vhnt, số 176
22 April 1996
Trong số này:
thư vhnt..................................................................PCL
T h ơ :
1 - Ký ức tháng tư ........................................Phan Lê Dũng
2 - Lục bát cho bốn mùa ........................Nguyễn Phước Nguyên
3 - Im lặng ...................................................Phạm Chi Lan
4 - Yellow light .........................................Lê Thị Thấm Vân
5 - Bố con ................................................Trần Thái Vân
6 - Tâm sự ....................................................J. Nguyễn
B i ê n L u ậ n / Â m N h ạ c :
7 - Tiểu luận, Dân ca Việt Nam (phần 2/2) ........Nhạc sĩ Phạm Duy
8 - Ðêm nhạc Văn Cao và Dương Thiệu Tước .......Phạm Thế Ðịnh
T r u y ện N g ắn / S án g T ác :
9 - Cơm tay cầm (tản văn) .......................................Phú Lê
10- Shiga Naoya : Những quả Nậm của Thanh Bình ............Y Yên dịch
Bạn đọc thân mến,
vhnt #176 mở đầu tuần với bài vở nội dung phong phú như thường lệ, gồm thơ, biên luận âm nhạc, sinh hoạt văn hóa, và các sáng tác đặc sắc khác.
Số này ngoài bài biện luận tiếp theo về Dân Ca Việt Nam của nhạc sĩ Phạm Duy, lại thêm một truyện dịch của Shiga Naoya của văn học Nhật Bản, do anh Y Yên chuyển ngữ và nhờ bạn Nguyễn Xuân Huy đánh máy chuyển đến vhnt trực tiếp qua e-mail.
Theo lời giới thiệu của Y Yên:
Shiga Naoya (Chí-Hạ Trực-Tai 1883-1964) là một trong các nhà văn tiền phong Nhật. Từng theo học văn chương Anh tại Ðại Học Hoàng Gia Ðông Kinh; là một người viết nổi danh với lối văn giản dị và trong sáng đề cao nhân bản, có ảnh hưởng rất lớn đến lớp văn sĩ Nhật thời hậu chiến. Truyện ngắn "SeiBei to Hyotan" (" Những Quả Nậm của Thanh Bình" trong vhnt số này) được sáng tác năm tác giả 30 tuổi. Qua hình ảnh một thiếu niên có năng khiếu nghệ sĩ nhưng bị đì, người ta dễ thương cảm cho lớp mầm non thuộc mọi thờ i đại đã và đang bị còi, lụt cả về tài năng lẫn thể chất bởi những nền giáo dục ngu xuẩn, độc đoán giáo điều, điển h ình như nền giáo dục của nhà nước Cộng Sản hiện tại ở Việt Nam. (trích lời giới thiệu của Y Yên).
Lời trích dẫn này khiến ta nghĩ đến số phận kém may mắn của thế hệ trẻ Việt Nam ngày nay - cả tinh thần và thể chất đều suy yếu, sau bao nhiêu năm bị "đóng cửa trần gian"(*), thiếu cơ hội khai triển tri thức theo một chiều hướng trong sáng, lành mạnh để được tự do phát triển con người một cách tự nhiên.
Anh Y Yên là một dịch giả đã giới thiệu nhiều truyện ngắn xuất sắc gửi đến bạn đọc vhnt trước đây, anh không có internet access từ Nhật, nhưng anh vẫn đóng góp và theo dõi vhnt qua bản in từ NXHuy. Cám ơn anh Y Yên và bạn Huy đã giới thiệu văn học Nhật Bản với vhnt.
Chúc bạn đọc một ngày vui và bình yên.
thân ái,
PCL/vhnt
Ký Ức Tháng Tư
Trên khoảng không bờ vực
Cõi trừu tượng xa vời
Có? Không? Còn chăng nhỉ
Những mơ hồ mù khơi?
Ðánh đu cùng tri thức
Trong mệt mỏi tìm về
Những vỗ về tiềm thức
Mơ vọng thoáng đam mê.
Ta tìm trong giấc ngủ
Những con phố hoang tàn
Ta về trên ký ức
Ngồi ngắm ánh trăng tan.
Tuần hoàn trong cuộc sống
Ta vẫn đợi chu kỳ
Ðôi khi ngoài tầm với
Ai hiểu chuyện đầy vơi?
Ký ức nào huyễn hoặc
Trong sương loãng cuối ngày?
Uẩn khúc nào cô đọng.
Chút rượu ngọt chiều nay?
Giọng hát nào ai oán
Tô dĩ vãng đậm màu?
Khúc nhạc nào cay đắng
Vùi quá khứ vào sâu?
Chiều nay tung trái phá
Ðập vỡ cõi vô hình
Nghe như lòng đàn vỡ
Ngân lên rồi lặng thinh.
Phan Lê Dũng
lục bát cho bốn mùa
có phải bây giờ mùa hè
nên em nghe thoáng tiếng ve rầu rầu
trao nhau một tiếng thương đầu
ngờ đâu, em hỡi... qua cầu gió bay
có phải thu đã về đây
nên em nhớ những hàng cây khô cằn
con tằm trong kén băn khoăn
dưới cành khô, ẩn. trở trăn. giấc buồn.
có phải ngày đã vào đông
nên em nhen ánh lửa hồng ngoài sân
giữa trời - gió, tuyết ái ân
hằn trên mặt tuyết, dấu chân ta. về.
có phải mùa xuân đã về
nên em nghiêng suối tóc thề đầu sông
nắng hôn cỏ nội, hoa đồng
vườn em có cánh bướm hồng tìm sang
nguyễn phước nguyên
im lặng
là thể tích giọt nước
đọng trong tâm hồn
không thể vỡ
không thể rơi
đã thành hình
hay chưa hình thành
im lặng là cát
ngủ vùi biển sâu
im lặng như sóng
chìm vào lòng sông
im lặng đá xanh
ngồi đợi thiên thu
im lặng lá khô
nằm im rã mục
nằm im trăm năm
đất lành bao dung
che chở
im lặng như sự chết
im lặng như tình yêu
im lặng là cuối cùng
là tất cả
và chẳng là gì .
Phạm Chi Lan
Yellow Light
Mỗi ngày
bước ra khỏi nhà
leo lên xe
người và xe
cùng chạy.
Sở làm, siêu thị, hàng quán, nhà thương, trường học,
hẹn hò, thư viện, rong chơi, bạn bè...
ở mỗi góc đường
ở mỗi đoạn đường
là những ngọn đèn
xanh, đỏ
vàng.
Ðèn xanh,
Lisa, Brian, Jefferson, Vickie, Steve.
Peanut butter sandwich, apple pie, roast beef...
Computer, football, snow, credit cards, weekend...
Sharon Stone, Bill Gates, Woody Allen, Toni Morrison...
Equal rights, privacy, affirmative action, multicultural, freedom, melting pot...
Ngẩng mặt, phố xá thênh thang rộng mở,
xăn tay áo, hăm hở:
một hai với đời
một hai với người.
Ðèn đỏ.
Khuôn mặt co rúm, gót chân nứt nẻ, lòng dạ cồn cào.
Ba giờ sáng mắt thao láo theo con thằn lằn di chuyển
trên trần nhà ẩm mốc.
Phố cổ Hộ An, Hà Nội văn vật, bùng binh Sài Gòn.
Áo bà ba, Thúy Kiều làm đĩ cứu cha,
triết lý thằng Bờm, lũy tre làng...
Tàu, Pháp, Nhật, Nga, Mỹ... ào ào vô, ào ào ra.
Bốn ngàn năm: người người tầng tầng lớp lớp
rụng như lá trên rừng.
để đứng ngang đường chỉ: sinh tồn.
mà lòng đầy tự mãn
tự hào
tự vệ
Ðèn vàng,
Ðạp gas: tới đâu tới!
Ðạ thắng: thôi thì dừng...
Này người bạ đường ngồi cạnh,
Mẹ đẻ rớt trên bờ đê ruộng, luống khoai, bãi sắn.
Nhưng sao lại lớn lên trên xa lộ mười lanes ở Mỹ
quốc.
Hỏi những trụ đèn,
sao không chỉ hai màu xanh đỏ
Có làm gì thêm màu vàng cảnh giác.
