của mình niềm rát phỏng của đám cháy quê hương. Thật tình, ngay cả trong thời kỳ đó, tôi cũng chẳng tin tưởng gì vào một chiến thắng, tôi chỉ dám hoài vọng vào một trì hoản, một sursis khả hữu nào đó cho miền Nam trong khi chờ đợi một giải pháp chính trị toàn bộ. Nhưng tâm trạng đó cũng không hề ngăn trở tôi thường xuyên mong mỏi mhư André Mairaux từng mong mỏi khi tham gia vào cuộc chiến tranh chống Ðức Quốc Xã: Cầu cho chiến thắng đến với những ai tham gia chiến tranh mà không hề yêu thích nó. Tôi có làm vài bài thơ về chiến tranh và những bài thơ đó thực sự chẳng nói được bao nhiêu so với những điều tôi đã thấy và muốn nói.
- Khi bị đối phương cầm tù, tâm trạng thực của anh ra sao? Có giống như những bài thơ mà sau này anh đã viết ra không?
- Tôi nghĩ là đại để tâm trạng trong tù và tâm trạng trong thơ của tôi không giống nhau. Sau ngày 30 tháng 4 / 1975, khi đã vào tù rồi, tôi luôn luôn tự nhắc nhở mỗi một điều là hãy coi như mình đã chết, và đây chính là phần posthumous life của mình. Ðời ta sáng mượn ánh tàn dư / Ðến từ một hành tinh đã tắt nghĩ... Tất cả mọi nỗ lực nhiều khi vượt sức bình sinh của mình trong thế giới đầy đọa đó là phải làm thế nào gìn vàng giữ ngọc, đương đầu với mọi kỷ thuật thâm độc nhằm hủy diệt nhân cách như là cái phần duy nhất còn lại của những người bại trận. Kẻ có liêm sĩ không vỗ ngực mình đã là người anh hùng trong một hoàn cảnh nghiệt ngã như vậy mà chỉ có thể hài lòng là mình đã chẳng gục mặt trước bạo quyền để khỏi nhục nhả về sau với bạn hữu.
- Anh đã sống một thời gian khá dài ở trong nước sau 1975. Vậy anh có thể nào mô tả xã hội mà anh phải sống và những bức xúc đã có trong thời kỳ ấy?
- Nói ngắn gọn, đó không phải là một xã hội dành cho con người. Bức xúc ghê gớm nhất là sống trong xã hội đó, liệu mình còn là con người cho đến lúc nào đây.
- Nhìn lại nửa thế kỷ vừa qua, anh có nghĩ chiến tuyến Quốc Cộng vẫn còn giữa những người Việt Nam? Hay nghĩ rằng đó là chuyện quá khứ và bây giờ là hiện tại và tương lai...?
- Trong thâm tâm chúng ta, những con người Việt Nam, thật sự chúng ta có lúc nào hài lòng về cuộc chiến tranh Việt Nam vừa qua không? Nếu không thì tại sao chúng ta cứ phải duy trì và duy trì cho đến bao giờ cái điều mà chúng ta đã không hài lòng đó. Nghĩ như vậy không có nghĩa là chúng ta nhắm mắt làm ngơ cho bất kỳ thế lực tối tăm ngu muội nào muốn làm gì thì làm trên đất nước chúng ta. Từ hai mươi năm qua, những người Cộng Sản đã toàn thắng nhưng chính sự toàn thắng đó đã hàm chứa cái mầm móng đương nhiên của sự thất bại hiện giờ và vĩnh viễn của họ. Ðiều tiên quyết hết sức đơn giản là chúng ta phải tách ra khỏi, trong cái nhìn của chúng ta một bên là dân tộc Việt Nam dù ở miền Bắc hay ở miền Nam, dù ở trong nước hay ở hải ngoại, một dân tộc từ lâu mòn mỏi kêu cầu được xót thương nhau, vổ về nhau, tha thứ nhau, với một bên là tập đoàn Cộng Sản thống trị ngăn trở. Từ đó, có thể chúng ta sẽ tìm ra được cái cách thức hữu hiệu nhất, nhẹ nhàng nhất nhằm xóa bỏ hoàn toàn chế độ Cộng Sản. Tôi đặt một hy vọng lớn lao vào những tiếng nói văn hóa.
- Anh có tham vọng diễn tả nỗi niềm chung mang của thế hệ chúng ta qua những bài thơ đã viết? Như Ðỗ Phủ vẽ lại một xã hội và thời thế tan nát ngày xưa?
- Có. Một cách chung chung, đó là tham vọng đương nhiên của bất kỳ ai cầm bút. Ðỗ Phủ là nhà thơ mà tôi thường tưởng nghĩ tới.
