vhnt, số 143
5 February 1996
Trong số này:
thư vhnt................................................................PCL
T h ơ :
1 - Ðọc kinh / Khát ..............................................Ian Bui
2 - Ðồi cỏ .....................................................Ý Liên
3 - Ngày xưa ...Ngày nay ............................Tiểu Bình Nguyên
4 - Môi ngọt ..................................................Hoa Huyền
5 - Ðôi bờ .....................................Nguyễn Hiện Nghiệp
6 - Ngày mưa ....................................................Cỏ Nhớ
N h ạ c / Ð i ện Ả n h :
7 - Lời buồn (lời nhạc) ................................Mai Anh Tuấn
8 - Ðiểm phim: Kẻ sát nhân và người nữ tu......Nguyễn Tiến Dũng
T r u y ện N g ắn / S án g T ác :
9 - Chờ đợi ...................................Nguyễn T Ðoan-Thuần
10- Mưa đầu xuân .............................................Duy Ðạo
11- Tìm nơi khuất gió ........................Nguyễn Phước Nguyên
Số vừa rồi có người than "thư vhnt" và "trả lời thư tín" dài dòng, đọc mệt, nên số này tôi không lắm lời nữa, xin nhường lời cho ý nghĩ đang trong đầu bạn :)
Chúc một ngày đẹp trời, và nhớ giữ ấm lòng trong tiết lạnh mùa đông.
thân ái,
PCL/vhnt
Ðọc Kinh
Ngồi canh củi lửa cho đều
Ngày đông, bất giác tay khều tro than
Ðốt cho đời bớt hỗn mang
Nửa đêm mở sách tìm trang không lời
96'1
Khát
Bước của vườn khuya chậm lại
Khi tiếng ngân
Một đoàn tàu
Như người bạn mới quen
Nhưng chưa biết mặt
Vỗ về
Nhặt trong tay nắm lá
Nhỏ khô lào xạo
Vài giây
Rồi bóp nát
Bụi, lá
Ngừng rơi
Ta điên cơn khát
96'1
ianb
Ðồi Cỏ
Chân bước lên đồi . Mưa tháng giêng
mưa hay là tuyết trắng bên hiên
đường xa còn ngại đồi trơn trợt
mùa đông dài lắm những muộn phiền
Chân bước lên đồi . Nghe tháng hai
đồi cỏ lặng thinh ngủ giấc dài
khăn quàng áo lạnh run trong gió
mình vẫn xa nhà giữa tháng hai
Chân đứng trên đồi . Mơ tháng ba
mùa xuân gần lắm tiếng chim ca
những đồi tuyết vỡ tan trong nắng
mà lá thông reo nỗi nhớ nhà
Ý Liên
Winter 96
Ngày Xưa, Ngày Nay
Ngày xưa đi học em với ta
Tự nghĩ em là của riêng ta
Hững hờ lên mặt khi em hỏi
Em bước bên ngưòi, ôi xót xa
Ngày nay đi học ta với ta
Nhớ tình ngày nọ, tình đã qua
Trách mình khờ dại không dám nhận
Tình thưở học trò, tình đã xa
Ngày qua, ngày lại tình phôi pha
Tình xưa ngày ấy, tình thiết tha
Làm ta nhớ mãi muôn sau nữa
Nhớ mãi người em lúc bên ta
Tiểu Bình Nguyên
Môi Ngọt
Nụ hôn ân tình ta trót trao
Lưu luyến trong tim đến hôm nào
Ôi lời thơ tình bao tiếc nhớ
Rung động tâm hồn thủa hôm nao
Anh đâu cần em là thi sĩ
Anh chỉ cần trong nỗi tâm ti
Em viết lên những điều giữ kín
Không một lần hối tiếc suy di
Nay em đi, môi anh lạnh vắng
Như rượu ngọt nay đã khô quanh
Chẳng còn lưu lại một tâm ý
Môi mặn ngọt hay nước mắt anh...
Hoa Huyền
đôi bờ
lung linh
thắp
sáng
một đời
sao em rụng
giữa
vùng trời
tim ta
bên này,
ta đứng nhìn qua
bên kia em đứng,
trông ta
bên này
thoảng về
gió
nhẹ
rung cây
một trăm chiếc lá
rụng,
bay xuống trần
mai
về nhìn
lá
vàng sân
thương em.
biết.
cũng chỉ ngần ấy thôi.
nguyễn hiện nghiệp
Ngày Mưa
Tôi ở nơi đây ngó trời buồn
mây đen vần vũ bóng cây suông
chim bay lạc bạn mà tôi tưởng
1 mớ hồn mình lạc tứ phương.
Tới 1 phương trời Chị ngủ yên
lòng đất quê hương thở dịu hiền
lâu rồi quen chuyện mình ly xứ
lâu rồi khóc chị nén hương riêng.
Mưa chừng nặng hạt rớt ngang đây
lỗ hổng tâm tư cách lâu ngày
hỏi thăm ký ức thời quá vãng
trường, lớp, bạn, thầy ai mất ai.
Gió cuốn mưa về mạch nước xuôi
hồn tôi trú ngụ ở hiên người
2 phương trời rộng cầu Ô Thước
muốn đổi ra thành gang tấc thôi.
Cuối cùng còn lại ở 1 phương
chỗ tôi cơm áo với học đường
tả tơi mưa ướt hồn tôi sũng
nghĩ chuyện dông dài thơ vấn vương.
Cỏ Nhớ
Lời Buồn
(ca từ)
Ngày buồn, buông lời trăn trối,
Ngập ngừng, tia chiều le lói,
Giòng buồn, trôi tắp mù khơi,
Khóc than miệt mài, xót thân phận người,
Một đời mòn mỏi, trông chờ bóng người.
