vhnt, số 138
26 January 1996
Trong số này:
Giới Thiệu Người Viết: Phạm Thế Ðịnh & thơ "Về Ðây"
T h ơ :
1 - HaiKu mùa đông ..................Trương Nhân dịch / TP Nguyen g/t
2 - Bến đời ta ................................Nguyễn Hiện Nghiệp
3 - Lỗi vòng tay ............................................Vũ Lê Phan
4 - Ðịnh mệnh ......................................Cỏ Nhớ /Lộc Quy
5 - Bài thơ cho người ở lại ................................Ý Liên
V ă n H ọc T h ế G i ới / Ð i ệ n Ả n h :
6 - Ngọn triều các nhà văn gốc Á ở Mỹ ........Nguyệt Cầm /DN
7 - Giới thiệu ELIJAH WOODS ...........................Thiếu Quân /DN
T r u y ện N g ắn / S án g T ác :
8 - Ba mươi, con gái .........................Trương Nguyễn Thi Thanh
9 - Những mảng vụn của ký ức ...................BCCB /Lư Ngọc Dung
G i ớ i t h i ệ u n g ư ờ i v i ế t :
P h ạ m T h ế Đ ị n h
Tên: Ðinh thế Dũng
Bút hiệu: Phạm thế Ðịnh
- Du học tại Nhật từ năm 1971, qua Pháp học thêm và ở đó đến năm 1989 thì qua Úc.
- Ngành học bên Pháp là ngành Thủy động lực học (Fluid mechanics)
- Ngành học bên Úc: Computing
- Ðang làm việc tại đại học Monash thuộc tiểu bang Victoria, Úc.
Thích nhạc, thơ, văn, sử, triết, thể thao và nhất là bạn hữu
Về Đây
Về đây suối chảy quen rừng
Về đây
đường cũ ngập ngừng đón nhau
Ngỡ ngàng thiên cổ là đâu?
Ô hay!
sau,
trước,
trước,
sau,
cũng là
Về đây soi bóng nhìn ta
Bước đi ngàn dặm
tưởng xa
hóa gần
Về đây
quen thuộc thì thầm
Sách thơm trang giấy
lại nằm gối bên
Về đây
tin bạn rối ren
Hỏi ra,
nghĩ cảnh Ðào Tiềm,
lặng thôi
Về đây nhớ sóng, ôn đồi
Mắt môi đã gặp,
giọng cười đã nghe
Về đây
vườn nhỏ sao khuya
Thềm vui
bước bạn tựu tề hàn huyên
Về đây
nắng dãi lụa mềm
Tổ chim
đông trước vẫn nguyên chạc cành
Về quên áo mũ nặng mình
Dại khôn ngẫm chuyện
Khổng Minh thuở nào
Phạm Thế Ðịnh
Haiku Mùa Đông
nguyên tác : Haiku từ bản dịch Anh ngữ của Yuzuru Miura
dịch : Trương Nhân
bầy chim sẻ
chơi trốn tìm
trong sắc hoa trà
kobayashi issa
mưa tuyết rơi
như rơi vào tận cùng sâu thẳm
cô đơn
naito joso
trong tuyệt vọng
con ong lảo đảo đi tìm
nơi an nghỉ
murakami kijo
biển mùa đông
hải âu bập bềnh trên sóng
như lá rơi
nakamura kusatao
mùa đông
tấm bia mộ bỏ hoang
như dấu mốc chỉ đường
nakamura kusatao
cơn mưa mùa đông như trút
cành hoa nghệ
trổ bông
ono rinka
bờ tường trắng
in chiếc bóng nhạt
đóa trà mi
ishizaki ryokufu
Chú thích : Haiku khi chuyển sang mẫu tự La Mã (Romaji) thường mang thể '5 âm - 7 âm - 5 âm' trong dạng đa âm (multi-syllable). Khi dịch sang tiếng Việt đơn âm, dạng '5 âm - 7 âm - 5 âm' thành dài dòng (theo ý người dịch). Cho nên, để giữ sự cô đọng trong haiku, bản dịch giữ hình thức ba câu nhưng không gò bó theo số âm dùng trong từng câu.
bến đời ta
thôi em,
hết nắng mưa rồi
còn vương chi.
chút bụi.
hời.
trần gian.
dòng đời,
trăm nhánh giăng ngang
đò ta neo.
đón.
em sang bến nầy.
từ em rủ cánh mi
gầy
từ ta giũ
sạch.
bùn lầy.
thế nhân.
thôi,
thì hóa kiếp. phù vân.
cùng ta dạo
khắp hồng trần,
nghe em.
nguyễn hiện nghiệp
Lỗi Vòng Tay
Tôi ngược dốc đuổi mây ngàn
Em ven lối cỏ theo đàn bướm bay
Nên đành tay lỗi vòng tay
Trả về phố cũ những ngày xanh xưa...
lephan
Ðịnh Mệnh
Tôi viết bài thơ rồi bỏ dở
sông ai đã chảy tự bao giờ
qua đời tôi một lần giông tố
chữ nghĩa mình bèo bọt, sao thơ!
Sao, như chuyện nhân duyên đã sẵn
lạ lùng chưa nước mắt biệt người
em mang nắng hanh vàng yên ấm
khóc 1 lần từ tạ sông ơi.
Thơ bỏ dở, sông xưa đại hạn
chẳng chờ nhau, thôi chuyện cơ cầu
qua đời tôi chắc lần định mệnh
thơ tôi buồn, dang dở, tiếc, sao?
