vhnt, số 83
12 October 1995
Trong số này:
+ thư tín
+ thư bạn đọc
+ 1 - thơ, Hạt Cát Trường Sa, Trần Trung Ðạo
+ 2 - thơ, Chuyện Của Bố, Cỏ Nhớ/Lộc Quy
+ 3 - thơ, Một Buổi Tập Đàn Nhớ Bố, Châu Tú/Hoang Giang Nguyen
+ 4 - thơ, Khúc K Riêng Chàng, Du Tử Lê
+ 5 - thơ, Chị Tôi, Diem V Nguyen
+ 6 - tùy bút, Uống Trà, Trần Tiễn Hương Xuân
+ 7 - thơ, Chẳng Đớn Đau Gì, Trương Nguyễn Thi Thanh
+ 8 - thơ, Bài Học Ðầu, Tien Doan
+ 9 - truyện, Mùa Hè Khó Quên (Phần II), Thai Nguyen
bạn,
Châm ngôn phương Ðông bảo rằng: Người nghệ sĩ nhìn nghệ thuật không phải bằng con mắt mà bằng tâm hồn. Cái nhìn của tâm hồn là cảm xúc đến từ trái tim, đến từ cảm thức biết yêu cái đẹp, cái thật, và cái thiện. Chân Thiện Mỹ hãy là nền tảng của nghệ thuật!
Gandhi lại cho rằng một đời sống hy sinh là tuyệt đỉnh của nghệ thuật, vì nó tràn đầy nguồn vui chân chính.
Cái thật ở nghệ thuật không những không được phản lại cái thật trong đời sống mà còn phải cao hơn cái thật trong đời sống (Ngải Vu).
Gửi bạn đôi điều để nghĩ về cái đẹp của văn chương và nghệ thuật trong đời sống. Những cái đẹp làm thăng hoa đời sống.
Cám ơn anh Sung Nguyễn và tản mạn bài thơ "Thơ Viết Ở Biển" của Hữu Thỉnh. Bài thơ làm chao đảo chính tôi, khiến tôi cũng đang nghĩ đến "Em xa anh" nó sẽ nghiêng ngả thế nào trong thơ. Anh cho tôi khất nhé, sẽ nói về cảm xúc của cái nhớ của người nữ khi phải xa người yêu...
Chúc bạn đọc một ngày vui.
PCL/vhnt
Thư Bạn Đọc
Chào vhnt:
Mục thư tín vừa rồi, Chi Lan giới thiệu một bài thơ thật hay. Không ngờ Chi Lan thuộc bài thơ này.
Năm 1987, tôi có nghe nhà thơ Hữu Thỉnh đọc thơ của mình ở câu lạc bộ Duy Tân Sài Gòn. Bài "Thơ Viết Ở Biển" là một trong những bài thơ hay của thơ mới Việt Nam. Trúc Lê, một người bạn tài hoa của tôi đã ngâm bài thơ, cô ta làm tôi thẫn thờ. Chưa một lần nào, tôi nghe đọc lại từ dạo ấy.
Cái ngạc nhiên của bài thơ cũng là cái ngạc nhiên của bạn đọc:
Anh xa em
Trăng cũng lẻ
Mặt trời cũng lẻ
Có bao giờ Trăng có cặp có đôi đâu; kể cả mặt Trời cũng vậy. Những ngày bên em, cái sự thật rõ ràng như vậy mà không nhận ra, để xa em rồi mới để ý đến thiên nhiên. Quả thật, khi xa người ấy rồi, tôi thấy mọi vật đều lẻ loi, và thiếu hơi ấm thân quen. Có lẽ, Trăng và Mặt trời lớn lao quá nên khó mà em hiểu được sự cô đơn của anh.
Biển vẫn cậy mình dài rộng thế
Vắng cánh buồm một chút đã cô đơn
Hay quá - câu thơ hay quá . Từ cái lớn lao, như Trời và Trăng, Hữu Thỉnh đã trở lại cái theme thân thuộc của tình yêu trong thơ: Thuyền, Biển, Bến , Buồm... Câu thơ nói được cái dạt dào của nỗi nhớ niềm mong; cái sự thật 'xa em' và 'cô đơn' được nhẹ nhàng lột tả.
Cấu trúc song song đã bắt đầu bắt đầu xuất hiện:
Gió không phải là roi
Mà quất núi phải mòn
Em không phải là chiều mà
nhuộm anh đến tím
Biển , vắng buồm --> cô đơn ; Anh, xa em --> cô đơn. Nhưng hơn thế nữa, sự cậy mình rộng lớn của biển và sự tự hào cứng rắn của anh, cả hai đều là không đúng.
Cấu trúc song song đã bắt đầu xuất hiện:
Gió không phải là roi
Mà quất núi phải mòn
Em không phải là chiều mà
nhuộm anh đến tím
Tình yêu em lớn quá - như thiên nhiên vậy, đầy sức sống và cũng là nguồn sống. Không phải mà là phải; không giống mà là giống: Tình yêu sao confused quá!
