vhnt, số 175
17 April 1996
Trong số này:
thư vhnt..................................................................PCL
T h ơ :
1 - Hoa trắng thôi cài lên áo tím ..........................Kiên Giang
2 - Ba kiếp lang thang ..................................Vũ Hoàng Chương
3 - Bên ngoài cõi ta ..............................Nguyễn Hiện Nghiệp
4 - Trí nhớ hình ảnh đường bay .......PCL/Dương Hùng chuyển ngữ
5 - Bài tháng tư ...................................................Phi Lao
6 - Ừ thôi ...............................................Trần Thái Vân
D i ễ n Ð à n V ă n H ọ c :
7 - Tiểu luận Dân Ca Việt Nam (phần 1/2)..........Nhạc sĩ Phạm Duy
T r u y ện N g ắn / S án g T ác :
8 - Một thời xa xưa .................................Nguyễn Tấn Hưng
Bạn đọc thân mến,
Sau một thời gian theo dõi đọc vhnt, hẳn bạn cũng thấy nội dung vhnt phong phú và bài vở đã khởi sắc rất nhiều. Theo đà phát triển của tờ báo mạng đầu tiên trên siêu xa lộ thông tin, vhnt đã có thêm rất nhiều độc giả mới gia nhập qua sự giới thiệu của hội viên, và đặc biệt đã lôi cuốn một số những cây viết vững lâu năm trên văn đàn và trong giới văn nghệ đóng góp bài trực tiếp cho vhnt. Số này, vhnt xin trân trọng giới thiệu đến độc giả sự cộng tác quí báu của nhạc sĩ lão thành Phạm Duy, một cây cổ thụ trong làng âm nhạc và là một nhân vật tiêu biểu của văn học Việt Nam. Nhạc sĩ Phạm Duy đã gia nhập vào thế giới kỹ thuật tin học, đã có mặt trên hệ thống truyền thông khi ông cho ra đời hai tác phâ ?m, hai trường ca "Hành Trình Qua Ðất Mẹ" và "Huyền Thoại Mẹ(Of Mother and Legends) qua hai đĩa CÐROM dùng kỹ thuật multi-media . Sự thành công của hai băng CDs này đã khiến nhạc sĩ dự định sẽ phát triển và giới thiệu kho tàng âm nhạc, biên khảo về âm nhạc và văn học của ông trên hệ thống internet đến mọi giới thưởng thức trên một địa bàn rộng rãi, phong phú và mới mẻ này. Nhạc sĩ Phạm Duy sẽ lần lượt giới thiệu những sáng tác và biên khảo trong "hành trình Phạm Duy", đi từ dân ca cổ nhạc đến nhạc cải cách (tân nhạc), và các trường ca khác cho vhnt. Song song với các tác phẩm đăng làm nhiều kỳ trên báo mạng vhnt, nhóm vhnt cũng sẽ lập một "trang nhà" (homepage, chữ của nhạc sĩ Phạm Duy) cho Phạm Duy, một hệ thống lưu trữ tài liệu về "hành trình âm nhạc Phạm Duy" và trình bày một số nhạc bản qua hình thức multi-media.
"Với bài tiểu luận mở đầu cho sự cộng tác của tôi với VHNT và nhất là hành trình của tôi vào mạng nhện thế giới là của một ca nhân Việt Nam, thường chỉ muốn người đời công nhận là một kẻ hát rong hơn là nhạc sĩ, nhạc sư, nhạc vãi gì đó"
(trích email Phạm Duy gửi PCL/chủ biên vhnt)
Mở đầu cho những góp mặt lâu dài qua các nhạc bản và biên khảo về âm nhạc của Phạm Duy, số này xin gửi đến bạn đọc bài tiểu luận "Dân Ca Việt Nam", một bài biên khảo rất công phu và giá trị cho giới khảo cứu âm nhạc cổ truyền và dân gian Việt Nam. Thay mặt ch o độc giả vhnt và nhóm chủ trương, xin cám ơn nhạc sĩ Phạm Duy đã có lòng chiếu cố đến lũ "nha đầu" lạc lõng trên siêu không gian này :)
Kèm với bài biên luận của Phạm Duy, vhnt cũng xin giới thiệu nhà văn Nguyễn Tấn Hưng, nhà văn gốc miền Nam, văn phong miền Nam với các tác phẩm bắt đầu bằng chữ "một". Số này nhà văn Nguyễn Tấn Hưng gửi đến vhnt với truyện ngắn cũng bắt đầu bằng chữ một, mời bạn đọc thưởng thức.
Chúc bạn đọc một ngày an vuì .
thân ái,
PCL/vhnt
Hoa Trắng Thôi Cài Trên Áo Tím
Lâu quá không về thăm xóm đạo
Từ ngày binh lửa cháy quê hương
Khóm bom che lấp chân trời cũ
Che cả người thương nóc giáo đường
Mười năm trước em còn đi học
Áo tím điểm tô đời nữ sinh
Hoa trắng cài duyên trên áo tím
Em còn nguyên vẹn tuổi băng trinh
Quen biết nhau qua tình lối xóm
Cổng trường đối diện ngó lầu chuông
Mỗi lần chúa nhật em xem lễ
Anh học bài ôn trước cổng trường
Thuở ấy anh hiền và nhát quá
Nép mình bên gác thánh lầu chuông
Ðể nghe khe khẽ lời em nguyện
Thơ thẩn chờ em trước thành đường
Mỗi lần tan lễ chuông ngừng đổ
Hai bóng cùng đi một lối về
E lệ em cầu kinh nho nhỏ
Thẹn thùng anh đứng lại không đi
Sau mười năm lẽ anh thôi học
Nức nở chuông trường, buổi biệt ly
Rộn rã từng hồi chuông xóm đạo
Khi nàng áo tím bước vu quy
Anh nhìn áo tím mà anh ngỡ
Chiếc áo tang, liệm kín khối sầu
Hoa trắng thôi cài trên áo tím
Giữ làm chi kỷ vật ban đầu
Em lên xe cưới về quê chồng
Dù cách đò ngang, cách mấy sông
Vẫn nhớ bóng vang thời áo tím
Nên tình thơ ủ kín trong lòng
Từ lúc giặc ruồng vô xóm đạo
Anh làm chiến sĩ giữ quê hương
Giữ mầu áo tím cành hoa trắng
Giữ cả trường xưa, nóc giáo đường
Giặc chiếm lầu chuông, xây ổ súng
Súng gầm rung đổ gạch nhà thờ
Anh gom gạch nát, xây tường luỹ
Chiếm lại lầu chuông giết kẻ thù
Nhưng rồi người bạn đồng song ấy
Ðã chết hiên ngang dưới bóng cờ
Chuông đổ ban chiều hồi vĩnh biệt
Tiễn anh ra khỏi cổng nhà thờ
Hoa trắng thôi cài trên áo tím
Mà cài trên nắp áo quan tài
Ðiểm tô công trận bằng hoa trắng
Hoa tuổ học trò, mờ thắm tươi
Xe tang đã khuất nẻo đời
Chuông nhà thờ khóc, tiễn người ngàn thu
Từ đây tóc rũ, khăn sô
Em cài hoa trắng trên mồ người xưẳ
Kiên Giang
Ba Kiếp Lang Thang
Chúng ta đánh mất cả rồi sao?
Cả đến âm thanh một thuở nào
Da trống, tơ đàn, ôi trúc phách!
Ðều khô như tiếng hát gầy hao
Ðàn mang tên Đáy mà không đáy
Rút hết rồi chăng sợi nhớ thương?
Hay phách, từ lâu rồi lạc phách
Không còn dựng nổi bến Tầm Dương?
Hơi ca hồng đã tan thành huyết
Ðể tiếp vào cho má đỡ xanh?