Cỏ Nhớ
Bài Thơ Cho Người Ở Lại
Cho Trinh người ở lại
hạnh phúc buồn như mưa
tôi theo trời tháng tám
đi tìm con nắng thưa
Tôi, Trinh cùng thất lạc
bóng đời theo bóng trưa
thấy gì ngoài xa lạ
thiên đường buổi hôm xưa
Cho Trinh người ở lại
hạnh phúc là móc mưa
ơn đời ban bố xuống
trên vai, buồn, đã thừa
vẫn còn thương giòng tóc
hương, một trời rất thơ
xưa đôi ba lần khóc
giờ lau nước mắt làm hề
tóc người, phai, tóc tôi
bàn tay khô níu đời
hạnh phúc là thức giấc
mặc cho mình nỗi vui
hạnh phúc là đứng dậy
soi gương đời mỉm cười
hạnh phúc là thấy lại
trong bóng đời
có bóng Trinh, tôi
Ý Liên
Jan 16, 96
Ngọn Triều Các Nhà Văn Gốc Á Ở Mỹ
Ðó là một buổi tối thứ sáu cuối tuần ở thị trấn ven biển La Jolla phía Nam California. Ðoàn người xếp hàng rồng rắn trước một điểm sinh hoạt để chờ mở cửa. Chuyện gì sắp diễn ra. Buổi diễn của các nhóm nhạc rock mới nổi. Buổi gặp gỡ một ngôi sao điện ảnh được ái mộ? Ðều không phải. Thật là khó tin khi đám đông ấy chen chân tới dự một buổi phát hành sách mới có chữ ký của tác giả. Nhưng ai vậy?
Một fan trong đám đông bỗng gào lên: "Tôi yêu mến chị, Amy ơi!". Té ra đó là Amy Tan, nhà văn nữ Mỹ gốc Trung Hoa, 43 tuổi, một cái tên không còn xa lạ với nhiều người Mỹ. Amy Tan đã nổi danh như cồn sau cuốn tiểu thuyết đầu tay của cô: The Joy Luck Club (Phúc Lạc Hội-đã được dịch sang tiếng Việt, NXB Trẻ 1993), và buổi tối hôm ấy cô tới để giới thiệu tiểu thuyết mới nhất "The hundred secret senses" (tạm dịch 'Một trăm cảm giác bí ẩn'). La Jolla chỉ là một điểm trong chuyến du hành dài khắp nước Mỹ của Amy Tan nhằm quảng bá cho tác phẩm mới-cuốn sách đã lập tức trở nên ăn khách, được tờ Publisher's Weekly đưa vào danh sách các best-seller ngay vào tuần phát hành đầu tiên của nó.
Cái đám đông người kể trên biểu thị sự ái mộ của công chúng dành cho một tài năng thật sự và cũng là một biểu tượng về sự thành đạt của người Mỹ gốc Á tại Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ. Amy Tan cũng tỏ ra rất khéo trong cuộc hành trình quảng bá sách của cô. Cô thông báo về dự án làm phim sắp tới (Phúc Lạc Hội đã được dựng thành phim, với Kiều Chinh và France Nguyễn đóng, đã rất thành công và còn được chuyển thể sân khấu), kể những giai thoại về một ban nhạc rock mà cô từng tham gia, nói về việc viết chân dung những nhân vật nổi tiếng khác như ông vua tiểu thuyết kinh dị Stephen King chẳng hạn. Tất cả những chuyện đó rất hợp với pop culture (văn hoá đại chúng) Mỹ và đã góp phần khiến Amy Tan được ưa chuộng hơn nữa. Song sự nổi danh của cô có một ý nghĩa quan trọng: nó đã thay đổi diện mạo của văn chương Mỹ gốc Á tại Mỹ.
MỞ ÐƯỜNG CHO NHỮNG CÂY BÚT GỐC Á
Gail Tsukiyama, cây bút tiểu thuyết ở California, có cha mang hai dòng máu Nhật-Mỹ, còn mẹ người Hồng Kông, nói: "Amy đã mở cánh cửa. Không ai phủ nhận điều đó".
Thật ra, chẳng phải Amy Tan là người Mỹ gốc Á đầu tiên được chú ý trên văn đàn nước Mỹ. Các nhà văn Mỹ gốc Á đã xuất hiện ở Mỹ cả thế kỷ trước rồi. Và vào thập niên 70, Maxine Hong Kingston đã được các nhà phê bình văn học ca ngợi nhờ hai tác phẩm "Woman warrior" và "China men" viết về tổ tiên Trung Hoa của bà. Mặc dù Hong Kingston đã rất thành công, tác phẩm của bà đặc biệt được yêu thích trong giới sinh viên và trí thức đại học, song từ sau trường hợp đó các nhà văn Mỹ gốc Á tiếp tục bị gạt ra ngoài lề thị trường xuất bản phẩm ở Mỹ. Chỉ tới năm 1989 khi "Phúc Lạc Hội" ra đời, cục diện mới thay đổi hẳn. "Phúc Lạc Hội" đã bán được tới khoảng 4 triệu bản in ở nhiều nước, một con số nằm mơ không thấy nổi với các nhà văn Mỹ gốc Á.
