vhnt, số 116
14 December 1995
Trong số này:
T H Ơ
1 - Xuống Núi...................................Dã Tràng Biển Đông / TMH gửi
2 - Trở Về.........................................Cỏ Nhớ / Lộc Quy
3 - Ru Người, Trên Cao...................Chinh
B I Ê N L U Ậ N
4 -Tìm hiểu thơ Haiku Nhật Bản (phần 4/4).............Nhật Chiêu
B Ú T K Ý
5 - Ði xe lửa ra Nha Trang........................................Phú Lê
T R U Y Ệ N N G Ắ N
6 - Milan Kundera: Chúa Ở Trong Lòng (p.3)...Trịnh Ðình Tường dịch
Xuống Núi
Tráng-sĩ bỏ núi rừng về dẹp loạn,
Áo hồng pha ráng đỏ một chiều rơi.
Duỗi vó ngựa vào vùng trời lửà-đạn,
Mang theo nụ cười Phật nở trên môi.
Tiếng ai thét trong đêm dài ảm-đạm,
Giục-gĩa lòng người thôi-thúc đấu-tranh.
Mẹ trao thanh kiếm: Hồn Cha để lại.
Con ngạo-nghễ cười vào chốn tử-sanh.
Tráng-sĩ dừng chân một chiều bên suối,
Ngắm hoa đỏ, vàng rụng bẩn trăng thơ.
Cắm thanh kiếm hờn trong lòng con nước,
Hoa nát tan đời một lũ ngu-ngơ.
Ánh trăng dãi trên nương cà tím nhỏ.
Mẹ dõi mắt nhìn con ở nơi xa.
Sương đêm đọng long-lanh đầu ngọn cỏ,
Tráng-sĩ chưa về vì vận nước can-qua.
Dã-Tràng Biển Ðông
Thơ Dã-Tràng Biển Ðông, trích từ Giúp Ích Số 4. Ngoài thơ và truyện ngắn, Giúp Ích còn có nhiều bài biên-khảo giá-trị về văn-hóa và truyền-thống Việt.
Trở Về
Trở về thiếu một chỗ nằm
nhân gian quanh quẩn mấy phần xót xa
chốn nầy đâu đã phong ba
chừng như chuông gióng ngân nga buồn buồn
hồn nào lạc giữa tiếng chuông
bỗng trầm thanh vỡ ngang đường gió bay.
Cỏ Nhớ
Ru Người, Trên Cao
ru em tình nghĩa vu vơ...
- tcs -
Ru người, mảnh trăng sầu cuối hạ
Chiều tím than
lặng thầm
theo ngáy vắng
Dốc đèo cao
thấy đỏ
một đường mây
Mảnh trăng kia
tìm nụ,
ấm khuya,
tình.
Từng tiếng động,
người nghe chừng thức giấc?
Phủ sập
đêm.
Tro bụi.
một mùa phai
Ru người mê mỏi thân,
tàn mục
Lay động giấc hờ -
rơi lá khô.
Ru người mảnh trăng sầu cuối hạ
Mùa tím than
đêm khan cả giọng đàn
Mùa cầm xanh
gảy khúc
trinh nguyên
Làm trăng vỡ
từng mảnh
sầu
khua tiếng.
Ru người
ru theo
từng tiếng sỏi
Những lời ru
mệt lã giữa mênh mông.
trăng xưa bạc màu,
bay ngang cố quận
Ôi mùa cầm xanh
nghe nóng rát
trên cao
12.7.1995
Chinh
Tìm Hiểu Thơ Haiku Nhật Bản
(phần 3 và hết)
5.
Haiku có nguồn gốc từ thế kỷ mười ba. Ðến thế kỷ mười bảy thì nó phát triển rực rỡ, lên đến đỉnh cao, trở thành một nghệ thuật quan trọng của Nhật, và cho tận đến bây giờ, nó vẫn không hề lạc hậu, mà còn dược xem như một nghệ thuật rất hiện đại. Nó là thứ thơ cổ điển có ảnh hưởng đáng kể đối với thơ ca hiện đại thế giới.