Làm tôi phải băn khoăn
bứt rứt
đắn đo
khó nhọc...
Lại yellow light
dừng hay chạy đây
hả bạn đường ngồi cạnh.
lê thị thấm vân
Bố Con
Có con vịt bơi
Lông màu trăng trắng
Con hỏi, "bố ơi
Sao lông màu trắng?"
Có chòm mây bay
Trời xanh mây trắng
Con hỏi, "Bố ơi
Cái gì màu trắng?"
Bố định làm thơ
Nhìn tờ giấy trắng
Con hỏi, "Bố ơi
Viết gì trắng trắng?"
Bố nhoẻn miệng cười
Nhìn con khẻ bảo
"Bố làm thơ tình
Ðừng la nhốn nháo"
Xịt... xịt... nói thầm
Ðưa tay bụm miệng
"Bố ơi, chình... tình...
Là gì hở bố?"
Bố bỗng tức cười
Làm sao định nghĩa
Một đời bố yêu
Còn chưa rõ nữa...!
"Hỏi mẹ đi con,"
Con, "Ừ, sẽ hỏi"
"Ðừng mét mẹ con
Bố dạy con nói!"
Con lại đưa tay
Bụm miệng, mắt tròn
Nhìn mây trời trắng
Ú ớ, "chính... con..."
trần thái vân
tặng các bố "già" đa tình, đa cảm...
Tâm Sự
Nhìn bầu trời áng mây buồn bã
Giờ qua đây trước lạ sau quen
Anh ơi sao nỡ lặng yên
Làm em ray rứt triền miên suốt đời
Anh hãy nhắc ngàn lời thuở trước
Những ân tình nguyện ước cùng nhau
Khi em đưa tiễn lên tàu
Hai hàng nước mắt u sầu dâng lên.
Ánh sáng dọi ngày đêm vẫn nhớ
Nước non sao cách trở xa xôi?
Hững hờ tàu chạy xa rồi
Tim em thắt lại bồi hồi nhớ nhung.
Uyên ương sao vạn trùng xa cách
Yến oanh nào lại tách rời nhau?
Bẽ bàng ôm mối hận sầu
Anh đi cưới vợ em rầu héo hon.
Mắt đẫm lệ đâu còn ước vọng
À tình yêu quá mỏng manh thôi
Mai kia ở chốn đoạn đời
Ôm riêng mối hận muôn đời không quên...
Trời đất hởi sao em giữ kín
Tuy biết rồi nhưng tính sao đây
Nói ra thật khổ lòng này
Rằng tim anh vẫn tháng ngày nhớ thương.
Chỉ anh biết dạ anh tường tận
Một đôi khi lẩn thẩn si mê
Lại thêm thê tử bộn bề
Hai ta đều biết nhưng tê tái lòng.
Thôi đành chiụ ước mong gì nữa
Ðừng để lòng héo úa tàn phai
Thở than chỉ hại tương lai
Ngắn dài rộng hẹp bi ai làm gì?
Than trách mãi chỉ vì lầm lỗi
Dài dòng văn chỉ khổ nhau thôi
Tình xưa nay ổn định rồi
Duyên cơ sắp xếp thành đôi vợ chồng.
Ðôi lứa đó do tơ hồng nguyệt
Lứa đôi này do nguyệt tơ hồng
Thành tâm cầu khẩn ước mong
Hai ta cư xử trong vòng anh em.
Bạn bè để cùng xem vận thế
Bè bạn cùng chia sẽ ngọt bùi
Mong sao ở đất quê người
Thay nhau an ủi cho vui cửa nhà...
Mong thay!!!
James Nguyễn
Viết tặng ba tâm hồn: N., L., và K.
Tiểu luận Dân Ca Việt Nam - nhạc sĩ Phạm Duy
(phần 2/2)
Qua cuốn biên khảo này, ta lại có thêm định nghĩa và xuất xứ của ca dao :
* Ca dao là "câu hát" và có những câu do các tác giả nổi tiếng đương thời soạn ra.
* Ca dao còn phản ảnh thời sự và chính trị nữa.
Cuốn biên thảo về "ca dao và nghề nông" này cũng rất có ích lợi cho những người muốn nghiên cứu về ảnh hưởng qua lại giữa nông dân Việt Nam và ca dao.
Theo Hoa Bằng (Hà Nội 1952)
Trong cuốn DÂN TỘC TÍNH TRONG CA DAO do nhà xuất bản Võ Ðất ấn hành Hà Nội vào năm 1952, tác giả Hoa Bằng định nghĩa :
Ca = hát ngân vài giọng ra, khúc hát hợp với nhạc.
Dao = hát trộn, không hiệp với nhạc, kéo dài giọng nói, trẻ con làm cũng được, gọi là "đồng dao".
Hoa Bằng còn đưa ra danh từ "dân dao" nghiã là ca dao do "dân chúng làm ra".
Theo Thuần Phong (Hà Nội, trong thập niên 50)
Thuần Phong, tác giả cuốn CA DAO GIẢNG LUẬN in tại Hà Nội, năm ? , định nghĩa ca dao giống như Hoa Bằng, và thêm danh từ "tục diêu (dao)" mà ông giảng là "những câu tục ngữ bằng thơ lục bát". Cả hai vị vừa kể trên đây đều cho là "có sự liên hệ chặt chẽ giữa ca dao và những câu hát của dân chúng" (tức là dân ca vậy).
Sau khi tác phẩm của Dương Quảng Hàm được coi là sách giáo khoa và được giảng dạy tại các trường Trung Học thì ta thấy các bực giáo sư rất chú ý đến ca dao. Hầu hết những sách biên khảo về ca dao sau này đều do các nhà giáo viết ra.
Tác giả đã viết cuốn sách PHONG TỤC MIỀN NAM QUA MẤY VẦN CA DAO vào năm 1958 nhưng phải đợi đến 1961 mới được nhà xuất bản Khai Trí ấn hành tại Saigon. Ngay trong phần NHẬN XÉT CHUNG VỀ CA DAO, Ðào Văn Hội đã khẳng định :
" Ca dao tức là những câu hát thông thường của dân gian".
Trong phần cuối, ông còn ghi lại một số ca dao mà ông gọi là "câu hát vặt", trong đó có những "câu hát trẻ em". Như vậy là chúng ta có thêm một định nghĩa nữa ràng buộc ca dao vào dân ca : Ca dao là câu hát của dân gian (tức là dân ca) trong đó có nhi đồng ca.
Theo Minh Hương (Saigon 1962)
Trong cuốn HOA ÐỒNG CỎ NỘI xuất bản tại Saigon năm 1962, Minh Hương đã định nghĩa : "Thi Ca Truyền Miệng Việt Nam gồm có Tục Ngữ, Ca Dao, Lời Hát Dặm, Bài Vè... của tác giả vô danh".
Không nói rõ ca dao là "bài hát", nhưng trong bài TỰA của cuốn sách này, ông viết : "Dân gian xưa nay đã sáng tác nhiều câu ví, câu dặm, câu hò, bài vè." Với những định nghĩa đó, đương nhiên ông cũng đã cho ca dao là câu hát của dân gian. Vả lại trong số 1,000 câu thơ truyền miệng mà ông sưu tập trong cuốn sách, một số câu ca dao đã được hát lên thành ra những bài "lý" hay bài "hò".
Trong cuốn HOA ÐỒNG CỎ NỘI này tôi còn thấy tác giả ghi lại những lời ca (ca dao) của những bài như : lý toan tính, lý bánh bò, lý hoa thơm, lý bỏ bìa, lý bông sậy, lý con quạ, lý chim khuyên, hò mái ngởi, hát quan họ... và một điệu chèo là điệu Tò Vò...
Nếu như trước đây, các nhà chuyên khảo về thi ca bình dân đã khởi sự làm công việc góp nhặt, xếp loại, phân tích phần nào kho tàng tục ngữ ca dao rồi thì tác giả Minh Hương, với cuốn HOA ÐỒNG CỎ NỘI này, đã làm công việc đó một cách kỹ lưỡng hơn.