Trước cuốn tiểu thuyết đó, các nhà xuất bản chính yếu ở New York có lẽ chỉ in trong vòng hai hoặc ba năm một tác phẩm của người Mỹ gốc Á, nay thì chỉ trong vòng một tháng có tới hai hoặc ba cuốn được bày lên kệ các nhà sách. Và trước đây văn học Mỹ gốc Á đồng nghĩa với văn học Mỹ gốc Hoa thì ngày nay người ta chứng kiến sự nở rộ các cây bút Mỹ gốc Nhật, Mỹ gốc Triều Tiên, Mỹ gốc Ấn và họ làm nên sự đa dạng về bản sắc châu Á trong làng văn chương Mỹ đương đại. Trong số những người tiếp nối bước chân khai phá của Amy Tan cũng có những tài năng sớm được thừa nhận. Như Belle Yang với tác phẩm "Baba", một hồi ức gia đình người Hoa tràn trề tiếng cười (với lời giới thiệu sách của Amy Tan), như "Face" của Aimee Liu khảo sát những góc tối tăm của khu phốTàu của New York và sự mơ hồ về cội nguồn của những người Mỹ gốc Hoa, như "Native Speaker" của Chang-rae Lee kể về những xung đột thế hệ và sự lánh mình (self-effacement) của những người Mỹ gốc Triều Tiên, như tập truyện ngắn "Arranged Marriage" của Banerjee Divarkaruni với những xung đột văn hoá cố hữu trong cộng đồng Mỹ gốc Ấn.
Những cây bút mới này tất nhiên chưa ai vươn tới tầm Amy Tan, song sách của họ cũng được in cỡ 10000 tới 20000 bản (loại hard cover).
NGƯỜI ÐỌC MỸ GỐC Á ÐÃ TĂNG NHANH
Có một lý do không kém phần quan trọng để ngày càng có nhiều hơn tác giả và tác phẩm Mỹ-Á ở Mỹ, đó là sự gia tăng dân số Mỹ gốc Á tại nước này. Cộng đồng Mỹ-Á đã phát triển nhanh hơn hết so với các cộng đồng thiểu số khác ở Mỹ trong vòng một thập kỷ rưỡi qua, và nay đã đạt tới con số 7 triệu người.
Một phần tư số cử tọa đã đến với Amy Tan vào buổi tối thứ sáu ở La Jolla là người Mỹ gốc Á. Khi được hỏi vì sao chị đã tới dự, một thiếu phụ trẻ trả lời giản dị: "Vì tôi là người Hoa". Amy Ling, một nhà nghiên cứu văn hoá ở trường đại học Wisconsin , cho rằng những người đọc Mỹ-Á đó"đã thiếu những mẫu mực trong quá khứ, họ thật sự khao khát các nhà văn (gốc Á) đó và tìm đến các nhà văn với niềm đam mê". Người đọc gốc Á đã tìm được những câu chuyện kể về ước vọng của những người nhập cư, những câu chuyện kể bằng tiếng Anh, ngôn ngữ mà họ sở đắc trong khi tiếng mẹ đẻ có thể bị lãng quên rồi và cuộc đấu tranh tìm sống ở nước Mỹ của họ đã được vang vọng bởi những áng văn hay. Những câu chuyện kể ấy còn được cộng hưởng bởi những vấn nạn của chính nước Mỹ hôm nay: dân tộc, chủng tộc, sự lỗi nhịp giữa các thế hệ.
Song, như Amy Tan tự khẳng định, cô chẳng có tham vọng lớn lao khi sáng tác. "Khi viết tôi chẳng có chủ định gì cả. Tôi phải viết thật đặc trưng về những nhân vật chẳng đại diện cho bất cứ điềi gì. Ðối với tôi, họ phải là những con người thật, trọn vẹn. Nếu tôi cố miêu tả một cộng đồng lớn thì cầm chắc tôi sẽ thất bạị" Belle Yang có suy nghĩ khác. Cô sinh ra ở Ðài Loan, lớn lên ở California, học tập ở Ðại Học California và tại Học viện Nghệ thuật truyền thống châu Á ở Bắc Kinh. Chính nguồn gốc và hoàn cảnh ấy khiến Yang muốn làm một chiếc cầu nối, muốn giúp người Mỹ "nhìn người Hoa như bè bạn, bà con chứ không phải như những con vật lạ lẫm".
Nay, khi những rào cản đã rơi rụng để cho các nhà văn Mỹ gốc Á có thể yên tâm theo đuổi nghề văn, họ cũng vẫn còn thấy trước mặt một bức tường. Vâng, họ muốn được nhìn như một nhà văn mà không kèm theo đó là một sự xếp lọai nào mang tính chất dân tộc. Nói như Belle Yang: "Tôi căm ghét sự phân loại. Quá trình sáng tác văn học là phổ biến."
Nguyệt Cầm
theo Far Eastern Economic Review 16-11-1995
TT 19-11-1995
Elijah Woods Sẽ Thay Thế Chỗ Macaulay Culkin?
Có hồi các tờ báo lá cải đã ầm ĩ loan tin Elijah Woods phải đem đàn đi bán để trả nợ mà hỏi ra mới biết cậu cần tiền để mua quà tặng mẹ. Mỗi tuần, Elijah Woods được mẹ cho 10USD tiêu vặt, cho dù mỗi phim Elijah đóng được trả tới 1 triệu USD. Một triệu so với 8 triệu của Macaulay Culkin quả là ít, song giữa lúc "cậu bé Home alone" đang cùng anh em - Kieran và Quinn Culkin, cũng đều là diễn viên- sa đà trong rượu bia và những cô bé lớn tuổi hơn để chờ đợi phán quyết của toà New York 4-12 tới về việc cha hoặc mẹ Culkin sẽ được phép giám hộ cậu thì Elijah vẫn sống trong thế giới hồn nhiên của mình.
