vhnt, số 103
11 November 1995
Trong số này:
+ thư vhnt
+ 1 - thơ, Chiều Qua Đồi...............................Phan Lê Dũng
+ 2 - thơ, Những Lục Bát Xưa....................Cỏ Nhớ/Lộc Quy
+ 3 - thơ, Trong Khi Chờ Đợi..................................Ian Bui
+ 4 - thơ, Mùa Thu Đi Qua...................................Chinh Dinh
+ 5 - thơ, Sương Thu.....................................Quách Cường
+ 6 - tạp bút, Ai Cũng Có Một TÌnh Yêu Quê Hương......NB/Dung Nguyen
+ 7 - thơ, Khung Trời Dạo Nớ............................Thùy Trang
+ 8 - truyện ngắn, Góc Tối Đỉnh Băng Sơn..............Huỳnh Vi Sơn
Lại một ngày của mùa thu, có nắng trong, có gió nhẹ, có mây bãng lãng trôi, và có tôi với một khung cửa vắng. Những ngày thế này lẽ ra rất dễ gợi cảm hứng viết. Nhưng cảm hứng lại hoàn toàn tùy thuộc vào ngẫu hứng mới phiền hà. Tôi muốn viết ra một điều gì đó, cho bạn, cho tôi, cho khoảng trắng của tờ giấy, nhưng mà cảm hứng bỏ tôi đi, nên tôi ngồi chờ ngẫu hứng tìm đến. Có thể nếu tôi khoác áo đi ra bìa rừng, nói chuyện với một con sóc nhỏ, hay ngồi nhìn giòng nước, biết đâu ngẫu hứng khiến tôi khơi được một câu thơ, một đoạn văn, hay nghĩ ra được câu chuyện hoang tưởng nào chăng?
Người viết cứ phải lệ thuộc vào cảm hứng như thế, nên sáng tác đôi khi ra đời như một... số mệnh! Có những số mệnh của tác phẩm gặp may rủi tùy thuộc vào hoàn cảnh của sáng tác. Gặp may, người viết gặp ngẫu hứng tìm ra đề tài, viết về một vấn đề, và gặp đúng đối tượng người đọc. Như tri âm tri kỷ, như Tử Kỳ gặp Bá Nha, như gió gặp bão, như thời gặp thế.
Tác phẩm nổi tiếng phải chăng là một tác phẩm hay? Ðiều này, cá nhân tôi vẫn còn ngờ vực, vì tôi tin ở sự may rủi, vào số mệnh hay số phận của một tác phẩm. Nó giống như số phận con người, vì nó gắn liền với đời sống con người.
Nếu Shakespeare hay Victor Hugo ra đời ở thế kỷ 21, không biết tác phẩm của họ được chào đón thế nào hôm nay?
thân ái,
PCL/vhnt
Chiều Qua Đồi
Chiều nay anh thấy nhiều mây trắng
Xoải qua đồi che bớt ánh xạ quang
Anh chợt thấy nhớ thương về xứ Lạng
Vùng đất thuở nào anh chưa dịp ghé ngang
Chiều nay anh thấy nhiều mây trắng
Phiêu lãng dật dờ như những đám mây hoang
Anh chợt thấy thương những vùng phố thị
Ðổ nát điêu tàn như những nghĩa trang.
Chiều nay anh thấy nhiều mây trắng
Mờ ảo, mơ màng như ánh hào quang
Anh chợt nhớ về tiếng than thảm não
Nhớ trận chiến dài, làn đạn xé màng tang.
Chiều nay anh thấy nhiều mây xám
Lờ mờ che hẳn ánh xạ quang
Anh chợt thấy những căn nhà cải mả,
Những bóng người, những tiếng loa vang.
Chiều nay anh thấy nhiều mây xám
Chợt chắp, chợt rời như những đám xe tang.
Trên đường thổ mộ kêu lóc cóc
Rồi mây vàng lững thững kéo sang.
Chiều nay anh thấy nhiều mây xám
Ðã mất màu ủ dột mang mang.
Anh nhìn, nhìn mãi và nhìn mãi
Và chợt thấy trời mất ánh xạ quang.
Phan Lê Dũng
Những Lục Bát Xưa
1. lục bát, tôi, mưa
Thơ mình lục bát, tôi, mưa
chia nhau vào ở đã vừa buồn tôi
khéo không đủ chỗ, thiếu nơi
mốt mai tôi lỡ buồn người, cất đâu?
2. Nhưng
Mưa tôi, nhưng nước mắt người
buồn người, nhưng nửa phận người tôi mang
thì hờn thì giận nhau than
nhưng lòng nhau nối trăm ngàn tiếng nhưng.