Ông đã chia ra nhiều tiết mục như :
-- Miếng Ăn,
-- Tình Cảm,
-- Thuật Sống,
-- Tín Ngưỡng và Tập Quán,
-- Thiên Nhiên,
-- Loài Vật,
-- Thuật Diễn Tả,
-- Nụ Cười...
... và đưa tục ngữ ca dao vào từng tiết mục đó với mục đích tối hậu là cho người đọc "thấy được cả một nền thi ca nhân văn, đề cao khả năng và giá trị của con người tự do". Ông mời mọc đọc giả cùng ông mở một cuộc hành trình mà ông gọi là "tìm về nguồn cội Việt Nam".
Theo Tổ Văn Học Dân Gian (Hà Nội 1963)
Các nhà khảo cứu của Tổ Chức Văn Học Dân Gian, trong cuốn CA DAO VIỆT NAM TRƯỚC CÁCH MẠNG do Viện Văn Học Hà Nội xuất bản năm 1963 đã định nghĩa :
Ca = câu thành khúc điệu.
Dao = câu không thành khúc điệu.
Dân Ca = bài hát có nhạc điệu nhất định.
Họ còn khẳng định : "...hầu hết Dân Ca Việt Nam là ca dao có khúc điệu, có tiếng đệm, tiếng lót". Ðến đây thì ta đã có một định nghĩa gắn chặt dân ca vào ca dao.
Theo Phạm Văn Diêu (Saigon, trong thập niên 60)
Vào đầu thập niên 60, trong cuốn VĂN HỌC TRUYỀN KHẨU VIỆT NAM ấn hành tại Saigon, Phạm Văn Diêu đã cho rằng : " Tục ngữ, ca dao tuy có từ lâu đi, nhưng chỉ được các nhà nho ghi chép lại vào cuối thời nhà Lê, đầu thời nhà Nguyễn bằng cả hai thứ chữ Nôm và chữ Hán".
Phạm Văn Diêu kể ra những cuốn như :
-- Nam Phong Giải Trào của Trần Liễu An, cuốn này được Liễu Văn Ðường in lại năm 1910.
-- Nam Phong Ngữ Ngạn Thi của Trần Liễu An và Ngô Hạo Phu, dịch tục ngữ ra thơ Hán theo kiểu Kinh Thi.
-- Quốc Phong Thi Hộp Thái và Quốc Phong Thi Diễn Ca, do Mộng Liên Ðình Thi biên soạn bằng chữ Nôm và chữ Hán.
-- Ðại Nam Quốc Tuý của Ngô Giác Ðậu.
-- Nam Phong Thi Tập in thi Duy Tân.
-- Nam Quốc Phương Ngôn Tục Ngữ Bi Lục của Quan Văn Dương, 1914.
Rồi ông cũng nói đến công trình của những nhà biên khảo ghi chép ca dao tục ngữ khác như :
-- Câu Hát Góp của Paulus Của, in bằng quốc ngữ tại Saigon, 1910.
-- Gương Phong Tục của Ðào Duy Ðình.
-- Câu Hát Ðối và Câu Hát Huê Tình, do Ðặng Lễ Nghi chép, in tại Saigon trong những năm 1915 và 1917.
-- Câu Hát Ðối Ðáp của Ðặng Trọng Quờn, Saigon 1915.
-- Ngạn Ngữ Sư Loại Lược Biên của Ưng An, Huế 1922.
-- Nguyệt Hoa Vấn Ðáp và Trống Quân Ðối Ca của Vũ Huy Thụ, in tại Hà Nội trong những năm 1923 và 1927.
Phạm Văn Diêu còn nói tới công trình của Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc qua hai tập TỤC NGỮ PHONG DAO mà ông cho là : "giản dị, tiến bộ nhất so với những sách biên khảo về ca dao từ trước tới nay".
Trong kho tàng Văn Học Truyền Khẩu, gồm Tục Ngữ, Ca Dao và Truyện Cổ, Phạm Văn Diêu cho rằng : "...ca dao là hình thức diễn xuất tự nhiên nhất, và là tiếng thơ bình dân được hát lên". Tác giả còn kể ra nhiều loại ca dao được hát lên ba miền như : "hát soan, hát trống quân, hát quan họ, hát dặm, hò mái nhì, hò huê tình vân vân..."
Qua những tài liệu dẫn kể, cũng như qua sự nhận định riêng của mình, tác giả cuốn VĂN HỌC TRUYỀN KHẨU đã bỏ hẳn danh từ phong dao và minh định ca dao là bài hát, dù trong phần định nghĩa ông cũng dẫn Từ Nguyên, Khang Hi Từ Ðiển ra để giải thích chữ "ca dao" như các nhà biên khảo khác. Duy chỉ có phần nói đến nguồn gốc của ca dao, thì ông Diêu cho rằng : "...ca dao không hẳn là do quảng đại quần chúng soạn ra".
Ca dao có thể có tác giả là các nhà nho thủa xưa, vốn là cấp "hàn nho", sống gần gũi với nhân dân hầu hết thuộc vào hạng "tiểu nông". Tuy là hai giai cấp khác nhau, nhưng giữa nhà nho và nông dân đã không có gì là cách biệt cả. Theo ông, khi xưa các nhà nho thường "...cầm đầu các nhóm để đi thi hát và chính trong những cuộc hát thi này mà những câu ca dao hay những câu hát mới mẻ đã được ứng khẩu soạn ra".
Phạm Văn Diêu (mà nhiều người đã biết ông là cháu của Thủ Tướng Phạm Văn Ðồng) còn nói : "...Từ năm 1946 đến 1964, chính quyền Cộng Sản đã lợi dụng uy tín của ca dao và chủ trương cho các văn nghệ sĩ có tân học lãnh nhiệm vụ tuyên truyền chủ nghĩa và đưng lối qua ca dao, do đó cái gọi là thi ca bình dân, là văn nghệ của đại chúng đã nghiễm nhiên là của đám người có học vấn, đồng thời cũng là văn nghệ sĩ như Tố Hữu, Nguyễn Ðình Thi, Thanh Tịnh... chế tác ra ! "
Phạm Văn Diêu kết luận : "...Vậy nền văn học truyền khẩu trong dân gian mà người ta thưng gọi là văn chương bình dân, và cũng để chỉ tục ngữ và ca dao, chung quy là một nền văn học thích hợp với quần chúng chất phác và hồn hậu, nhưng chữ bình dân hoặc chữ dân gian cần phải được hiểu là nhu cầu tâm lý bình dân hay là biểu thị tâm lý dân gian mà thôi".
Như vậy, ta có định nghĩa của Ông như sau :
Ca dao là dân ca
Dân ca là do tác giả, phản ảnh tâm trạng của dân chúng, tạo ra.
Theo Nguyễn Trúc Phượng (Saigon 1964)
Trong cuốn VĂN HỌC BÌNH DÂN, ấn hành tại Saigon 1964, tác giả này đã định nghĩa : "...Ca dao là câu hát hay bài hát ngắn, lưu dụng truyền khẩu trong trí thức bình dân, mô tả tính tình, phong tục, tập quán, hình ảnh quê hương Việt Nam". Và ông cũng đưa ra những cái tên "phong dao, đồng dao "do Dương Quảng Hàm đã lập luận trước ông gần 20 năm, kể cả danh từ "dân dao" mà tác giả Hoa Bằng đã nói đến trước đây.
Ðịnh nghĩa "ca dao là câu hát hay bài hát ngắn", ông còn chia ca dao ra nhiều loại như : "...hát keo, trống quân, giã gạo, đưa đò, hát quan họ, hát đúm, hát văn, hát cách, hát nhịp bẩy, hát xẩm, hát giao duyên, hát bồng mạc, sa mạc, hát lý, hò, nhi đồng ca." Tất cả những loại hát này đã được chúng ta hiểu theo danh từ hiện đại là dân ca.
Trong 445 trang sách, chúng ta thấy ông đã dành 50 trang cho truyện cổ. 50 trang cho những câu ca dao (theo ông) đã "trở thành bài hát". Còn lại 300 trang với khoảng 2,000 câu ca dao (theo ông) được coi như thuần túy thì tôi nhận thấy một số câu đã trở thành dân ca như : "cây trúc xinh, lý bỏ bìa, lý quay tơ, lý bánh bò, hò mái ngời, lý cú rũ, hát trống quân, lý triền triện, hò rố khuầy, lý ru con, hò ru con, hò ru con lối Huế, trấn thủ lưu đồn, ví đò đưa, ví phượng vải..."