Bài thơ viết ở biển, nên nhà thơ không bỏ sót một chi tiết biển nào.
Sóng chẳng đi đến đâu nếu
không đưa em đến
Dù sóng đã làm anh nghiêng ngã vì em
Trời, Trăng, Gió Núi, giờ tới Sóng; chắc rằng nhà thơ quí những con sóng, như sóng lòng của ông ta vậy, nên nhắc đến sau cùng. Nhưng "Em" vẫn mãi là nhân tố quan trọng của anh. Hai câu thơ này, chắc tôi phải nhờ Trúc Lê đọc mới ra hồn nỗi. Nhưng mà thôi, Trúc Lê không biết giờ ở nơi đâu, tôi lại đọc "thơ viết ở biển" ở biển Daytona Florida. Dù sao cũng còn có cái chung.
Nếu các bạn để ý sẽ thấy rằng, nhà thơ chỉ mới nói cái phần "Anh xa em" thôi đó nghe.
Nếu mà "Em xa anh" chắc trầm trọng hơn nhiều . Câu hỏi này xin để Chi Lan trả lời hộ vậy.
Chúc vhnt một ngày vui.
Sung Nguyen
Florida
Hạt Cát Trường Sa (*)
Tôi chưa một lần ghé lại Trường Sa
Chưa biết bãi Phúc Nguyên chỗ lồi chỗ lỏm?
Bầy cá Chuồn bay qua, có mang tin bão lớn?
Cát Quế Ðường có trắng tựa cát Nha Trang?
Tôi chưa ghé thăm Ðá Lát, Huyền Trân
Có tấm bia nào còn khắc tên Tứ Chính?
Ăn dưa hấu An Tiêm đỏ tươi mùa Tết đến
Tôi học thuộc lòng câu "nhớ kẻ trồng cây"
Tôi chưa một lần ghé lại bãi Vũng Mây
Tìm những mảnh xương của bao người ngã xuống
Như chiếc cọc tre cắm quanh bờ ruộng
Cho Trường Sa mãi mãi được vun bồi
Chưa thăm bãi Phúc Tần, lòng vẫn nhớ khôn nguôi
Nỗi nhớ lớn lên theo từng ngày lưu lạc
Từ dạo Trường Sa rơi dần vào tay giặc
Nỗi nhớ dâng cao thành ngọn sóng căm thù
Ðất nước tôi nghèo, chinh chiến muôn thu
Một ngàn năm trong xích xiềng nô lệ
Mỗi bước chân đi mang niềm đau vô kể
Của ông cha trong tủi nhục căm hờn
Một trăm năm giặc Pháp cướp quê hương
Mỗi gốc cao su một thây người yêu nước
New Guinea, Reunion, những tử tù lê bước
Giọt máu da vàng nhỏ xuống đất Châu Phi
Hai mươi năm đầy đọa, chia ly
Trong nghèo đói, nhân danh, lọc lừa Cộng Sản
Tuổi trẻ chúng tôi rơi vào cơn bão loạn
Hố thẳm quanh đời, lạc mất tuổi hoa niên
Tổ quốc ơi, con quá ươn hèn
Không giữ được cho Người ngọn rau tất đất
Ðể mỗi đêm chợt nhớ nhà thức giấc
Nghe trong mắt mình có hạt cát Trường Sa.
Trần Trung Ðạo
Boston, Hoa Kỳ 10-10-95
(*) Phúc Nguyên, Quế Ðường, Ðá Lát, Huyền Trân, Tứ chính, Vũng Mây, Phúc Tần là những bãi chính chung quanh đảo Trường Sa.
Chuyện Của Bố
Bố thích kể những ngày theo học
trường nhà dòng cổng kín tường cao
vì Hà Nội phố phường ngang dọc
Bố ham chơi, bỏ lớp, xé rào.
Mười mấy tuổi học làm lãng tử
Bố trốn nhà lưu lạc vô Nam
sông Bến Hải chợt ngồi tư lự
tiếng Quê Hương sóng vỗ nồng nàn.
Nội tìm Bố giữa trời đô hội
sắp cuộc tình hộ đối môn đăng
Bố ngang bướng bỏ vào quân đội
vết chân qua làng xóm khô cằn.
Bố kể chuyện ngày xin cưới Mẹ
Nội phật lòng gia phả gạt tên
như cơm áo sang giàu xem nhẹ
Bố ngang nhiên không chút tủi hờn.
Vậy mà lúc con vừa biết chạy
Nội khóc mừng tha tội Bố ngông
Bố bật khóc như ngày thơ dại
Nội dang tay ôm Bố vào lòng.
Vừa nước mất nhà tan thời loạn
Do Thái buồn thân Bố lưu vong
Bố nhắc tới chỗ đời khô hạn
chờ tin xuân chim Én về đồng.
Bố thích kể xứ người hiu quạnh
Bố làm thầy, làm thợ ba xu
mùa đông đến mưa hoài không tạnh
nhớ Quê Hương trong ký ức mù.
