vhnt, số 244
5 November 1996
Trong số này:
T h ơ :
1 - Thơ W. B. Yeats .....................................Trần Thuyên dịch
2 - 7 bài haiku .........................................Trương Nhân dịch
3 - Tháng chín nhìn nhau ...................................Nguyễn Nam An
4 - Viết vội cho mùa thu sắp chín .................................PCL
5 - Dáng thơ .....................................................Chân Mây
6 - Quên! .........................................................Thu-Hồng
D i ễ n Ð à n V ă n H ọ c :
7 - Một vài suy nghĩ về "chàng và nàng"
trong văn chương Việt Nam ....................Nguyễn Xuân Hoàng
T r u y ện N g ắn / S án g T ác :
8 - Mưa Cali, mưa Sài gòn ....................................P T Nguyễn
9 - Con trộm ............................................Phan Thị Vàng Anh
10- Nổ .....................................................Bùi Thanh Liêm
Thơ W. B. Yeats
101 - The Coming of Wisdom with Time
Though the leaves are many, the root is one;
Through all the lying days of my youth
I swayed my leaves and flowers in the sun;
Now I may wither into the truth.
101- Hiểu Thông Ðến với Thời Gian
Cây muôn lá, nhưng vốn từ một rễ,
Tự dối gian ta ngày tháng thiếu thời,
Ðem hoa lá đời hong mặt trời nhân thế,
Nay héo tàn vào chân lý của mình thôi.
131- To a Child dancing in the Wind
Dance there upon the shore;
What need have you to care
For wind or water's roar?
And tumble out your hair
That the salt drops have wet;
Being young you have not known
The fool's triumph, nor yet
Love lost as soon as won,
Nor the best labourer dead
And all the sheaves to bind.
What need you have to dread
The monstrous crying of wind?
131 - Hồn Nhiên Ðiệu Vũ Giữa Cuồng Phong
Chân non vui đùa cát biển,
Nào cần chi phải bận tâm
Sóng hay cuồng phong gào tiếng?
Buông làn tóc rối, trầm ngâm
Biển hôn lên từng giọt mặn.
Ấu thơ em chẳng lần quen
Ngu nghê đời vinh quang tặng,
Tình yêu tàn lúc nhúm nhen,
Tử sinh, công trình bỏ lại,
Bao rạn nứt phải gắn hàn.
Tuổi thơ em nào e ngại
Phong ba trần lụy hỗn mang?
141 - A Coat
I made my song a coat
Covered with embroideries
Out of old mythologies
From heel to throat;
But the fools caught it,
Wore it in the world's eyes
As though they'd wrought it.
Song, let them take it,
For there's more enterprise
In walking naked.
141 - Áo Khoác
Áo khoác bài thơ tôi
Ðiểm trang lộng lẫy với
Huyền thoại nghìn xưa trôi
Hình hài che kín khối.
Người đời mặc chiếc áo
Cùng nhân loại huênh hoang
Như do mình tự tạo.
Thơ ơi, cần chi áo,
Hồn thi sĩ thênh thang
Trong trần truồng chữ nghĩa.
215 - Youth and Age
Much did I rage when young,
Being by the world oppressed,
But now with flattering tongue
It speeds the parting guest.
1924
215 - Niên Thiếu và Tuổi Già
Phẫn nộ tôi thuở còn niên thiếu,
Trong cuồng lưu nhân thế dọa đe,
Phẫn nộ tôi bây giờ yểu điệu
Chiếc lưỡi đưa vội khách ra về.
1924
346 - The Spur
You think it horrible that lust and rage
Should dance attendance upon my old age;
They were not such a plague when I was young;
What else have I to spur me into song?
346 - Thúc Ðẩy
Em gớm ghê khi nộ cuồng và dục vọng
Ðến với đời tôi trong nắng xế ngoài song,
Thiếu thời tôi chúng không là hoạn lộ,
Mà lại là thúc đẩy của hồn thơ.