Giọt buồn, treo nặng câu nói,
Mịt mùng, tim màu tăm tối,
Chập chờn, đếm giấc tỉnh say,
Xót xa ngậm ngùi, vấn vương chờ đợi,
Lòng đầy mơ ước, tay gầy chắp lời, nguyện cầu.
Thương yêu ai trên đời, ngày đem thương nhớ sang đêm dài,
Lời ngại ngùng nào ai hay biết tình ai,
Tiếc tình yêu trao chưa hết lời, đã xa cách người,
Ngục tù đơn côi mênh mang phủ lấp một đời.
Ðời buồn, mong chờ em tới,
Lòng buồn, vang cười gian dối,
Tình muộn, cũng thế mà thôi,
Nói không được lời, tiếc không được người,
Này là mơ ước, chôn vào tháng ngày, tàn phai.
Mai Anh Tuấn
Kẻ Sát Nhân Và Người Nữ Tu
Sean Penn, "bad boy" của làng điện ảnh Hollywood, sau bao thăng trầm vì nghiện ngập, hút xách, đã tu tâm và làm lại cuộc đời khi cùng đóng chung với Susan Sarandon trong cuốn phim mới cáo "Dead Man Walking" của nhà đạo diễn kiêm viết kịch bản Tim Robbins.
Sơ Helen Prejean (do Saradon đóng) là một vị nữ tu làm việc trong chương trình kế hoạch nhà cửa tại New Orleans. Mathew Poncelet (Sean Penn) là tay sát nhân xâm mình bị kết án tử hình vì tội giết một cặp tình nhân trẻ tuổi. Khi gặp tay giết người vô vị này, vị nữ tu căng thẳng đã nói giễu với hắn là chúng ta giống nhau ở chỗ "chúng mình cùng sống với người nghèo."
Trong phim "Dead Man Walking", cả hai, dì phước và kẻ sát nhân, đã bắt buộc phải lâm vào tình trạng gần gủi tinh thần. Hy vọng tránh khỏi án tử, Poncelet đã viết thư nhờ Sơ Helen giúp tìm cho hắn một luật sư để kháng cáo. Sau đó, ngẫu nhiên Sơ Helen đã trở thành người cố vấn tinh thần cho Poncelet. Sơ Helen đã gặp một tay phân biệt chủng tộc phách lối, tráo trở và đáng khinh, lúc nào cũng luôn miệng kêu oan. Và khi vị nữ tu hiền lành này bị ám ảnh khi tới tiếp xúc với tên đốn mạt này thì Sơ đã bị mất cảm tình với những người chung quanh. Những đứa trẻ da den cùng làm việc với Sơ tại Hope House không hiểu sao Sơ lại có thể thông cảm với tay kỳ thị hạng nặng người da trắng này; cha mẹ phiền muộn của các nạn nhân đã khinh bỉ Sơ vì Sơ đã tỏ ra ủng hộ kẻ thù của họ.
"Dead Man Walking" không chỉ đơn giản là lời công kích chống lại án tử hình. Qua câu chuyện dựa trên quyển sách của Sơ Prejean viết về những kinh nghiệm trong ngục giam giữ những kẻ lãnh án tử, Robbins đang yêu cầu chúng ta hãy suy xét về ý nghĩa của việc tước đọat mạng sống con người. Cái đáng phục ở ông là từ chối cách xếp bài bịp: Robbins đã vừa không chuyển kẻ bị kết tội thành một vị thánh tử đạo bị hiểu lầm cũng như không giải tội cho nỗi đau của những gia đình của nạn nhân. Robbins vẫn duy trì hành động cân bằng của ông đối với giây phút cực kỳ ghê rợn khi ông cắt ngang việc xử tử Poncelet bằng cách chích thuốc và những tội ác màPoncelet đã phạm phải.
Ðây là một phim nghẹt thở, được làm mạnh hơn nhờ hai cảnh diễn kinh khủng. Diễn xuất của Penn có vẻ thật thà độc ác. Vì sự độc ác của Ponchelet làm chúng ta rùng mình, sự kinh sợ của hắn khi đối diện với cái chết-và sự tìm đến ăn năn chuộc tội của hắn- đã làm chúng ta xúc đông sâu xa. Thách đố của Sarandon còn khó khăn hơn: chơi trò thánh thiện là một cảnh diễn khó-nhưng tuyệt nhiên không có sự ban phép trong cách diễn của bấ Sơ Helen không luôn luôn tin chắc ở bà; có một sự ngây ngô mủi lòng, và một sự khắc nghiệt, đối với đức tin của Sơ. Sơ luôn luôn nghiêng mình hướng tới Poncelet, mũi mắt mở to với hy vọng cái radar của Sơ có thể dò được chút tính thiện leo lét trong lòng tên vô lại này.
"Dead Man Walking" là một tác phẩm thông minh và mạnh mẽ, tuy nhiên có điều vô cảm trong cách thực hiện của Robbins, ám chỉ sự chữa bệnh. Anh ao ước có một buổi gặp gỡ không mang tính chất hỏi cung trong cuộc viếng thăm của một cán sự xã hộị Và trong một màn diễn lớn, anh đã nhận được nó: khi Ponchelet được dẫn ra khỏi phòng giam để gặp mặt gia đình lần cuối cùng. Cuộc nói chuyện ngắn và ngượng ngịu, một cố gắng điên rồ để bình thường hóa giây phút không thể chịu đựng nổi , nỗi mừng vui vô nghĩa đã được quan sát một cách nổi bật. Ðó có thể là bất cứ một cuộc gặp gỡ gia đình nào, ngoại trừ đứa con hoang bị cột chặt vào ghế, và không ai được phép ôm nó để từ giã.