Người đầu tiên thổi vào nó luồng sinh khí thiên tài, người đầu tiên nhặt nó lên và sáng tạo cho nó một vẻ đẹp vinh quang là một thiền sư có dòng máu võ sĩ Samurai: Matsuô Bashô (1644-1694). Nhưng sống giữa cảnh thái bình của thời Tôkugawa, Bashô không cần chi múa kiếm, mà chỉ du hành vào nghệ thuật thi ca.
Haiku của bashô bao giờ cũng "thanh thản bơi trong Thiền", nhưng là cái thanh thản được tìm kiếm ngay giữa cuộc đời của đường đi đầy sự sống hoạt động, chứ không phải cuộc đời của Thiền thất âm u. Bashô tin rằng mình sẽ chết trên đường, và quả đúng như thế.
Dang dở cuộc hành trình
Chỉ còn mộng tôi phiêu lãng
Trên những cánh đồng hoang
Mọi người đều đồng ý rằng bốn bực thầy vĩ đại nhất trong nghệ thuật Haiku là Bashô, Buson, Issa và Shiki. Họ được xem là bốn cột trụ hùng vĩ của đền đài Haiku. Lướt qua họ, ta cũng hiểu được phần nào con đường phát triển của Haiku.
Yosa Buson (1716-1783) sinh sau Bashô một thế kỷ, là người có công đầu đưa Haiku ra khỏi sự suy đồi mà nó rơi phải sau khi mất Bashô. Vốn là một họa sĩ lỗi lạc, Buson còn mang đến cho Haiku màu sắc lãng mạng mà trong thơ Bashô hãy còn thiếu. Không ai đã thành tựu một lượt hai nghệ thuật thơ ca và hội họa đến mức kỳ tài như Buson.
Ðồng cải nở hoa vàng
Phương tây mặt trời lặn
Phương đông vầng trăng lên
Trên cánh đồng vàng rực của mùa Xuân, của con người lao động, ở hai phương trời của hai thiên thể đẹp đẽ... tất cả là mùa Xuân phong nhiêu, là tháng ngày bắt đầu vòng quay mới. Yosa Buson nổi dan h là một thi sĩ của mùa Xuân. Một danh hiệu đẹp đẽ và xứng đáng.
Nhưng có lẽ khuôn mặt đáng yêu nhất của Haiku là Issa, nhà thơ nhân bản hơn cả.
Kobayashi Issa (1763-1827) có cuộc đời vô cùng đau buồn. Mẹ mất sớm, năm đứa con của ông đều chết trẻ, và người vợ yêu cũng qua đời trước ông.
Issa không ưa giai cấp thống trị, không bao giờ tỏ ra thân thiện với các lãnh chúa muốn thu nạp ông. Sớm ý thức về sự bất công (trong tuổi trẻ phải xa quê hương vì bà mẹ ghẻ), thơ Issa đầy tình yêu dịu dàng đối với vạn vật:
Trong vườn cánh bướm
Ðứa bé bò theo, bướm bay
Em bò theo bướm, nó bay...
Sau Issa, trong một thời gian dài Haiku trở nên trầm trệ. Cần một Haijin lỗi lạc mới cứu vãn nổi. Và nhà thơ xuất hiện đúng lúc ấy là Masaoka Shiki (1867-1902). Ðối với việc soạn Haiku ông kêu gọi hãy tự nhiên. "Cần hết sức cắt bỏ các trạng từ và động từ".
Shiki là người đầu tiên đưa khuynh hướng hiện thực (shasei) vào Haiku. Cho đến nay, Haiku vẫn còn chịu ảnh hưởng của ông.
Ðêm, và một lần nữa
Trong khi tôi chờ em
Gió lạnh thành mưa rền.
Từ Shaki, ta đã bước sang thời hiện đại.
6.
Viết Haiku là một công phu tu luyện. Quây quần bên nhau, các Haijin bàn về phương pháp và nguyên lý. Họ cũng hay tương thoại quanh một đề tài, sự chọn lọc hình ảnh.
Nếu cần, một bậc thầy Haiku sẽ phủ định hẳn tinh thần một bài thơ như Bashô đối bài thơ về con chuồn chuồn của Kikaku. Trong bài Haiku của mình, người học trò đầu tiên của Bashô đó đã đòi vặt lông đôi cánh con chuồn chuồn ra để cho nó thành quả ớt nhỏ. Bashô không công nhận đó là Haiku, do sự hủy diệt vô ích đời sống, trong khi Haiku và thi ca nói chung phải hiến tặng cho đời sự kỳ diệu bất ngờ. Tại sao không thêm cánh vào quả ớt cho nó thành con chuồn chuồn có phải tuyệt diệu hơn không?