Bạc mệnh, hỡi ơi, hoàn mệnh bạc
Ðâu còn ấm nữa rượu tàn canh
Hay là đêm ấy Ngưu lìa Chức
Xé nát da mình lau mắt ai?
Còn được gì đâu cho mặt trống
Ðập lên, hoang vắng đến ghê người!
Âm thanh trống rỗng, còn chi nữa
Gắng gượng chi cho hồn Nhạc đau
Ba kiếp lang thang ngồi chụm lại
Chúng ta mất hết chỉ còn nhau.
1973
Vũ Hoàng Chương
bên ngoài cõi ta
gặp người bên suối -
tiếng sáo miên miên
lâng lâng,
thoát tục.
người muốn lánh xa cõi đời
bẩn đục,
thị phi.
tìm đâu ra tri kỷ.
lòng ta, ai hiểu?
nhạc ta, ai nghe?
nên mới lên non,
ngồi
nghiệm
ý trời.
năm năm sau.
gặp người giữa phố -
tay ôm trần hoàn
ca ngợi nhân gian.
người chỉ tha nhân
bảo:
là tri kỷ!
thị phi miệng người:
là nhạc bên tai.
xá gì một chút trần ai
khi ta đã đứng bên ngoài cõi ta
mà đời.
một thoáng.
phù hoa.
nguyễn hiện nghiệp
Trí Nhớ
Một người đi tìm trí nhớ
Hỏi thăm chuyện của ngày xưa
Hoa trắng gục đầu bên cửa
Nhắc chi chuyện những ngày mưa
Memory
In pursuit of memory,
someone asks for yesterday stories.
White flowers bend by the door,
do not repeat rainy day stories.
oOo
Hình Ảnh
Có gì trong nắng mà nhớ
Có gì trong mưa mà thương
Có gì còn vương ánh mắt
Hình ảnh mờ tựa khói sương
Image
What in sunshine causes nostalgia?
What in rain brings melancholy?
What's left in your eyes,
just image, elusive and misty.
oOo
Ðường Bay
Chợt thức giấc nhìn buổi sáng
Mầu xanh. Xanh như thiên thu
Ngậm ngùi nhớ đôi cánh gẫy
Ðường bay mất dấu mịt mù
Flight Path
A sudden wake up stares at morning,
blue, immortal blue.
The broken wings sadly missed,
the flight path vanishes in eternity.
thơ PCL
1991
Dương Hùng chuyển ngữ
Bài Tháng Tư (6)
một chút khói tháng tư
thành mưa sầu trong mắt
con sóng còn trôi giạt
bọt nước mờ sương bay
tháng tư về trên tay
trôi đi như nắm cát
ai bảo người giấu mặt
chiếc vỏ ốc hoang vu
năm tháng nào phù du
phủ rêu bờ trí nhớ
biển xanh đôi mắt mở
giục giã ngày lãng quên
tháng tư về gọi tên
cơn đau trong vết nứt
trái tim đen màu mực
trên lối đời quanh co
ai còn nuôi giấc mơ?
con dã tràng thấm mệt
chiều tím hoang nỗi chết
người đã thành mây trôi
Phi Lao
Thôi.
Ừ, mình chẳng đặng duyên phần
Thì thôi, cứ nhớ một lần ta yêu.
Ừ, mình chẳng nặng nợ nhiều
Thì thôi, tình gởi cho chiều phơi khô.
Ừ, mình đến với, giả vờ,
Thì thôi, đường rẽ, còn chờ nhau chi.
Ừ, mình ân ái chẳng vì,
Thì thôi, ân ái chỉ vì ái ân.
Ừ, mình hôn thắm một lần
Thì thôi, phấn cũ cũng ngần phôi pha.
Ừ, mình đã tới ngã ba
Thì thôi. Em chọn. Gọi là, đường em.
Nhân duyên như lá bên thềm
Lá rơi. Lá rụng. Lá mềm. Lá bay.
Nợ nần chi nữa. Ðầu tay
Tình hoa khép nụ. Lưu đày dấu yêu.
Ðường xa dẫu có mưa nhiều
Không thương, thôi mặc, ướt chiều mưa rơi.
Lối xưa dẫu nhớ bời bời
Thì yêu cũng đã rã rời thịt da.
Khuê phòng dẫu đã đi qua
Mơ về gối ngực, chăn da bồi hồi.
Em ơi, bên bến sông người
Sao em cởi áo cho đời đổi thay?
Em ơi, trên những móng tay
Sao em tô đỏ cho đời thèm yêu?
Em ơi, trên mặt mỹ miều
Sao em son phấn cho nhiều bâng khuâng?
Em ơi, da thịt trắng ngần
Sao em lại xức vô ngần nước hoa?
Vì tình sư bỏ cà sa.
Vì tình bụt nguyện làm ma suốt đời.
Lạc Hoang. Tình dục. Sinh lời
Lộng ngôn ta đã một thời vì em.
Ừ, mình duyên nợ chẳng thêm
Nụ hôn vội khép, châu rèm vội buông
Ðêm nằm trăng sáng trần truồng
Ngã ba em đến, trần truồng dòng sông
Ðêm mơ lột hết cõi lòng
Một vài dục vọng lưu vong ra ngoài
Ðêm tay mình tưởng tay ai
Trên phần thân thể chảy dài hữu cơ.
Sóng xa muốn vỗ vào bờ
Mà thôi. Duyên hết. Tình ngơ. Trái sầu.
Sông chia hai nhánh, đôi đầu
Ðời chia hai ngã hận nhau làm gì.
Trái tình đỏ óng, xanh rì
Trái tình tím ngắt, đen sì cũng thôi.
Một đêm ấy cũng xa rồi
Ngàn năm tóc trắng... Thôi. Một lần.
trần thái vân
Tiểu luận Dân Ca Việt Nam - nhạc sĩ Phạm Duy
(phần 1/2)
Dân Ca Cổ
Dân Ca Cổ (Ancient folk songs) còn tồn tại, nghĩa là còn thấy có ít nhiều sinh hoạt trong đời sống Việt Nam vào khoảng đầu thế kỷ 20, gồm các loại hát như ru, lý, hò, ví, xẩm v.v... thường là những câu thơ truyền miệng (oral poetry) được hát lên với nhạc điệu và nhịp điệu khác nhau, tùy theo địa phương và công dụng của bài hát hoặc của loại hát. Dân ca cổ vẫn được coi là sáng tác tập thể của nhân dân, của vô danh, dù đã có thuyết cho rằng nó cũng phải bắt đầu từ một người nào đó, trong một thời đại nào đó, rồi vì có giá trị cho nên đã được lưu truyền bằng cửa miệng và trở thành gia tài của tập thể.
Dân Ca Mới
Dân Ca Mới (New folk songs) phát sinh vào giữa thập niên 40 sau khi nền nhạc mới, được gọi là nhạc cải cách (về sau gọi là tân nhạc) vừa ra đời và chịu ảnh hưởng của nhạc Âu Tây, rồi vì muốn cho tân nhạc có dân tộc tính cho nên một số nhà cải cách thời đó đã quay về nghiên cứu dân ca cổ để khởi sự từ cái vốn cũ, sáng tác những bản nhạc mà họ gọi là dân ca cải biên, dân ca phát triển, dân ca phục hồi hay dân ca mới.
Bây giờ chúng ta hãy cùng nhau đi vào kho tàng của dân ca cổ để tìm hiểu gia tài quý báu đó, trước khi đi tới dân ca mới.
Mối Liên Hệ Dân Ca Cổ và Ca Dao
Trong ngành nghệ thuật bình dân cổ truyền Việt Nam, đã có một sự liên hệ chặt chẽ giữa dân ca và ca dao. Dân ca cổ, như đã nói trên, thường là thơ truyền miệng được hát lên. Muốn hiểu kỹ dân ca cổ, phải nghiên cứu văn học dân gian trong đó có thi ca truyền miệng.