Nguyễn Trúc Phượng, trong cuốn Văn Học Bình Dân này, cũng xếp loại ca dao vào nhiều mục, như :
-- Ý Chí Con Người, trong đó ông kể ra những câu ca dao có tính chất chống đối, đả phá của người đàn bà Việt Nam thi "nam tôn nữ ti" khi xưa. Ông còn xếp đặt ca dao vào những mục :
-- Phản ảnh Ðời Sống Tinh Thần,
-- Ðời Sống Vật Chất,
-- Hình Ảnh Gia Ðình,
-- Tình Yêu và Hôn Nhân . . .
Ông nhấn mạnh tới những bài ca dao nói lên lòng ái quốc chân thành, và mong rằng tác phẩm của mình có thể đóng góp vào việc "xây dựng một đời sống thăng bằng, đạo đức, tươi vui, thoải mái."
Theo Nguyễn Tấn Long và Phan Canh (Saigon 1969)
Trong cuốn biên khảo THI CA BÌNH DÂN VIỆT NAM, do nhà xuất bản Sống Mới Saigon ấn hành năm 1969, hai tác giả này đã bỏ rất nhiều công ra để sưu tập, phân loại các bài ca dao phản ảnh từng bộ mặt của xã hội Việt Nam khi xưa. Hai ông còn ghi lại một số câu ca dao ra đi năm 45, đây rõ ràng là thứ thơ truyền miệng chống Pháp và Nhật, ca tụng sự trở về với quê hương dân tộc :
Tưỏng rằng tầu lặn tầu bay,
Nên anh bỏ việc cấy cầy mà đi,
Biết rằng cu lít cu ly,
Thà rằng cứ nhà quê với nàng!
Nhà quê có họ có hàng,
Có hàng có xóm nhỡ nhàng có nhau.
Châm biếm những người bỏ đồng quê chạy theo vật chất phù phiếm làm nô lệ cho Pháp:
Ðồn vui thăm thú thị thành,
Kiếm ăn cũng khó công danh ra gì!
Ra mà lãnh chức cu ly,
Thà về quê cũ giữ nghề canh nông.
Mảng vui cơm tấm ổ rơm
Tuy rằng cũ kỹ mà thơm sạch lòng
Hơn ai gạo tấm lầu hồng,
Ðem thân luồn cúi vào vòng lợi danh
Cậu kia cắp sách đi đâu,
Cậu học chữ Tầu hay học chữ Tây?
Học chữ Tây không tiền, không việc,
Học chữ Tầu ai biết ai nghe?
Chi bằng về chốn thôn quê,
Cấy cầy còn được no nê tối ngày.
Ca dao chống Nhật :
Ai ơi khổ nhất trồng đay...
(câu này đã được Nguyễn Trọng Lực ghi lại)
. . . . .
Mấy năm thiếu gạo vì ai?
Làm dân ta chết mất hai triệu người!
Ta thì khóc, nó thì cười,
. . . . .
Tầu cười, Tây khóc, Nhật no,
Việt Nam hết gạo chết co đầy đường"
(nạn đói Ất Dậu)
Thời kháng chiến, có ca dao cổ động tăng gia sản xuất :
Muốn cho dân mạnh nước giầu,
Tăng gia sản xuất để cầu tự do.
Khuyên em chớ quản nhọc nhằn,
Cầy sâu cuốc bẫm nuôi tầm ươm tơ,
Bao giờ Ðộc Lập Tự Do,
Cả nhà ta mới cơm no áo lành
Ca dao chống nạn mù chữ :
Rủ nhau đi học i tờ,
Xem kinh, đọc báo, coi thơ dễ dàng.
Cô kia vừa đẹp vừa ròn,
Cô không biết chữ ai còn lấy cô?
Rủ nhau đi học i o,
Mỗi ngày một chữ con bò cũng thông.
Hai tác giả này đã cho ta thấy ca dao là phản ảnh trung thực của xã hội. Thời đại nào cũng có những câu ca dao mang cả tinh thần chống đối lẫn tinh thần xây dựng.
Theo Vũ Ngọc Phan (Hà Nội 1978)
Trong những năm gần đây, người nghiên cứu văn học truyền miệng hay văn học bình dân đã bắt đầu ràng buộc chặt chẽ ca dao vào dân ca. Trong cuốn sách biên khảo nhan đề TỤC NGỮ -- CA DAO -- DÂN CA VIỆT NAM do nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội Hà Nội ấn hành năm 1978, Vũ Ngọc Phan đã đưa ra nhận định : "ranh giới giữa ca dao và dân ca không rõ (rệt)". Rồi ông cũng định nghiã :
Ca dao = thơ 4 hoặc 5 chữ, lục bát, song thất lục bát, chỉ ngâm lên nguyên câu, không có chữ đệm, chữ lót.
Dân ca = ca dao hát lên có chữ đệm, thành khúc điệu, chỉ thông dụng trong một địa phương mà thôi.
Tổng Kết
Chúng tôi đã chọn một số sách biên khảo về văn chương bình dân hay nói rõ hơn, về thi ca truyền miệng, xuất bản tại Việt Nam trong vòng 50 năm, từ công trình của Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc (1928) cho tới khảo luận của Vũ Ngọc Phan (1978) để rút ra một kết luận riêng cho việc dẫn dắt tuổi trẻ Việt Nam trở về con đường dân ca như chúng tôi mong muốn.
Tục ngữ là gì?
Trước hết, các vị tiền bối đã cho ta thấy trong phạm vi tục ngữ mà các cụ định nghĩa là "câu nói có ý nghĩa, dễ nhớ vì có vần có điệu, lưu hành bằng cách truyền khẩu từ đi này qua đi khác", có nhiều danh từ cũng có chung một định nghĩa như tục ngữ. Chẳng hạn :
ngạn ngữ = lời xưa truyền lại.
thành ngữ = câu nói có sẵn, không thi vị người ta quen dùng.
Trong tục ngữ lại còn có cả :
sấm ngữ = lời tiên tri.
mê ngữ = câu đố.
lí ngữ = lời phải trái.
Và cũng trong gia đình tục ngữ, người xưa còn có thêm :
phương ngôn = tục ngữ của một địa phương.
châm ngôn = câu nói khuyên răn đi.
Ca dao là gì?
Còn chữ "ca dao" mà các cụ định nghĩa là : "bài hát ngắn lưu hành trong dân gian" (tức là dân ca theo quan niệm thời nay) thì ngoài danh từ đó ra còn có :
phong dao = câu hát dân gian, tả phong tục tập quán.
đồng dao = bài hát của trẻ em (nhi đồng ca).
dân dao = ca dao do dân chúng làm ra.
Cuối cùng, lại có cả một danh từ, có vẻ như là câu nói tắt của hai chữ "tục ngữ -- ca dao" :
tục diêu (dao) = tục ngữ bằng thơ lục bát.
Ai sáng tác ca dao?
Một giả thuyết rất hấp dẫn được đưa ra, mà Phạm Văn Diêu là người cả quyết nhất, chủ trương : Ca dao là thi ca truyền miệng có tác giả chứ không hẳn chỉ là của quần chúng vô danh.
Hơn nữa, dù là của quần chúng vô danh hay của tác giả, ta vẫn thấy công dụng của ca dao là : Ca dao làm ra để hát, ngoài những câu hay những bài có tính chất mô tả tình phong tục tập quán còn là những câu hát về thời tiết, về thời sự, tóm tắt lại là những câu hát, những bài hát có dính dấp đến chính trị, có tính chất tuyên truyền nữa.
Dân ca cổ = Ca dao
Mối liên hệ giữa dân ca cổ và ca dao là : Toàn thể hình thức thơ truyền miệng hoặc một bộ phận trong đó là ca dao, không hoàn toàn trở thành những bài hát dân gian, tức dân ca, nhưng ta có thể nói rằng một phần lớn dân ca cổ đều xuất xứ từ ca dao. Nếu các vị tiền bối của chúng ta chỉ mới khẳng định là có một sự liên hệ rất chặt chẽ giữa ca dao và dân ca qua những tác phẩm vừa được nêu ra thì qua phần tới của tiểu luận này, chúng ta sẽ tìm hiểu sự liên hệ đó ra sao với phương pháp nhạc học thuần lý.