Bố kể hết nhưng rồi không kể
chuyện Bố tròn kiếp sống quân nhân
như bại tướng ôm buồn thế hệ
Bố đau nên chẳng nhắc một lần.
Con muốn hỏi nhưng rồi không hỏi
để Bố còn dư nỗi buồn riêng.
Cỏ Nhớ
Một Buổi Tập Ðàn Nhớ Bố
Ghi-ta chập chững ngón đàn
Măng-đô phím nhịp rung ngàn nốt không
Xưa con dạo khúc vỡ lòng
Cạnh đàn bố đệm, tơ đồng quyện vương
Hợp hòa phụ tử thân thương
Ðêm đêm vang tấu con nương bố dìu
Song ngoài cây đứng chắt chiu
Từng cơn gió thổi bên chiều buông lơi
Ðêm nay đàn tiếng chơi vơi
Măng-đô vắng nhịp, phách rơi nhạc tàn
Châu Tú
Xin thân chào tất cả,
Bửa nay xin tài lanh type miễn phí cho quý vị một bài thơ của thi sĩ Du Tử Lê để quý vị cùng đọc cùng buồn với vị thi sĩ này. Ông ta buồn hôm tháng 9 năm 84. Tôi đọc ké và buồn dùm ông ta hơi trễ một tí, tháng 9 năm 95, khoảng mười năm sau...
Bây giờ đến phiên quý vị là hơn mười năm sau mấy tháng!
Khúc K. Riêng Chàng
Tôi xa người như xa núi sông
Em bên kia suối? Bên kia rừng?
Em bên kia nắng? Bên kia gió?
Tôi một giòng sương lên mênh mông
Tôi xa người như xa biễn đông
Chiều dâng lênh láng chiều giăng hàng
Những cây ghi dấu ngày em đến
Ðã chết từ đêm mưa không sang
Tôi xa người xa đôi môi tham
Em biết, rồi em như chim ngàn
Thôi còn khua động làm chi nửa
Hồn tôi vốn đã là tro than
Tôi xa người, xa đôi mắt ngoan
Vườn tôi trăng lạnh đến hoang tàn
Em xa xôi quá làm sao biết
Vốn liếng tôi còn những ngổn ngang
Tôi xa người, xa trên sân bay
Hồn tôi cồn cát dấu chân bầy
Em vui đời khác làm sao hiểu
Tôi sống âm thầm như cỏ cây
Tôi xa người, xa hơi thuốc cay
Ngày mai tình sẽ bỏ tim này
Chiều em không tới hàng cây đã
Nghiêng xuống tôi từng ngọn heo may
Tôi xa người, xa bàn tay vui
Bàn tay có ngón đã chôn đời
Bàn tay có ngón không đeo nhẫn
Có ngón dành riêng cho mổi tôi
Tôi xa người, xa miền thiết tha
Hoa xuân đã rụng héo hiên nhà
Phố xưa em buộc đôi hàng bím
Nay tóc về đâu ? Hồn ở đâu ?
Tôi xa người, xa miền mê oan
Hồn tôi khô xác sợi da6y đàn
Máu tôi đã gửi trong từng chữ
Dẫu chết còn nguyên lời oán than
Tôi xa người, xa một mùi hương
Bãi khuya, hồn ốc lạc thiên đường
Nhớ ai buồn ngất trên vai áo
Mưa ở đâu về ? Như vết thương
Du Tử Lê
09-84
oOo
Tôi thích nhất hai câu này nè:
Bàn tay có ngón không đeo nhẫn
Có ngón dành riêng cho mổi tôi
Í da! cứ tưởng tượng được nắm bàn tay nàng đang lật úp, và nàng cười e thẹn chỉ ngón để đeo nhẫn và nói "ngón không đeo nhẫn đó em dành riêng cho mình anh đó! "
Oh boy!... cái cảm giác đó chắc là lạ lắm hỷ!
Nhưng mà... khoan đã... nhớ đừng có chọc nàng giận, và phát hỏa... nếu không nàng sẽ nói... "ngón không đeo nhẫn đó dành riêng cho mình anh đó, anh phải đeo vào cho em cái nhẫn kim cương cở 12 ly mấy... tsk! tsk! buồn vào hồn không tên... thức giấc nửa đêm nghe lạnh lùng..."
Và nhớ đừng có dại dột mà chọc nàng giận quá mất khôn, đến nổi nàng xoay ngược bàn tay chìa ngón giữa không đeo nhẫn và nói " ... dành riêng cho ..." thì một nửa hồn kia nghe rụng rời, còn nửa hồn kia nghe chết điếng ...
Hỏng dám tưởng tượng thêm nữa...
Oki! chúc mọi người có một ngày vui vẽ in whatever your doing...
Cheers
N.T. Hào
Chị Tôi
Chị tôi người bương bướng
Tính độc lập như trai
Khuy áo chẳng nhờ cài
Hay phiêu lưu mạo hiểm
Người như Đoàn Thị Điểm
Tính cương trực can trường
Lòng chẳng chút vấn vương
Những chuyện tình lẻ tẻ
Tôi cậu trai còn trẻ
đang chập chững làm thơ
Thường xoa đầu tôi bảo
Cậu sao khéo ỡm ờ
DVN
10/1965
Uống Trà
Trận gió thu phong rụng lá vàng,
Lá bay hàng xóm lá bay sang...