3. Hồi thư
Chợt mình nhớ bạn tri âm
ngước nhìn lên mảnh trăng rằm chia hai
chạnh lòng buông tiếng thở dài
sâu đêm tĩnh mịch buốt tay thư buồn.
4 . Thu phân
Chiều buông, mành rũ, bóng câu
nắng mong manh trải giọt sầu tha nhân
giọt nào rơi đọng thành vần
thơ mang mang vỡ mấy phần thiên thu.
Cỏ Nhớ
Lâu nay quá bận với công việc nên không có thì giờ làm thơ. Cả đến đọc VHNT cũng không xong, huống hồ... Nhưng cái nghiệp thời nó cứ đeo đuổi nên hôm nay lại phải trở lại với cái quán con này. Tặng bà con bài thơ làm năm ngoái, tuy cũ nhưng đọc vẫn còn được được... :)
Nhân tiện chúc các anh chị trong nhóm admin luôn vui khoẻ để tiếp tục phục vụ bà con...
Trong Khi Chờ Ðợi
tặng thế hệ tôi
Ðo đường đo đất đo đời
Ðo sông đo núi đo trời đo ta
Ðo non đo nước đo nhà
Ðo cây đo cội đo hoa đo cành
Ðo màu xanh quả tim xanh
Ðo nghiêng đông hạ cho thành thu xuân
Ðo cơm đo áo đo thân
Ðo nhân duyên chợ đo chân-anh-tài
Ðo cao đo thấp đo dài
Ðo trên đo dưới đo ngoài đo trong
Ðo lên đo xuống đo vòng
Ðo sâu đo cạn... đo lòng em ơi.
4'94
ianb
Mùa Thu Đi Qua
còn gì đâu những môi xưa hồng...
- tcs -
Trăng kia hồng quá giữa mùa thu
Cho sông chờ mỏi một hồng nhan
Lênh đênh giòng ấy giữa mù khơi
Sông kia chờ hết một mùa vơi
Môi em hồng quá giữa đời vui
Cho ta mòn mỏi đợi tình xa
Môi kia vừa chín một mùa thu
Ta trông chờ hết cả sầu tư
Ðể hôm nào sông mãi chờ ai
Trăng kia hồng vắng một mùa phai
Môi em vừa chín trên đời vắng
Hồng quá hôm nào trăng mới lên
11.9.95
Chinh
Sương Thu
Ngày thu không nắng, trắng sương đầy,
Chim còn trong tổ, nhìn sương bay,
Sương thu mờ ảo, ngày lười sáng,
Bồi đắp nhân tình, giấc đắm say.
Ðất còn mê mẩn giọt sương mai,
Côn trùng mê ngủ, ngỡ đêm dài,
Sương thu nhẹ thấm, làn môi ướt,
Anh uống đôi bờ, hồn say say!
Có sương, thu mới đẹp trong ngày,
Tình nhân quấn quít, hạnh phúc thay!
Quách Cường
Calif. 11/04/95
Tuần trước tôi có ghi lại bài "Áo dài! Chời ơi!" của Ðỗ Trung Quân viết nhân dịp áo dài Việt Nam của Trương Quỳnh Mai đăng quang ở Tokyo. Sau đây là một bài viết ngắn về cuộc thi hoa hậu quốc tế năm 1995 tại Tokyo, bên cạnh có đăng hình của Quỳnh Mai, đẹp quyến rũ và kín đáo trong chiếc áo dài VN.
Dung Nguyen
oOo
Ai Cũng Có Một Tình Yêu Quê Hương Đất Nước
Cuộc thi hoa hậu quốc tế năm 1995 được tổ chức tại Tokyo (Nhật) ngày 10-9-1995 khác với nhiều cuộc thi là thí sinh không đánh số mà chỉ đeo bảng tên nước mình. Khi Việt Nam được xướng tên với giải nhất trong phần trang phục dân tộc thì người đẹp Trương Quỳnh Mai đã khóc ngon lành trước hàng trăm ống kính của các phóng viên quốc tế.