Dung Nguyen
Phỏng theo Newsweek tháng 1/1996
Chờ Ðợi
"chị Thục ơi có thư ở VN nè"
tiếng của Ðan làm cắt đứt dòng tư tưởng của Thục. Thục vội vã chạy xuống lầu hỏi
"của ai vậy ?"
Ðan cười lớn tay cầm bức thơ vẫy vẫy
"thì là của ai nữa"
Thục giựt lấy và đọc vội người gởi
"Kim Thúy Hằng"
Ðan nhìn bộ mặt tiu ngỉu của Thục thì chọc thêm
"gớm, chị lại bị ăn thịt thỏ rồi"
Thục lườm Ðan rồi cầm thơ chạy lên phòng. Nàng tự nghĩ không biết Hằng đã tìm được tin tức của Danh chưa.
Thục quen Danh được 2 năm thì gia đình nàng phải vượt biên. Khi chia tay Danh cầm tay nàng nói "Thục hãy chờ anh. Cho anh 5 năm đi. Anh sẽ tìm cách vượt biên để gặp em".
Thục gật đầu nhận lời không suy nghĩ. Tình cảm của Thục và Danh lúc đó thật nồng nàn. Danh là người yêu đầu tiên của Thục và cũng là ngừơi bạn thân nhất của nàng.
Sau khi ở trên đảo ty nạn hơn 11 tháng, Thục cùng gia đình định cư ở Mỹ. Vừa đến Mỹ là Thục vội vã biên thơ cho Danh nhưng thư đi mà không có thơ lại. Thục lo lắng cho là Danh đã vượt biên để đoàn tụ với nàng. Thục không biết làm thế nào liên lạc. Thục chợt nhớ đến Hằng nhỏ bạn thân cùng xóm. Tuy Hằng chưa gặp Danh bao giờ nhưng Hằng có thể tìm Danh cho Thục. Thư từ về VN thật là khó khăn. Bức thơ Thục gởi đi thì phải 4-5 tháng Thục mới nhận được hồi âm của Hằng. Năm đầu Hằng theo lời Thục chỉ đường tìm đến nhà Danh thì Danh đã dọn đi nơi khác. Thơ đi thơ lại kéo dài đến hơn 3 năm mà tin Danh vẫn biền biệt.
Cho đến hôm nay bức thơ của Hằng lại đến. Vẫn dòng chữ hỏi thăm như thường lệ và lời cám ơn món quà. Thục đã gởi cho Hằng. Tim Thục chợt đau nhói khi đọc đến hàng chữ
".... Thục à, trước khi mày đọc tiếp bức thơ này tao nghĩ mày nên ngồi xuống và bình tĩnh.."
Thục nhắm mắt, hít một hơi dài rồi đọc tiếp
"tao đã tìm được Danh của mày rồi. Quả thật Danh đẹp trai và lịch duyệt như lời mày kể. Nhưng Thục à, Danh của mày không còn là Danh của ngày xưa nữa. Danh đã có vợ hơn 3 năm nay rồi. Vợ Danh rất đẹp và gia đình lại có tiền. Tao không nói gì về mày còn chờ đợi Danh mà chỉ nói là mày nhắn lời hỏi thăm. Danh có vẻ hơi mất bình tỉnh khi nghe tao nhắc tên mày. Quả thật kiếm Danh không có dễ đâu. Sau khi mày vượt biên 2 tháng thì Danh quen với Hạnh (vợ của Danh). Một năm sau thì cả hai làm đám cưới và Danh về ở chung với gia đình Hạnh. Cuộc sống Danh đầy đủ lắm. Ðứa con kháu khỉnh và giống Danh nhiều.
Thục nè, chỉ tội cho mày. Cứ khư khư ôm lấy cái hứa hẹn 5 năm đó. Tao cũng giận lắm nhưng biết thế nào. Danh có xin tao địa chỉ mày. Lúc đầu tao cũng không muốn cho nhưng nghĩ lại ít ra mày cũng muốn một câu giải thích của Danh cho nên tao đã cho Danh địa chỉ mày và vội vàng gởi thơ cho mày biết. Thục à, ..."
Đọc đến đây nước mắt Thục đã chảy ướt bức thơ. Danh của Thục đô Những cái nhìn âu yếm, những lời nói yêu đương hôm nào đã là kỷ niệm. Danh đã quên Thục sau 2 tháng xa cách trong khi đó Thục đã cố gắng bám víu lấy cái tình yêu "long distant" của nàng. Thục gục đầu vào bàn khóc nức nỡ.
Hai tháng sau vừa đi học về Ðan đón Thục ở cửa với nụ cười trên môi
"chị Thục, có thơ của anh Danh nè"
Thục cầm lấy bức thơ không lộ vẻ vui mừng
"chị Thục .."
Thục nói khẻ
"Ðan, em nấu cơm dùm chị hôm nay nhé."
Ðan e ngại nhìn Thục không cãi lại như mọi lần
"được."
Thục bỏ lên phòng và đặt bức thư lên bàn. Thục đi qua đi lại nhìn bức thư và không biết có nên mở hay không. Hai tháng nay Thục đã cố quên đi Danh bằng cách vùi đầu vào sách vở. Mọi lần Thục chỉ lấy 12 credit cho mỗi quarter nhưng kỳ này Thục đã lấy 19 credit. Ngoài lúc làm việc và vào lớp, Thục ở lì trong thư viện học bàị Thục muốn xa lánh cái thế giới đầy gỉa dối này. Thế mà khi Thục đã từ từ trấn tỉnh tâm hồn thì bức thư Danh lại đến như 1 thách thức. Thục cầm vội bức thơ Danh xé đọc.