Trần Thuyên chuyển ngữ
Nguyên tác : Haiku từ bản dịch Anh ngữ của Yuzuru Miura
Dịch: Trương Nhân
chiều thu
một giờ rảnh rỗi
trong cuộc -dời phù du
yosa buson
ơi chú dế mèn
giữ mộ phần tôi nhé
một mai tôi qua đời
kobayashi issa
sự cảm thông lặng lẽ
giữa khách, chủ
và hoa cúc trắng
oshima ryota
khi tôi ngắm hoa cúc
hồn hoa
dịu dàng quyến rũ hồn tôi
iida dakotsu
đầu thu
những cụm mây bông nõn
trôi giữa trời muôn sao
iida dakotsu
một giọt sương
trên đátựa hạt kim cương
kawabata bosha
chuồn chuồn đỏ
như gợn sóng trôi
vào khung trời tím
miura yuzuru
Chú thích : Haiku khi chuyển sang mẫu tự La Mã (Romaji) thường mang thể 5 âm - bảy âm - năm âm trong dạng đa âm (multi- syllable). Khi dịch sang tiếng Việt đơn âm, dạng năm âm - bảy âm - năm âm thành dài dòng (theo ý người dịch). Cho nên, để giữ sự cô đọng trong haiku, bản dịch giữ hình thức ba câu nhưng không gò bó theo số âm dùng trong từng câu.
tháng chín nhìn nhau
Sáu con mắt nhập thành hai
Cộng em thành bốn kiếm hoài mỏi không
Ba con một vợ và chồng
Mười con đỏ mọng nhập mênh mông trời
Sáu con mắt nhập thành tôi
Thành em đi đứng bồi hồi đôi khi
Hai con buồn ngó chia ly
Hai con còn nhớ tìm gì chân em
Sáu con mắt bé nhập quen
Kéo em tôi nhé về bên hiên nhà
Nguyễn Nam An
Viết vội cho mùa thu sắp chín
(gửi ...
& N.)
Trên vai
tình yêu
trĩu xuống
Anh vùi đầu
trong da thịt
một mùa xuân
chín muộn
lá bâng khuâng
chín đỏ
một hoàng hôn
Én lạ
nhập hồn
tình trao hiến muộn
vụng về
chân đá sỏi
nhói tim
Ðêm
ẩn mình
mở toang nỗi nhớ
ngực đau
nghe tiếng chim đã khuất
động trăng hờ
tịch bóng
gọi tên người
tôi của tôi
ơi!
Ðất đá của địa đàng
sa mạc của tình yêu
bóng tối của chúng ta
những điều không thể nào
bỏ phế,
quên,
thương,
xót,
nhớ
cội nguồn
của một điều có thể
là ...
Anh !
Ði ngược chiều
cơn lốc của tình yêu
gặp muôn điều khốn khó
vẫn tin vào huyền thoại
ở một cuối đường
tim mềm
tim mệt rũ ...
anh và em
ta
vá cho nhau
niềm đau
sinh
tử
khai sinh - tình
khai tử - tôi
chúng mình
hai tử tội.
Phạm Chi Lan
11/96
Dáng Thơ
Yêu thầm nét chữ thư sinh
Vần thơ chín nét khoác tình mực xanh
Ðưa tay nhìn nét chạy quanh
Ðường nào duyên kiếp dáng tình trong thơ?
Một đường thẳng tắp như mơ!
Bỗng đâu gẫy khúc tơ sầu giăng giăng.
Chân Mây
Quên!