Có trường hợp họ bàn về nghệ thuật soạn bài Haiku từ một sự việc bình thường nhất, nhỏ nhặt nhất như chuyện bị con bọ chét đốt.
Kuôrai (cũng là học trò của Bashô) khen rằng Kikaku là một người viết thông minh. Ai từng nghĩ chuyện soạn một bài thơ về việc bị một con bọ chét đốt kia chứ? Bashô đáp: "Ðúng thế! Anh ấy đề cập tới chuyện nhỏ nhặt theo một lối lỗi lạc nhất".
Bài Haiku của Kikaku như sau:
Bị đâm chết!
Giấc mơ tôi có thành?
Này dấu con bọ chét.
Một hình ảnh có thể gợi lên ý nghĩa mà chính tác giả cũng không ngờ. Khi Kyôrai viết:
Bên ghềnh đá
Có bóng một con người
Khách của vầng trăng đó.
Thì bóng người mà anh nghĩ tới là một thi sĩ khác đứng bên vách đá mà anh nhìn thấy vào một đêm đi dạo trong núi dưới trăng. Nhưng Bashô nói: "Sẽ thú vị hơn biết bao nếu bóng người đó không là ai khác mà là chính anh. Anh phải là đề tài của vần thơ trên".
Thi pháp dễ nhận thấy ở Haiku là một bài Haiku thường trước tiên nêu lên đề tài, rồi sau đó dựa theo liên hội ý tưởng mà cho một đối đề xuất hiện. Ðề và đối đề thường tạo lập một t ình thế, một kết quả làm nẩy sinh ở người đọc một cảm thức mới mẻ về sự vật.
Tất nhiên, không phải bài Haiku nào cũng theo phương pháp này và quá trình soạn bài Haiku cũng không hề xảy ra theo một trình tự luận lý nào cho dẫu các nhà phê bình có cố công tìm ra nguyên lý.
Thử lấy bài Haiku nổi tiếng nhất của văn học Nhật:
Xưa cũ một bờ ao
Con ếch tung mình xuống
Và vang tiếng nước xao.
Bashô
Trong bài thơ có đề (ao cũ) và đối đề \(con ếch) và tiếng vang của nước là tình thế mà nhà thơ bắt gặp. Thực ra, "ếch nhảy, nước vang" là câu Bashô buột miệng nói ra khi nghe tiếng động dưới ao trong vườn nhà ở Êđô. Câu đầu bài thơ "ao cũ" lại là câu được soạn sau cùng (Có tài liệu cho rằng bài thơ này của Bashô soạn ra trong khi theo Butchô học Thiền để trả lời cho thầy về tiến bộ học tập của mình).
Có khi Haijin dùng một thủ pháp gây bất ngờ trong hàng cuối bài Haiku, như Issa:
Tuyết đang tan mùa
Khắp thôn làng tràn ngập
Ðọc đến đây, ta chờ đợi một tai họa do tuyết gây ra. Nhưng câu kết mới thật bất ngờ:
Một bầy trẻ thơ.
Các Haijin còn dùng cả thủ pháp chuyển đổi cảm giác:
Lắng nghe vầng trăng
Nhìn tiếng ếch kêu vang
Trên cánh đồng lúa
Buson
Có thể nói Buson đi trước Baudelaire và Rimbaud về việc làm cho người ta thấy sự phong phú và huyền diệu của cảm quan.
Baudelaire với ý muốn "giao hưởng cảm giác" (correspondances des sensations) từng viết rằng: "Hương thơm, màu sắc và âm thanh cùng nhau giao hưởng".
Còn Rimbaud thì chủ trương "xáo trộn cảm giác" (dérèglement des sens) từng nhìn thấy "đồng cỏ của âm thanh" (Le pré des sons) và nhiều ảo giác khác.
Nhưng Haiku không phải là những thủ pháp làm thơ, và cũng không chỉ là một hình thức thi ca, mà đối với người Nhật nó còn là một cách thế sống, một con đường đi.