Tản Ðà Nguyễn Khắc Hiếu
Tôi vẫn yêu bài thơ này từ thuở nhỏ. Có lẽ vì tôi yêu mùa thu. Mùa thu bao giờ cũng đẹp và buồn, và càng buồn hơn đối với một người đa sầu đa cảm. Mùa thu đem lại cái gió lạnh gay gay nhẹ nhàng, chỉ vừa đủ lạnh khiến người chỉ cần một chiếc áo nhẹ khoác bên ngoài, vẫn có thể ra ngồi ngoài hiên nhà ngắm trời đất, vaa` thú vị hơn nữa là nhâm nhi ly trà thơm mới pha.
Tôi uống trà quanh năm. Tôi không thích các thứ nước ngọt mà chỉ uống trà. Sáng uống, trưa uống, chiều uống... hể khát là uống... trà. Trong nhà lúc nào cũng có một bình trà pha sẵn. Tôi có rất nhiều trà, đủ loại trà, từ thứ thường dùng như trà cúc cho đến trà loại đắt tiền (một trăm mấy một pound) mua ở một tiệm trà nổi tiếng ở khu phố tàu của San Francisco. Tuy thế, cái thứ trà mà tôi yêu thích nhất vẫn là trà mạn sen của nước ta. Hôm kỳ vừa qua, khi ghé thăm Hà Nội, quê ngoại của tôi, tôi đã lục lọi cùng khắp cái Hà Nội 36 phố phường để mua cho được một ít trà mạn sen của cái đất nghìn năm văn vật ấy. Tuy cái giá rất là "cắt cổ không còn một hột máu" nhưng tôi vẫn không tiếc tiền và tiếc công lặn lội trong một ngày mưa lép nhép của Hà Nội, để chui vào cái tiệm bán trà sen ở phố hàng Ðào.
Bảo là tiệm bán trà thì không phải vì tiệm không bán hẳn một mình trà, mà là bán các thứ khác nữạ Hà Nội 36 phố phường của Thạch Lam năm xưa, nay đã chỉ là một aỏ tưởng hay một huyền thọai trong tâm khảm của những người sinh sau đẻ muộn như tôi. Các phố phường vẫn còn mang những cái tên nên thơ cũ nhưng nay thì tiệm nào tiệm nấy bán đủ thứ chứ không như xưa nữa. Tiệm bán trà này thì không ngoài lề luật sinh tồn của Hà Nội ngày nay. Một cái quầy bé tí bé teo, để vài ba hộp bánh đậu xanh Hải Dương màu đỏ chói làm nổi bật cái màu đất bẩn thỉu của con đường nhựa lầy lội cũ trước mặt hàng và cái nền nhà ướt lem nhem vì mưa văng bắn vô. Vaì ba gói bột sắn trắng ngà ngàvới một miếng giấy nhỏ ghi hàng chữ "Bột Sắn mùi hoa bưởi" dán lên trên, nhưng khi mở ra thì không ngửi thấy mùi gì cả. Chắc là mùi hoa bưởi chỉ toát ra sau khi... mua về nhà. Một hai gói mứt sen nằm cạnh, bọc trong những bao ny-lông mờ đục cho người ta cái cảm tưởng là ny-lông đã "recycled" chừng vài chục lần rồi. Mứt có ngon cách mấy mà nằm trong bao thế này thì cũng than`h mứt... cũ mấy năm. Phải vào tận trong cửa hàng, thật ra chỉ một bước là đã tận trong cửa hàng rồi, thì thấy sau quầy, gần dưới đất, cô hàng đang ngồi trên cái ghế cạnh một cái bàn thấp lè tè, lúi húi chia trà vào các bao, gói thành từng gói. Vẫn dùng mấy cái bao ny-lông mờ đục ấy. Cô hàng rất là chìu khách. Khách hỏi dăm lần cô mới trả lời, mà trả lời câu một rất lặ.thú vị. Cô nói trà của cô chỉ có cửa hàng của cô là có thôi. Dĩ nhiên là như vậy, vì chắc chắn rằng chẳng ma nào dám đến lấy trà của cô đem về tiệm của mình mà bán. Xem xét kỹ lá trà và mùi mạn sen từ trà của cô hàng thoang thoảng, tôi trả giá cho có lệ vì đã trong bụng quyết định mua trà của cô. Mới mở lời trả giá rất là nhẹ nhàng thì cô hàng cong cớn lên trề môi nói:"Giời ơi, không được, các tiệm xung quanh đây mà có trà này giá này thì cứ lại chặt đầu em đi". Tôi thầm nghĩ:"Bố tôi bảo tôi chặt đầu cô tôi cũng không dám. Vì một gói trà mà mang tội sát nhân. Chặt đầu con dế tôi còn không dám nói chi đầu người". Lẩm bẩm tính ra tiền đô mỹ, tôi thấy quá đắt. Cái tính xài tiền không mấy khi đếm của tôi mà tôi còn thấy đắt thì không biết cô hàng bán trà mạn sen cho ai ở cái xứ ngày hai bửa không đủ no này.