Ta có thể lập luận một cách rõ ràng hơn nữa về sự liên hệ giữa ca dao và dân ca :
Theo truyền thống văn học nghệ thuật bình dân Việt Nam, thơ không tách rời khỏi nhạc. Lời thơ đầu tiên có thể là câu hát đầu tiên. Như vậy, giữa dân ca và ca dao không có ranh giới. Có phân biệt thì chỉ là khi nói tới ca dao, ta nghĩ đó là thơ dân gian. Khi nói tới dân ca, ta nghĩ đó là một thể loại ca nhạc. Hiểu theo cách thông thường:
Ca dao là dân ca tước bỏ đi những tiếng đệm, tiếng láy.
Dân ca là ca dao đã trở thành câu hát, bài hát, điệu hát.
Phạm Duy
Sau đây là bài đọc của anh Phạm Thế Ðịnh trong đêm nhạc Văn Cao và Dương Thiệu Tước tại Melbourne, Úc, ngày 16/12/1996. Tuy thời gian qua đã hơn 4 tháng, nhưng những thông tin về Văn Cao và Dương Thiệu Tước trong bài đọc vẫn còn có giá trị nên tôi đã trích đăng lại hầu phục vụ bạn đọc của VHNT.
Dung Nguyen
oOo
Bài đọc vào đêm nhạc Văn Cao & Dương thiệu Tước ngày 16/12/95 tại Melbourne
Vài lời về hai nhạc sĩ Dương Thiệu Tước và Văn Cao.
Trong các bộ môn văn học nghệ thuật của nước ta, ngành tân nhạc tuy rất trẻ (chưa đến 60 tuổi) nhưng lại được phát triển rất mạnh, một phần nhờ bởi lòng yêu thích của đại đa số dân chúng, và một phần nhờ bởi những đóng góp của những nghệ sĩ tài danh.
Hai trong số những nhạc sĩ xuất sắc tiền phong có công đầu trong lãnh vực này, vừa vĩnh viễn rời chúng ta ra đi cách nhau chưa đầy một tháng: Nhạc sĩ Văn Cao từ trần vào ngày 09/07/1995 hưởng thọ73 tuổi; Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước mất ngày 01/08/1995 hưởng thọ 82 tuổi.
Nhạc sỹ Dương thiệu Tước dòng giõi cụ Nghè Dương Khuê, tác giả của nhiều bài hát nói nổi tiếng của thế kỷ 19, mà chắc hẳn rất nhiều người trong chúng ta còn nhớ bài thơ "Khóc Bạn" của cụ Tam Nguyên Yên Ðổ với hai câu đầu "Bác Dương thôi đã thôi rồi. Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta" . Dòng giõi một bậc đại khoa, gia đình khá giả, nhạc sĩ Dương thiệu Tước xuất ngoại du học tại Paris về ngành âm nhạc. Khi về nước, ông mở một tiệm bán đàn tại phố Hàng Gai Hà Nội và tiệm này đã trở thành nổi tiếng ngay với người nhạc sĩ đẹp trai tài hoa này.
Năm 1938 là một năm quan trọng của làng nghệ thuật Việt Nam vì nó đánh dấu sự khai sinh của nền tân nhạc của đất nước. Với sự trưởng thành của Quốc Ngữ nhờ bởi các phong trào Ðông Kinh Nghĩa Thục, Nam Phong và Tự Lực Văn Ðoàn, các nhạc sĩ tiên phong của Việt Nam đã bắt đầu sáng tác một số những ca khúc đầu tiên.Dương thiệu Tước là một trong những nhạc sĩ tại Hà Nội đóng góp những viên đá làm nền cho toà lâu đài tuyệt diệu này, ngoài ra ta có thể kể đến Thẩm Oánh, Trần Quang Ngọc, Nguyễn Xuân Khoát, Phạm Ðăng Hinh, Nguyễn văn Tuyên và Lê Thương.
Ðiểm đặc sắc nơi những nhạc sĩ tiền bối này là họ đều muốn phát triển một nền âm nhạc mới như phong trào thơ mới trước đây. Vì nhạc sĩ Dương thiệu Tước đàn rất hay và học nhạc tại chính Paris, nên ngay từ thuở bắt đầu ông đã sáng tác một số những bài nhạc có tính cách Tây Phương không lời cho đàn Hạ-uy-cầm như bài Joie d'aimer (Thú Yêu Ðương), Souvenance (Hoài Cảm), Ton doux sourire (Nụ cười em hiền dịu) . Những bản nhạc này đã được nhóm Myosotis (Hoa Lưu Ly gồm Dương thiệu Tước, Thẩm Oánh, Vũ Khánh, Trần Dư, Phạm văn Nhường ...) trình diễn tại những sa lông và rạp chiếu phim vào những dịp gây quỹ từ thiện.Những bài nhạc sau này của ông như Tâm Hồn Anh Tìm Em, Một ngày Mà Thôi, Bóng Chiều Xưa vẫn còn giữ những điệu chịu ảnh hưởng nhạc khiêu vũ Pháp thời lãng mạn, có thể nói là ông có công đầu đưa những điệu nhạc khiêu vũ như Tango, Valse vào nền tân nhạc Việt Nam.
Mặc dầu vào thưở ban đầu, nhạc sỹ Dương Thiệu Tước chủ trương là đã có văn sĩ Việt Nam viết tiếng Pháp rất giỏi (như thạc sĩ Phạm Duy Khiêm), thì nhạc sĩ Việt Nam cũng rất có thể sáng tác được những bài nhạc hay có âm điệu Tây Phương, và ông đã tiền phong phạt cỏ, xây đường cho nhánh ấy, để lại những tác phẩm bất hủ muôn đời như Hội Hoa Ðăng, Ước Hẹn Chiều Thu... nhưng ông cũng không bỏ những nét nhạc đặc thù dân tộc. Trong những bài như Chiều mà ông phổ thơ Hồ Dzếnh, nét Ðông Phương đã hiện lên trên cái phông của nhạc khiêu vũ Tây Phương. Và cho đến khi ông vào Huế, đắm đuối với giọng hò trên giòng sông Hương, với người đẹp đất Thần Kinh (ca sĩ Minh Trang) cũng như không khí cổ kính Á Ðông thì nét Cổ Phong Dân Nhạc đã được ông đưa vào tân nhạc một cách tuyệt vời. Những tác phẩm như Ðêm Tàn Bến Ngự, Tiếng Xưa... với tiếng đàn tranh đầu tiên trong tân nhạc đã được đưa vào hồn dân tộc vĩnh cửu.
Văn Cao trẻ hơn Dương Thiệu Tước 9 tuổi. Ông xuất thân nhà nghèo tại vùng cảng Hải Phòng, mặc dầu rất có khiếu về âm nhạc (ông đã được phụ thân cho học cổ nhạc), hội họa (ông đã có giai đoạn theo học trường Quốc Gia Mỹ Thuật Ðông Dương Hà Nội)... ông đã phải rời ghế nhà trường từ sớm, và luôn luôn chịu cảnh nghèo túng. Khác với Dương thiệu Tước bắt đầu sự nghiệp trong các điệu khiêu vũ lả lướt dịu êm, Văn Cao bắt đầu cuộc đời sáng tác của ông với những bài nhạc cộng đồng hướng đạo thanh niên phổ biến bởi nhóm Ðồng Vọng của nhạc sĩ Hoàng Quí, như Vui Lên Ðường, Gió Núi, Ðống Ða, Thăng Long Hành Khúc... Nhưng Văn Cao cũng sáng tác nhạc tình và nhạc tình của ông đã đưa nền tân nhạc Việt Nam đến chót ngót của vùng trời lãng mạn với các tác phẩm như Thiên Thai, Trương Chi, Suối Mơ, Ðàn Chim Việt... Trong thời kháng Pháp, Văn Cao có sáng tác một số những bài nhạc hùng ca rất hay như Sông Lô, Bắc Sơn, Làng tôi... Sau 1954 Văn Cao ở lại miền Bắc và tham gia phong trào Nhân Văn Giai Phẩm chống lại những quá khích, cực đoan của đảng Cộng Sản Việt Nam. Ông giữ được tâm hồn bất khuất cho đến ngày từ trần. Tuy rằng ông đã bặt sáng tác nhạc từ lâu nhưng tài năng và sĩ khí của ông vẫn còn được giữ lại trong những bài thơ cũng xuất sắc như nhạc của ông.