- Anh có mơ ước sẽ chen chân trên văn đàn quốc tế để nói lên nỗi niềm của con người Việt Nam không?
- Hẳn nhiên là có. Ðiều bao giờ tôi cũng muốn là là cố gắng, qua tác phẩm của mình, biểu hiện được tâm hồn dân tộc Việt Nam, biểu hiện đến mức tối đa mà tôi có thể biểu hiện được. Thường tôi tự dày vò với câu hỏi là tại sao mãi chúng ta vẫn chưa có được những tác phẩm đậm đà, bề thế nói lên những gì mà dân tộc ta đã phải gánh chịu cũng như những gì mà nhờ đó, dân tộc ta đã trường tồn và còn trường tồn. Bởi lẽ đứng trên bình diện văn học nghệ thuật mà xét thì một thời kỳ đại họa của một dân tộc bao giờ cũng tiên báo một thời kỳ được mùa văn học nghệ thuật của dân tộc đó. Nên chẳng lúc nào trong lòng tôi tắt đi niềm mong mỏi ngày đêm đó. Và nếu như tôi chỉ còn được một niềm tin tưởng nào thì đó phải là niềm tin tưởng vào dân tộc Việt Nam.
- Có người chê bai và đánh giá thấp những thi sĩ mang chính đời sống của mình ra mà giải bầy tâm sự. Theo anh, sự phê phán này có chính xác không?
- Ai mà chê bai kỳ vậy? Cái cao thấp của một tác phẩm không ở cái đề tài được sử dụng mà là ở cái cách thức diễn đạt cùng những tình ý được diễn đạt chung quanh hay đằng sau cái đề tài đó. Hơn nữa, nghệ thuật xuất phát từ cái riêng lẻ. Nói đến nghệ thuật tức nói đến cái chủ quan. Tại sao cứ phải áp đặt một cách nghiệt ngã như vậy những thể loại đề tài?
- Trong thơ anh có tình yêu không?
- Anh thấy có không?
- Khuôn dáng người nữ khá mờ nhạt trong thơ anh. Tại sao vậy?
- Tôi không rõ là tại sao. Có thể là trong những bài thơ mà tôi đã làm, tôi không chủ vào việc mô tả khuôn dáng người nữ.
- Khi làm một bài thơ, anh có chọn lựa sẵn thể loại: lục bát, bảy chữ, tám chữ, hoặc thơ tự do? Hay tùy hứng không chủ đích trước?
- Thường tôi không có chủ đích trước. Sự chọn lựa của tôi về thể thơ chủ yếu được quy định bởi tính chất của những tình ý mà tôi muốn diễn đạt.
- Anh có nhận xét nào về văn học trong nước, văn học ngoài nước? Có so sánh nào không?
- Anh nghĩ thế nào về giao lưu văn hóa giữa trong nước và ngoài nước? Vào thời điểm bây giờ? Và trong tương lai?
- Lý ra, ta không cần phải đặt vấn đề giao lưu văn hóa bởi lẽ chuyện văn hóa giao lưu nhau vốn là chuyện đương nhiên phải như vậy. Ngăn sông cấm chợ văn hóa là một việc làm bỉ ổi của nhũng quyền lực sợ hãi dù rằng nó có nhân danh một thứ gì cho là cao quý đến mấy đi nữa. Ờ, tại sao người Việt Nam trong nước lại không được đọc tác phẩm của những tác giả Việt Nam ngoài nước?
- Những dự trù văn chương của anh?
- Viết, viết, viết và viết.
Nguyễn Mạnh Trinh thực hiện
(trích tập san Hợp Lưu)
Bà Tôi
Tôi sống gần bà tôi cả nửa cuộc đời. Nhà tôi cách nhà bà không xa lắm, chỉ đi bộ chừng năm bảy phút là tới. Ba mẹ tôi lo vất vả tìm miếng ăn hàng ngày để nuôi tôi và phụ giúp bà tôi một phần. Sáng sớm truớc khi ba mẹ tôi đi làm, tôi được dắt đến gửi ở nhà bà cho đến chiều tối. Chung quanh nhà bà là một khu vườn rất rộng, trồng đủ loại cây xoài, ổi, mảng cầu và nhiều nhất là mít. Ông tôi không thích gì bằng mít và cây kiểng. Truớc cửa vào nhà ông trồng mỗi bên năm chậu mai. Mỗi độ xuân về, từng cánh mai nở rộ thât đẹp, nhất là bao vào những ngày tết. Trong vườn bà còn trồng thêm xà lách, cải ngọt, bầu, rau má và đủ loại rau thơm để phụ vào bữa cơm hàng ngày, đỡ phải tốn tiền đi mua.