Bên này trời quên mưa
Nên chiều buông không nắng
Chả biết thu qua chưa
Mà trời đem giá lạnh
Bên đây trời ngủ quên
Nên mây dừng phiêu lãng
Em mơ giấc buồn tênh
Lạc loài cơn gió thoảng
Tiếng gọi tiếng tình say
Nhưng quên xa vời vợi
Tay với lấy bàn tay
Quên người còn chưa tới
Em như hoa mắc cở
Rụt rè đón sương mai
Yêu người chưa kịp ngỏ
Nên tình vẫn ngoài tay
Em quên lời tình tự
Nói mãi chẳng thành câu
Ðêm nay tình chế ngự
Con tim nhỏ u sầu
Thu-Hồng
10/30/96
Một vài suy nghĩ về "chàng và nàng" trong văn chương Việt Nam
Trong văn chương Việt Nam, có lẽ "Chàng" và Nàng" là những từ có tuổi thọ khá cao. Ðó là những từ đã bị chai cứng, đã mất nhựa sống và có thể [đã hoặc đang] bị đào thải. Mặc dù hiện nay chúng ta chưa có một công trình nghiên cứu nào tập trung vào đề tài này, nhưng là một người cầm bút, có theo dõi tác phẩm của các nhà văn khác, quan tâm đến cách viết của chính mình, nên chúng tôi muốn đưa ra một vài suy nghĩ chủ quan về hai từ "chàng" và "nàng". Chúng tôi nghiệm ra một điều là chữ nghĩa đôi khi nó làm khó dễ người cầm bút vô cùng. Chàng và Nàng là một trong những từ kiểu đó.
Từ năm 1986, khi cho in cuốn Người Ði Trên Mây, tôi đã tìm mọi cách đẩy lui hai đại từ "Chàng" và "Nàng" ra khỏi những trang sách của mình. Mặc dù vậy, "vì lý do kỹ thuật", người ta vẫn thấy rơi rớt đâu đó, trang này trang nọ, còn dính một đôi chữ "nàng", và một vài chữ "chàng". Thế nhưng tôi biết chắc chắn một điều: không bao giờ còn nữa những đại từ này trên trang sách sau đó của chúng tôi.
Từ nhiều năm nay, tôi vẫn thường nói với các bạn tôi rằng tôi muốn đưa một vài suy nghĩ của mình về hai đại từ "chàng" và "nàng" theo cái nghĩa là liệu có thể dẹp bỏ nó trong đời sống chữ nghĩa của chúng ta chăng? Các bạn tôi hỏi lại: nếu bỏ chàng và nàng thì sẽ thay bằng từ gì? Y? Ông ấy? Anh? Anh ta? Tên nhân vật? Cô ta? Người phụ nữ ấy? Chị ta?... Tôi chưa có câu trả lời ngay một cách rõ ràng và dứt khoát. Tôi chỉ giải quyết theo từng bài viết, từng sáng tác. Tôi cũng đã nhìn thấy cách giải quyết ấy qua các sáng tác của những người viết khác. Tuy vậy, tôi nghĩ mình cứ viết xuống những ý nghĩ rời ấy, biết đâu sẽ được nhiều bạn hưởng ứng [phản đối hay chia sẻ]. Và biết đâu, đây cũng là một dịp nhìn lại một cách viết của chúng ta.
Hãy tưởng tượng, hai nhân vật X. và Y. trong tác phẩm A. là những tay anh chị tứ chiếng giang hồ, đầy thành tích bất hảo trong làng dao búa, và nhà văn tác giả cuốn A. của chúng ta, cứ "chàng" và "nàng" từ trang đầu đến trang cuối như thể giữa chữ và nghĩa chả có gì dính líu với nhau cả. Hay cứ cho là "đồng ý không dùng đại từ chàng và nàng cho những nhân vật phản diện, nhưng trường hợp những nhân vật chính diện thì sao?" Nhân vật nam là một thanh niên đẹp trai, học thức, có địa vị trong xã hội... còn nhân vật nữ là con nhà trâm anh thế phiệt, nhan sắc, quý phái... thì sao? Thí dụ một đoạn trong tác phẩm vừa xuất bản [xin phép không ghi tên tác giả và tác phẩm]: "Chàng đi bên cạnh nàng dưới bóng những vòm cây..." "Xưa nàng nhút nhát biết bao nhiêu, nay nàng giãn dị bấy nhiêu, nàng bước từng bước chân tin tưởng vào đời, nàng sánh bước cùng Thạch trên các lối mòn đồi thông..." Ðó là một đoạn văn đẹp, những nhân vật đẹp, một hình ảnh đẹp. Nhưng, ngay trong trường hợp này, thật ra chúng ta vẫn thấy có điều chi bất ổn. Tại sao bất ổn? Thế nào là bất ổn? Một câu hỏi rất cần dược trả lời bằng một bài viết của Nguyễn Hưng Quốc chẳng hạn.