Culkin đóng phim từ tám tuổi (với Burt Lancaster trong "Rocket Gilbratar, 1988), Elijah đóng phim đầu tay "Avalon" năm 1990. Culkin năm nay 15, Elijah 14 tuổi. Mẹ Elijah-bà Debbie Woods dưới mắt các hãng phim "dễ nói chuyện" hơn "Kit" Culkin - bố của Macaulay, một cựu kép hát hạng xoàng, một kẻ mánh mung, ưa đánh đập vợ chửi mắng con cái. Còn dưới mắt báo chí và giới phê bình điện ảnh thì nếu Macaulay Culkin hách dịch lên mặt bao nhiêu ở cuộc họp báo tại Cannes 94 thì cùng năm đó tại giải Oscar, người giới thiệu giải thưởng Elijah Woods 13 tuổi đã chinh phục cử tọa bằng nụ cười còn trẻ thơ. Culkin vút lên vòm trời Hollywood năm 1990 nhờ phim Home Alone (Ở nhà một mình, phần 1), thu được 285 triệu USD tại Mỹ (tính toàn thế giới được cỡ nửa tỉ USD) nhưng chỉ được trả thù lao 100000 USD, song đã nhảy ngay đến 5 triệu USD ở phim tiếp theo. Sau đó là chuỗi thất bại, đặc biệt là "Good Son" với vai đứa bé giết cha mẹ, anh em ruột, khiến khán giả bàng hoàng, giới phê bình lạnh nhạt. Liên tiếp bốn phim gần đây nhất (mới nhất là "Quí ông bà ở lớp 7) Culkin đều thất bại.
Bây giờ Culkin đang mơ ước một mái ấm như ở đoạn kết phim Home Alone I (I like being home, but not alone)-còn Elijah thì vẫn tiến bước đều đặn, không ồn ào. Từ cậu bé Huck Finn trong phim cùng tên, đứa bé hiền lành bị Culkin tìm giết trong "Good Son", cậu bé mồ côi cha trong "Forever Young", đứa trẻ không tìm đâu ra cha mẹ nào bằng cha mẹ ruột của mình (phim "North"), nay đã có vẻ lớn hơn trong vai con của cựu binh Mỹ ở Việt Nam Kevin Costner (phim "The War").
Thiếu Quân
TT 19-11-1995
30 Con Gái
Ðiện thoại reng trong lúc tôi và chị Nga vừa ăn tối vừa xem ti-vi. Mỗi người đang cầm một cái tô trong taỵ Không ai buồn đứng dậỵ Chị Nga nói trống không:
- I'm not home!
Ô kê, thì chị không có ở nhà. Chằc lại mấy anh gọi rủ đi chơi mà chị Nga không biết cách từ chối khéo.
- Cháu đó hả Mai? Cháu khoẻ không cháu? Có Nga ở đó không cho bác nói chuyện với nó một chút?
Giọng mẹ chị Nga oang oang bên kia đầu máy làm tôi muốn nhằm mằt chùng vai cho màng nhĩ nhỏ đi chút xíụ Tôi miễn cưỡng ngọt ngào lại:
- Dạ thưa bác chị Nga không có ở đây ạ!
- Nói là Nga đi xuống San Jose chơi rồi, không biết chừng nào về.
Tôi nhằc lại những lời chị Nga vừa mớm cho tôi đằng sau lưng. Như một cái máỵ Mà đâu phải đây là lần tiên tôi làm răm rằp những điều nói dối đó. Không chỉ với mẹ chị thôi, mà với khối nhiều người khác. Tôi bực lằm. Nhưng nghĩ cho cùng cũng tội cho chị. Hai mươi chín tuổi rồi mà còn lông ngông không bồ không bịch. Mẹ chị vẫn thường than với bạn như thế. Nó đâu phải loại xấu xa gì. Cũng đâu phải là thiếu ăn thiếu học. Tại nó kén đấy bà ạ! Người nào nó cũng chê. Ðứa thì không đẹp. Ðứa thì không biết ga lăng. Ðứa thì học thấp. Mà tôi đã khuyên nó rồi chứ phải không. Con gái đừng có học cao làm gì. Học bốn năm đại học, ra kiếm chồng cũng khọ Chứ nghe tôi ở nhà làm bậy bạ rồi học may vá nấu nướng thêu thùa thì bây giờ cũng đã có tay bế tay bồng rồị Tôi thấy thời buổi này con trai con gái lấy nhau rồi bỏ như cây thay lá. Chỉ có như các cụ ngày xưa, lấy nhau rồi ráng ở với nhau, thế mà lại lâu dài.
Cái chuyện mẹ chị Nga muốn con gái mình đi lấy chồng, không ai trong tiểu bang Oregon này không biết. Chị Nga tủi thân lằm. Chị thường đùa với tôi rằng mẹ chị muốn tống khứ chị đi cho khuất mằt. Rằng mẹ chị chẳng còn thương chị nữạ Ðối với bà, cha mẹ chỉ thương con gái cho đến khi lấy chồng. Mà chị cứ ở vậy hoài, coi như là "bom nổ chậm," chỉ mang lại tiếng xấu cho gia đình. Chị cười khi nói với tôi những điều đô Nhưng tôi biết rằng trong lòng, mỗi đêm về chị khóc.
Năm ngoái chị Nga quyết định dọn vô ở chung với tôi. Mẹ chị dằn vặt chị mãi. Bà kể lể mỗi ngày. Rồi bà than thở với cả tôi:
- Cháu ạ, cháu đi làm xa nhà thì thuê ra ở riêng không hề hấn gì. Chứ đằng này con Nga nó đi làm chỉ xa nhà có ba mươi phút lái xe, tội gì phải dọn ra chứ. Ðã lấy chồng đâu!
Vừa ra đến cửa xe là chị Nga đã thở phào:
- Nga dọn đi chứ không thôi ở nhà là còn nghe cằn nhằn mỗi sáng dài dài. Chắc chỉ có nước vào bệnh viện tâm thần mất!
Tôi mỉm cười hòa. Ôm chị.
oOo
Ðã mười hai giờ khuya rồi mà chị Nga còn chưa chịu đi ngủ. Chị ngồi dán mằt vào cái màn máy điện toán. Coi vẻ chăm chú lằm. Mằt chị hí hửng. Tay đánh máy lia lịa.