Sau đây, chúng tôi xin hân hạnh mời quí vị bước vào đêm nhạc Dương thiệu Tước và Văn Cao, với những khúc nhạc lung linh, sống động, hùng tráng hoặc lãng mạn, cổ phong. Những khúc nhạc, như sữa mẹ Việt Nam, như gạo bố Việt Nam đã nuôi nấng và đúc kết lên một số chúng ta.
Phạm thế Ðịnh
(05/12/95)
Cơm Tay Cầm
Ngày xưa bọn tôi có vài tiếng lóng để chỉ những ai nhai bánh mì trừ cơm là ăn cơm tay cầm hay thổi harmonica. Những tiếng này rất được phổ cập vào lúc cuối tháng. "Tiền-lính, tính-liền ". Ngày đầu tháng thì cơm gà cá gỏi, hễ tới giữa tháng trở đi thì không mì gói cũng cơm tay cầm.
Ai cũng nói KQ chúng tôi hào hoa. Phải trong chăn mới biết chăn có rận. Ngoài mặt thì tươi tỉnh, lên đồ láng cóng đi chơi với em nhưng trong túi nhiều khi gần cạn rỗng. Lỡ mang tiếng phong nhã nên đành đóng trọn vai trò. Ôi hết ra tiệm này lại vô quán nỗ Giã từ người đẹp trở về căn cứ thì mặt mày cứ như khỉ ăn ớt vì tiền còn đâu nữa mà vào câu lạc bộ. Thôi thì như các anh hùng hảo hán khác, ai sao mình vậy, cơm tay cầm hoặc mì gói ta làm chuẩn đều chi. Ráng đếm từng ngày cho đến kỳ lương tới.
Tôi cũng vậy. Hơn sáu năm trong lính thú thật có bao lần được vi vút trọn tháng. Ðếm được trên đầu ngón tay. Còn ngoài ra thì cũng rán luyện công cho bắp thịt tay thêm phần rắn chắc. Người ta lịch sự ăn cơm bằng đũa bằng nĩa, mình dân lính tráng ăn bằng tay chẳng là thoải mái hơn hay sao, chưa hề học nhưng thổi harmonica mấy ai sánh bằng. Thế nên, không phải khoe, đi đến chân trời góc biển nào cũng mò ra cho được mấy xe bán bánh mì. Vì nếu không tìm ra cho lẹ thì có nước nhắm mắt nuốt trệu trạo ba cái baoC Ration cho mà đỡ cơn đói lã.
Gần đây gặp những người mới từ SG qua họ hay nhắc tới bánh mì Hà Nội, mọi ngã đường chỗ nào cũng thấy. Tôi lấy làm lạ. Ngày xưa chỉ biết có quán bán bánh mì thịt, jambon, paté, gặ có tên Hà Nội ở đường Cao Thắng hay Nguyễn Thiện Thuật gì đó. Chỉ nơi đó là chính gốc thôi sao bây giờ đâu mà ra lắm thế.
Có người nói bánh mì Hà Nội ngon nhất, ai đó cãi lại Sáu Voi được hơn. Theo tôi thì ở đâu cũng ngon, vấn đề là lúc nào mình ăn thôị Bụng đói thì miếng bánh mì bỏ tí đường cát trong ruột nhai ngồm ngoàm ngon không kém lúc đầu tháng tiền dư được bạn bè đãi khúc bánh mì phết bơ trong lại kẹp theo thịt thà đủ thứ. Dĩ nhiên khi đói thì món tầm thường cũng có thể trở thành cao lương mỹ vị.
Ngon nhất, theo tôi, là tiệm bánh mì kế rạp hát Tân Tân ở Nha Trang. Ai mà chưa nếm mùi bánh mì thịt ở đây là một thiếu sót lớn. Không biết sau 75 chủ nhân còn ở đó không. Nói chung bánh mì ở đây cũng như ở nơi khác, không có gì đặc sắc. Nhưng nếu ăn ổ bánh mì kẹp thịt thì ngon không chê được. Chủ nhân chế biến một loại nước sốt rất ư là ngon. Tôi nói không ngoa đâu, chỉ cần chan cái nước sốt này lên ổ bánh mì phết bơ là ăn đã ngon rồi, nói chi thêm vài lát thịt heo thơm thơm dai dai, chút pâté gan, một miếng dưa chuột, một cọng hành lá, vài lá ngò tươi thêm đôi miếng ớt đỏ đi kèm. Nhớ lúc còn học sinh ngữ ở Nha Trang, tôi và vài tên bạn thân thiết cùng khoá ghiền ăn đến nỗi chủ quán biết mặt. Chỉ thấy bóng chúng tôi lù lù đến là bà ta tự động làm, khỏi cần phải hỏi han chi cho mệt.
Thứ nhì là bánh mì Vĩnh Chấn tại Hoà Bình,Ðà Lạt. Cái tiệm Tàu này làm bánh mì baguette ngon như Tây. Trời lành lạnh, mưa phùn bay lất phất. Mặc áo lạnh cổ mang khăn vào tiệm đứng chờ mua cho được mấy ổ mới ra lò. Bánh nóng hổi còn thơm mùi bơ. Vừa đi vừa ăn thật ngon quá đỗi.
Thứ ba là hai xe bánh mì trước rạp hát Diệp Kính kế bến xe lam tại bùng binh thị xã Pleiku. Bùng binh này cũng là nơi mà những anh em KQ Pleiku ra phố chơi, lúc về đứng đón xe tại đây. Truyền thống chúng tôi là "không bỏ anh em, không quên bạn bè". Hễ ai có xe ra phố, trước khi về căn cứ mà xe còn chỗ trống thì phải rảo qua đây để rước anh em. Mà trước khi về lại căn cứ không quên mua vài ổ bánh mì thịt, một cho mình và it' nhất cũng có một ổ cho thằng bạn đang lên phiên trực. Cái lạnh khủng khiếp mùa đông cao nguyên cũng bị át đi bởi tấm lòng của anh em đồng độị Nỗi khổ xa gia đình, xa người yêu trong đêm vắng cô đơn lạnh lẽo như đã dược khoả lấp qua tình bạn bè, cùng chia nhau miếng bánh mì nhỏ xíu, tuy đạm bạc mà sao ngon quá thể.
Sau cùng mới tới Sài Gòn. Công tâm mà nói thì bánh mì SG nhất hạng. Bột mì không pha, bánh dòn thơm ngon ngọt. Nhưng về gần nhà, cơm nước được mẹ lo đầy đủ. Tiền bạc cũng ít phần thiếu hụt vì đã có sẵn nhà băng sống "ma mère". Thế nên cảnh cơm tay cầm phần nào ít thấy. Lâu lâu rảnh ghé Sáu Voi mua về nhấm nháp. Ngon thì có ngon nhưng thấy không bằng lúc còn ở đơn vị xa, nơi đèo heo hút gió, có bạn bè chung quanh hạt muối cũng cắn đôi chia xẻ nhau từng chút. Ở gần nhà nên tan sở mạnh ai về nhà nấy, đâu còn cảnh tụ họp đàn đúm như xưa. Cho nên miếng ngon cũng hoá dở vì thiếu bạn hiền bên cạnh.
Qua đây tôi vẫn còn thích ăn bánh mì. Mà cũng không có sự lựa chọn nào khác. Phở, mì, hủ tiếu trăm quán tôi ghé thì dường như gần cả trăm đều pha bột ngọt. Duy chỉ còn bánh mì là chưa thôi. Nhưng sao trăn trở hoài, nhiều khi đang ăn ngồi nhớ đến những kỷ niệm xưa. Ðến những bạn đồng đội một thuở chen vai sát cánh trong quân ngũ đã cùng chia ngọt xẻ bùi. Không hiểu giờ này họ đang ở đâu và làm gì.