Thơ truyền miệng Việt Nam trong dĩ vãng đã mang nhiều tên như ca dao, phong dao, đồng dao... và đã được nhiều học giả sưu tập, nghiên cứu và san định. Ta thử đọc lại một số công trình biên khảo đó để xem các vị tiền bối đã định nghĩa ca dao ra sao?
Ðịnh Nghĩa Ca Dao
Theo Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc (Hà Nội 1928)
Vào khoảng đầu của thế kỷ 20, thơ truyền miệng cũng đã được ghi chép lại bằng chữ Hán, chữ Nôm, chữ Quốc ngữ và cả bằng Pháp ngữ nữa. Nhưng phải đợi tới công trình của một vị Thanh Tra Tiểu Học kiêm biên khảo gia chuyên về Cổ Học Hà Nội, thì ta mới thấy được sự phong phú của nền thi ca truyền miệng nước ta. Năm 1928, ông Nguyễn Văn Ngọc hiệu Ôn Như, cho xuất bản hai tập sách có tính cách sưu tập thơ truyền miệng nhan đề là Tục Ngữ Phong Dao. Tập Một gồm trên 6,500 câu ông gọi là phương ngôn tục ngữ. Tập hai gồm trên 850 bài chia ra hai phần, phần trên là Phong Dao và phần dưới là Câu Ðố. Trong bài Tựa của Tập Một, ông nói mục đích là :
"... chỉ vụ thu thập cho được nhiều câu, không phân thế nào là thành ngữ, mê ngữ, phương ngôn, đồng dao, ca dao hay phong dao gì cả ".
Ôn Như tiên sinh cũng không cắt nghĩa các danh từ mà người xưa đã dùng để chỉ định từng loại thơ truyền miệng. Dường như công việc phân định mấy chục ngàn câu thơ ra thành từng loại thành ngữ, mê ngữ, lý ngữ cũng không phải là dễ dàng gì ! Tuy nhiên, theo thiển ý, khi sắp xếp công trình sưu tầm của mình để in ra làm hai Tập, đặt cho cái tên chung là Tục Ngữ Phong Dao, trong bài TỰA lại nói rõ là chia những bài thuộc về thể phương ngôn, tục ngữ, phong dao phụ thêm các câu đố, ngoài ra lại còn đưa thêm những danh từ có vẻ rất chuyên môn như thành ngữ, lí ngữ, mê ngữ, sấm ngữ, đồng dao... thì tác giả cũng đã làm một công việc phân loại rồi đó.
Cứ theo như ông đã viết trong bài Tựa, thì thơ truyền miệng Việt Nam được gọi là phương ngôn, tục ngữ, phong dao, câu đố, và trong đó có những câu lí ngữ, sấm ngữ, mê ngữ. Hơn nữa, cũng trong bài Tựa đó, ông còn cho chúng ta biết rằng "một số bài thơ truyền miệng đã được cho hẳn là bài hát xẩm, hát chèo, hát huê tình, hát ru em". Những bài này thì ai cũng biết là bài hát của dân gian, nghĩa là dân ca.
Ôn Như tiên sinh không muốn phân loại và định nghĩa mà đã làm cả hai công việc đó. Tuy chỉ đả động đến chữ ca dao trong bài Tựa mà thôi, và dùng danh từ phong dao trong hai tập sách, nhưng ông cũng đã khẳng định là trong phong dao, có bài được cho hẳn là hát xẩm, hát chèo, như đã nói trên. Trong công việc tìm về con đường dân ca hôm nay, tôi chỉ xin ghi nhận một định nghĩa tiềm tàng mà cách đây 50 năm, Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc đã đưa ra trong phần bài Tựa của hai tập sưu tầm về tục ngữ, phong dao Việt Nam :
"... trong phong dao có bài hát của dân gian..."
Nói một cách khác, dân ca có thể chắc chắn được thoát thai từ phong dao.
Muốn hiểu vì sao Ôn Như tiên sinh dùng danh từ phong dao hơn là ca dao, ta phải coi danh sách các tài liệu mà tiên sinh đã tham khảo, đa số là công trình nghiên cứu về phong tục Việt Nam, dựa vào phương pháp san định Kinh Thi của Khổng Tử. Kinh Thi gồm có bốn phần mà phần đầu là Quốc Phong, chỉ định những bài ca dao của dân các nước chư hầu do nhạc quan của nhà vua sưu tập lại. Chữ "phong" đây có nghĩa là "gió", ý nói bài hát có thể rung cảm lòng người như gió làm rung động các vật.
Cũng cần nói thêm là những câu tục ngữ, phong dao đã được tác giả xếp đặt theo mẫu tự a b c, dễ dàng cho công việc tìm tòi của người đọc. Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc không chia những câu thơ truyền miệng mà ông sưu tập được thành những mục thuộc phạm vi phản ảnh xã hội như các nhà biên khảo sau này, thường chú trọng tới ảnh hưởng qua lại giữa ca dao và nhân dân, nhân dân và ca dao.
Tài liệu mà Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc đã tham khảo :
Nôm :
---- An Nam Phong Thổ Hoại (Thiên Bản cư sĩ -- Trần Tất Văn).
---- Thanh Hóa Quan Phong Sử (Vương Duy Trinh).
---- Việt Nam Phong Sử (Nguyễn Văn Mại, bản dịch : Tạ Quang Phát).
---- Ðại Nam Quốc Tuý (Sự Sư Trai -- Ngô Giáp Ðậu).
Nôm dịch ra Hán :
---- Nam Phong Giải Trào (Liêu Am Trần tiên sinh -- Ngô Hạo Phu).
Nôm + Quốc ngữ :
---- Quốc Phong Thi Tập Hộp Thái (Mộng Liên Ðinh -- Hi Lượng Phủ).
---- Nam Quốc Phương Ngôn -- Tục Ngữ Bi Lục (Vô Danh).
Quốc ngữ dịch ra Pháp văn :
---- Tục ngữ An Nam (Triệu Hoàng Hà).
Quốc ngữ :
---- Nam Ngạn Trích Cầm (Phạm Quang Sán, nxb Mạc Ðình Tư).
---- Gương Phong Tục (Ðoàn Duy Bình, Ðông Dương Tạp Chí số 161, 164).
Theo cuốn Việt Nam tự điển (Hà Nội 1931)
Muốn hiểu rõ hơn người xưa đã định nghĩa ca dao ra sao và có ràng buộc dân ca vào ca dao hay không, tôi tìm về cuốn VIỆT NAM TỰ ÐIỂN do ban Văn Học trong Hội Khai Trí Tiến Ðức tại Hà Nội soạn thảo và ấn hành 1931. Tôi tra chữ "ca dao".
Ca dao = câu hát phổ thông trong nhân gian.
Ca = bài hát thành khúc.
Dao = câu hát ngắn độ một vài câu.
Tra chữ "dân ca" thì không có. Danh từ dân ca có lẽ chỉ được khai sinh trong giai đoạn phát triển của Tân Nhạc vào khoảng giữa thập niên 40, khi các nhà soạn nhạc trẻ tuổi muốn quay về nguồn và khởi sự công việc sưu tầm nghiên cứu dân nhạc cổ truyền để từ đó sáng tác ra những nhạc phẩm có tinh thần dân tộc... Nhưng tôi hiểu được rằng, qua cuốn VIỆT NAM TỰ ÐIỂN này, các vị Hàn Lâm trong Hội Khai Trí Tiến Ðức Hà Nội, cách đây nửa thế kỷ đã có một định nghiã khá rõ ràng :
"...Ca dao là câu hát phổ thông trong dân gian..."
Câu hát phổ thông trong dân gian hiện nay được chúng ta gọi là Dân Ca.
Về danh từ "tục ngữ" thì cuốn Tự Ðiển này đã có một định nghiã hơi sơ sài.
Tục ngữ = câu thành ngữ người ta thường nói.