<msg from baroi> haiau: bên này nắng quanh năm, nước lại ấm, chừng nào wa đây chơi cho biết?
<gaco> thì "em" đã nói với ai chưa ? :-)
<msg to baroi> hìhì ... chừng nào baroi gởi vé wa đã nè.
>xí !!! ai cho gọi bừng em mờ gọi chứ ! :-)
Tôi lằc đầu. Lại IRC!!! Cuối tuần thì đi xa. Trong tuần thì mỗi ngày ba, bốn tiếng nói chuyện với những cái tên nghe chẳng giống tên người. Chẳng biết trong đó có cái gì mà chị Nga nói hoài không hết chuyện. Rồi kế tiếp là điện thoại gọi tới tấp. Xin cho nói chuyện với Hải Âụ Dạ Hải Âu chưa tối nên chưa về chuồng. Dạ được rồi, để nhằn lại là có anh Ba Rọi gọị Tôi vừa nói mà vừa cười khúc khích.
Khi những cái tên lạ đó xuất hiện càng nhiều thì cũng là lúc tôi thấy chị Nga vắng nhà càng thường xuyên hơn. Trước khi đi thì háo hức lằm. Nhưng khi về thì mặt mày buồn xo. Tôi hỏi, chị Nga chỉ ậm ừ. Ðôi lúc chị buông thõng thượt vài câu "xời, vậy mà kêu là đào hoa lắm." Hoặc "cũng được, nhưng mà thôi!" Thì tôi biết rằng chuyến đi của chị đã không mang lại nhiều kết quả tốt. Vậy mà chị vẫn cứ đi. Xa cũng đi. Ði bằng máy bay. Gần cũng đi. Ði xe hơi năm sáu tiếng. Ði một cách không chọn lựa. Ði một cách không đòi hỏi gì hơn ngoài một cuối tuần, hay cùng lằm là một tuần, giải trí với một vài người đã tiếp xúc trong IRC nhưng chưa gặp mặt.
Trong khi chị Nga đi "lưu diễn" như vậy thì mẹ chị vẫn cứ gọi mỗi tuần, gạ hỏi tôi xem chuyện tình cảm của chị đi đến đâu rồi. Tôi ngán bằt điện thoại vào mỗi tối thứ bảy, vì biết là mẹ chị Nga gọi chứ không là ai khác. Mà câu hỏi không thể thiếu được của bà là "thế cháu có biết nó đi gặp đứa nào không?" Tôi muốn thâu băng câu trả lời là tôi không biết xin tha cho tôi, rồi vặn lên mỗi lần bà hỏi tôi câu ấy. Chị Nga biết vậy nên lâu lâu vẫn dẫn các "nhân vật" ấy về nhà để khoe với mẹ. Mẹ chị an tâm hơn, cho là chị cũng không đến nỗi ế ẩm gì. Và bà bớt giục chị Nga đi lấy chồng.
oOo
Mùa đông trước sinh nhật thứ ba mươi của chị Nga, chị tuyên bố với tôi rằng chị sẽ đi lấy chồng. Chị chọn đám cưới vào mùa xuân sằp tới.
- Nga thì thích đám cưới mùa thu ghê đi. Từ nhỏ Nga đã mơ mình mặc áo cưới màu trằng ngồi trên đám lá đủ màu vàng đỏ xanh. Nhưng mà nếu đợi đến mùa thu thì Nga đã hơn ba mươi rồi!
Hai giọt nước mằt chảy nhanh tôi không kịp chặn.
- It's okay, chị Nga.
Tôi ôm chầm lấy chị.
Ít khi nào tôi thấy chị Nga khóc ra nước mắt. Chị luôn luôn cười với tôi, mặc dù chị hiểu rằng tôi có đủ khả năng để biết được cái nào là cười thật, cái nào là cười giả. Chị cười trên cái đáng cười. Và chị cười trên cái đáng khóc. Ngay cả trên sự khổ đau của chính chị. Cười xong rồi thì mọi chuyện sẽ lại tốt đẹp. Chị lại bắt đầu một ngày mớị Một ngày như mọi ngàỵ Một ngày không có một dấu vết của sự đau khổ.
- Chị Nga lấy ai? Tôi âu lo nhìn chị.
- Thì anh Gà Cồ chứ còn ai nữa!
Tôi bật cười. Anh Gà Cồ! Cái tên nghe ngộ nghĩnh, hay hay. Tưởng rằng chị Nga cũng sẽ cười theo như thường lệ. Nhưng không. Chị cúi mặt xuống đất, buồn buồn:
- Ở tiểu bang này đâu còn ai nữa đâu Mai! Phải sang tiểu bang khác thôi Mai ơi!
- Nhưng mà chị có chắc là hai người hợp với nhau không? Có suy nghĩ kỹ càng chưa?
- Bây giờ hợp hay không hợp thì cũng vậy thôi! Nga thấy mình chọn lựa kỹ lưỡng, sàng qua sóc lại rồi đâu cũng hoàn đó. Người được cái này thì mất cái kia. Chắc mình chọn đại rồi đến đâu hay đến đó. Ở cái tuổi này thì thà là có mà ly dị còn hơn là chưa có bao giờ. Nga đã sằp ba mươi rồi còn gì!
Lại cái số ba mươi oái oăm đó! Không hiểu ai đặt ra cái luật lệ là con gái phải lập gia đình trước ba mươi tuổi. Bảo đảm ngày trước cái con số thần thông đó là hai mươi chứ không phải là ba mươi như ngày nay. Ấy vậy mà vẫn chưa làm toại nguyện con người!