Trà mạn sen thứ chính hiệu con nai vàng ngơ ngác khác với các trà sen được bán ở các chợ siêu thị bên Mỹ và cùng khắp các tiệm ở chính bên nhà. Trà mạn sen, lá trà khô dài chứ không bé nát vụn như đa số các trà sen gọi là trà tàu sen. Hương trà mạn sen thoang thoảng thơm chứ không thơm hắc lên mũi như trà tàu sen pha chất hóa học gỉa mùi mạn sen. Có lẽ cái gì gần guĩ với thiên nhiên thì bền bĩ lâu dài hơn chăng? Vì trà mạn sen tuy chỉ thoang thoảng thơm nhưng sau vaì nước, trà vẫn còn thoảng mùi thơm, trong khi trà tàu sen pha hóa học thì chỉ một nước đầu là còn thơm, sau nữa giờ là không còn mùi gì cả. Uống nhạt nhẻo vô vị. Tôi nghe mẹ tôi bảo ngày xưa, khi gia đình ông bà ngoại của tôi còn ở đồn điền ở Bắc Ninh, sáng sớm, rất sớm, bà ngoại tôi thường bắt các con gái và các chị vú ra đầm nhặt nhụy sen. Nhụy sen phải hái lúc còn sương đọng trên bông thì mới thơm. Ðem về, nào là ủ, nào là ướp, nào là rang, sấỵ... bao nhiêu việc làm tỉ mỉ mới có được trà mạn sen thơm ngát. Vì bao nhiêu công lao đổ vô cái việc làm trà mạn sen, mà khi uống các cụ thường lấy việc thưởng thức trà là một cách tiêu khiển thú vị.
Một ấm đất con, một nhúm trà
Mạn sen thoang thoảng đượm tình nhà
Long lanh sắc nước khoe màu nắng
Lững lờ khói tỏa tựa sương thu
Lắng nghe tiếng sáo diều xa vẳng
Chân trời thu vắng ngã hoàng hôn
Nhấp chén trà sen đời in bóng
Trăm năm một thoáng bóng nhạn qua.
XT (Trần Tiễn Hương Xuân)
Chẳng Đớn Đau Gì
sắp mất nhau rồi anh có hay?
cái thuở yêu đương đến bao ngày
mà hỏi khi xa còn luyến tiếc
trái đắng hôm nào giờ bỗng cay!
phải chăng lầm lỡ chỉ một lần
dấu buồn mang đậm đến trăm năm
ngày mai có quỳ bên chân Chúa
anh sẽ xin ngài chút ăn năn??
em bước về bên cõi nhiệm mầu
trói lòng xa những chuyện bể dâu
cúi đầu - ngực trái... trơ như đá
chẳng đớn đau gì chuyện mất nhau...
Trương Nguyễn Thi Thanh
Bài Học Đầu
Người nhẹ gót, bước vào đời phẳng-lặng
Hòn đá ai liệng xuống mặt hồ
Một tiếng kêu trong thung-lũng hư vô
Cơn gió mát ngày hè nắng chướng
Người dạy cho ta biết yêu-đương
Nếm ái-ân, vị ngọt mật đường
Tay trong tay, ấm-êm hạnh-phúc
Hơi tình nồng, ngây-ngất mùi hương
Người đi, đời buồn
Ðá chìm, sóng tan
Kêu dứt, âm tàn
Gió ngưng, ngày chán
Người dạy cho ta biết nhớ-nhung
Ôi phân-ly, cay đắng lạ lùng
Rồi những tối, riêng mình với bóng
Nỗi cồ-đơn giăng kín không-trung
Người dạy cho ta biết tương-tư
Niềm ước mơ ảo-ảnh mịt-mù
Ôm hy-vọng trông ngày sum-họp
Mộng hão-huyền ta để tự ru
***
Ta về rút tỉa bài học đầu
Răn mình tự đấy trở về sau
Vui trong hạnh-phúc ngay trước mắt
Chớ lụy vì yêu, chớ thảm sầu
Xưa nay nhân-định khó thắng Thiên
Gắng-gượng nhiều chỉ khổ triền-miên
Hợp tan vốn dĩ là mệnh số
Chẳng nợ làm sao nên được duyên?
NTP
08Oct95
Mùa Hè Khó Quên
(phần II)
Thế là từ dạo đó, tôi và cô bé hàng xóm trở thành "đôi"... bạn thân, chúng tôi hay rủ nhau đi nhặt rau muốn ao, đi câu cá. Tôi dẫn cô bé ra bờ sông dùng ống cao su thổi trứng cá bắn mấy con cá bóng đem về cho hai bà cháu cô bé kho tiêu. Cô bé rất "thán phục" tài bắn súng trứng cá của tôi làm tôi cũng nỗi hứng ba hoa rằng:
- Mấy tên "lưu manh con" bên xóm vườn mà gặp súng cao su của tôi sẽ bỏ chạy không còn manh giáp.