"Thục thân mến,
Cả 2 tháng nay anh biên cho Thục mấy bức thơ nhưng rồi lại phải dục bỏ. Anh thật không có mặt mũi gì để nhìn Thục. Hôm nay anh muốn viết đến Thục mong xin Thục hãy tha lỗi cho anh. Anh công nhận anh đã ích kỹ, anh phụ bạc Thục nhưng đó cũng là hoàn cảnh. Như Thục đã biết ba anh đi cải tạo, gia đình anh thiếu kém. Khi Thục đi rồi anh được tin ba anh chết trong tù cải tạo. Mẹ anh vì đau buồn nên bệnh liên miên. Lúc đó Hạnh lúc nào cũng ở bên anh, khuyên nhủ anh. Lại nữa ba má Hạnh lại quen với ba má anh. Thật sự khi lấy Hạnh anh vẫn chưa thật sự yêu Hạnh nhưng bây giờ anh và Hạnh đã sống với nhau hơn 3 năm. Tình cảm đã từ từ nẩy nở. Ðôi khi nhớ đến em anh biết mình có lỗi với em nhiều lắm.
Thục hãy tha lỗi cho anh. Anh mong rằng em hãy quên anh đi và tìm được tình yêu khác tốt đẹp hơn.
Chào tạm biệt
Danh"
Thục nhìn ra cửa sổ, màn đêm đang từ từ phủ xuống. Thục thở dài tự nhủ "phải chăng chính Thục bỏ Danh trước". Nàng đã vì tương lai cho nên đã bỏ Danh mà đi. Nàng không thể trách Danh được vì chính nàng cũng đã có lỗi".
Nguyễn T Ðoan-Thuần
Jan 1996
Mưa Ðầu Xuân
Tối. Bầu trời u ám không trăng không sao phủ đầy mây đen kịt chỉ chợm đổ mưa. Khung cảnh vắng vẽ của khuông viên trường Ðại học vào lúc cuối tuần lại càng buồn hơn. Tôi và Huệ ngồi bó gối nhìn trời, cái phone nằm chỏng chơ bên cạnh. Chẳng đứa nào buồn mở miệng nhưng cũng ngầm hiểu được ý nhau. Tết đấy ư?
oOo
Trong cái trường College "bé hạt tiêu" này , chỉ có tôi và Huệ là dân Á châu. Vì vậy, bọn tôi rất thân, có gì cũng chia sẽ. Cả hai chúng tôi vốn đều có dự định cho cái Tết mà cũng nhằm vào dịp cuối tuần này. Tôi định lái qua Columbus vui xuân cùng Hằng, Huệ thì lên Atlanta đón Tết cùng Diễm - "vợ tương lai của tao", như nó thường nói, nửa đùa nửa thật. Vậy mà chỉ hôm trước, Hằng gọi tôi nhưng không gặp, chỉ nhắn gọn qua Huệ:
- Em sẽ làm đám cưới trong tháng tới. Mời anh và Hiếu cùng qua chia vui.
Tôi nghe Huệ nói lại mà thấy trời đất quay cuồng, tưởng như có động đất ở cái xứ khỉ ho cò gáy miền Ðông Nam này. Bao nhiêu mơ mộng, hy vọng, tin tưởng của tôi "đều như khói tan đi". Ý định vui Xuân của tôi ở Columbus cũng vì thế mà bãi bỏ.
Huệ biết tôi buồn. Thấy mặt tôi ủ rủ như cái mền ướt, nó rủ tôi lái xe cùng nó lên Atlanta - cách chỗ bọn tôi ở hơn 5 tiếng lái xe. Nó nói:
- Ði đi mày ! Lên đó cho vui. Gia đình Diễm hiếu khách và thân thiện lắm, có thêm mày cũng không sao đâu.
Ðã buồn mà ngồi lại đây thì đến mũn người chớ chẳng chơi. Nó còn giở giọng dụ - Diễm có cô em gái xinh đáo để. Nó cười hề hề nhại giọng Bắc
- Có gì tao giới thiệu cho...
Tôi buồn, chẳng muốn đi đâu nên lấy cớ bận vài chuyện vặt vãnh và vì đường quá xa ra từ chối. Nài nĩ mấy lần lấy vô hiệu nên Huệ bỏ đi một mình.
Tờ mờ sớm hôm sau , cu cậu từ đâu lục đục mò về. Nó nói nó về đón Tết với tôi cho vui. Nó còn đem theo hai đòn bánh tét mua ở Buford highway, một tô phở Bò cở "xe lửa" cho tôi và hai cái hột vịt lộn - "Quà bà già vợ tao cho. Ăn để xả xui năm ngoái" , nó tếu . Tôi hỏi nó vu vơ vài câu về Atlanta , nó than tiếc hùi hụi vì tôi không chịu theo nó đón Tết ở đó cho vui , rồi nó cười xòa , vỗ vai tôi:
- Mày khờ quá , Hiếu à!
Nó lái xe cả đêm, mệt bở, leo lên giường ngủ thẳng cẳng. Tôi cũng nằm co nghe nhạc, đọc sách cho qua ngày. Khi nó dậy thì trời đã xế chiều. Thấy tôi bó gối ngồi nhìn trời nó cũng mon men lại ngồi gần, suy tư.