Tôi không biết nói gì để bù lấp cái khoảng im lặng giữa cuộc đối thoại đó. Chị Nga luôn là người bày tôi cái này, khuyên tôi cái kia. Bây giờ chị rơi vào một hang đá không có lối ra. Con chim hải âu luôn vùng vẫy đi tìm tự do cho đôi cánh đã tự chọn cho mình một cái tổ nơi vùng biển xa lạ. Có phải là một tổ ấm hay không. Tôi không biết. Ngay cả chính chị cũng không biết.
- Thế chị đã nói cho mẹ chị biết chưa?
- Nga chưa nói. Tụi này mới quyết định trong IRC xong. Mẹ Nga có gặp qua anh Gà Cồ hai lần. Mẹ không có ý kiến.
- Thật a? Ngay cả vấn đề tôn giáo?
- Buồn cười nhỉ. Lúc trước thì mẹ Nga bắt buộc phải theo đạo Thiên Chúa. Bây giờ thì chỉ cần lấy con trai là đủ, người Việt hay người ngoại quốc cũng được! Bảo đảm là mẹ Nga sẽ không bác bỏ chuyện Nga lấy anh Gà Cồ đâu! Không bằng lòng mà lỡ Nga ở giá luôn thì chết nữa!
Nói xong câu đó chị Nga mới cười nhạt, vừa quệt tay ngang mũi.
Ðiện thoại reo vang trong phòng bếp khiến tôi giật mình. Tôi liếc nhìn chị Nga thăm dò Chị bảo:
- I'm not home!
- Ô kê, thì chị không có nhà!
Trong khi tôi đi bằt điện thoại thì chị Nga vặn máy điện toán lên. Lại hí hửng. Lại đánh máy răm rằp.
<msg to xuandieu> anh uiiii, em nhớ anh wá hà! :-)
<msg to cachon> nè cà chua, không hỏi me thì me đi chống lầy rớn chịu ờ! :-)
Tôi đã hiểu. Những nụ cười trên khuôn mặt chị Nga. Những dấu hai chấm kèm với dấu ngang và dấu ngoặc đơn. Những câu đùa cợt thân mật với các tên không hình thù và không quen biết đó. Tất cả chỉ là một trò đùa. Chỉ có những giọt nước mắt vừa rồi là có thật. Có thật đến nỗi chị không muốn đối diện với nó trong cái một-ngày-như-mọi-ngày của chị.
Trương-Nguyễn Thi Thanh
Những Mảng Vụn Của Ký Ức
Tôi đang ngồi trong phòng ăn của bà Maria Ivanova. Chiếc bàn trái xoài dài choáng hết chỗ của căn phòng chật hẹp, nhưng bù lại nó lại khiến cho người ta phải nhìn ngắm khung cảnh tuyệt vời bên ngoài qua những khung cửa sổ từ cả ba phía. Bên ngoài là bãi sa mạc hoang vu với đủ các loại cây xương rồng. Những cụm xương rồng xanh e ấp những bông hoa tía đỏ nhỏ li ti nổi bật trên nền cát vàng óng ả thoai thoải theo triền núi làm cho người ta có cảm tưởng như đang ngắm một tà áo lụa vàng tuyệt đẹp rực rỡ trong ánh nắng. Xa xa phía dãy núi hùng vĩ bên kia, lác đác những mái ngói đỏ tía ẩn hiện thấp thoáng trong rừng thông xanh ngát. Một bức tranh thật đẹp với hai thái cực tương phản đồng điệu.
Vừa ngắm nhìn phong cảnh tôi vừa ăn món burrito chay mà bà Maria đã cất công nấu cho tôị Burrito là món ăn Mễ khá thông dụng, chỉ gồm một miếng tortilla cuốn trọn thịt hoặc đậu bên trong, thường ăn với green chili, nước xốt ớt của dân Mễ, có bỏ lên một ít phó mát xay, xà lách và cà chua. Bà nói vì bà bận nên không thể làm món fajita đãi tôi được. Fajita cũng là một món ăn Mễ xào nóng các thứ rau cải chung với nhau rồi cuộn trong tortilla, đây cũng là món ăn Mễ đầu tiên bà nấu cho tôi ăn và cũng là món mà tôi thích nhất. Tôi uể oải ăn từng miếng nhỏ trong khi ông Alex ngồi đối diện với tôi thì ăn một cách ngon lành. Vừa ăn, ông vừa kể lại những chuyện trong chuyến đi về Việt Nam vừa qua. Ông nói rõ ấn tượng của mình về các phụ nữ Việt Nam:
- Cathy, tôi rất thích những người phụ nữ Việt Nam. Họ có những nét đẹp mà người ngoại quốc không có. Ở họ tôi có thể thấy được nét cần mẫn, sự nhẫn nại và kiên trì vượt qua những khó khăn cũng như một tình thương bao la rộng lớn đối với đàn con của họ. Từ những người bán hàng rong cho đến các nhà giáo, tất cả đều có một vẻ đẹp rất Việt Nam, rất đáng để chiêm ngưỡng.
Tôi bật cười trước lời tâng bốc quá thái của ông:
- Alex, có phải ông đang chê rằng phụ nữ của nước tôi nghèo đến mức không có son phấn điểm trang nên có một vẻ đẹp "rất tự nhiên" hay không? Ông đang chê rằng họ phải lao động cật lực đến mức gương mặt họ cũng in hằn dấu vết của những ngày tháng kham khổ?
- Ồ, không có đâu Cathỵ Tôi khen thật lòng đó mà. Tôi thích những gì tự nhiên. Tôi thích nét đẹp tự nhiên của các phụ nữ Việt Nam.