- Thôi em không muốn anh nhắc chúng nữa. Hôm ấy nhỡ anh có sao chắc em...
Tiếng cô bé nhỏ đi làm tôi muốn nghe mà nghe không được câu chót cô bé nói gì.
- Hôm ấy tại tôi đói, nên nhờ chúng cho ăn "no đòn" chơi, chớ đâu có phải tại "cái" Nhài hại tôi.
Cô bé ngúyt dài tôi, giận dỗi nói:
- Ðã bảo anh đừng gọi em là "cái" Nhài mà. Anh mà còn nói nữa tôi không nói chuyện với anh xem.
Tôi cười hề hề, đấu dịu:
- Tại anh nghe ngoại em nói thế, chứ em muốn anh gọi sao cơ?
- Vì ngày xưa ngoại em ở Bắc, cha me em lại vào Trung, bây giờ em ở Nam, anh gọi thế kỳ chết.
- Như vậy là em là người "tứ lung tung" rồi. Ủa, là người tứ xứ mới đúng. Vậy anh dùng cả tiếng mọi miền mà gọi em nhé, hay là "bé con" hay là "bé Lài".
- "Bé con" nghe nhỏng nhẻo qúa, gọi bé Lài cũng được. À, anh viết thư hay lắm, hay anh dạy em đi. Em... vẫn còn giữ kỹ lá thư của anh cho dù nó nhầu nát.
"Tình"... bạn chúng tôi bắt đầu bằng những ánh mắt, bằng những bước chân cuống quít trên con đường ngập nắng dẫn vào làng. Ôi, hạnh phúc đơn giản nhưng thật nồng say trong khoảng khắc bất chợt. Chúng tôi ngồi bên bờ sông nhìn giòng nước chảy về đâu để thoáng thấy trong đôi mắt nhung của cô bé một cái gì đó mơ hồ nhớ thương ngự trị. Cô bé xoay hẳn người về phía giòng sông, ngọn gió thổi tóc cô bé dài bay bay man dại. Trông cô bé ngây ngô, hiền lành yếu đuối như những mãnh rong rêu.
- Bé Lài nghĩ gì vậy?
- Về những gì đã bay cao.
Tôi nhìn bé Lài xót xa, thương mến, ước gì mình có thể chia sẽ được nỗi ưu tư. Buổi chiều hôm nay trời đẹp và buồn như những lần cô bé khóc. Cô bé không còn có vẻ liếng thoáng như mọi ngày. Tôi nhìn cô bé ái ngại cùng những giọt nước mắt long lanh lăng dài trên má.
- Bé Lài! đừng nghĩ viễn vong mà buồn nữa em ạ! Vì chúng ta sinh ra trong quê hương và thế hệ của khói lửa tàn khốc! Những thảm cảnh cuộc đời sẽ xảy ra bất chợt. Hãy cố quên đi sầu đau của quá khứ. Hãy nhìn vào những thảm cảnh xót xa hơn của quê hương để biết mình vẫn còn có hạnh phúc.
Tôi kể cho bé Lài nghe chuyện lịch sử mà tôi học được năm vừa qua, kể về cuộc đời gian truân của những đồng bào ta đã phải chứng kiến cái nạn đói vô cùng bi thảm của dân tộc... Trận đói tháng ba năm Ất Dậu 1945 đã làm chết gần 1/20 dân số của Việt Nam. Xác chết nằm lăn lóc đầy đường. Xác chết nổi lềnh bềnh trên ao hồ, sông ngòi. Xác chết nằm thối tha trong bờ tre, bụi chuối. Chỗ nào cũng thấy xác chết. Nhất là ở những mái hiên đình làng và những lều hoang, quán chợ. Hình ảnh của người mẹ và hai người con nằm chết co dúm trong ngôi miếu vắng bên đường. Người mẹ tuổi chừng ngoài ba mươi, với bộ quần áo bằng bao bố đã vá chằng vá đụp. Mắt bà lõm sâu, mở trừng trừng, tóc bết khô phủ trùm lên một bên má hóp. Trong vòng tay ôm cứng một đứa bé trai dường như mới biết bò. Em bé mặc một cái áo vá màu nâu, không có quần, nằm gọn trong lòng, úp vào ngực người mẹ. Ðầu em trọc lóc như một cái sọ khô. Cái đít teo vòm với đôi chân chỉ còn có xương và da. Bên cạnh là một em bé gái chừng năm hay sáu tuổi chết ở tư thế nằm sấp. Một chân co lên tới ngang hông, tay trái để mặt gối lên và tay phải đưa cao lên khỏi đầu, bàn tay bấu chặt vào mặt đất. Quần áo em tả tơi, để hở nhiều mảng thịt thâm đen. Ba mẹ con nằm đây có lẽ đã hơi lâu nên ruồi nhặng đang bắt đầu tìm đến... Người chết nhiều nhất lại là người ở các tỉnh đồng bằng như Thái Bình, Hải Dương, Nam Ðịnh... Những người nông dân suốt đời chân lấm tay bùn, vật lộn với thiên nhiên để làm ra hạt gạo, củ khoai nuôi sống mọi người, thì khi nạn đói xẩy ra, họ lại đi tiên phong trong cái chết, thật là nỗi bất công tàn nhẫn.