Thanh toán xong hai cái hột vịt, Huệ ưỡn vai đứng dây đi lấy đòn bánh tét
- Tối nay tao với mày mừng năm mới một đòn, còn đòn kia để dành cho mùng hai.
Nó tuyên bố.
Rồi nó cầm sợi dây , đặt ngang đòn bánh ,khoanh một vòng rồi xiết chặt. Từng khoanh bánh đứt ngọt rơi gọn vào trong đĩa. Huệ cười hề hề phân bua:
- Hồi xưa ở Sài gòn, má tao năm nào cũng nấu bánh chưng, bánh tét. Nhà không chị em gái nên tao phải cắt bánh. Cắt hoài nên quen.
Chuông điện thoại chợt reng, Huệ với tay nhấc , gác lên vai y như những tài tử trong ciné , miêng " Hello " ngọt xớt. Rồi tiếp đó nó oang oang "ạ" một tràng:
- Chào bác ạ! Dạ cũng thường ạ! Dạ nó đang ngồi đây ạ! Dạ không có gì đâu ạ! Dạ cám ơn bác ạ! Chúc bác năm mới vui vẽ, mạnh khỏe, vạn sự như ý ạ!
Rồi nó trao phone cho tôi:
- Mẹ mày kêu từ New York nè!
Tôi cầm phone nói chuyện cùng mẹ tôi , lòng đã thấy vời vợi. Tôi trấn an người, xin lỗi vì đã quên gọi người, chúc tết người như mọi năm. Tôi chợt nhận ra rằng Hằng đối với tôi cũng chỉ như một cơn giông lướt qua. Ðôi khi nó thực dữ dội thật ào ạt, ở đỉnh điểm, tôi tưởng là tôi chẳng còn gì để sống vì đã mất nàng. Thế nhưng giờ đây cơn giông ấy đã dần dần lịm đi. Mất Hằng không phải là mất đi tất cả. Tôi vẫn còn nhiều lý do để sống, để hạnh phúc; tôi vẫn còn nhiều người khác để sống cho, và để yêu thương...
oOo
Mưa bắt đầu nặng hạt. Những giọt mưa trĩu nặng vỗ vào khung cửa kính lộp bộp. Nước róc rách chảy đều theo lối đi. Huệ cười tươi vui vẻ:
- Ðầu năm đầu tháng mà mưa to như vầy là "hên" lắm đây. " Sông núi thấm nhuần ơn mưa móc" mà...
Tôi và nó ngồi ăn bánh, ngắm mưa rơi. Nó chợt la lên:
-Tao có cái này định "surprise" mày. Thấy mặt mày rầu quá làm tao cũng quên mất đất.
Nó chạy lại lục lọi túi xách rồi mang lại một hủ Củ Kiệu, một gói tôm khô, và một chai rượu dâu đỏ còn tươi roi rói. Huệ rót rượu, cười tươi như mọi khi:
- Cái Tết của anh em mình tuy không sánh được với Tết của người khác nhưng miễn anh em mình vui là thấy ngon lành rồi. Okay... Cụng ly nghe! Cổ lai thánh hiền giai tịch mịch... Duy hữu ẩm giả lưu kỳ danh!... Trăm phần trăm !
Rồi ồ ề vài câu từ "Ly Rượu Mừng" của Phạm Đình Chương... Rượu hân hoan mừng đôi uyên ương...
Tôi phì cười :
- Mày... thiệt là... hết trị nổi. Lúc nào cũng cười toe toét. Chắc là họ hàng với đười ươi!
Nó cười vang , át cả tiếng mưa:
- Nụ cười là bí quyết của thành công mà mày!
- Khỉ khô ! Hai đứa tôi phá lên cười...
Bên ngoài , mưa vẫn chan hòa rơi ...
Duy Ðạo
THN 01/09/96
tìm nơi khuất gió
Đặt gánh đồ trên vai xuống, gã thư đồng quay lại hỏi chàng công tử vừa đứng lại sau lưng:
- Thưa công tử, chúng ta có thể nghỉ đêm ở đây được không ạ?
Đưa mắt nhìn hai cánh cổng chùa cũ kỹ khép kín và bức tường loang lổ rêu xanh, chàng công tử gật đầu:
- Mi hãy gõ cửa thử xem.
Gã thơ đồng quay lại và đưa tay nắm lấy cái khoeng sắt trên cánh cửa và gõ khẽ đôi lần, như sợ rằng nếu gõ mạnh quá, cả cánh cửa và bức tường sẽ đổ sập xuống. Sau một hồi lâu không thấy ai trả lời, gã thơ đồng lại gõ cửa thêm lần nữa, lần này mạnh hơn lần trước. Vẫn không ai trả lời. Bực mình, gã thơ đồng vừa định gõ lần thứ ba thì cánh cửa bật mở ra, thật chậm, với tiếng kẽo kẹt của những then chốt lâu ngày không chuyển động. Từ sau lưng cánh cửa, một vị sư già bước ra với đôi mắt sáng và hiền từ. Ánh mắt nhìn vào gã thơ đồng và chuyển sang chàng công tử, rồi dừng lại. Vị sư già cất tiếng hỏi:
- Chẳng hay hai vị có chuyện chi?
Bước đến trước mặt gã thơ đồng, chàng công tử vòng tay lại cung kính đáp:
- Chúng tôi lỡ đường lạc đến đây, muốn qua núi mà đêm thì sắp xuống. Xin đại sư rộng lòng cho tá túc qua đêm nay.
- Tội nghiệp thì thôi. Núi này quanh đây không có ai cư ngụ cả. Chỉ có bần tăng và cầm thú. Thôi hai vị hãy vào đây rồi mình sẽ nói chuyện sau. Dù sao cũng hãy nghỉ lại đây một đêm rồi hãy đi.