Về điểm này thì tôi biết ông thật lòng. Trước khi chở tôi đến nhà bà Maria, ông đã tâm sự với tôi về những cảm giác ông dành cho một cô gái ở Saigon. Cô là một kỹ sư hoá đang học thêm lớp Anh văn tại trường Ðại Học Tổng Hợp thành phố Hồ Chí Minh. Cô đã giúp hướng dẫn đoàn của ông đi thăm các trại trẻ mồ côi. Ông bảo nhìn cô chảy nước mắt bế một em bé tật nguyền, ông thấy cảm động thấu tâm can. Vì vậy ông nhờ tôi viết dùm cho ông một lá thư để bảo đảm cho những lời hứa hẹn của ông, để cho cô biết rằng tình yêu mà ông dành cho cô rất to lớn, rằng ông sẽ bảo lãnh cô sang Mỹ và với số lương của cựu chiến binh, ông có thể nuôi cô học tiếp đến Ph. D. Ông đã bảo:
- Tôi muốn làm thật nhiều việc cho cô ấy. Cô ấy cũng là một nạn nhân của chiến tranh. Tôi muốn bù đắp cho những mất mát của cô ấy bằng tất cả những gì tôi có được.
Tôi đã im lặng nhìn ông ta. Tuổi của ông cũng đã gần gấp đôi tuổi của cô gái Việt Nam mà ông đang mơ màng nghĩ tới. Ông đã có vợ và hai con, song vợ chồng ông đã ly dị được mười hai năm. Ông cao khoảng gần một mét chín với một vóc người vạm vỡ to lớn. Gương mặt ông đen sạm, với những nét sắc sảo của dân Hispanic. Tôi có được ông cho xem hình của cô gái Việt Nam mà ông yêu thích. Một cô gái có khuôn mặt khá dễ thương và vóc người nhỏ nhắn. Xét tuổi đời và vóc dáng, hai người họ đi với nhau trông giống một đôi đũa lệch. Một viễn ảnh rất Mỹ! Tôi vẫn nghe nói về những cô gái Việt Nam ham tiền đi lấy chồng ngoại quốc để được xuất cảnh. Tôi e sợ rằng cô gái mà ông ta nói đến cũng thuộc loại này nên tôi lưỡng lự chưa chấp nhận lời đề nghị của ông.
Bên ngoài, nắng chợt tắt. Tuyết bắt đầu rơị Tiết trời tháng mười hai. Mùa đông tới thật sớm. Bà Maria phải bỏ thêm củi vào trong lò sưởi vì nhà bà không có hệ thống sưởi hiện đại. Bà sống trong trang trại của mình như một hành giả ẩn tu, xa lánh tất cả những phù hoa phồn thế. Bà nuôi một con ngựa và hai chú chó nhỏ rất xinh. Alex là học trò của bà đồng thời cũng là bạn thân của bà. Thoạt mới quen với bà Maria và ông Alex, tôi vẫn tưởng rằng họ là một cặp, cho đến khi Alex nói về cô gái người Việt mà ông gặp tôi mới biết họ chỉ là bạn thân. Có lần tôi hỏi bà Maria tại sao mà bà không lập gia đình, bà chỉ cười bảo:
- Tôi thích cuộc sống độc lập. Mai này nếu Cathy lớn hơn, Cathy sẽ biết rằng sống độc lập rất thoải mái vì mình không bị ràng buộc vào ai.
Có lẻ tôi thích tính cách độc lập rất hay của bà Maria hơn là vẻ vồn vã thân thiện quá mức của ông Alex. Bà là con cháu của dòng họ quý tộc Nga Ivanov. Tuy đã lớn tuổi, song những đường nét rất "slavic" của bà vẫn nổi bật, nhất là cặp mắt xanh sâu thẳm và cánh mũi rộng. Bà là một chuyên gia xã hội học của viện đại học Arizona; và có lẻ vì ngành nghề của bà, nên khi tiếp cận người khác bà rất cẩn trọng. Không hiểu sao, bà rất thương tôị Bà chỉnh cho tôi từng câu từng lời mỗi khi tôi phát âm sai và mỗi khi đi xa, bà thường mang về cho tôi những món đặc sản địa phương. Thật ra ông Alex cũng rất tử tế đối với tôi vì tôi giúp đỡ ông ta dịch những tài liệu cần thiết một cách tự nguyện mà thôi. Nghĩ đến đó, tôi tiếp tục công việc của mình mặc cho hai người họ huyên thuyên.
oOo
Cuối cùng tôi cũng viết được lá thơ gởi cho cô H, cô gái Việt Nam mà ông Alex đặc biệt quan tâm. Lá thư đó tôi đã phải viết trong vòng một ngày trời. Tôi viết, đọc lại và lại xoá, viết lá thư khác. Sở dĩ tôi phải làm như vậy là vì tôi không muốn cô gái hiểu sai lệch những gì tôi muốn nói. Trong thâm tâm, tôi nghĩ rằng ông Alex không bao giờ thực hiện được những gì mình hứa hẹn với cô. Tôi hiểu rằng người Mỹ rất mau quên, hứa hẹn thật nhiều hôm nay thì ngày mai họ sẽ phủi tay coi như không có gì đã xảy ra. Mặt khác, tôi sợ rằng cô gái đó là một cô gái thuộc loại ham tiền ham xuất cảnh; và nếu sự thật như vậy, cô sẽ khiến ông bạn tốt bụng của tôi đau lòng về sau. Tôi cũng e rằng mối tình của họ sẽ chẳng tới đâu vì sự cách biệt về tuổi tác, ngôn ngữ, và phong tục tập quán quá lớn.