- Anh Ðịnh ạ! tại sao quê hương ta thống khổ quá. Chiến tranh khói lửa không nguôi, để cha con vợ chồng cách biệt. - Bé Lài lại thút thít - Như em đây giờ chỉ lẻ loi một mình,
ngoại già rôì mai đây chỉ còn lại bé thôi, nhỡ em có sao thì..."khi em chết ai là người xây nấm mộ, trước quan tài ai đổ lệ cho em?"
Tôi vội lấy ngón tay chặn lên đôi môi hồng cô bé:
- Bé Lài lại nói gở rồi nữa nhe. Anh lúc nào cũng xem em như lặ"em" của anh rồi đô Lúc nào bé Lài cũng có anh "chia sớt" trên đường đời mà.
Cô bé chớp chớp đôi mắt tròn ướt át nhìn tôi cảm kích và xiết chặt tay tôi:
- Bé lúc nào cũng sẽ mãi là ... "em"... của anh Ðịnh.
Hai chúng tôi cùng mỉm cười hạnh phúc. Tia nắng cuối cùng yếu ớt rớt mất sau rặng tre. Chúng tôi đã quên đi những buồn đau chợt đến như tuổi trẻ sớm quên đi phiền muộn của cuộc đời. Hai chúng tôi nắm tay nhau tung tăng dọc theo bờ sông trở về nhấ Hàng dây tóc tiên mịn màng mọc quấn quít bên bụi tre làng, những cánh hoa cúc dại men theo sông, ôi quê hương tôi một nét đẹp diệu hiền. Tôi nhặt một cành cúc dại và mấy sợi tóc tiên để lên tóc cô bé. Trang điểm cho "em" tôi một hương sắc của quê hương.
- Sao anh Ðịnh biết bé thích dây tóc tiên và hoa cúc dại.
Tôi cười liếng thoáng:
- "Chúng ta" ý hợp "tâm" đầu mà.
- Chứ không phải anh chê hoa "Lài"...không sắc, đơn sơ.
- Ồ! Không có đâu, "Hoa Lài trong trắng ngát hương, Tôi nhìn, tôi ngắm, tôi... thương... cái 'Nhàí."
Cô bé đỏ mặt, liếc nhìn tôi trìu mến rồi bỏ chạy nhanh về nhà trước.
Ðã lâu rồi tôi không gặp Tiến Trâu vì đến mùa gặt nên hắn và gia đình bận rộn việc đồng án. Vã lại từ khi chuyện xảy ra ở chùa làm Tiến hơi buồn khi thấy chúng tôi thân nhau hơn, hắn có vẽ tránh mặt tôi khi mỗi chiều hắn đi làm về chẳng chịu sang chơi với tôi. Tôi cũng cảm thấy ái ngại quá khi biết Tiến đã có lần tỏ vẻ thích cô bé Lài.
Chiều nay tôi gặp Tiến trên đường về, vì ruộng lúa của nhà nó bên kia sông.
- Tiến ơi! chờ tao với mậy, sao dạo nầy mầy không sang tao chơi?
Tiến buồn buồn trả lời có vẽ hơi trách móc:
- Tao bận đi "cày" có đâu thời giờ rảnh rổi, vả lại mày cũng "bận" mà.
- Mày thiệt tình mờ, mày bận thôi chớ tao đâu có bận gì đâu.
- Mày bận dẫn "con bé" đi chơi đó. Thiệt là "mê sắc bỏ bạn hiền".
Tôi đấm nhẹ và choàng vào vai hắn:
- Ê! đừng có nhỏ nhặc chứ, mày biết mà, chuyện "ấy" đâu có miễn cưỡng được, phải không? Vã lại tao có giúp mày mờ, chỉ tại "tình mày mà duyên tao thôi".
Tiến trâu đá nhẹ vào mông tôi:
- "Tình mày duyên tao" hả, chỉ tại nhà mày giàu thôi. Nhưng thôi số mệnh đã định sẵn, tao sẽ "tu" không bị đường đời "hỷ, nộ, ái, ố" như mày.
Tôi giả vờ chấp tay trước ngực, và cuối đầu chào hắn:
- Lành thay, lành thay, chúc mừng "đại ngưu", thoát vòng tục "tỉu".
Tiếng cười chúng tôi lan vội trên con đường làng, làm những chú chim giật mình thức giấc bay vội lên cao.