Quỳnh Mai còn chưa hết xúc động khi kể lại phút giây ấy. Cô thổ lộ:" Ai cũng có một tình yêu quê hương đất nước, có điều là nó được thể hiện vào lúc nào thôi. Tôi đã dự nhiều cuộc thi nhưng có lẽ đây là lần đầu tôi cảm nhận rõ ràng những tình cảm thiêng liêng ấy như thế nào." Trong 48 thí sinh với trang phục dân tộc của 48 nước khác nhau, mỗi cô một vẻ độc đáo và hấp dẫn. Nhiều cô còn được "đầu tư" qui mô hơn, chẳng hạn hoa hậu mỗi nước được lựa chọn những trang phục đẹp nhất, lọai vải lộng lẫy nhất... từ các nhà may nổi tiếng trong nước như bộ kimono của Nhật, hay bộ Nữ thần Tự do của hoa hậu Mỹ. Thế thì tại sao chiếc áo dài VN, khăn đống và hài lại chinh phục được 10 vị giám khảo (đại diện của nhiều nước) cùng khỏang 500-600 người xem chật hội trường hôm ấy và ngay cả những hoa hậu của các nước? Quỳnh Mai kể: "Thật ra chiếc áo dài VN đã được ban giám khảo chú ý... ngay ở hậu trường. Lúc thí sinh chuẩn bị trang phục, giám khảo đã kiểm tra từng kiểu một. Các thí sinh nước khác thì trầm trồ, người hỏi tiệm may, người hỏi kiểu. Ðương kim á hậu thứ nhất người Venezuela còn đòi mua cả bộ áo dài của Mai khi chưa được giải. Mình nói cô ấy đưa số đo mình sẽ may giúp."
Trên sân khấu chiếc áo dài gấm màu xanh dương in hoa trúc, mai, đào lại nổi bật trong sự giản dị mà không kém phần duyên dáng giữa nhiều màu sắc sặc sỡ và lộng lẫy của nhiều nước khác. Ðây là điểm chính tôn vinh chiếc áo dài VN và còn vì nhiều nét lạ, độc đáo của nó (nhiều người thú nhận lần đầu mình nhìn thấy). Có lẽ đây cũng là điều khiến nhiều người hâm mộ hôm ấy thi nhau chụp hình với "Hoa hậu VN" và xin chữ ký (phải trả 16USD một lần chụp và các hoa hậu đều thực hiện để gây quĩ từ thiện quốc tế). Quỳnh Mai kể:" Quỳnh Mai phải chụp hình và ký nhiều không nhớ hết. Thậm chí có hoa hậu còn đùa: không ai hỏi tới họ thì Quỳnh Mai xin chữ ký của họ để làm kỷ niệm vậy."
Nguyễn Bay
TTCN 17-9-1995
Khung Trời Dạo Nớ
Cho em một thoáng, tìm về
Cổng trường hai buổi, vụng về mắt nai
Sân trường áo trắng, bay bay
Cỏ may níu gót, chìm đầy mộng mơ
Vẽ trên trang vở, i tờ
Khung trời dạo nớ, chưa bơ vơ buồn
Giang tay... chỉ có lớp, trường
Nụ cười ai đó, vấn vương dõi nhìn
Sân trường chừ bỗng im lìm
Bạn bè mỗi ngả, bay tìm tương lai
Ngoài trời mưa mãi bay bay
Dư âm trường cũ, đâu đây vọng về
Cổng trường, mặc nắng, mặc mưa
Vẫn đưa áo trắng, ngày xưa, những ngày...
Thùy Trang
Nov'95
.. . I .. . ....
' .. ,'.`. ... .. G Ó C T ỐI Đ Ỉ N H
.__,-'.:::.`-.__, .. .
.. ~-------------~ B Ă N G S Ơ N
_|=|___|=|_ _\ < .
.__,-'.:::::::::.`-.__ .\/./ *
~-------------------~ '\|/`
_|_|_|___|_|_|_ _|_ Huỳnh Vi Sơn
...............................
Gã cầm bình tưới nước vẩy nhẹ trên gốc mai dại. Cây mai trông không giống bất cứ một loại mai nào mà gã đã từng thấy ở Việt Nam. Nó thấp lè tè, cành chĩa tứ tung. Ðó là đỡ lắm rồi chứ lúc gã mới tới đây, nó giống như một bụi cây rừng hoang dại. Lúc đó, gã không hiểu tại sao nhà sư trụ trì ngôi chùa này không chịu bứng nó đi để trồng một thứ cây kiểng khác trông đẹp mắt hơn. Sau này, ông mới cho biết, sở dĩ ông để bụi cây đó vì vào khoảng tháng 2, trong khi mấy cây hoa khác co ro, khô héo theo cái lạnh mùa đông thì chỉ có nó cho một thứ hoa vàng nhỏ nhắn, sặc sỡ. Cũng theo ông, cả vùng Quan Tây, hay có thể, cả nước Nhật, chỉ có khu Gia Cổ Xuyên, kéo dài từ ngoại ô thành phố Thần Hộ (Kobe ) đến thị trấn Cơ Lộ, mới có loại cây này.