Phú Lê
(1/13/95)
Những Quả Nậm Của Thanh Bình
nguyên tác: Shiga Naoya
người dịch: Y Yên
Lời người dịch:
Shiga Naoya (Chí-Hạ Trực-Tai 1883-1964) là một trong các nhà văn tiền phong Nhật. Từng theo học văn chương Anh tại Ðại Học Hoàng Gia Ðông Kinh; là một người viết nổi danh với lối văn giản dị và trong sáng đề cao nhân bản, có ảnh hưởng rất lớn đến lớp văn sĩ Nhật thời hậu chiến.
Truyện ngắn "SeiBei to Hyotan" dưới đây được sáng tác năm tác giả 30 tuổi. Qua hình ảnh một thiếu niên có năng khiếu nghệ sĩ nhưng bị đì, người ta dễ thương cảm cho lớp mầm non thuộc mọi thời đại đã và đang bị còi, lụt cả về tài năng lẫn thể chất bởi những nền giáo dục ngu xuẩn, độc đoán giáo điều, điển hình như nền giáo dục của nhà nước Cộng Sản hiện tại ở Việt Nam.
Ðây là câu chuyện kể về một cậu bé tên Thanh Bình cùng những quả bầu "khô" (Nậm) của cậu. Sau này, Bình đành phải dẹp bỏ thú sưu tập bầu, nhưng rồi chẳng mấy chốc Bình lại tìm ra được một mo 'n khác thế vào đó: cậu bắt đầu vẽ tranh. Chuyện xảy ra chưa lâu gì cho lắm, trước lúc Thanh Bình cắm đầu vào môn hội họa y như đã một lần cậu bé say mê những quả bầu.
Bố mẹ Bình đều biết rằng cậu hay rời nhà ra phố chợ để tự mình tìm mua những quả bầu nậm. Cậu mua chúng mỗi quả giá vài xu, nên dần dà đã có một bộ sưu tập bầu kha khá. Khi mua bầu khô về, trước tiên Bình đục một lỗ thật gọn ở đầu rồi trút mớ hột ra, kế tiếp cậu bỏ lá trà vào để tẩy bay cái mùi hơi khó chịu của ruột bầu khô. Xong, lấy 1 ít rượu sa kê được góp nhặt từ những ly rượu uống còn thừa của bố, Bình ra công đánh thật bóng quả bầu.
Bình say mê những quả bầụ Một bữa nọ, đang lang thang ngoài bãi biển, đầu óc mê mải nghĩ đến một vật mình ưa thích; cậu bỗng giật nẩy mình bởi 1 cảnh tượng lạ lùng: vì liếc quá vội nên lúc vừ a chớm thấy cái đầu hói hơi thon dài của một ông lão nọ đang vội vã chun ra khỏi túp lều cạnh bờ, Bình nghĩ ngay: Trời, một trái bầu đẹp ác liệt! Khi ông lão ra khỏi tầm nhìn, lúc lắc cái đầu hói có mầu da hồng đỏ, Bình mới nhận ra mình đã nhìn lầm. Cậu cứ đứng đó mà cười lên sặc sụa, cậu còn cười mãi suốt trên đường trở lại nhà.
Hễ mỗi bận đi ngang 1 tiệm tạp hóa, tiệm bánh trái, tiệm đồ cổ hoặc bất kỳ nơi nào có bán bầu; Bình lại dừng đôi phút, mắt cậu như bị dán chặt vào cửa kính, thầm lượng định giá trị của mấy quả bầu quí hóa đó.
Bình đã 12 tuổi rồi và đang theo học bậc tiểu học. Sau giờ học, thay vì chơi đùa nô giỡn cùng những trẻ khác, cậu thường lòng vòng quanh phố để sục sạo mấy quả bầu. Tối đến, Bình ngồi co giò tron g góc phòng khách cặm cụi gia công quả bầu mớị Lúc đã hí hoáy xong, cậu đổ một chút rượu sa kê vào, nhấn cái nút bấc tự chế vô để đậy làm nắp, cuốn quả bầu vào một tấm khăn, gói gọn vô tờ giấy thiếc mỏng đã cất giữ bấy lâu cho mục bầu bì nàỵ Cuối cùng, Bình đặt mọi thứ trên cái lò sưởi than rồi mới chịu chui vào chỗ ngủ.
Sáng hôm sau vừa thức giấc, việc đầu tiên là Bình mở tờ giấy thiếc để xét nghiệm quả bầụ Da bầu láng ướt nhờ đã được hấp suốt đêm qua; Bình say sưa mê mẩn ngắm nhìn báu vật của mình trư ớc khi cột một sợi dây quanh eo bầu, treo ra nắng hong khộ Rồi cậu sửa soạn sách vở đến trường.
Bình sống tại một thành phố cảng, mang tiếng là thành phố nhưng người ta có thể bách bộ từ đầu này tới đầu kia chỉ trong vòng 15, 20 phút. Bình hay thả rông trên đường phố và dần dần rành rọt mọi chỗ bán bầu nậm cũng như nắm được hầu hết những quả bầu khô bày trong ch Cậu ít để ý đến loại bầu già cui, có đốt, loại mang hình thù kỳ dị thường được giới sưu tập bầu ưa thích. Loại bầu hấp dẫn mắt Bình phải nhẵn nhụi và có hình dáng gọn gàng cân đối.
- Thằng cu con của bác dường như chỉ khoái ba cái bầu loại xoàng xĩnh, tầm thường.
Ông bạn của bố Bình hôm ghé chơi đã đưa ra nhận xét ấy khi chỉ vào thằng bé đang ngồi cắm mặt trong góc phòng chà láng một quả bầu da nhẵn, tròn đềụ Bố Bình vừa ném cái nhìn gay gắt vào thằng con vừa đáp:
- Cái thằng ngốc tử này toàn là nghịch chơi vớ vẩn suốt ngày với ba quả bầu chết tiệt ấy!
Ông bạn của bố quay sang Bình lên giọng:
- Nghe đây, thằng nhỏ Bình kia! Chẳng được cái tích sự gì khi mày cứ sưu tầm 1 lô đồ quỉ này. Không phải là tích trữ cho cố một số lượng lớn mà điều cần là mày phải ráng tìm ra 1, 2 quả nậm thứ dị kỳ đặc biệt mới đúng điệu.
- Nhưng cháu thích loại này cơ!
Bình lên tiếng trả lời xong lại cắm đầu vào quả bầu trong lúc bố Bình cùng ông bạn quí đang tiếp tục tán chuyện:
- Này, này, thế bác còn nhớ ở Hội Chợ Xuân năm ngoái người ta trưng bày loại bầu Nậm của làng Mã hay không? Những quả bầu ấy sao mà đẹp quá chừng chừng nhỉ?
- À, à. Ờ, tôi nhớ ra rồi, cái loại bầu thiệt tuyện vừa bự tổ chảng, vừa dài thoòng...
Bình dỏng tai nghe nói chuyện, cậu cười thầm trong bụng. Bầu làng Mã quả thật đang được thiên hạ tán tụng vào thời gian đó, nhưng khi mò tới xem, cậu chẳng thấy gì khác hơn là những quả bầu quá thô kệch và chán tới nỗi quay đít ra về liền, chẳng thèm coi cho hết hội chợ nữạ Bình xen vào giữa câu chuyện:
- Bầu làng Mã ư? Con chẳng thèm màng đến, chúng chỉ là mấy quả bầu tuy to bự nhưng quá xấu xí!
Bố Bình mở tròn cặp mắt ngạc nhiên lẫn tức giận:
- Mày bảo sao? Nếu không biết quái gì thì tốt nhất mày nên câm cái mõm lại!
Bình chẳng dám nói thêm tiếng nào nữa.
Một ngày kia, đang đi lần mò vào 1 con đường lạ, Bình gặp bà lão nọ đương bày quầy hàng. Bà lão bán hồng khô và quít, trên cánh cửa sổ căn nhà phía sau quầy có treo một mớ bầu nậm:
- Cho cháu xem thử một chút bà nhé!