Nhưng cuốn Việt Nam Tự Ðiển này lại có thể giúp cho chúng ta hiểu được những danh từ mà Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc đã nói đến nhưng không giải thích :
Sấm ngữ = lời tiên tri.
Mê ngữ = câu đố.
Lí ngữ = lời phải trái.
Chúng ta hãy đọc lại những trang sách có sự định nghĩa ca dao của các công trình biên khảo trước đây của các tác giả khác.
Theo Dương Quảng Hàm (Hà Nội 1941)
Trong cuốn VIỆT NAM VĂN HỌC SỬ YẾU, in tại Hà Nội vào năm 1941, Dương Quảng Hàm viết : "...Trước khi có văn chương bác học, đã có một nền văn chương dân truyền khẩu, tức là tục ngữ và ca dao..."
Cụ Dương có lẽ là người đầu tiên trong thế kỷ này đã phân loại và định nghĩa một cách rất phân minh những gì được coi là thi ca truyền miệng của nền văn chương bình dân Việt Nam, trong một cuốn sách có tính chất sư phạm. Trước hết, cụ giảng về tục ngữ :
TỤC NGỮ = Tục ngữ nghĩa đen là "lời nói" (ngữ), theo "thói quen lâu đời (tục), có thể hiểu là : "câu nói gọn ghẽ, có ý nghĩa, lưu hành từ đời xưa rồi do cửa miệng người đời truyền đi".
Tục ngữ còn được gọi là :
ngạn ngữ (ngạn = lời xưa truyền lại).
phương ngôn (tục ngữ chỉ thông dụng trong một địa phương mà thôi).
Cụ Dương cũng còn cho biết nguồn gốc của tục ngữ :
* tự xuất phát từ cửa miệng của một người rồi vì có ý nghĩa, nhất là có vần có điệu nên được truyền tụng và trở thành tục ngữ. Ví dụ : ăn cây nào rào cây nấy.
* có khi là thi ca có tác giả nhưng vì ý đúng lời hay mà trở thành tục ngữ. Ví dụ : thương người như thể thương thân (Nguyễn Trãi, trong Gia Huấn Ca)
* Tục ngữ còn có thêm cái tên là "thành ngữ", nghĩa là câu nói ngắn có sẵn, không thi vị. Ví dụ : dốt đặc cán mai -- nói toạc móng heo.
Cụ Dương không đả động gì đến sấm ngữ, mê ngữ, lí ngữ.
Sau khi đã giảng dạy về tục ngữ, cụ Dương lập luận về ca dao :
CA DAO = CA là hát -- DAO là bài hát không có chương khúc, bài hát lưu hành trong dân gian.
Dương Quảng Hàm đã khẳng định : "Ca dao là bài hát lưu hành trong dân gian" thì ta có thể nói gọn lại = CA DAO là DÂN CA. Hơn nữa, viết về tục ngữ, cụ cũng đã cho biết : "Tục ngữ có khi là thi ca có tác giả". Như vậy, ta có thể tin rằng ca dao cũng có thể là thi ca có tác giả.
Theo cụ Dương :
* Ca dao còn được gọi là phong dao vì tả tính tình, phong tục, tập quán, tín ngưỡng.
* Ca dao cũng là đồng dao, vì là bài hát của trẻ con, kể cả ru trẻ.
* Ca dao còn bao gồm cả những bài hát của người lao động, như : chèo thuyền, đẩy xe kéo gỗ, cầy cấy, bài hát dạy đời, bài hát dạy điều thường thức (canh nông, sản xuất, thiên văn, thời tiết).
* Ca dao còn là bài hát phong tình.
Ðịnh nghĩa như vậy, tựu trung Dương Quảng Hàm đều cho ca dao là bài hát cả. Là xã hội ca, nhi đồng ca, lao động ca, luân lý ca, kể cả ái tình ca nữa !
Theo cụ Dương, các thể thơ được dùng trong ca dao là :
-- lục bát chính thức
-- lục bát biến thể
-- song thất lục bát chính thức
-- song thất lục bát biến thể
-- thơ bốn chữ (nói lối)
-- gồm tất cả các thể nói trên.
Dương Quảng Hàm tham khảo những sách, báo sau đây để giảng dạy về Tục Ngữ và Ca Dao. Dù những sách báo này vẫn là những tài liệu mà Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc đã nghiên cứu để viết hai tập TỤC NGỮ PHONG DAO kể trên, nhưng cụ Dương thì cho rằng ca dao là bài hát và phong dao thì dùng để tả tính tình, phong tục, tập quán.
Các Sách Báo Tham Khảo :
-- Phạm Quỳnh : Tục Ngữ Phong Dao, Nam Phong Tập VIII số 46, trang 253--272.
-- Phan Khôi, Tục Ngữ Phong Dao Và Ðịa Vị Của Nó Trong Văn Học, Tao Ðàn Tạp Chí, tập 1 số 9, 10, 11.
-- Hoàng Ngọc Phách, Xét Tâm Lý Người Thôn Quê Bằng Câu Hát, Nam Phong Tập XV số 88, trang 311--322.
-- Minh Trúc, Hát Quan Họ, Trung Bắc Tân Văn số 4, 5, 6,10, 12, 14,18.
-- Nguyễn Văn Huyên, Chants Alternés Des Garcons Et Des Filles En Annam -- Geuthner, Paris 1934.
-- Georges Cordier, Essai Sur La Littérature Annamite : La Chanson, Revue Indochinoise 1920, Hanoi.
-- Nguyễn Văn Mại, Việt Nam Phong Sử, Nam Phong Tập VII số 41, trang 415--425.
-- Ðông Châu và Ðồ Nam, Việt Nam Tổ Quốc Túy Ngôn, Nam Phong, các tập XXX, XXXI, XXXII, XXXIII, XXXIV, XXXVI.
-- Phạm Quang Sán, Bài Phú Phương Ngôn, Nam Phong Tập VII, số 42.
-- Paulus Của, Tục Ngữ Cổ Ngữ Gia Ngôn, Nam Phong Tập VII, số 42.
-- Paulus Của, Recueil De Chansons Populaires, Saigon 1904.
-- Nguyễn Văn Vĩnh, Trẻ Con Hát Trẻ Con Chơi, Tứ Dân Văn Uyển, số 1.
-- Nguyễn Can Mộng, Ngạn Ngữ Phong Dao, Tứ Dân Văn Uyển, số 16, 18, và 22.
Theo Nguyễn Trọng Lực (Saigon 1949)
Năm 1949, nhà sách Vĩnh Bảo Saigon cho phát hành một cuốn sách thuộc loại "Sách Hiểu Biết" cũng có tính chất giáo dục do Nguyễn Trọng Lực viết nhan đề TIẾNG NÓI ÐỒNG RUỘNG, trong đó tác giả coi Ca Dao Tục Ngữ Việt Nam như là "tinh hoa của nước nhà".
Ông chọn lọc một số lớn ca dao về nghề nông trong đó có những câu "ca dao cổ" và cả những câu ông gọi là "ca dao mới" mà ông nói rõ ràng là do các ông Nguyễn Công Tiễu, Nguyễn Hải Khoát, Nguyễn Gia Huy, Trần Tuấn Khải sáng tác, được đăng trên các báo chuyên về canh nông như Vệ Nông Báo, Thần Nông Báo và lưu hành trong những năm 1923--1933 (trang 74). Dù ngoài bìa ông dùng bút hiệu Nguyễn Trọng Lực nhưng trong phần LỜI KẾT LUẬN, ta lại thấy ông ký là Nguyễn Công Huân. Chúng tôi được biết Nguyễn Công Huân là con của Nguyễn Công Tiễu, một viên chức cao cấp trong sở Canh Nông thời đó.