Nở vào tháng 2, trong khoảng Tết Nguyên Ðán, gã đoán nó là một loại mai nào đô Nhà sư thì gọi nó là một thứ Ume rừng. Gã dự tính đợi khi nó trổ hoa, gã sẽ đặt cho nó một cái tên thật kêu. Ngày còn ở quê nhà, gã đã từng giúp việc cho ông bố bên cạnh những gốc mai. Những cây mai mà khi gã vừa mở mắt chào đời và lúc bắt đầu có sự hiểu biết, là đã thấy cao hơn gã. Hàng trăm gốc mai, như cả trăm cô gái xuân thì mỗi dịp xuân sang. Ngoài những loại mai mang cái tên nghe có vẻ rất kiêu kỳ như Bạch diệp Mai, Kim hoàng Mai... gã còn tinh nghịch đặt riêng cho những gốc cây gã thích như Tiểu Mai, Diệu Mai, Hồng Mai, Thanh Mai... tùy theo cái vẻ đặc biệt của nô Bố của gã thì chăm chút nhất cho loại mai nhiều cánh, loại này, nghe nói đâu gốc tận miền Tây, được một nghệ nhân trồng mai ở Sài Gòn đem về gây giống. Cầy cục mãi và nể chỗ quen biết nhau lâu năm, ông mới nhường ít gốc cho bố gẩ Còn nhớ cái xuân đầu tiên khi loại mai này ra hoa, bố gã đứng ngồi không yên. Từ trước tới giờ, vườn mai nhà ông chỉ ra hoa 8 cánh là nhiều; cây mai mới cho ông những 12 cánh và ông mừng run lên khi thấy một cây ra tới 24 cánh. Do đó, có nhiều người khi tới thăm vườn mai, đã bằng lòng trả giá thật cao để mua luôn cả cây mai nhưng bố gã dứt khoát không bán, chỉ bán cành.
Vườn mai nuôi sống nhà gã thư thả cho đến năm 78. Lúc có chiến dịch đánh tư sản, đám cán bộ gọi bố gã lên quận, cảnh cáo là nếu không trồng cây lương thực mà chỉ chăm nom ba cái thứ cây trưởng giả đó, cả nhà sẽ bị đưa đi kinh tế mới. Ngày bố gã cùng mấy anh em bứng từng gốc mai, mọi người có cảm tưởng đang đang chôn sống từng người thân. Bố gã như người mất hồn. Từ đó, vườn mai cũ biến thành vườn khoai mì vô tri vô giác
Mấy ngày hôm nay, gã ra thăm bụi cây "Lâm mai" nhiều hơn thường lệ, gã gọi là mai rừng vì chẳng còn nghĩ được cái tên nào khác. Mục đích của gã, không hẳn chỉ để chăm sóc cho nó ra hoa kịp ngày Tết. Tết chẳng còn ý nghĩa gì kể từ khi gã xuống chiếc thuyền bé nhỏ vượt đại dương; vả lại, những năm trước đây, khi gã chưa tới ngôi chùa này, không cần gã chăm sóc, nó vẫn ra hoa theo như lời kể của sư trụ trì. Gã ra khu vườn chỉ vì gã bắt gặp ánh mắt của một người phụ nữ trẻ tuổi từ ngôi nhà cất riêng cho gia đình vị sư trụ trì cư ngụ. Ánh mắt lạnh băng trên khuôn mặt trắng bạch làm gã rùng mình, và nó theo ám ảnh gã mãi. Gã biết, đó là bà vợ trẻ của nhà sư. Gã không dám nghĩ tới chuyện là hình ảnh người phụ nữ này đã đi cả vào trong giấc ngủ của gã, nó gầy guộc, khi ẩn khi hiện nhưng không kém phần quyến rũ và thanh cao như một cành mai nở hoa.
oOo
Từ ngày vào sống trong chùa, Khang Tử có thói quen đứng từ thư phòng phóng tầm mắt qua làn cửa kính nhìn ra ngoài khu vườn. Nàng muốn tìm sự bình yên nơi mỗi bụi hoa, vì nàng biết, nàng không thể nào tìm được sự bình yên đó nơi thiền viện hay trước tòa sen. Cho đến bây giờ, Khang Tử cũng chưa hiểu tại sao mình lại có thể chôn vùi cuộc đời son trẻ ở một nơi u tịch như cảnh chùa này. Chắc chắn không phải là vì tình yêu của nàng dành cho nhà sư, nàng chưa biết yêu, phải khẳng định là như thế. Ngay trong thời gian bốn năm ở đại học, nàng chưa một lần rung động trước vẻ hào hoa của những người bạn trai; đến nỗi họ phải tặng nàng cái biệt danh "Băng Sơn". Nhiều người ác miệng, còn cho nàng mắc phải bệnh "lạnh cảm"... Thế nhưng, họ đâu biết, Khang Tử đang chờ một cái gì đó vượt trên thứ tình yêu bình thường trong cái xã hội xô bồ đầy bụi bậm này. Nàng muốn có một tình yêu như đám mây xanh vờn quanh đỉnh núi đầy tuyết trắng, nhưng Tình yêu đó chẳng bao giờ đến, và khi nghe mẹ nàng báo lại lời cầu hôn của nhà sư Thảo Trúc với một sự vui mừng hiếm thấy, nàng dửng dưng, rồi... nhận lời.