Từ khi cộng sản chiếm miền Nam, ông tôi phải xa cách gia đình, trốn lánh về miền quê để thoát nạn đi cải tạo như những người bạn ông đã bị bắt đi và bỏ xác trong tù. Bà tôi ghét cộng sản vì đã phá vỡ hạnh phúc gia đình êm ấm của bà. Và điều làm cho ông bà tôi lo lắng nhất là các cậu sắp đến tuổi đi nghĩa vụ. Bao nhiêu tiền dành dụm từ xưa nay, ông bà tôi dùng để lo tìm đường cho ba và các cậu tôi vượt biên. Nhờ ơn trên phù hộ ba và các cậu được an toàn đến nước ngoài.
Từ khi ba tôi đi, mẹ tôi bán nhà và dắt tôi về nhà bà ở. Mỗi ngày tôi phụ bà xách nước, tưới rau, nhặt cỏ, quét vườn. Ðôi lúc tôi phụ bà nhóm lửa nấu cơm - Ôi thôi bếp không cháy mà còn khói bụi mù, mặt mày lọ nghẹ dính tùm lum như người vẽ mặt đi hát bội. Trưa đến bà hay nằm võng nghỉ ở ngoài vườn. Tôi tay vừa chơi đồ hàng mắt vừa quan sát bà tay cầm quạt, mắt lim dim. Nhìn mặt bà thật hiền hâ .u với những vài nếp nhăn vì quá lo lắng cho ông tôi còn trốn chui trốn nhủi và các cậu không biết đời sống ở nước ngoài ra sao. Tóc bà thật dài, bà hay búi lại rất gọn gàng. Giữa mái tóc đen chen lấn vài cọng tóc trắng nhìn rất vui mắt. Có lần tôi ngây thơ hỏi bà "Tại sao bà có tóc trắng đẹp vậy sao cháu không được có tóc trắng như bà. Cháu thích có tóc giống bà lắm." Bà xoa đầu tôi rồi mỉm cười đáp "Cháu mới tám chín tuổi sao có tóc trắng được như bà. Ðợi mai này cháu già như bà cháu sẽ có". Tôi nhăn nhăn mặt chẳng hiểu bà nói gì, bà liền ôm tôi vào lòng thay lời giải thích. Sự ôm ấp của bà làm tôi thấy thật thương bà hơn, tôi ôm cổ bà và nói nhỏ vào tai bà "Cháu thương bà lắm, cháu sẽ mãi ở bên bà, không xa bà đâu". Và những thắc mắc của tôi khi nãy tự nhiên tan biến đi đâu mất.
Vài năm sau ba tôi làm giấy bảo lãnh đoàn tụ gia đình. Nhưng bà vì tiếc khu vườn, nên không muốn đi. Vừa phần bà có nghe hàng xóm đồn ra ngoại quốc lạnh lắm, mà bà thì chịu lạnh không được, rồi thức ăn Việt Nam cũng hiếm hoi, nhiều khi không có nữa. Bà quyết định không đi, dù mẹ tôi có năn nỉ khuyên bà nhiều lần.
Ngày mai tôi phải xa bà, không biết đến bao giờ mới được gặp lại bạ Cả ngày hôm nay tôi cứ quanh quẩn bên bà. Hai bà cháu vẫn làm những công việc mọi ngày thường làm, nhưng không ai nói với ai một lời nào. Mãi đến chiều tôi không còn giữ trong lòng nỗi lo buồn xa bà được nữa. Tôi chạy đến ôm chặt cổ bà rồi òa lên khóc nức nở. Bà rươm rướm nước mắt và nghẹn ngào dặn dò "Mai cháu đi nhớ qua bên đó lo lắng cho ba mẹ và các cậu dì dùm bà, lâu lâu viết thư về cho bà hay. Bà ở nhà trông nom tưới vườn rồi gửi trái cây qua cho cháu ăn". Không kịp nghe bà nói xong tôi òa lên khóc to hơn, đầu lắc lia lịa: "Cháu muốn ở lại với bà, không muốn đi với mẹ đâu. Cháu thương bà lắm, cháu không muốn xa bà...".
Và rồi tôi đã xa bà và khu vườn thân yêu. Tôi vẫn biên thư về thăm bà thường xuyên. Nhiều lúc tôi tự hỏi không biết giờ bà dã có bao nhiêu cọng tóc trắng? Hay đầu bà đã bạc phơ theo ngày tháng rồi. Mặt bà có bao nhiêu nếp nhăn? Và khi bà làm vườn có ai phụ bà sách nước tưới rau, nhặt cỏ không? Và... Và... Và...
17-03-1996
Ý Thu Thu