Tuy cuốn sách chỉ có mục đích ghi lại các câu ca dao cổ và mới nói đến nghề nông, nhưng trong phần CA DAO MỚI, ông Nguyễn Trọng Lực (hay Nguyễn Công Huân ?) có ghi lại một vài câu có tính cách thời sự và chính trị, chẳng hạn :
Hoàng trùng đi, vi trùng lại,
Nghĩ đi nghĩ lại, Vi hại hơn Hoàng !
Hồi đó vừa có nạn sâu ăn lúa (hoàng trùng) lại vừa có bệnh dịch tả (vi trùng) làm nông dân điêu đứng, nhưng câu ca dao này ngụ ý chỉ trích hai ông Tổng Ðốc tỉnh Hà Ðông là Vi Văn Ðịnh và Hoàng Trọng Phu, làm quan dưới thời Pháp thuộc.
Dưới thời Nhật chiếm đóng và bắt dân chúng trồng đay, đã có câu ca dao mà Nguyễn Trọng Lực gọi là "câu hát" :
Ai ơi khổ nhất giồng đay,
Giồng đay, đay nghiến có hay nổi gì?
Phá ngô bỏ ruộng mà đi,
Nhổ cây đay đắng có khi rũ tù.
(hết phần 1/2)
Một Thời Xa Xưa
Ngày Hùng sinh ra là ngày chiến tranh chấm dứt, trên cả thế giới này. Hùng ra đời như một vì cứu tinh cho nhân loại. Hùng hay đùa với mình như vậy. Thật ra cũng có chút trùng hợp vì Hùng sinh vào năm cuối cùng của thế chiến thứ hai. Rõ hơn, Hùng sinh nhằm ngày “Chiến Thắng Âu Châu”, ngày Hitler đầu hành Đồng Minh. Mặc dù mãi sau này Hùng mới biết. Nhưng thời đó, thời Hùng mới lớn, thời con ruộng vườn rong chơi, cuộc đời con người như còn cái ý nghĩa của hai chữ “thanh bình”. Thời đó là thời đình chiến. Thời đó là thời đình chiến. Thời đó là thời miền Nam Việt Nam còn chia làm hai mươi mốt tỉnh, đẹp như một bài thơ làm Hùng dễ nhớ :
Gia Châu Hà Rạch Trà,
Sa Bến Long Tân Sóc,
Thủ Tây Biên Mỹ Bà,
Chợ Vĩnh Gò Cần Bạc, Cấp.
Gia Định, Châu Đốc, Hà Tiên, Rạch Giá, Trà Vinh. Sa Đéc, Bến Tre, Long Biên, Tân An, Sóc Trăng. Thủ Dầu Một, Tây Ninh, Biên Hòa, Mỹ Tho, Bà Rịa, Chợ Lớn, Vĩnh Long, Gò Công, Cần Thơ, Bạc Liêu. Và Cấp tức Vũng Tàu. Sau này, mấy ai biết có bao nhiêu tỉnh ở miền Nam. Nhiều tỉnh đổi thành quận, nhiều quận đổi thành tỉnh, nhiều tỉnh bị đổi tên xóa tên trên bản đồ và củng có nhiều tỉnh mới mọc lên. Thoạt đầu nghe không hợp tai, Thủ Dầu Một ra Bình Dương, Bến Tre ra Kiến Hòa, Mỹ Tho ra Định Tường... nhưng nghe riết rồi cũng quen. Mấy lần đóng quân miệt Trà Cú, Đức Hòa, Đức Huệ, Hùng có dịp chọc mấy thằng bạn bản xứ:
- Hậu Nghĩa, Kiến Tường... cái tỉnh sanh sau đẻ muộn của tụi mày có cái tên mới nghe đã thấy bần cố nông rồi, làm sao mà so sánh với những tỉnh có bốn ngàn năm văn hiến như Mỹ Tho, Cần Thơ của tụi tao được.
Mà thiệt tình, tỉnh Mỹ Tho của Hùng xưa nay vẫn là một tỉnh có tiếng và cũng là tỉnh duy nhất ở miền đồng bằng có đường rầy xe lửa đi Sài Gòn. Có cái hay ở chỗ đó mà rồi cũng bị nhà Ngô gỡ đi.
Mấy ngàn năm văn hiến đâu không thấy nhưng di tích cổ nhứt có lẽ là chùa Vĩnh Tràng, một công trình kiến trúc thẫm mỹ được xây cất vào khoảng 1840-1842, thời Minh Mạng. Chỉ có vậy thôi, những khu khác như khu Vườn Lài, Chợ Cũ, Bến tắm ngựa, Chùa Chà Dà, Cầu quây, Bến đò ty công an, chùa Phật Ân, Nhà thờ lớn, Bắt tam băng, Đài chiến sĩ, Lò heo, Cây xăng, Cầu bắc, Đất thánh Tây, Bót số tám, Bến xe mới, Bến xe cũ, Vòng nhỏ, Vòng lớn... cũng đâu có gì đặc biệt. Họa chăng là hai cái giếng nước. Đúng vậy, không có thành phố nào ở miền Nam mà có một giếng lớn như vậy. mà tại sao không gọi là hồ như hồ Chung Thủy bên Bến Tre chẳng hạn. Hồ nghe lớn hơn giếng nhưng đằng này giếng lớn hơn hồ, trường hợp ngoại lệ. Giếng chắc cũng lâu đời, có lẽ được đào lúc tỉnh mới thành lập, thời đức tả quân Lê Văn Duyệt xây thành Định Tường, thành Nam Vang. Giếng chứa nước ngọt cho cả thành phố trong mùa gió nam vì nước biển ngược dòng Cửu Long len lỏi vào tận đây. Mùa nước ngọt chẳng ai thèm để ý, qua mùa nước mặn mới thấy mực nước giếng thấp dần thấp dần. Khoảng mười năm giếng nước được tu bổ sửa sang một lần, lẽ dĩ nhiên trong mùa nước ngọt. Nước được bơm ra và giếng được phơi khô. Một màn bắt cá cạn, mò ốc gạo, nghêu sò, ... rồi mới tới công tác đào giếng, đào sâu thêm để chứa thêm nước. Giếng trở thành một mỏ than lộ thiên và công nhân làm đất nhun nhúc như bầy kiến đất. Đào một hai thước mà mất đôi ba tháng, xong xả nước vô, đôi ba tháng sau nước vẫn còn hôi mùi bùn, vị chi phải mất nữa năm giếng mới trở lại tình trạng bình thường...
Dân chúng sống xung quanh giếng được quyền xài nước giếng nhưng không được tắm giếng. Cảnh sát bắt. Ngoại trừ đám học trò, nhứt quỷ nhì ma, đã mang danh là hàng thứ ba thì dù cảnh sát có rượt, học trò có chạy, lâu lâu cũng phải tắm giếng trưa trước khi đi học hay cũng tắm giếng chiều trước khi đi phố. Và nói đến học trò thì phải kể đến trường trung học Nguyễn Đình Chiểu, cũng lâu đời, có lẽ chỉ sau trường Bưởi ở Hà Nội và trường Pétrus Ký ở Sài Gòn về phương diện thâm niên. Cũng là điểm đáng nhớ, đáng thương, bảy năm trung học từ đệ thất đến đệ nhất thì biết bao là tình. Bộ quốc gia giáo dục năm nào mà không chọn bài đề nghị của giáo sư Ất để làm đề thi... Rồi đến cồn phụng của ông Đạo Dừa, mặc dù mới lập cũng ghi lại nhiều kỷ niệm.