Thư gởi đi vừa đúng một tháng thì tôi nhận được thư trả lời của cô H từ Việt Nam với những lời lẻ của một người đang yêụ. Ðọc lá thư mà tôi run sợ cho chính mình và cho chính cô ta. Thư cô thấm đượm tình cảm của một cô gái lần đầu biết yêu. Từng dòng, từng chữ đều như toát ra từ một trái tim nồng nàn tình cảm. Cô ôm ấp trong lòng hình ảnh của giấc mộng vàng xuất ngoại với người đàn ông ngoại quốc cô chỉ tiếp xúc trong vài ngày. Lá thư tràn đầy lòng tin tưởng vào người đàn ông mà những hình ảnh của quá khứ đầy máu và nước mắt của dân Việt luôn ám ảnh trong đầu. Tôi chợt hiểu rằng tôi không nên nhúng tay vào chuyện của hai người vì tôi đã đoán biết được kết cục của câu chuyện.
oOo
Một buổi chiều mùa hạ nóng nực. Ông Alex và con trai ghé thăm tôi. Ông đem cho tôi một giỏ bánh và trái cây. Ông bảo đó là quà của mẹ ông cho tôi. Mẹ của ông sống trong một trang trại khá lớn ở vùng Nam California. Tôi biết, ông ta chỉ muốn cảm ơn những gì tôi đã giúp ông mà thôi.
Chúng tôi đi ăn trưa ở một nhà hàng Tàu . Tôi nghịch ngợm bỏ thật nhiều ớt vào trong phần ăn của ông Alex và con trai của ông ta. Họ le lưỡi xuýt xoa thật lâu. Tôi biết rõ dụng ý của ông bạn thích "Việt Nam" này. Ông ta muốn giới thiệu con trai của mình cho tôi, nhưng tôi quá nhỏ con còn cậu công tử nhà ông thì cao gần gấp rưỡi tôi và to con như một cầu thủ football. Vì vậy tôi chỉ tinh nghịch "chơi kê" cho vui. Sau một lúc ăn uống, tôi hỏi thăm Alex về cô H, dù rằng tôi đã đoán biết trước những gì đã xảy ra. Ông bảo:
- Cathy, tôi quá già so với cô ấy. Tôi lại bị tật bệnh liên miên. Vả lại văn hoá và phong tục tập quán quá khác biệt. Chính Cathy ở đây đã gần bốn năm mà Cathy vẫn chưa quen với thuần phong mỹ tục của xứ này. Làm sao tôi có thể đảm bảo cho cô ấy được hạnh phúc ở đây. Hơn nữa những cảm giác của tôi ngày nào chỉ là tạm bợ mà thôi.
Khi ra về, tôi mới để ý thấy dáng ông lọm khọm như một cụ già cần gậy chống. Một Alex khỏe mạnh rắn chắc của mấy năm về trước đã biến mất. Thời gian thay đổi mọi thứ.
oOo
Hai tháng sau đó, ông Alex gọi điện thoại báo cho tôi biết ông sẽ về Việt Nam và hỏi tôi có nhắn gởi gì cho người thân hay không. Ông ta còn tỏ ý hối hận là quan hệ giữa tôi và con trai ông chẳng tiến triển đến đâu. Tôi bật cười trước lời than van của ông ta và bảo:
- Con ông có tiêu chuẩn của con ông. Sao lại lấy tiêu chuẩn của ông mà chọn bạn cho con ông? Vả lại tôi chẳng có ý gì đâu?
Tôi không hỏi xem ông có định ghé thăm cô H hay không. Tôi chỉ tiễn ông đi với lời cầu chúc bình an.
oOo
Tôi đến thăm bà Maria vào một ngày đầu năm. Vẫn hai chú chó nhỏ quen thuộc, dù vẻ già nua đã hiện rõ trên lớp lông dài lụ xụ, vẫn chú ngựa già trong chuồng ngựa sau nhà, vẫn bãi cát sa mạc hoang vu xinh đẹp chung quanh căn phòng ăn nhỏ hẹp. Khung cảnh ít thay đổi song bản thân bà Maria đã thay đổi. Bà trông như một bà cụ trong chiếc áo choàng lông. Nét mặt của bà rất mệt mỏi, giọng nói của bà run rẩy thấy rõ. Bà kể rất nhiều chuyện về Alex. Tôi cắt ngang:
- Maria, tôi nghĩ là bà luôn luôn yêu ông Alex. Ðáng lý ra hai người nên sống chung với nhaụ.
Bà Maria cắt lời tôi:
- Cathy, cuộc sống độc lập tuy là buồn nhưng sẽ tránh được những va chạm không cần thiết. Vả lại, tôi đã có chó và ngựa, sách vở là những nguồn tiêu khiển thì cũng không đến nổi chán lắm. Tôi nghĩ để Alex là bạn thân thì tốt hơn là để y làm một người tình của tôi...
- Vậy những khi đau ốm, ai sẽ lo cho bà?
Bà cất tiếng ho rồi mỉm cười nhìn tôi trêu chọc:
- Nếu tôi đau ốm sẽ có những người như Cathy lo cho tôi...
Tôi lắc đầu cười. Tôi cũng như bà, yêu thích nếp sống độc lập. Nhưng cái gì sẽ xảy ra tôi không đoán trước được. Song tôi biết rằng những tình cảm mà tôi dành cho bà sẽ không bao giờ thay đổi vì nhờ có bà tôi mới biết được nhiều điều trong những ngày bỡ ngỡ với cuộc sống tha phương.
Ngồi ở phòng ăn, tôi lại ngắm nhìn vùng sa mạc mênh mông qua cửa sổ. Cuộc sống ở đây thật bình lặng, hiền hoà. Cuộc sống của những con người độc lập...
BCCB
(Lư Ngọc Dung)