Haiku làm cho ta nhìn nhận cuộc sống hơn, hân thưởng cuộc đời hơn, sống giản dị, có niềm vui thâm trầm và thân mật nẩy sinh trong giao tiếp với vạn vật, với mọi người chung quanh.
Cũng như Haiku luôn nối kết cái nhỏ nhoi và cái lớn lao, trong khi đọc Haiku, ta đọc cả tâm hồn Ðông phương, giúp ta đọc lại tâm hồn ta. Sau đó, có lẽ tâm hồn và đời sống sẽ trở nên phong phú hơn.
Cái đẹp của Haiku cũng nối kết cái đẹp của thơ ca cổ điển Việt Nam trong kho tàng thơ ca Ðông phương.
Tiếp thu Haiku, ta sẽ có tầm nhìn sâu rộng hơn.
Nếu có thể đối chiếu thơ Haiku với thơ Việt Nam trong tinh thần văn học so sánh một cách đầy đủ, ta sẽ rút ra được nhiều điều bổ ích biết bao. Khi đã bước vào thế giới văn học, người ta khô ng thể không ý thức về văn học thế giới như một chỉnh thể có phần đóng góp của mọi dân tộc.
Nhật Chiêu
trích tập san Hợp Lưu số 23
(1) và (2): A Tagore Reader, nxb Beacon, 1969, tr. 254.
(3) R.H. Blyth: Haiku, nxb Hokuseido, Tokyo, 1960, tập 3, tr. 1.
Đi Xe Lửa Ra Nha Trang
Buổi đến thăm và đưa quà cho người chị ruột của một anh bạn nhờ gửi, trên đường Trần V. Đang. Chúng tôi hoàn tất xong xuôi chuẩn bị kêu xe về khách sạn. Xe xích lô tôi chạy trước. Đến ngã ba Nguyễn Thông, quẹo trái đi về trung tâm SG, còn quẹo phải đi đến ga Hoà Hưng. Tôi bỗng nổi hứng bất tử ra hiệu xe tôi chạy chậm lại đợi xe nhà tôi cặp sát bên. "Em muốn vào ga xe lửa chơi không? Giờ mới bốn giờ chiều về khách sạn cũng hơi sớm." Nhà tôi gật đầu đồng ý. Thế là hai chúng tôi dặn hai chú xích lô đứng chờ, xong ung dung bước vào nhà ga lớn nhất nước này.
Ga đã sửa sang lại ít nhiềụ Trông to lớn hơn ngày xưa. Hơi vắng vẻ. Chỉ có một con tàu dài ngoằng đậu trong đó. Hành khách thưa thớt. Bảng lịch trình ghi rõ chuyến đi và về trong ngày. Thoáng đọc thấy Nha Trang khởi hành lúc 7:55 tối nay. Tôi đưa mắt nhìn nhà tôi dò hỏi. Đọc được ý nghĩ, nhà tôi liền gật đầu hưởng ứng. Thế là nhào vô đặt tiền mua vé. Xong chạy về khách sạn thu xếp đồ đạc, trả phòng. Rồi là tối hôm đó chúng tôi lần đầu tiên đi xe lửa từ SG ra Nha Trang.
Lúc mua vé chúng tôi phì cười khi nghe cô bán vé hỏi về loại vé muốn mua. Những danh từ nghe lạ tai quá cở. Nào là ngồi cứng, ngồi mềm, nằm cứng, nằm mềm, nằm mềm máy lạnh. Ôi nghe mà nín cười không đặng. Giá có hai hạng. Người trong nước và ngoại quốc. Lẽ dĩ nhiên chúng tôi phải trả giá cắt cổ như dân ngoại. Lúc gần giờ tàu chạy tôi thấy Tây ba lô xếp hàng mua vé khá nhiều. Nhưng khi lên tàu trong toa máy lạnh có khoảng 5,6 phòng mà chỉ hai phòng có khách. Còn lại trống trơn. Hỏi mấy người soát vé thì biết Tây mua vé rẻ nhất, tức là ngồi ghế gỗ, rồi khuya là họ trải mền ra cả lối đi để ngủ. Dân hà tiện tối đa.
Mỗi phòng có bốn giường chia ra mỗi bên hai tầng. Giữa là chiếc bàn nhồ May mắn cho chúng tôi là ít hành khách đi loại này nên họ cho hai người ở riêng một phòng. Hành lý thì bỏ xuống hộc dưới giường. Phòng rộng vừa đủ. Đi đứng thoải mái.