Trong vùng Gia Cổ Xuyên này, không ai là không biết đến ngôi chùa Trúc Sơn Tự của dòng họ Thảo Trúc. Và khi người con trai duy nhất của Sư Cụ tốt nghiệp xong Ðại Học Phật Giáo Kinh Ðô trở về thay cha lo chuyện tụng niệm ở bên ngoài, thì các nhà có con gái bắt đầu ôm mộng gả con cho nhà sư trẻ đẹp trai. Không có gì bảo đảm hơn khi về làm dâu cho một ngôi chùa nổi tiếng, đã có chùa là phải có tiền cúng và người chết lúc nào cũng sẵn sàng giúp cho nhà sư có công việc quanh năm, chưa kể đất đai của giòng họ để lại...
Coi vậy chứ sư Thảo Trúc cũng rất kén, mặc dù bị sư cụ thúc giục lấy vợ để sớm thấy được đời thứ ba trước khi về cực lạc, ông vẫn cứ nấn ná chờ một mẫu người thích hợp. Tới lúc gặp được Khang Tử trong dịp ông làm lễ tang cho thân phụ nàng thì nhà sư mới xao xuyến bởi sự tinh khiết toát ra từ làn da, từ đôi mắt, từ gương mặt, từ chúm môi nụ cười... của nàng. Dường như nàng sinh ra không phải để sống ở thời đại này mà là cho một thời đại xa xưa nào khác. Gần nàng sư có cái cảm giác thời gian chạy ngược, đôi lúc sư thấy nàng lộng lẫy kiêu sa và bí ẩn... như kiến trúc của những ngôi chùa cổ tại Kinh Ðô.
Ba năm sau khi biết được Khang Tử, sư Thảo Trúc ngõ lời cầu hôn. Lúc đó ông đã vào tuổi tứ tuần.
Cũng giống như một số chùa, dùng một phần tiền Phật tử cúng vào việc thiện, hàng năm sư Thảo Trúc nhận nuôi một vài người học sinh ngoại quốc không đủ điều kiện tài chánh theo học ở Nhật, trong đó có một thanh niên Việt Nam do Hội Hồng Thập Tự giới thiệu. Ông có tình cảm đặc biệt đối với hắn ta vì hoàn cảnh lạ lùng của hắn; vả lại hắn có những suy nghĩ thật khác với những thanh niên bình thường. Những suy nghĩ đó, theo ông, mang nhiều tính chất thiền, nhưng hắn thì cho rằng, chẳng có gì đáng gọi là cao xa. Nó chỉ phát sinh do những đụng chạm trong một xã hội cùng khổ, thương tâm mà hắn đã trải qua. Khi không biết cách nào để thoát khỏi cảnh khổ đó thì con người phải tưởng tượng, phải mơ ước... để được sống còn. Còn như Sư, hắn nói đùa: "Sư sướng từ nhỏ nên sư muốn thuyết pháp về cái khổ thì sư phải học, mà cái khổ thì không nằm trong kinh điển..."