Tôi đã về quê nội gần ba tháng, mùa tựu trường sắp đến. Pháo kích cũng bớt rơi vào tỉnh thành. Hoa phượng đã rơi gần hết, đỏ ngập cả lối đi. Mọi năm tôi rất náo nức trở về trường lớp sau ba tháng hè dài nóng bức, nhưng năm nay tôi thật luyến tiếc nơi đây. Tại sao mùa hè năm nay ngắn thế. Tại sao tôi không ở đây mà phải về tỉnh thành. Rất nhiều điều tại sao mà tôi không thể trả lời và quyết định được. Bé Lài không biết tôi sẽ trở về tỉnh thành để nhập học nên vẫn hồn nhiên, liú lo như một con chim con. Hôm nay tôi rủ cô bé đi bắt cua để có cơ hội nói cho cô bé biết lặ"muà hè đã sắp hết".
- Bé Lài có bao giờ nghĩ rồi em sẽ đi học lại không?
- Em đâu cần đi học, em là con gái mà, có anh dạy bé đủ rồi.
- Nhưng mà anh đâu có dạy bé tất cả được chứ.
- Em đâu cần biết gì hơn... ngoài... anh đâu.
- Nhưng mà anh cần phải học thêm nhiều lắm lắm đó.
- Thì anh đến trường học đi, em đi bắt cua về nấu canh để sẳng anh ăn.
- Nhưng mà anh phải....lên tỉnh học lận cơ.
Cô bé bỗ ng im lặng, cặm cuội đặt mấy cái rọ tre xuống sông. Tôi nhìn thoáng lo âu. Tôi đến bên dìu cô bé đứng lên. Những giọt nước mắt long lanh chực trào ra khóe mắt.
Tôi bối rối an ủi vớt vác.
- Ðể anh về bàn với má và nội anh xem, anh có thể học trường thị xã mà.
- Bé cũng biết rồi sẽ có ngày anh Ðịnh xa em, nhưng bé chỉ muốn dối lòng để quên đi, không ngờ nó đến chóng thế.
- Bé Lài ạ! - tôi nắm chặt đôi vai nhỏ rung rung - anh cố gắng thuyết phục má và nội để anh học xong trung học ở đây nhe.
Im lặng, cô bé chỉ im lặng, bé Lài buồn bước lững thửng lên ngọn đồi hoang nhìn về xa xăm. Tôi xót xa, buồn bã. Ôi, em thật lẽ loi và yếu đuối. Tôi muốn làm một cái gì để bé vui và quên đi sầu muộn tương lai. Tôi lội xuống sông tìm rọ cá lóc của Tiến Trâu. Tôi bắt con cá lóc lấy mang cá vắt máu vào tay. Tôi chạy ra bờ sông nằm lăn, hét lớn:
- Bé ơi! cua cắn đứt ngón tay anh rồi. Ối chao, đau quá đi.
Bé Lài hoảng hốt, chạy nhanh đến, ôm chầm lấy bàn tay tôi khóc thét.
- Trời ơi, anh có sao không? Bớ người ta cứu anh tôi.
Tôi cười sặc, bịt miệng cô bé, nhúng tay dính máu vào sông rửa sạch đi rồi đưa cho bé Lài xem. Cô bé giận dỗi bỏ chạy lên ngọn đồi. Một tiếng véo bay ngang tiếp theo một tiếng nổ thật to vang lên làm rung chuyển cả ngọn đồi. Tôi bàng hoàng, hoảng sợ, hét lên "bé Lài", rồi tung chân chạy lên đồi cao đầy khói, bụi. Trong đám cát bụi và thuốc súng, tôi thấy một thân hình nhỏ bé sập ngả. Tôi chạy đến ôm xốc bé Lài lên gào thét "bé Lài ơi, bé Lài ơi, trả lời anh đi...". Tiếng tôi gọi chơi vơi tan theo những cát bụi của
không gian...
Tôi đã được "ở" lại đây với bé Lài. Vâng, chiến tranh đã tạo cho chúng tôi quen nhau, nhưng chiến tranh cũng đã bắt chúng tôi vĩnh viễn xa nhau. Không, tôi nhất định không bỏ lại bé Lài trong lòng đất lạnh. Tôi đã thuyết phục được nội và má cho tôi ở lại đợi chờ nơi yên nghĩ của bé Lài mọc đầy dây tóc tiên, và hoa cúc dại. Tôi ngồi đây vuốt hàng dây tóc tiên như tựa tóc em dài ngây dại. Hôn nụ cúc vàng như đôi mắt nai tợ Tôi khóc cho em đây, khóc cho cuộc đời em qúa ngắn ngủi, khóc cho hạnh phúc trôi qua mau. Tôi cứ nghĩ cuộc đơì là những bình yên cho mơ ước nhưng đâu ngờ "hạnh phúc như bàn tay, có trăm nghìn kẻ hở". Tiến đặt tay lên vai tôi làm tôi sực tĩnh. Trời đã sập tối, sao đêm lấp lánh trên cao . Không biết sẽ còn có bao nhiêu vì sao sẽ tắt cho quê hương chiến tranh.
viết cho những nạn nhân của chiến tranh VN.
Lãng Tử Nhân (Nguyễn Ðình Thái)