Taù khởi hành đúng gi Nhạc mở lên văng vẳng. Toàn nhạc vàng. Chợt nghe Khánh Hà hát "Lên xe tiễn anh đị, chưa bao giờ buồn thế..." Hay quá, đúng lúc thế không biết. Hơi lạnh toả nhè nhễ Tàu chạy chưa được nữa tiếng có người gõ cửa soát vé xong đưa cho mỗi hành khách một phần ăn gồm miếng pâté chaud, miếng bánh ngọt và chai nước lọc.
Nằm nghe nhạc đâu khoảng tiếng đồng hồ tôi bật dậy mở màn cửa sổ nhìn ra ngoài. Trời tối đen như mực. Chắc con tàu đã ra đến ngoại ộ Tôi mang giày nhắn với nhà tôi lúc đó đang nằm đọc báo là muốn đi chơi loanh quanh chút xíu sẽ trở lại. Toa tôi đang ở là toa cuối nên chỉ có một lối đi ngược lên phía trên. Cái toa có vẻ như mới được tân trang lại. Sau này mới biết Ấn Độ đã bán cho VN mấy cái toa có máy lạnh, nhờ đọc báọ Tà tà tôi bước qua mấy toa phía trên. Lúc ở trong ga tôi không thấy nhiều người đợi, nhưng giờ này lại thấy trong mấy toa ghế ngồi đó hành khách đi đông nghẹt. Tiếng người nói chuyện râm ran cộng với tiếng bánh xe nghiến trên đường sắt hoà hợp thành một âm thanh khó quên. Một toa tôi thấy có quày nhỏ bán cà phê nước ngọt. Đi đến gần đầu con tàu có một chỗ bán thức ăn và bia. Giờ mới thấy mấy anh chị Tây ba lô ngồi uống bia xí xô xí xào.
Trở về phòng tôi cảm thấy hơi lạnh. Đắp mền, mở ngọn đèn đọc sách, tôi giở báo vừa mua ban chiều ra xem. Nhạc vẫn còn mở. Chập lâu tôi thiếp đi lúc nào không haỵ Lúc tỉnh giấc nhìn đồng hồ đeo tay mới hơn ba giờ sáng. Vậy là tôi đã ngủ một giấc khá ngon. Nhẹ mở cửa phòng, tôi ra ngoài hành lang đứng vươn vai làm vài động tác thể dục cho giãn gân cốt. Không hiểu tàu đang chạy đến đâu rồi. Ngoài trời vẫn còn tối đen. Lách nhẹ trở vô phòng thấy nhà tôi đang trờ dậy. Có lẽ những tiếng động mở khoá lạch cạch của tôi làm bà ấy thức. Tôi đề nghị đi mua hai ly cà phê về uống cho tỉnh táo, nhà tôi chịu liền.
Bước lên toa có quày bán cà phê tôi không thấy ai cả. Bỗng có tiếng hỏi "Anh cần gì không?" sau cái quày phát ra. Anh ta đang nằm đàng sau, có lẽ thức giấc vì tiếng chân của tôi. Trả tiền bưng hai ly cà phê nguội ngắt về phòng. Cà phê pha sẵn đựng trong bình thủy. Cái bình cũ kỹ mất nắp tạm thời được bao lại bằng cái khăn nên hơi nóng không thể giữ kỹ. Không sao, hai vợ chồng tôi nhấm nháp ngon lành ly cà phê buổi sáng sau khi ngốn gọn phần ăn pâté chaud tối qua.
Hơn 5 giờ tàu đỗ lại ở một ga nhỏ. Có năm hành khách bước xuống. Trời mờ mờ. Ánh sáng đèn điện lù mù nhưng tôi cũng nhận ra ga Tháp Chàm. Phan Rang đây rồi. Vùng đất quê hương từng nhuốm đầy dấu chân tôi. Từ phía này thì hướng kia phải là phi trường. Một phần đời của tôi ở đấỵ Kiếp lính trẻ một thời trải qua ở đây. Tôi đã trả nợ phận trai thời chiến. Máu của tôi đã một lần đổ ra tại mảnh đất này.