Nếu những phàm là, song le, bất ưng, bèn... đã nằm sâu trong lòng đất; nếu những trẫm, ái khanh, công tử, tiểu đệ... chỉ còn trong những cuốn võ hiệp kỳ tình; nếu bệ hạ, nương nương... chỉ còn trên sân khấu hát bội... thì có lẽ chàng và nàng... giờ đây cũng nên cho vào Viện Dưỡng Lão. Thực ra, mấy năm gần đây một số tác giả đã thực hiện được điều này. Trường hợp Nguyễn Huy Thiệp là một. Nhiều tác giả đương đại cũng đã đẩy chàng và nàng ra khỏi trang sách của hỗ Chúng tôi không rõ những tác giả này có bị dị ứng với những từ ấy hay không mà trang sách của họ đã sạch trơn những chàng và nàng. Tuy vậy, trong một số sách dịch- như cuốn Trăm Năm Cô Ðơn của nhà văn Gabriel Garcia Marquez- người ta cũng bắt gặp chàng và nàng. Ðương nhiên đây không phải là chuyện của tác giả, đây là chuyện của dịch gỉa, thế nhưng, liệu chúng ta có buộc phải chàng và nàng trong một tác phẩm mà người viết thuộc loại nhà văn rất mới, rất hiện đại hay không. Thử đọc một đoạn ở một trang bất kỳ nào đô Ví dụ trang 154 chẳng hạn. "Chàng giống như một gã ăn mày: quần áo rách tả tơi, râu tóc rối bời, đi chân đất. Chàng đi mà không cảm thấy đất bụi nóng như rang dưới chân... Cùng với chàng bọn lính còn giải theo đại tá Henrinênđô Mackết,... "... " Chàng nhìn Amaranta đang đứng cách chàng hai bước chân ở sau lưng Uscula, mỉm cười với cô... "
Trăm Năm Cô Ðơn là một kiệt tác văn học của thế kỷ. Tạp chí Time gọi đây là một trong những tác phẩm tiểu thuyết của châu Mỹ La tinh hay nhất của thời đại chúng ta. Tôi không nghĩ là ta nên dịch chàng và nàng trong tiểu thuyết của ông. Thử lướt qua hai truyện ngắn trên tạp chí Văn Học số 100, phát hành tại California, một của Hoài Giang Dzuy/ Nghe Chút Tình Chi Lạ, và một của Ðinh Phụng Tiến/Ở Một Nơi Nào. Ở giòng cuối trang 89, Hoài Giang Dzuy viết: "chàng kéo nàng lại gần hơn để cùng lúc giọt nước mắt ở nàng trào ra". Truyện của Duy không cũ. Nhân vật của anh đang hít không khí của thời đại chúng ta. Nhưng tại sao chàng và nàng? Tôi tự hỏi như vậy. Trong khi Ở Một Nơi Nào của Ðinh Phụng Tiến, dài khoảng 5,000 chữ, hai nhân vật, một nam một nữ, một cuộc tình lở dở và Ðinh Phụng Tiến đã không để một chữ chàng và nàng nào trên trang sách của ông.