Tỉnh Mỹ Tho có năm quận Cái Bè, Cai Lậy, Châu Thành, Bến Tranh và Chợ Gạo. Trong năm quận, quận Chợ Gạo có lẽ là quận nhỏ nhứt, nghèo nhứt. Nhìn cái nhà lồng chợ thì đủ biết, chỉ lớn bằng hai cái đình. Năm quận nằm dọc theo sông Tiền Giang và hình như càng xa ra biển dân cư càng nghèo. Con gái lấy chồng về miệt gần biển này thì bị chê, lấy chồng đi lên chứ ai lấy chồng đi xuống. Mình lỡ sinh ra trong vùng này thì cũng mắc tội lây, cõng nghèo đem liệng vô bưng, cong lưng vụt chạy ê ... ê đừng chạy theo. Rồi cũng chạy theo. Nhưng có lẽ nhờ cái nghèo mà học trò vùng này lại có tiếng học giỏi ... Cho đến vùng giáp ranh với tỉnh Gò Công, vùng Hòa Đồng, Chợ Dinh mới thấy dân cư đông đúc, đời sống trù phú trở lại. Phần lớn bà con bên ngoại, mấy cậu, mấy dì của Hùng ở vùng này.
Đố anh con rít mấy chân
Cầu Ô mấy nhịp, Chợ Dinh mấy người.
Mấy người bán áo con trai,
Chợ trong bán chỉ, chợ ngoài bán kim.
Chợ Dinh đông người chen chân như chân rít? Còn Cầu Ô có phải là cầu đen nằm giữa Đồng Sơn và Chợ Dinh? Cầu sơn đen, sau này còn kêu là Cập Sập, bởi vì bị Việt Minh giựt sập. Và tại sao bán áo con trai, bán chỉ bán kim?
Quận Chợ Gạo được chia làm năm xã Hòa Định, Bình Phan, Bình Phục Nhứt, Bình Phục Nhì và An Thạnh Thủy. Ngoại trừ xã An Thạnh Thủy giáp ranh với tỉnh Bến Tre, còn bốn xã kia nằm dọc theo kinh Chợ Gạo, con kinh nối liền miền Tiền Giang và Sài Gòn qua kinh Nước Mặn miệt Gò Công và sông Lòng Tào miệt Vũng Tàu. Nói đến kinh Chợ Gạo thì phải nói đến phà Chợ Gạo trên tỉnh lô 35 Mỹ Tho Gò Công, loại phà kéo tay, loại phà đôi khi làm trở ngại lưu thông cả hai đường, đường thủy lẫn đường bộ. Mỗi lần tàu tới, phải xả dây cáp chìm xuống đáy cho tàu qua, thắng tàu không ăn lắm nên tàu có quyền ưu tiên. Còi súp lê báo động từ đàng xa và nhân công kéo phà phải nắm chừng vận tốc của tàu mà làm việc. Nhiều lúc ước lượng sai, phải xả dây cáp khẩn cấp khi phà đang ở giữa dòng, người và xe lênh đênh trôi dạt vào bờ cả tiếng sau mới về được bến. Mãi đến lúc sắp về nước công binh Mỹ mới cất được cầu Chợ Gạo. Thật là tiện lợi, xe qua cầu mặt dầu cũng phải đóng tiền nhưng không phải chờ đợi, tàu ghe dưới kinh qua lại cũng không cần phải hạ cột buồm vì móng cầu thật cao. Chỉ tội cho bến phà, bị bỏ quên, trở thành im lặng hoang vắng cùng chung số phận với hai cây “cột dây thép” lẻ loi buồn tẻ sừng sững bên trời. Dấu vết của Tây để lại. Dọc hai bờ kinh Tây cũng làm lộ, lót đá ong hoặc đá đỏ cho xe chạy. Đến lúc Việt Minh nổi dậy thì lộ bị cắt, cầu bị sập, dần dần con đường lớn biến thành đường mòn, rồi nhiều đoạn mất hút trong rừng cây.
Hùng sinh ra ở xã Bình Phục Nhứt. Muốn tới xã chỉ có hai đường, đường thủy bằng kinh Chợ Gạo, đường bộ bằng con lộ đá đỏ xuất phát từ tỉnh lộ 35, còn con đường dọc theo bờ kinh thì dành riêng cho Việt Cộng. Nếu đi đường bộ, độ nửa chừng lộ đá đỏ, thì ai cũng ngạc nhiên vì hai tòa nhà đồ sộ mọc lên giữa đồng, nhà có hồ tắm trên sân thượng có cái tục danh là lầu-cô-tám-cô-chín. Cô Tám, cô Chín có chồng Tây đã về Tây mấy mươi đời Tây rồi, thành thử lầu-cô-tám-cô-chín bơ vơ hoang vu sụp đổ bây giờ chỉ còn là chỗ nghỉ chân của mấy đám chân trâu. Mấy lần ba má Hùng bao xe ngựa về thăm quê trong dịp tết, cuối thập niên 50, Hùng cảm thấy bùi ngùi mỗi khi đi ngang qua đây. Giá như tây không bị bại trận, vùng này chắc được mở mang kiến thiết dữ lắm.
Không hiểu ba má Hùng di chuyển về xã Bình Phan vào năm nào, chỉ biết rằng ông nội Hùng muốn ba Hùng về đây lập nghiệp, nối nghiệp ông về đây làm nghề “trại cây”. Trại cây của ba Hùng cất tại Cầu Sắt cách chợ quận khoảng một cây số. “Phi thương bất phú”, ông nội Hùng lập đi lập lại câu nói này hoài. Ba má Hùng cất trại không bao lâu thì gia đình bà cô Hùng cũng dọn theo, nhưng về chợ quận, cất nhà mở tiệm trên miếng đất mà ba Hùng mới sang. Coi như không. Không ngờ cửa tiệm của cô Hùng phát đạt nhanh chóng và từ từ trở thành cửa tiệm lớn nhất trong chợ quận, lầu lên hai ba từng. Cô Hùng giàu, nhưng đám cháu chắc như Hùng cũng chẳng nhờ vả được gì. “Giàu cha giàu mẹ thì ham, giàu cô giàu chú ai làm nấy ăn”. Vả lại cô Hùng đông con lắm, mười lăm mười sáu đứa. Đẻ đến đứa thứ mười không còn đặt tên nữa, cứ kêu số, mười, mười một, mười hai ... cho đến không biết mười mấy thì bắt đầu đặt tên trở lại, Bích Vân, Bích Thủy. Ba Hùng không giàu được là tại vì ông bán chịu nhiều quá, bán chịu khắp cả làng, khắp cả quận. Tối ngày chỉ việc đi đòi nợ cũng hết thì giờ. Rồi dần dần bị kẹt vốn không phát triển được. Nhiều trại cưa máy nổi lên, trại mình còn cưa tay thì làm sao mà cạnh tranh được. Tuy vậy chỗ làm ăn lâu cũng có cái tình, bà con trong xã cũng còn lui tới trại của ba Hùng, cho nên gia đình Hùng mới còn cơ hội sống. Mỗi lần “kiến súc” từ Sài Gòn về bến cũng vui lắm, chom xóm đến phụ rẽ bè cho cây chìm xuống sông, phải có thứ tự lớp lang, để khỏi bị trôi. Xong việc rồi nhậu nhẹt, tiệc tùng. Lúc kéo “súc” lên đà để “rã tào phô”, xẻ đôi, cũng vậy. Người ta dùng dây xiền bự cỡ cột một đầu vào súc còn đầu kia quấn vào bá lăng có hai cái lỗ to để xỏ hai dây đòn, rồi quay lên vòng vòng theo kiểu trâu đạp rạ. Mỗi lần rã tào phô mà cây đặc thì ba Hùng mừng lắm, thấy có lời, còn cây bộng thì may ra huề vốn. Làm nghề cây tài nghệ duy nhất là biết lựa cây, nhiều cây bên ngoài lỗ hang vậy mà bên trong đặc như sáp, trái lại nhiều cây bên ngoài trông lành lẽ mà bên trong dập nát cũng không biết chừng. Cây có lỗ có hang thì lại được mua với giá rẻ cũng dễ kiếm lời. Ba Hùng tính tiền bằng “bàn toán lắc cắc” thì lẹ lắm, lẹ hơn là làm trên giấy nhiều. Làm trên giấy chậm là vì ông phải lẩm nhẩm cái “cửu chương chữ nho” của ông mỗi lần ông viết ra một con số. Hùng nghe riết rồi cũng thuộc chút ít, mà nó cũng có vần ... cửu cửu bát nhất, bát cửu, thất nhì, thất cửu lục tam, lục cửu ngũ tứ, ... đâu khác gì chín lần chín tám mốt, chín lần tám bảy hai ... Nghề cây của ba Hùng càng ngày càng xuống dốc, bán chịu đòi chưa hết thì đến lúc ông bắt đầu mua chịu ở Sài Gòn, mỗi lần họ xuống đòi nợ, cơm nước đãi đằng má Hùng cũng mệt thở không ra hơi. Lẽ dĩ nhiên cũng phải quơ quào đâu đó chút đỉnh mà trả cho họ để họ vui lòng ra về chứ đâu bao giờ trả hết một lần.