Tàu đậu chừng 10 phút rồi lại tiếp tục chuyển mình. Từ giờ trở đi chúng tôi ngồi tựa cửa sổ nhìn phong cảnh bên ngoài. Quê hương mình đẹp quá. Xe hoả chạy trong núi sâu nhưng tôi đều nhận ra địa thế mặc dù đã rời xa khá lâu. Đồi núi xanh um, những con đường mòn ngoằn nghoèo. Lác đác vài căn nhà ngói đỏ bao bọc chung quanh bởi hàng cây ăn trái. Lâu lâu mới thấy một căn nhà hai tầng vươn lên nổi bật khác biệt. Thỉnh thoảng xe chạy qua một khu dân ở đông đúc sống thành làng biệt lập, xa hẳn thành phố. Tuỳ theo cách kiến trúc tôi chỉ cho nhà tôi biết khu nào là của đồng bào Kinh hay Chàm. Xa xa từng cụm khói bốc lên do dân trong rẫy sâu phát quang đốt cây lấy đất trồng hoa màu. Vùng này bắp và mía được trồng rất nhiều. Quang cảnh hiền hoà tĩnh lặng quá. Chưa thấy ai ra đồng. Có lẽ còn sớm nên ai cũng đang say giấc nồng chăng.
Biển thấp thoáng sau hàng dừa lao xaọ Tàu gần đến Ba Ngòi, Cam Ranh. Màu nước xanh dương lẫn sóng bạc nhấp nhô lên xuống cùng nhịp với vài con thuyền đánh cá. Xa tít ngoài khơi tôi thấy một chiếc tàu viễn dương màu nâu cao vút lên so với những thuyền đánh cá bé nhỏ. Bờ biển dài thăm thẳm với những đụn cát trắng làm lòng tôi rộn ràng và nao nức mong mau đến Nha Trang.
Càng gần đến Nha Trang đường xe lửa càng gần quốc lộ. Bây giờ thì cái ồn ào náo nhiệt đã rõ dần. Tôi nhìn thấy hàng đống xoài chín vàng tấp nập người bu quanh mua bán dọc đường. Nhìn thấy chiếc xe lam ì ạch phun khói mù trời cố nuốt con đường bằng sức máy èo uột vì đang tải một số lượng mía khổng lồ. Thấy trẻ con với quần xanh áo trắng đồng phục cặp vở tươm tất đang đi bộ đến trường. Thấy mọi người đang hối hả chạy xe đến sở làm. Và cũng thấy những người nhàn rỗi ngồi quanh ly cà phê trong cái tiệm tồi tàn ven đường.
Xe chạy chậm dần. Chiếc loa trong phòng phát ra lời kêu gọi hành khách hãy kiểm soát kỹ lưỡng lại hành lý, khi xuống tàu tránh chen lấn đề phòng kẻ gian. Cuộn băng phát lại đôi ba lần gì đó tôi không để ý cho lắm. Khoảng mười lăm phút sau tàu ngừng hẳn lạị Đến nơi rồị Nghe tiếng cửa mở kêu ken két rồi thấy một cậu bé lấp ló ở cửa phòng chìa tay xin phần ăn mà chúng tôi đã nhận tối qua. Xui cho cậu ấy quá vì chúng tôi đã thanh toán sạch sẽ hết rồi.
Chúng tôi đợi mọi người ra trước hết rồi mới lững thững bước xuống. Đi vội quá nên tôi không thể nhờ ai dặn phòng dùm. Thôi cứ đón xe đến khách sạn rồi hãy tính. Mọi người xếp hàng dài tuần tự bước ra ngoài cổng ga. Có người đứng sẵn thu lại cùi vé. Họ làm ăn kỹ lưỡng quá chắc đề phòng nạn đi chui đi lậu. Liếc nhìn đồng hồ mới gần 8 giờ sáng. Tôi ngước lên nhìn bầu trời trong lành không ô nhiễm. Vài cụm mấy trắng xám bay lửng lơ. Một cơn gió mát chợt lùa đến. Tôi hít đầy lồng ngực luồng không khí trong lành. Thoang thoảng mùi biển mặn. Nha Trang ơi, thành phố mến yêu của tôi ơi.