Hắn không bao giờ nói rõ cho sư Thảo Trúc biết tôn giáo hắn đang theo; tuy nhiên, mỗi sáng hắn vẫn dậy sớm lúc 5 giờ để tham dự buổi ngồi thiền với sự Trong phòng hắn, sư Thảo Trúc thấy có cuốn Lịch Sử Phật Giáo cả cuốn kinh thánh Thiên Chúa Giáọ Trong một lần đàm luận quanh gốc mai, hắn nói suy nghĩ của hắn về số phận con người như sau:
- Chắc sư có biết về khoa tử vi của Trung Quốc. Nhiều người không tin vì theo họ, nếu mỗi người có một ngôi sao chiếu mạng thì giải thích làm sao hiện tượng hai người cùng sinh ra một trong một thời điểm mà có hai số phận khác nhau. Ðối với tôi, tôi tin vô cùng nơi sự ảnh hưởng của các vì sao đối với con người nhưng không nghĩ là có sự an bài. Vì nếu dựa trên cơ sở khoa học mà nói thì trong từng phút từng giây... có hàng triệu, hàng tỉ bức xạ của các ngôi sao xa lạ đến trái đất này. Con người khi sinh ra là đã có dòng điện, tôi quan niệm đó là linh hồn. Dòng điện này sẽ hấp thụ một bức xạ nào đó hoặc nhiều bức xạ khác nhau tùy theo các luồng sóng điện có hạp với nhau hay không. Bây giờ thì ai cũng biết nhân số loài người so với lượng tinh tú trong vũ trụ là hạt cát trong sa mạc. Các bức xạ tới với một cấp số nhân thì không còn cần phải đặt ra vấn đề lấy Sao đâu cho đủ số để tính tử vi cho con người. Những làn sóng đến từ những tinh tú rất xa xôi và lạ lùng kia sẽ khiến cho tâm tính và khả năng con người trở nên không giống nhau; tài năng và thời vận của họ sau này cũng từ ảnh hưởng độ. vì thế mới có người rụt rè, chậm chạp, người mạnh bạo, nhanh nhẹn; có kẻ bao dung có thứ tàn ác; có thiên tài và có sự bình thường... Chứ có lý nào thượng đế lại bất công sinh ra một kẻ khù khờ, chịu nhiều đau khổ trong khi kẻ khác chỉ gặp toàn những hạnh phúc, thành công. Do đó, tôi nghĩ Phật Thích Ca, Chúa Giêsu, Mohamet hay là một nhà sáng lập tôn giáo nào khác... đã được hấp thụ rất nhiều bức xạ đặc biệt để trở thành một con người xuất chúng về tư tưởng hơn những con người bình thường.
Nói xong, nhà sư thấy hắn nở một nụ cười khó hiểu dường như hắn đọc thấu được mấy mươi năm kinh kệ của sư, tất cả đều trở thành vô nghĩa trước mặt hắn.
Một lần khác, nhà sư gặn hỏi hắn về vấn đề tín ngưỡng. Hắn trầm ngâm rồi trả lời:
- Lúc trước có lần tôi nói chuyện với Sư, Phật Thích Ca, Chúa Giê Su hay những người đã đưa ra một tín ngưỡng cho mọi người theo, có thể đã hấp thụ nhiều luồng sóng đặc biệt của vũ trụ; như vậy giòng điện của các vị này sẽ khác với người bình thường, có khả năng thu hút người ta theo mình. Nhờ những tinh hoa tư tưởng của Chúa hay Phật mà loài người thoát được cảnh hủy diệt bởi tội lỗi, chiến tranh. Trên phương diện tinh thần, tôn giáo do đó, có một vị trí tối quan trọng trong đời sống con người.
Khi sang thế giới bên kia, chỉ có thân xác bị hủy diệt chứ các giòng điện vẫn luôn tồn tạị Phần hồn của con người sẽ lại được những dòng điện đặc biệt đã giúp họ hấp thụ những giáo lý lúc sống ở đời, tức là của Chúa Giê Su, của Phật Thích Ca v.v... kéo lại với nhau. Người theo đạo Phật sẽ tìm nơi có những giòng điện theo Phật và người theo Chúa sẽ tìm nơi có những giòng điện theo Chúa. Người chết cũng không thể quên đi những gì họ làm lúc còn sống nên kẻ đã gây ra nhiều tội lỗi sẽ không được chấp nhận cho vào những "vùng" nói trên, sẽ phải lang thang đơn độc, đó chính là địa ngục! Tôi quan niệm, người thích đạo nào cứ theo đạo đó vì tất cả giá trị đạo đức, tư tưởng của các tôn giáo được phần đông nhân loại thừa nhận, đều không có gì khác biệt nhau...
- Như vậy còn hồn của những người không tin vào ai nhưng không phạm tội... họ đi đâu? Nhà sư hỏi mặc dù hắn biết là sư có thể trả lời.
- Theo những câu chuyện tâm linh, trước khi con người chết, thường thường tất cả những chuyện mình đã làm sẽ hiện lại như một cuốn phim và mình sẽ mang những chuyện đó về thế giới bên kia mà không thể nào quên được; nhất là những chuyện ác. Do đó, người không làm chuyện ác họ sẽ không phải ăn năn, họ lang thang đây đó trong cái thế giới vô hình bao la với một sự thoải mái mà không cần nhập vào những vương quốc của Chúa hay Phật, như họ đã sống đúng với lương tâm hồi còn sống. Ðây cũng không phải là số nhỏ. Chính vì thế mà người sống có thể cầu với bất cứ thần linh nào mà họ tin tưởng, ngay cả sự cầu xin với những người người thân thích đã khuất. Ðiều này, giải thích được "phép lạ" không chỉ có Thiên Chúa Giáo mới có mà ngay cả Phật Giáo hay ngay một "Ông Miễu, Bà Miễu" nào cũng có thể xảy ra. Và phép lạ có thành hay không là do các luồng sóng điện của người sống và người chết có cảm thông với nhau được hay không mà thôi.