Rồi vị sư già bước vào trong, nhường đường cho hai người khách trọ đi vào và khép cánh cửa chùa lại. Bên ngoài màn đêm đã buông mình xuống, phủ kín chung quanh.
Chàng công tử ngồi lặng yên nghe vị sư già gõ hồi chuông cuối cùng mà nghe lòng mình lâng lâng, nhẹ nhàng, như làn hương trầm trên bàn thờ Phật từ từ bay lên và tan loãng dần vào không gian. Đặt dùi chuông xuống, vị sư già ngồi xếp bằng vô động thật lâu với đôi mắt khép nhẹ lại và hai bàn tay duỗi thẳng ra đặt ngửa lên mỗi đầu gối. Không gian thật yên tịnh. Chàng công tử như bị cuốn hút vào sự cô lặng đó trong một niềm sảng khoái của hư vô. Hồi sau, vị sư già mở mắt ra, từ từ đứng dậy, cúi mình chấp tay xá pho tượng Phật ba lần, rồi nâng cây đèn cầy nằm trên chiếc dĩa nhỏ bước về phía chàng công tử đang ngồi. Đặt nhẹ cây đèn cầy xuống bàn, vị sư già hiền hòa nói:
- Công tử nên đi nghỉ sớm để lấy sức mai lên đường.
- Bạch thầy, con ngồi nghe thầy tụng kinh mà lòng con nghe như không còn vướng bận điều gì cả. Bạch thầy, nếu thầy cho phép, con xin được ở đây thọ pháp cùng thầy, để sớm tối học kinh đọc kệ.
- Công tử muốn thế, nào khó gì đâu. Nhưng đạo pháp đâu phải là chốn cho ta chạy trốn nợ hồng trần. Hơn nữa, công tử cũng chưa biết được mình có thật sự đi trọn con đường này không. Làm sao mà có thể một sớm một chiều quyết định như thế.
- Bạch thầy, chẳng dấu gì thầy. Con vốn họ Trần, giòng dõi Trần Vương. Nay vì chạy trốn sự truy tầm của giặc mà lạc bước đến đây. Suốt đêm nay nghe thầy tụng kinh, lòng con nghe nhẹ hẳn nợ trần ai. Ắt là cũng có duyên với đạo. Xin thầy mở rộng cửa lòng cho con theo học đạo pháp, bắt đầu từ hôm nay.
Nhắm đôi mắt lại trong chốc lát, vị sư già lại mở mắt nhìn chàng công tử mà nói:
- Thôi được. Ta cũng chưa biết là duyên hay là nghiệp. Công tử cứ ở đây, nhưng chỉ nên ngày ngày theo ta đọc kinh niệm kệ. Cho đến khi nào thấy rõ nghiệt căn đã dứt hay chưa.
Gã thơ đồng lúc đó bước ra từ bên trong, hai tay nâng mâm đựng hai chung trà. Đặt nhẹ hai chung trà trước mỗi người, gã thơ đồng lùi lại và xuôi hai tay đứng thật yên đằng sau lưng chàng công tử. Hương trà thơm thoảng nhẹ như những lời nói của vị sư già thấm nhập vào tâm hồn chàng công tử. Gã thơ đồng vẫn đứng im lặng và bất động sau lưng.
Nhìn những hoa mai vàng rung rinh đùa trong gió, chàng công tử mỉm cười và ngâm nhẹ vài câu thơ. Bỗng gã thơ đồng hớt hãi chạy vào. Gã chưa kịp nói gì thì chàng công tử đã gắt nhẹ:
- A Phúc, ngươi làm gì mà vội vàng đến thế. Không biết sư phụ đang tĩnh tâm hay sao?
- Ta đã xong rồi. A Phúc, chuyện gì thế?
Câu trả lời vừa dứt, vị sư già đã bước ra đến khu rừng mai sau chùa. A Phúc, gã thơ đồng, vội vàng quì xuống, hai tay cung kính chấp lại và nói:
- Bạch thầy và chủ nhân, A Phúc tôi nhận thấy mình phận tôi đòi kém học, nên chắc không có duyên cùng kinh kệ. Xin thầy và chủ nhân cho tôi xuống núi để trở về với thân phận tục nhân.
Khoát tay bảo chàng công tử lặng im, vị sư già nhìn gã thơ đồng đang quì trước mặt và hỏi:
- Người hãy đứng dậy. Và nói cho ta biết chuyện gì đã xảy ra hôm nay.
Đứng lên từ dưới đất, gã thơ đồng khoanh tay lại thưa:
-Bạch thầy và chủ nhân, tôi vốn được theo chủ nhân từ nhỏ. Cùng chủ nhân đến đây hầu hạ thầy và chủ nhân đã được mấy mùa trăng. Lúc nghe thầy thuyết pháp, lòng cũng biết nghe điều hay lẽ phải, cũng biết học chữ nhẫn chữ kiên. Suốt thời gian qua, mỗi lần xuống núi mua rau, đổi củi tôi đã chứng kiến nhiều cảnh bất công mà vẫn cố nhịn nhục vì muốn làm theo lời thầy khuyên dạy. Cho đến hôm nay...
- Hôm nay sao?