Phú Lê
Chúa Ở Trong Lòng
- Tự ông ấy cũng đang dấu diếm một điều gì nên ông ta sẵn sàng hy sinh kẻ khác. Thêm nữa, còn bà lao công đã rêu rao khắp nơi rằng anh là một kẻ cứng đầu như bố khư khư giữ lấy ý kiến của mình. Bà ta cứ yên chí là thế nào anh cũng bị đuổi khỏi trường. Dĩ nhiên tôi khônh đồng ý với bà ta, nhưng anh đừng làm cho bà ta giật thốt lẫn nữa. Ngay cả tôi, tôi cũng không ưa kẻ nào làm dấu thánh giá nơi công cộng làm thầy dạy con em tôi.
Cứ thế cô ta cho chàng thấy hai con đường: một con đường hấp dẫn nếu được cô giúp đỡ, và một con đường đen tối nếu cô ta nổi giận. Và để chứng tỏ đây là một buổi nói chuyện thân mật, cô chuyển hướng qua một đề tài khác: nếp sinh hoạt của chàng trong trường ra sao, và sau câu khôn khéo trả lời đúng quy phạm của chàng, cô ta nói luôn một thôi, nào là cô rất cảm ơn số mệnh đã đưa cô đến vị trí ngày hôm nay, nào là cô rất yêu thích công việc vì đó là phương tiện để cho cô giáo dục trẻ em, và như vậy có được mối tương quan thật sự và liên tục tới tương lai; vì chỉ có tương lai mới có thể biện minh cho những sự khổ sở ( mà cô thú nhận ) đang xảy ra hằng hà sa số. "Nếu tôi không tin rằng tôi đang sống cho một cái gì đó cao cả hơn đời sống của tôi, có lẽ tôi cũng chẳng sống làm gì." Những lời này bỗng dưng có âm hưởng của một tâm tình đang được bộc lộ. Edward không hiểu có phải cô ta đang tâm sự với mình, hay chỉ mở đầu cho mớ lý thuyết về ý nghĩa cuộc đời. Chàng định tâm phải thăm dò xem cô ta có ý gì; nghĩ vậy chàng hỏi:
- Thế còn đời sống cá nhân của cô thì sao?
- Ðời tôi ư ? Cô ta lập lại câu hỏi.
- Cô không hài lòng với đời sống hiện tại?
Một nụ cười cay đắng bỗng nở trên khuôn mặt cô ta và Edward cảm thấy thương hại cho cô. Cô ta xấu một cách tội nghiệp: mái tóc đen càng làm dài thêm gương mặt xương xẩu đen đúa, và lớp lông trên mép trông rất giống một hàng ria. Chàng chợt thấy được hết nỗi sầu của đời cô, vì chàng nhận ra nơi vóc dáng gypsy (phản ảnh một tình cảm sôi nổi), và chàng cũng nhận ra vẻ xấu xí của cô (phản ảnh nỗi tuyệt vọng của tình cảm nồng nhiệt đó). Chàng không thể hiểu nổi nguyên nhân nào đã khiến cô biến thành pho tượng sống thương tiếc cái chết của Stalin, cũng như sự nồng nhiệt của cô khi ngồi trong hàng trăm hàng ngàn phiên họp dài dằng dặc, hay khi nồng nhiệt đấu tranh chống lại những người Do-Thái nghèo khổ. Và chàng hiểu những hành động ấy chẳng qua là một lối-thoát-buồn của giòng sông khát vọng không chảy được tới nơi cô mơ ước. Edward cò trẻ, lòng thương người của chàng chưa cạn. Chàng nhìn cô thương hạị Dường như xấu hổ vì chợt im lặng, cô ta tiếp tục nói với giọng khô khan hơn:
- Người ta sống ở đời không phải chỉ cho riêng mình, mà luôn luôn sống cho một điều gì khác.
Cô ta nhìn sâu vào mắt chàng:
- Vấn đề là điều đó là điều gì. Thực hay ảo ? Chúa, đó là một ảo ảnh đẹp. Nhưng tương lai của nhân dân, Edward, mới là thực tế. Tôi đã sống cho thực tế, tôi đã hy sinh mọi thứ cho thực tế.