- Anh có tin ở thuyết luân hồi? Nhà sư hỏi.
- Tin chớ, nhưng chỉ một phần, vì thường thường, ai đã sống qua một kiếp người, chắc chắn sẽ không còn muốn trở lại. Kiếp người chán quá! Chỉ có những người chưa thực hiện xong sứ mạng của họ, ví dụ như trường hợp của các thiên tài, mà phải chết sớm. Do đó, tại sao có những hiện tượng đứa trẻ mới lên năm mà có thể chơi những bản giao hưởng hàng tiếng đồng hồ của Mozart. Không phải ai cũng bắt buộc bị luân hồi...
oOo
Sư Thảo Trúc đem những suy nghĩ của tên học sinh ngoại quốc lạ lùng nói với vợ trong những buổi cơm của hai người; đám học sinh ăn riêng và thường thường là ăn trước. Vì thế mà Khang Tử tự nhiên có những chú ý khác thường tới hắn ta, nàng muốn tìm hiểu những suy nghĩ thật của hắn hơn là những gì mà nhà sư đã biết từ hắn. Dần dần, cảm giác chờ đợi bóng dáng gã ra gốc cây mai mỗi chiều xâm chiếm tâm hồn nàng lúc nào không hay. Hôm nào hắn về học trễ, tự nhiên Khang Tử cảm thấy bức rức; nàng bực mình vì những chuyện không đâụ Ðêm nằm cạnh nhà sư mà nàng chỉ thấy toàn hình ảnh của hắn, gương mặt của hắn, vuông vức trầm tĩnh, thoáng chút kiêu hãnh nhưng không dấu được những nét hằn khổ đaụ.. đôi lúc nó biến thành mặt một dãy núi trong giấc mơ nửa vời của nàng; khi đó Khang Tử thấy hắn một tay cắp ngang thắt lưng nàng, một tay cầm bó đuốc chạy châm lửa từng góc nhà của Trúc sơn tự, không khác gì nhân vật đã đốt Kim Các Tự ngày xưa.
Gương mặt của hắn lúc đó trở nên dữ tợn, nàng nghe hắn gào thét: "Tất cả, tất cả mọi biểu tượng sẽ trở thành vô nghĩa; còn em... ta sẽ ôm em cùng trôi ra biển cho dù em chỉ là một ngọn băng sơn...".
Nhiều khi Khang Tử muốn mở miệng nói chuyện thân mật với hắn như nhà sư chồng nàng đã làm ngoài những câu chào hỏi lạnh lùng, nhưng cứ đối diện với hắn là dường như có một bức màn vô hình ngăn chận. Vả lại không gian giữa hai người chỉ là chiếc hành lang từ phòng ăn dẫn lên chánh điện và thư viện... Cho đến một buổi chiều cuối năm, nhà sư và đệ tử phải đi tụng niệm cho gia đình một phật tử mới qua đời; người đàn bà giúp việc đã xin về quê ăn tết; mấy học sinh ngoại quốc chắc đã lên phố Thần Hộ vui chơi với những người đồng hương, chỉ còn hắn và nàng trong khuôn viên ngôi chùa rộng bao lạ Khang Tử đã chăm chú theo dõi hắn ngồi cả giờ bên gốc mai... Cuối cùng nàng lấy hết can đảm, với tay lấy chiếc áo khoác mặc hờ vào người rồi ra vườn hoa.
Khác với những lần gặp nhau trao đổi bằng một tiếng chào lịch sự, Khang Tử và hắn tự nhiên cùng im lặng. Cảnh u tịch dường như đồng lõa với hai người, chỉ có xào xạc nhè nhẹ của gió mơn trớn trên những chiếc lá khô.
Cuối cùng Khang Tử phải lên tiếng, nàng kéo vạt áo sát vào người, hai tay co ro ôm trước bụng rồi ngồi xuống cạnh hắn ta:
- Tôi thấy anh ngồi bên dốc cây này khá lâu, nó có gì đặc biệt khiến anh phải bỏ thì giờ nhiều cho nó quá vậy?