Hít một hơi thở dài, gã thơ đồng đứng thẳng lưng hơn đáp:
- Hôm nay tôi xuống núi mua gạo, gặp cảnh bọn giặc đi lấy thuế muối của người dân. Tội nghiệp thì thôi, bấy lâu nay đất nước bị bọn chúng hoành hành, dân thì đói khổ, nào có chi đâu để ăn để sống. Thế mà chúng lại còn tăng thuế muối năm nay, tiền đâu mà đóng. Không có tiền đóng thì bị chúng đánh đập, giam giữ. Bấy lâu nay tôi cố nhịn nhục, nhưng hôm nay, sau khi thấy cảnh chúng đánh một ông già và cột tay cho ngựa kéo lăn lóc trên đường, tôi không nhịn được cơn giận, đánh cho chúng một trận. Tôi đánh gục hai tên và bị chúng lùng rượt quanh chợ. Cũng may được người dân giúp che dấu, tôi mới trốn thoát được về đây.
Ngừng lại một chút, gã thơ đồng nói tiếp:
- Bạch thầy cùng chủ nhân, A Phúc tôi kém hiểu biết. Nhận thấy rằng A phúc tôi vốn lỡ sinh ra làm người, nên có tu mấy đi nữa, ắt kiếp này vẫn không mong giải thoát. Vả lại, vốn không có duyên nên chẳng thấy được cái có cái không. Nên A Phúc tôi xin thầy và chủ nhân cho phép tôi xuống núi, trở về thân phận phàm phu, để khỏi làm ô uế cửa thiền và liên lụy đến công việc tu hành của thầy và chủ nhân.
Sau một thời gian suy nghĩ, vị sư già thở dài nói:
- Thôi, được. Ngươi cứ tự tiện xuống núi. Âu cũng là nghiệt căn kiếp trước vậy.
Và vị sư già trở bước vào căn phòng của mình để bắt đầu công phu thiền định. A Phúc cũng quì xuống bái biệt chủ nhân rồi quay về phía nhà bếp, nơi hắn tá túc bấy lâu nay, để chuẩn bị khăn gói xuống núi. Chàng công tử đứng ngỡ ngàng nhìn mọi chuyện. Và ngỡ ngàng hơn khi thấy rằng những hoa mai đã rụng xuống, đang nằm yên trên mặt đất, vì một cơn gió mạnh thổi đến. Không biết lúc nào.
Xong giờ thiền định, chàng công tử bèn châm hai chung trà nóng đặt xuống bàn và ngồi chờ vị sư già đang còn ngồi nhập định. Công việc này vốn là của A Phúc, nhưng vì A Phúc đã xuống núi từ hồi chiều, nên chàng phải làm lấy. Lát sau, vị sư già bước ra và ngồi xuống bên cạnh chàng công tử. Vị sư già thốt:
- Trần công tử có biết tối nay ta ngồi nhập định, nhưng tâm thần không được thanh tịnh như mọi hôm. Công tử có biết tại sao không?
- Dạ không, xin nhờ sư phụ chỉ dẫn.
- Vì những điều A Phúc nói đó.
- Bạch sư phụ, đệ tử vẫn còn mơ hồ. Xin sư phụ cắt nghĩa cho.
Hớp một ngụm trà nhỏ, vị sư già nói:
- Công tử xem, ta cũng như công tử vốn sinh ra làm kiếp con người. Ắt rồi cũng có ngày nhắm mắt. Cái chết của chúng ta vì đã sinh ra làm người là điều dĩ nhiên. Còn cái chết của Phật ta nghĩ ắt là điều ngẫu nhiên, cho chúng sinh. Khác là chỗ đó. Ta tu hành mà chết thì gọi là thoát sinh nhập tử. Cái chết của Phật thì gọi là nhập Niết Bàn, giải thoát sinh tử luân hồi. Gẫm ra một điều. Ta e rằng cái mức tựu thành của sự tu hành của ta, xem ra, còn kém cả cái mức tựu thành của A Phúc. Ta vì ngộ đời nên lên núi tu hành. A Phúc vì lên núi tu hành nên ngộ mình mà xuống núi. Nào đâu có đạo để gọi là ngộ đạo. Tất cả, là Pháp. Tu, là chấp Pháp. Không tu để mà tu, cũng là chấp Pháp. Ngộ đời trong mình. Và mình trong đời. Là thức đó.
Vị sư già lại thở ra mà nói:
- Ta xem chừng mai này chỉ còn mình công tử nơi đây.
- Bạch sư phụ, còn sư phụ đi đâu?
- Ta vốn không phải là Phật, nên nào có thể ngồi đây thuyết pháp độ người. Ta lên đây tụng kinh để mong Phật chứng giám mà độ ta. Trong khi Phật vốn đi thuyết kinh cho chúng sinh trong ta bà thế giới. Nên ta chỉ muốn giúp chúng sinh thoát khổ. Ta sẽ xuống núi, đem những điều học hỏi để giúp chúng sinh đang khốn khổ bớt bị khốn khổ làm điêu đứng. Và ta muốn giúp chúng sinh bằng cách chịu khổ cùng họ. Vì họ là ta, và ta là họ. Ta phải chịu cùng cái khổ của họ mới giúp họ bước ra từ cái khổ đó được. Như ta đã nói cùng công tử, đạo pháp không phải là nơi chạy trốn trần gian. Đạo pháp là nơi ta tranh đấu để thắng chính mình, thắng cái bản ngã của mình. Và sau đó đi giúp chúng sinh. Mà muốn thắng mình, ta phải biết chân tướng của mình thật rõ. Xem ra, A Phúc đã đạt được điều đó, hơn ta.
Chàng công tử gục đầu xuống thấp, và hỏi:
- Bạch sư phụ, thế thì đâu là đạo pháp.
Vị sư già chỉ vào tim mình đáp:
- Đạo, ở đây. Mà không ở đây. Vì thế mà đạo ở mọi nơi mà không nhất định là nơi nào hết. Công tử có nhớ chuyện đức Phật ngày xưa có nói khi ta thấy con hổ đói, thì ta phải đưa mình cho hổ ăn thịt không?