Cô ta nói bằng một giọng chân thành đến nỗi Edward thấy lòng thương hại vừa thức dậy nơi chàng còn rào rạt chảy. Chàng thấy thật là ngu xuẫn khi phải nói dối người khác, và dường như giây phút êm dịu vừa qua là cơ hội tốt để chàng vất đi cái vỏ tín đồ vô giá trị (và khó khăn):
- Tôi cũng hoàn toàn đồng ý với cô. Tôi cũng thích những cái đó thực. Xin đừng quan trọng hóa việc tôi tin Chúa.
Vừa nói xong chàng biết ngay là lỡ lời vì người ta không nên để một chút tình cảm làm lạc đường. Cô gái già nhìn chàng ngạc nhiên và nói với giọng lạnh lùng:
- Ðừng giả bộ. Tôi ưa chỗ thẳng thắng của anh. Bây giờ anh lại giả bộ đóng vai khác.
Không, Edward không được phép trút bỏ bộ áo tôn giáo chàng đã tự khoát lên ngườị Chàng vội vã tìm cách sửa lại ấn tượng xấu vừa gây ra:
- Không. Tôi đâu có ý lẫn tránh. Dĩ nhiên tôi tin Chúa, tôi không bao giờ phủ nhận hết. Tôi chỉ muốn nói rằng tôi cũng tin vào tương lai của con người, vào sự tiến bộ, và tất cả những điều khác. Nếu tôi không tin những điều đóthì tôi làm thầy giáo làm chi? Tại sao trẻ con lại được sinh ra, tại sao chúng ta phải sống? Và tôi đã nghĩ rằng đó là ý Chúa muốn xã hội tiến tới chốn tốt đẹp hơn. Tôi cũng nghĩ một người có thể tin Chúa và tin Chủ nghĩa Cộng sản. Và ta có thể kết hợp cả hai.
Cô ta mỉm cười như một bà mẹ nhìn đứa con:
- Không, hai thứ đó không thể kết hợp được.
Edward buồn rầu nói:
- Tôi hiểu. Xin cô đừng giận.
- Tôi không giận anh đâu vì anh còn trẻ và bám lấy những gì anh tin. Không ai hiểu anh bằng tôi đâu, vì dù sao tôi cũng có một thời tuổi trẻ. Tôi hiểu và thông cảm tuổi trẻ. Tôi thích sự trẻ trung của anh. Nói thẳng ra, tôi thích anh.
Việc gì phải đến đã đến. Không sớm cũng không muộn, và rơi đúng vào lúc này. Khi cô ta nói thích chàng, chàng trả lời xuôi xị:
- Tôi cũng thíchh cô nữa.
- Thật chứ?
- Thật.
- Thôi đi! Tôi chỉ là một cô gái già.
- Ðiều đó không đúng. Edward đưa đẩy.
- Thực tế là như vậy. Cô giám hiệu trả lời.
Edward buộc phải khẳng định:
- Cô có già chút nào đâu?
- Anh nghĩ vậy sao?
- Thật mà, tôi thích cô lắm.
- Ðừng có xạo.
- Tôi xạo làm gì? Cô đẹp thật mà.
- Tôi mà đẹp nỗi gì? Vừa nói cô vừa nhăn mặt như không tin.
Ðã trót thì phải trét, đau khổ Edward phải nói thêm:
- Thật đấy. Tôi điên lên vì những người con gái tóc đen, như cô vậy.
- Anh thật thích đàn bà tóc đen sao? Sao trong trường anh hông lên gặp tôi? Tôi có cảm tưởng là anh tìm cách tránh né tôi.
Edward nói:
- Tôi mắc cở; vả lại tôi ngại người ta nói nọ nói kia là tôi xum xoe cô để lấy điểm. Chẳng ai tin là tôi gặp cô chỉ vì tôi thích cô thôi.
Cô ta nói:
- Không có gì phải xấu hổ cả. "Trên đã quyết định" là anh gặp tôi thường xuyên.
Cô ta nhìn chàng với tròng mắt màu nâu (phải công nhận là đôi tròng mắt nâu của cô ta đẹp), và trước khi chia tay, cô chạm nhẹ vào tay chàng. Vì thế chàng tuổi trẻ của chúng ta ra về, hân hoan như một kẻ chiến thắng.
Milan Kundera
(còn tiếp...)
Trịnh Đình Tường dịch theo bản English: "Edward and God", trong tuyển tập "Laughable Love".