Đó là những năm Hùng đi học sơ học, tiểu học. Trường sơ học xéo xéo với nhà Hùng bên kia sông, sông Tham Thu, một nhánh sông lớn chảy vào kinh Chợ Gạo. Nói là trường nhưng thực ra đây là nhà của ông hội đồng Lượng, một trong nhiều nhà nghỉ mát của ông ta. Nhà nền đúc cất theo kiểu Tây cao ráo mát mẻ. Mỗi ngày ba Hùng phải lấy xuồng đưa Hùng sang sông và rước Hùng về. Trong cái cặp dán bằng giấy dầu của Hùng chỉ vỏn vẹn có cuốn vần ABC. Rồi Hùng đương nhiên tốt nghiệp sớm, qua năm sau ông hội đồng lấy lại nhà và trường sơ học phải dời lên chợ quận nhập chung với trường tiểu học. Nói là trường tiểu học chứ thực ra là nhà của ông Huyện, dinh cũ của ông Huyện lấy làm trường. Quận gì mà nghèo quá. Hùng bắt đầu theo anh chị của Hùng chạy bộ từ nhà đến trường mỗi ngày, một cây số đi một cây số về. Hùng phải chạy mới kịp người lớn đi bộ, tuy nhiên Hùng cũng có cái cặp đệm hai ngăn như người lớn chứ không còn ôm cái cặp dán bằng giấy dầu nữa. Được nữa năm thì quận có chương trình xây cất trường mới, trả nhà cho ông Huyện. Nửa buổi đi học nửa buổi đi làm trường, ai cũng phải đi kể cả lớp Đồng Ấu. Trường được dự trù cất làm ba dãy theo hình chữ U với hai nhà hình bát giác ở mặt tiền làm văn phòng hiệu trưởng và phòng họp cho thầy cô. Chỗ giao điểm của hai lối đi hình chữ thập sẽ là sân cờ có vườn bông. Bốn góc còn có sân tập thể dục thể thao, sân chơi vũ cầu, bóng chuyền ... Không ngờ dự án bông hình coi đẹp như vậy mà lại cất trên một bìa rừng hoang dã tha ma. Và biết chừng nào mới xong. Mấy lớp nhỏ của Hùng đi theo để chơi nhiều hơn để làm nhưng cũng là những lớp trông đến giờ đi làm trường nhiều nhất. Từ sáng sớm, từ lúc chào cờ, từ lúc sắp hàng hai đi vào lớp. Chặt cây phá rừng, bang gò lấp nổng, rồi đem trâu cày lên một bận. Thấy được miếng đất trống như thấy được nữa đường, không bao lâu nữa sẽ xong. Rồi đến lượt khuân đất đắp nền, đắp đường đi. Đất trộn với trấu, trấu rải trên mặt đất cho mau khô, đâu đâu cũng thấy trấu ... Công tác của học trò cũng chỉ đến chừng đó, phần còn lại dựng trường, lợp trường, cột kèo phên vách thì do đám thợ chuyên môn lo. Vài tháng sau tỉnh trưởng xuống cắt băng khánh thành long trọng, có đồng ca "này công dân ơi đứng lên đáp lời sông núi ..." và có "ai bao năm vì sông núi quên thân mình ..." Nền trường càng ngày càng khô, nứt nẻ càng ngày càng lớn, bàn ghế càng gập ghềnh chổng đầu chổng gọng. Vậy mà chẳng ai phàn nàn. Mấy trường sơ học quanh vùng lần lần đóng cửa tập trung về trường quận, học trò càng ngày càng đông. Giờ ra chơi có cà rem cây, có kẹo kéo quay số, có nước đá bào si rô ... một cắt hai cắt cũng đủ xài. Khi lớn lên, mỗi lần trở về qua mái trường xưa cứ như còn thấy bóng dáng thầy Bảy già, thầy tám Chương, thầy chín Chương, thầy Hoàng ... và cả anh Tư cà rem ... Nhớ mấy lần bị đòn, bị khẻ tay, nhớ mấy lần chơi u đánh lộn, nhớ những đêm trăng trung thu rước cộ đèn, có phát bánh, có đấu xảo. Hùng nghĩ có mấy ai được cái cơ hội tự cất trường cho mình học.
Trở lại vấn đề làm ăn, ngoài việc làm cây ba má Hùng còn phải lo cày cấy năm mẫu ruộng của ông nội Hùng ở dưới "bờ lộ me ông chủ Hoàng", lối duy nhất đi vào sân banh. Qua khỏi sân banh thì đến khu rừng Cây Điệp, rồi mới đến ruộng. Vùng Cây Điệp này nỗi tiếng là linh thiêng ma quái, thiên hạ đồn rằng dưới gốc cây điệp, cây to nhất trong vùng, là hang cọp. Quỷ hiện hồn hành cọp nhảy ra ăn thịt người, xương xóc đầy hang. Chưa thấy quỷ chưa thấy cọp, nhưng thấy đây là nghĩa địa của Việt Minh, của những người chết không chỗ chôn. Có lần bộ đội chôn đồng bọn ở đây cả tiểu đoàn, mười mấy đêm liên tiếp. Mà không phải dễ chôn vì đào đâu cũng đụng hàng, lấp lại đào nơi khác, rồi cũng lấp lại đào nơi khác, đêm qua đêm. Khu rừng như đã được chôn năm bảy lớp người. Đối với Hùng, chỉ khổ một điều là mỗi lần ra ruộng phải đi qua những đường mòn len lỏi trong khu rừng này, nhất là đi ban đêm, thêm trời mưa rỉ rả. Ngọn đèn lồng soi sáng bước chân mình chưa đủ làm sao soi sáng cỏ cây. Tay bắt ấn mà lòng run cầm cập. Đi đoạn giữa thì đỡ, sợ nhất là đi sau chót. Hình như đâu đâu cũng có oan hồn, chết oan chết uổng, chết bắn chết trận, chết tức tưởi ... không giải thoát được, lẩn quẩn, quấn quít với nấm mồ như đã lạng của mình trong dập vùi lãng quên. Bờ ruộng giáp ranh với rừng, cái xa quạt dùng để "bơm" nước sông vào ruộng đặt dưới làn cống lại cũng hướng về phía rừng. Mỗi lần đạp nước đêm, vừa ngó cây nhang đốt tính giờ thay phiên vừa ngó vô rừng tưởng mình như đang cúng vái đất trời cho những vong hồn dật dờ kia được siêu thăng tịnh độ. Mùi hương trầm phản phất không đuổi được bay muỗi vo ve bên mình thỉnh thoảng cắn như ong chích. Cây nhang như dài thêm cháy hoài không tắt. Lắm lúc vừa đạp vừa ngủ, trật chân bị bàn đạp đập muốn sưng ống quyển mà còn bị anh bạn đồng thuyền đầu phía bên kia phàn nàn:
- Ngủ gục hả, mới đạp có mấy cây đã ngủ rồi, đạp hết bó nhang đó chưa chắc đã xong. Bây giờ nước mới đứng mấy tiếng nữa mới ròng.