- Dạ nhớ.
- Đạo là thế đó. Không phải thấy con cọp đói là đưa mình cho nó ăn mà đủ. Phải đưa mình cho nó ăn như thế nào để khi nó ăn ta rồi, nó không ăn người khác nữa. Công tử hiểu không?
- Dạ hiểu.
- Ở dưới chân núi kia, bọn giặc là cọp. A Phúc là kẻ đánh cọp cứu dân. Ta chỉ muốn cọp ăn ta rồi thì hết ăn kẻ khác. Thế thôi. Thế nên, từ nay, ta với đạo và đời, là một. Là không. Phật cũng không. Thiền cũng không. Là thế đó. Lấy đạo làm đời. Nhập đời, thấy đạo. Duyên của ta và công tử ở ngôi chùa này đến hôm nay là hết. Có duyên nữa,thì là giữa chốn trần gian.
Vị sư già lại đứng dậy nói:
- Bắt đầu từ bây giờ, sư phụ cũng không, mà đệ tử cũng không. Công tử hiểu ý ta chứ?
- Dạ.
Vị sư già bước về phòng mình. Chàng công tử vẫn còn ngồi đó một mình với chung trà chưa uống. Sau một hồi nhắm mắt lặng im, chàng công tử mở mắt ra, mỉm cười. Và chàng đứng dậy, bưng chung trà ra tưới vào gốc mai và tự thốt:
- Hoa đẹp.
Xong, chàng cũng quay về phòng mình, sau khi đặt chén trà không của mình bên cạnh chung trà đã uống cạn của vị sư già. Cả hai chén đều được đặt nằm úp xuống.
Trời vừa chuyển sáng. Hôm sau.
Từ sau lưng cánh cổng chùa vừa mở, có một chàng tráng sĩ bước ra với thanh kiếm báu cài gọn sau lưng. Chàng quay lưng lại để đóng cánh cửa chùa, vì chùa không còn ai trụ trì. Một ý nghĩ thoáng qua đầu, chàng tráng sĩ lại trở bước vào trong chùa. Lát sau chàng lại bước ra, tay cầm một tờ giấy, mực còn ướt với vài giòng chữ. Dán tờ giấy lên bức tường, nơi gần cửa chùa, chàng tráng sĩ bèn đẩy mạnh cho hai cánh cửa chùa mở toang ra. Và chàng băng mình xuống núi. Tờ giấy đọc như vầy:
Vốn là chùa, nhưng không phải là chùa.
Cửa mở để đón kẻ lạc đường.
Sau chùa có bếp, có củi.
Kẻ dùng trước nhớ nên đốn củi để dành cho kẻ lạc đường đến sau.
oOo
Kể xong câu chuyện, ông Độ quay lại nói với Hoàng:
- Thôi, con coi chừng đào dầu lên đi. Ghe gần đến rồi, kẻo trễ.
- Dạ. Thưa thầy, con có một điều muốn hỏi thầy.
- Con hỏi đi.
- Sao thầy không đi chung cùng con?
Ông Độ nói:
- Thầy không đi là vì công chuyện ở đây cần thầy hơn. Với số tuổi và vai trò của thầy, con cũng biết là thầy phải và nên ở lại để giúp những đứa học trò khác nữa. Thầy dạy công dân đã hơn bốn mươi năm rồi. Đứa nào là học trò của thầy, thầy đều xem như con ruột. Con hiểu ý thầy không?
- Dạ hiểu.
- Vậy thì con cũng phải hiểu luôn rằng lần này con lên đường tức là làm một chuyến đi mới. Sự ở lại của thầy cũng là một chuyến đi, nếu nhìn từ một khía cạnh khác. Điều quan trọng là lúc nào con cũng phải nhớ rằng mục đích cuối cùng của một chuyến đi không phải là để đến. Mà là để đến nơi mình muốn về. Nơi chốn về là nơi mà khi mình đến đó, mình biết là mình sẽ ở lại mà không còn phải đi đâu nữa. Con hiểu không? Tất cả những nơi đến khác chỉ là chốn tạm dừng chân, chỉ là những giai đoạn phải đi qua, con hiểu không?
- Dạ hiểu.
- Thôi, con lo đào dầu lên đi là vừa. Thầy chúc con đi mạnh giỏi. Và thành công với những gì thầy trò mình cùng ao ước.
Nói xong, ông Độ bước xuống nước đẩy chiếc xuồng nhỏ của mình xa bờ và leo vào chèo đi, không một lần ngó lại đứa học trò của mình. Hoàng đứng trông theo cho đến khi tiếng chèo của ông Độ nhỏ dần và im hẳn. Xong, Hoàng quay lại đào những thùng dầu dấu gần đó lên. Tìm một nơi khuất gió, Hoàng ngồi xuống chờ. Chung quanh vẫn là bóng đêm. Nhưng Hoàng có cảm giác rằng bóng đêm, cũng như chàng, đang nôn nao đợi chờ ánh đèn nhỏ của chiếc ghe chiếu đến. Để buổi sáng mai về, biển sẽ đón chàng bằng tia nắng sớm tự do.
Giữa bóng đêm. Giữa sự đợi chờ trong im lặng đó, Hoàng vẫn tưởng như mình còn đang nghe tiếng mái chèo của ông Độ, đang vỗ nhẹ xuống mặt nước bì bõm, vang vọng về văng vẳng. Đâu đây.
npn
Nhân Văn, 1988 - Chép lại và bổ túc tháng 1, 1996