Hắn trả lời bằng một giọng run run, Khang Tử không ngờ là hắn cũng đang cố gắng đè nén cảm xúc lạ khi ở cạnh nàng:
- Ở nước tôi, cây mai là hình ảnh của người con gái, chỉ nở ít ngày trong mùa xuân rồi tàn... nó như một cô gái đẹp nhưng chết vội. Sau khi chết cũng có hồn vất vưởng, chờ đợi cả năm để rồi nhập lại. Nhà tôi đã từng trồng mai, ba tôi kể lại, ông thường gặp dáng những cô gái muôn màu muôn vẻ hiện ra trong vườn mai vào những buổi tối yên tĩnh... Các cô thường vui vẻ đùa giỡn, chẳng bao giờ sầu muộn chỉ trừ một lần duy nhất... đêm trước ngày chúng tôi được lệnh phải chặt hết các gốc cây mai!
- Anh nghĩ cây mai rừng này cũng có hồn của một cô gái nào đó.
- Chắc là vậy, nếu không nó sẽ chẳng bao giờ ra hoa.
- Nhà sư nói anh hay có những ý nghĩ lạ lùng...
Hắn đưa mắt sang Khang Tử|. Cái lạnh lùng mà hắn thường gặp chung quanh nàng đã biến mất từ lúc nào, thay vào đó là một vẻ nhu mì đầy chịu đựng. Phải nói là bây giờ hắn mới thấy nàng rất đẹp nhưng là một vẻ đẹp hoàn toàn không tạo ra cái cảm giác thèm muốn. Hắn buột miệng khi tìm được hình ảnh để so sánh cái đẹp của nàng cho đúng nghĩa:
- Trông cô như một nhánh hoa anh đào hoặc như ngọn Phú Sĩ, nghĩa là rất Nhật...
Nói xong, hắn mới cảm thấy xấu hổ; vì câu này mà đem khen một cô gái của quê hương hắn thì... cải lương vô cùng!
Nhưng Khang Tử lại không cho đó là một câu khách sáo. Nàng nhìn hắn:
- Anh đào ở Nhật cũng như cây Mai ở nước anh, đều tượng trưng cho người con gáị Nhưng không biết là cành Anh Ðào này đang ở vào mùa nào đây nhỉ?
- Ðiều đó có cô biết, riêng tôi thì đang mang cảm giác giống như ba tôi đã gặp các nàng mai hiện ra ngày xưa.
- Nghĩa là?
Hắn quyết định thố lộ tất cả tình cảm sâu kín bấy lâu nay:
- Cô sẽ trở về cuộc sống của cô, tôi có thế giới của tôi. Ðược nói chuyện với cô như vậy là quá hạnh phúc; nó chỉ có trong giấc mơ của tôi.
...Tôi nghĩ tới lúc tôi phải ra đi, ở lại đây, ngay trong những lúc ngồi thiền với nhà sư, lúc nào tôi cũng có ý tưởng phải chinh phục một ngọn băng sơn... băng sơn đó chính là cô. Nhà sư đối với tôi quá tốt. Thà hồn tôi lang thang với một bóng hình hơn là phải ăn năn suốt đời suốt kiếp ở thế giới bên kia vì đã không kiềm chế được xác thân...
Khang Tử đã ngồi sát cạnh hắn từ lúc nào. Nàng đưa bàn tay giá buốt chụp cánh tay rắn chắc của hắn kéo vào lòng mình. Hắn giật nảy người vội ngã ra phía sau để thoát khỏi những ngón tay như chiếc vòi bạch tuột của người con gái. Khang Tử ngã theo hắn, thân của hai người đè lên bụi mai, hắn thấy lưng hắn dường như bị những cành mai cứa vào một cách đau đớn. Hắn ngửi mùi hương lạ, từa tựa mùi hương tỏa ra trong đêm ở vườn mai nhà hắn... đồng thời hắn có cảm giác như bị trợt chân giữa lưng chừng dốc núi, phía trên là cả tảng băng sơn đang vỡ vụn, ào ào như thác đổ xuống... chôn kín tất cả.
Sáng Mồng Một, nhà sư vẫn dậy sớm để ngồi thiền đầu năm. Sư hơi làm lạ vì gã thanh niên tị nạn không lên chánh điện ngồi với sư như mọi khi. Nghĩ hắn ta có lẽ thức đón giao thừa hơi khuya, không dậy nổi, nên sư cũng chẳng bận tâm. Vả lại sư còn phải lo các công việc tiếp khách thập phương tới viếng chùa. Tới chiều, vẫn không thấy bóng dáng gã, sư vội ghé qua phòng. Trên chiếc bàn nhỏ của hắn, có một lá thư gởi cho sư trong thư ngoài những lời cám ơn là dòng chữ: "Tôi sẽ trở về nơi tôi đã đi".
Vô tình nhà sư đưa mắt nhìn ra chỗ bụi mai. Những nhánh cây ngã nghiêng và bẹp dúm!
Huỳnh Vi Sơn