- Nghe nói nản làm sao, nghỉ một chút đi, đi vô rừng nhổ mì về nướng ăn cái đã, đói bụng rồi ...
Ma đói đâu sợ đám ma quỷ chết không chỗ chôn. Mì không ai trồng mà mọc đầy rừng, ớt và ổi do chim ăn chim ỉa cũng mọc đặc gật trong đó.
Ba Hùng lần lần thu gọn nghề cây không làm lớn nữa, trở về Bình Phục Nhứt xây nhà máy xay lúa. Ông mua lại nhà máy của một người bạn trên bến phà, gỡ ra, chở về, rồi ráp lại. Lúc đầu làm ăn được lắm, dân trong vùng không còn chở lúa qua nhà máy Quơn Long nữa, nhưng ba Hùng vẫn bận tâm về vấn đề của một nơi người một ngã. Sau mấy tháng đi đi về về mệt mỏi, ông quyết định giao cho chú Hùng quản lý rồi lâu lâu xuống thăm một lần. Ông linh tính việc "chà lúa lấy tiền" này cũng có ngày thất bại. Ông kể lại một đêm ông nằm chiêm bao thấy một con sâu rọm thật to, xanh như sâu mãng cầu, đầy lông lá không hiểu từ đâu xuất hiện trên mặt bàn, rồi bắt đầu bò đến chân đèn, bò lên ngọn đèn, bò lên bong bóng ... Bong bóng nổ tiêu tan ... Sáng ngày sau có người đến báo tin bánh trớn nhà máy bị bể, phang vào cột nhà, nhà sập và nhiều người bị thương. Đầu máy loại xưa có hai bánh trớn hai bên, bể một cái không cân bằng không chạy được. Hàn lại cũng không được, nó sẽ bể nữa tiền mất tật mang. Mua cái mới cũng không có, mô đen cũ không ai bán. Bán sắt vụn. Quả thật rốt cuộc rồi ba Hùng phải bán sắt vụn cái nhà máy đó...
Thất bại vụ nhà máy xay lúa ba Hùng đổi nghề lần nữa, biến trại cây thành trại mộc và trại hòm. Ông không còn đi sài Gòn kiến súc, bè cây bằng đường sông nữa mà mua cây và cưa tại chỗ rồi chở về bằng đường bộ. Trừ khi có người đặt nguyên một cái nhà hay ít ra vài bộ cột vài bộ đòn tay thì ba Hùng mới làm một chuyến kha khá, bằng không đi một chuyến nhỏ để mua cây đóng giường, bàn, tủ, ghế, đi văng, sóng chén ... Năm bảy ông thợ đủ làm căn trại thêm ồn ào náo nhiệt, vui nhà vui cửa. Vài người ở xa, ăn ngủ lại trại, năm ba ngày mới về thăm nhà một lần. Ban đêm họ uống nước trà trò chuyện, nói chuyện tiếu lâm. "má ơi con muốn lấy anh thợ bào. Ảnh khom lưng ảnh đẩy cái nào cũng sâu". Có người thổi kèn, bằng lá cóc kèn, tiếng kèn như kèn đám ma.
Làm thợ mộc muốn phát thì phải ếm, nhứt là mấy ông thợ cất nhà, mấy ông thợ có bùa lỗ ban. Lần thứ mười phải ếm thật nặng, ếm cho chủ nhà cất đầu không lên, ếm cho tán gia bại sản, ếm cho chết vợ chết con ... Nhưng mấy ông thợ đóng đồ mộc này cần gì phải ếm. Không ếm không được. Không ếm thì thợ mộc cất đầu không lên, tán gia bại sản, chết vợ chết con, không ếm lớn phải ếm nhỏ, tổ dạy vậy. Chính vì vậy mà lần đó ba Hùng bị cô ba Tỏ phàn nàn:
- Cái giường mua của anh thiệt kỳ, ngủ sáng dậy không biết đường ra, ai ngờ cái cửa mùng bên này mà cứ vạch vạch phía bên kia.
Rồi ông Năm Đại cũng phân trần:
- Từ ngày lấy cái giường của anh về vợ con tôi nó ngủ nó quay mặt vào vách.
Nhưng không bằng chú chín Trâu, cự nự ba Hùng một phát dữ tợn:
- Anh nghĩ coi nó ếm cái gì mà thằng nhỏ tui đêm nào ngủ cũng đái dầm. Giường tui đặt anh là giường phòng mà, nó ếm vậy thì làm sao thằng nhỏ ăn ở với vợ con nó được.
Không biết có đái dầm thiệt hay không nhưng chú chín cứ nói riết đến nỗi ba Hùng phải đổi cho chú cái giường khác...
Đặc biệt có ông thợ chuyên môn làm nắp hòm, nghề của ông là đẽo cây dạt cây với cái rìu có cánh chuồn dài hơn cán rìu. Đẽo làm sao cho tròn cho trơn tru cho ăn khớp với khuôn hòm. Không phải chuyện dễ. Nắp hòm đàn ông thì mô hơn, nắp hòm đàn bà cũng phải đẽo cho đúng kiểu đúng cách. Tiền công của ông gấp đôi mấy ông thợ kia vậy mà ông cứ đòi đi làm chỗ khác hoài. Ba Hùng cũng bực mình ông dữ lắm nhưng không tìm ai thay thế ông ta được. Đêm nào ngoài trại hòm nghe tiếng cây vặn mình kẽo kẹt là sáng hôm sau có người tới mua hòm, có người qua đời. Đêm nào ba Hùng cũng đốt nhang ở "bàn thờ tiên sư", không hiểu ông vái cái gì, ông có chịu vái cho dân trong làng chết hết hay không.
Cho đến lúc má Hùng mở tiệm hàng xén thì trại mộc, trại hòm của ba Hùng cũng sắp sửa dẹp. Lúc đầu má Hùng chỉ định bán nước mắm, dầu lửa qua ngày, nhưng rồi tiệm càng ngày càng phát. Ba Hùng xoay qua nghề bỏ đồ và sổ sách cho vợ. Mấy mùa bán tết mấy năm đó cũng rầm rộ. Bánh, mứt, thèo lèo ... chưng đầy kệ. Có hoa mai, dưa hấu, có pháo bông, lì xì ... Nhưng rồi mấy tiệm lớn mở ra ngoài đầu cầu giựt mối, tiệm của má Hùng như bị thụt vào trong không thuận đường buôn bán. Tiệm càng ngày càng ế, kệ càng ngày càng trống. Ông làm không xong đến phiên bà rồi cũng thất bại, đời người như con nước lúc lên lúc xuống...
Bìm bịp kêu nước lớn anh ơi
Buôn bán không lời chèo chống mỏi mê.
Tiếc rẻ "chiếc ghe lù" mục lần trong ụ, ba Hùng quyết định trở lại nghề cây, nhất định lần này làm lớn. Chiếc ghe lù, chiếc ghe trông như cái hộp dùng để bè cây, chiếc ghe chỉ cần trọng tải mà không cần gì về hình dáng bên ngoài. Phải, phải xài nó trở lại. Ba Hùng đã quyết định như vậy và ông đã "đợ ruộng" làm vốn để mở đầu một màn phiêu lưu mới.
Đó cũng là năm Hùng bắt đầu xa nhà lên tỉnh, theo học ban trung học. Mỗi người một quê hương, một thuở thiếu thời. Quê hương và thuở thiếu thời của Hùng chỉ có chừng đó, nhưng luôn luôn gần gũi gắn bó với Hùng như ta với mình như hình với bóng. Mới đó mà đã thành xa xưa.
Nguyễn Tấn Hưng