Bình chạy vội ra sau quầy xem xét đám bầu, bỗng nhiên Bình phát giác ra một quả bầu khô dài chừng một tấc hai, thoạt nhìn sơ trông có vẻ tầm thường, cũ kỹ; chẳng rõ điều gì toát ra từ quả bầu cũ đó làm cho trái tim Bình đập mạnh. Bình ướm hỏi, lòng hồi hộp:
- Bà ơi, bà bán quả này bao tiền hở bà?
- Ờ, để coi, vì cháu là 1 thằng bé, bà chỉ lấy cháu 10 xu thôi.
Bình cầu khẩn:
- Vậy thì, bà làm ơn giữ hộ đây cho cháu nhé, cháu về lấy tiền rồi sẽ quay lại ngay.
Cậu lẹ làng phóng về và trở lại quầy chớp nháy để mua quả bầu ấy.
Từ hôm đó trở đi, Bình chẳng hề rời xa quả bầu mới, cậu ôm nó luôn tới trường, lén chà láng nó dưới gầm bàn suốt giờ học. Nhưng chẳng được bao lâu, cậu bị ông thầy giáo bắt quả tang đang c hùi bầụ Ông thày tức điên lên vì sự vụ nghịch ngợm như thế lại xảy ra trong một lớp học gương mẫu thuộc "điển hình tiên tiến".
Ông thầy giáo xuất thân từ một địa phương khác vùng Bình ở, ông sẵn có thành kiến rằng thật là ủy mị và đồi trụy khi lũ trẻ nhỏ bị mê muội đầu độc bởi tàn tích của nền văn hóa lãng mạn tỉ như chuyện sưu tập bầu bì. Ông ta nhiệt liệt tán dương những khuôn vàng thước ngọc, các qui tắc cổ điển của giới võ sĩ đạo. Khi kép hát nói nổi tiếng Vân Mộng đến thành phố lưu diễn vở tuồng tích về các hành vi dũng cảm của những tay dũng sĩ thời xa xưa thì ông ta có mặt không sót buổi diễn nào, dù bình thường chẳng bao giờ ông thèm bước chân đến hí viện là nơi chốn ông vẫn quan niệm xấu về chúng. Ông ta cũng chẳng lấy làm khó chịu khi nghe lũ học trò gân cổ lên hát những bài ca trích trong vở "Lãng-Hoa-Tiết" dẫu giọng chúng ồ ề như vịt đực. Do lẽ ấy, giờ đây ! phát hiện được Bình đang lén lút chùi bầu, ông thầy tuôn ra một tràng chửi rủa:
- Ðồ trâu bò, đồ hư đốn! Lẽ tất nhiên là chẳng thể có tương lai, tiền đồ gì cả đối với những đứa như mày!
Ông thày ra tay tịch thu quả bầu "văn hóa phẩm đồi trụy" mà Bình đã khổ công gò gẫm nhiều ngày. Bình nhìn trừng trừng vào quả bầu yêu quí bị đoạt mất, cậu không khóc.
Lúc về đến nhà, mặt Bình xanh lè, không nói không rằng, cậu thò đôi chân vào gần lò sưởi và ngồi nghếch mắt nhìn xa vắng lên trần nhà.
Chỉ một đỗi sau ông thày giáo mò đến. Vì bố Bình còn bận làm việc ở xưởng mộc chưa về, ông ta bèn chĩa mũi dùi về phía mẹ Bình:
- Sở dĩ có vụ này xảy ra là do sự vô trách nhiệm của gia đình, ông thầy lên giọng mô phạm.
- Làm cha mẹ phải có bổn phận lo giáo dục ngăn ngừa không để cho mấy chuyện tệ như vậy diễn ra!
Với nỗi khổ sở vì bị phiền hà, con dại cái mang, mẹ Bình ấp úng đôi lời xin thầy thứ lỗị Giữa khi ấy, Bình đang cố sức thu mình nhỏ lại ở 1 góc, mắt hoảng hốt nhìn ông thầy hung thần của mình đa ng đứng quay lưng lại với bức tường treo đầy những quả bầu nậm mà cậu đã dày công chùi lau, đánh bóng. Ôi, sự gì sẽ xảy ra với chúng nếu vô phúc ổng quay lại và nhìn thấy?
Rúng động tâm thần, Bình đợi chờ điều tệ hại nhất xảy đến; nhưng ông thầy hung thần có lẽ cũng đã mệt não vì xử dụng quá nhiều danh từ đạo đức nên ông giận giữ bỏ ra về. Bình lúc ấy mới lấy lại được thần hồn.
Mẹ Bình khóc nức nở, lẫn trong tiếng khóc ỉ ôi khó chịu đó là tiếng bà la mắng con. Và, giữa lúc thập phần rối rắm này thì bố Bình đi làm về; vừa nghe xong chuyện, ông túm lấy cổ áo Bình la hét:
- Mày là thằng khốn kiếp! Chẳng còn chỗ nào trên đời này chứa mày nổi nữa, chắc tao phải tống mày ra đường khuất mắt cho rồi!
Những quả nậm khô treo lên vách lọt vào mắt ông bố Bình giữa cơn nộ khí. Lầm lầm lì lì, ông đi tìm cái búa và, từng nhát từng nhát một ông chẻ bầu nậm quả này tới quả khác ra từng mảnh nhỏ. Mặt mày Bình càng trở nên xanh tái nhưng cậu không thốt một lời nào.
Ngày kế, ông thầy giáo đưa quả bầu đã tịch thu của Bình cho người cai trường: Nè, cầm lấy, ông ta đưa quả bầu hệt như ném liệng một vật gì ghê tởm lắm. Người cai trường cầm quả bầu về, treo lên vách căn phòng bé xíu, tối tăm của ông ta.
Khoảng 2 tháng sau, người cai trường bị lâm cảnh túng bấn bèn quyết định đem trái bầu nậm ấy ra một tiệm đồ cổ bán thử xem may ra có kiếm được cắc bạc nào không. Lão chủ tiệm đồ cổ săm soi qu ả bầu khô rất kỹ lưỡng rồi với một giọng cố ý tỏ ra không mấy hài lòng, lão ta đưa trả quả nậm lại cho người cai:
- Tôi chỉ mua nổi dùm anh với giá 5 yên mà thôi!
Người cai trường kinh ngạc, mừng rơn vì cái giá quá ngon lành đó, nhưng với sự khôn ngoan của người có tuổi, ông ta đáp hờ hững:
- Chà, chắc khó mà để cho bác với cái giá rẻ rề vậy rồi.
Lão chủ tiệm lập tức nâng lên thành 10 yên, nhưng người cai vẫn còn nài kéọ Cuối cùng, lão phải trả tới 50 yên cho người cai để lấy quả bầu. Người cai trường rời khỏi tiệm, tay cầm tiền, lòng "hồ hởi phấn khởi" với cái hên trúng mánh của mình. Chẳng mấy khi cái thằng cha thầy giáo mặt mũi khó đăm đăm ấy lại cho quà mình, mà món quà có giá trị tương đương với cả năm tiền lương!(*) Ông ta dĩ nhiên đủ thông minh để dấu kín không hé răng hở chuyện này cho ai, kể cả ông thầy giáo lẫn Bình đều không hay biết chút gì.
Phải, người cai trường tuy rất thông minh nhưng ông ta vẫn còn chậm hiểu: ông ta khó mà ngờ được rằng quả bầu nậm ấy rồi sẽ được chuyền từ tay lão chủ tiệm tới tay một nhà sưu tập bầu nậm giàu có trên phố với cái giá sáu trăm yên!
oOo
Bình bây giờ lại đang say mê chìm đắm vào những bức tranh của mình; cậu không còn cảm thấy tí cay cú oán hận nào hướng về phía thầy mình hay về phía bố mình, người đã chẻ những quả bầu yêu quí của cậu ra làm trăm mảnh.
Thế nhưng, bố Bình lại bắt đầu lầu bầu chửi mắng cậu vì cái tội vẽ tranh!
Y Yên
(1957 - 1997)
(*) Lương công nhân thời xưa độ chừng vài ba yên một tháng.