Mới đây, trong một bài viết trên tờ Kiến Thức Ngày Nay phát hành tại Sài gòn, dưới tựa đề "Nhà văn Khái Hưng và câu chuyện đại từ trong tiếng Việt", ông Vương Trí Nhàn đã đề cập đến một khía cạnh của vấn đề chàng và nàng. Theo ông Vương Trí Nhàn thì vào giữa năm 1939, nhà báo Thiết Can có cho đăng một bài phỏng vấn trên một tờ báo ở Hà Nội, thuật lại câu trả lời của Khái Hưng khi tác giả Nửa Chừng Xuân được hỏi về Thế Lữ:
"Ông Thế Lữ không có ở đây, nhưng sáng mai, ông có thể đến gặp hắn được."
Trên tờ Ngày Nay, số ra ngày 24.6.1939, Khái Hưng thanh minh:
"Tôi nhớ rõ hôm ấy, tôi không dùng chữ hắn. Và từ xưa tới nay tôi không dùng chữ ấy bao giờ với bất cứ ai. Vậy xin cải chính lời ông Thiết Can."
Vẫn theo lời ông Vương Trí Nhàn, sự cẩn thận của Khái Hưng trong trường hợp này không thừa. Vì đại từ trong tiếng Việt bao giờ cũng bao hàm một thái độ. Và muốn làm hỏng mối quan hệ giữa người này và người kia, chỉ cần tới một đại từ là đủ. Lý do để Khái Hưng cải chính là thế.
Vẫn theo bài viết của Vương Trí Nhàn thì có lẽ đấy là một trong những cái cớ để đến cuối năm ấy, trên Ngày Nay các số 187, 188, Khái Hưng cho in một bài mang tên "Chàng và nàng". Hai dại từ này đang được dùng phổ biến trong văn chương đương thời, mặc dù có cái lạ là trong đời sống hàng ngày, mọi người không mấy khi dùng.
Trong một lần trò chuyện với Khái Hưng, Tản Ðà đã nói thẳng rằng chàng với nàng làm cho các tiểu thuyết Hồn Bướm Mơ Tiên, Nửa Chừng Xuân, Trống Mái v.v... có giọng hơi quê. Nhận xét của Tản Ðà về hai chữ chàng và nàng cách đây đã 57 năm, nhưng đến nay theo tôi vẫn còn giá trị. Mặc dù, như một nhận xét của Vương Trí Nhàn rằng "Là một người viết tiểu thuyết, Khái Hưng thầm mong trong tiếng Việt có những đại từ như il, elle, he, she, tha, bỉ như ở các tiếng nước ngoài. Ông bảo không nên hạn chế chữ chàng và nàng trong văn viết mà nên dùng cả trong khi trò chuyện. Mặt khác ông "còn ao ước rằng một ngày kia, chữ y hay chữ nghỉ sẽ được kế chân trong ngôn ngữ và văn chương." Mặc dù viết ra gần 60 năm, bài báo của Khái Hưng vẫn có ý nghĩa thời sự của nô Có điều dề nghị của Khái Hưng khó được chấp nhận. Chàng và nàng đã thuộc về một quá khứ lịch s Làm thế nào để thoát ra khỏi tình trạng đã kéo dài quá lâu này? Câu hỏi của Vương Trí Nhàn cũng là câu hỏi của những người cầm bút muốn đi tìm một đại từ cho mình.
Nguyễn Xuân Hoàng
(trích tạp chí Văn Học, số 127 - tháng 11, 96)
Mưa Cali, Mưa Sài gòn
Ai ghét mưa thì không biết chứ tôi thì thích mưa lắm. Mỗi lần nhìn mưa rơi là tôi lại nhớ tới Việt Nam, nhớ tới Sài gòn, nơi tôi sinh ra và lớn lên.
Không biết trời mưa từ lúc nào nhưng khi tôi mở mắt ra thì đã nghe mưa rơi tí tách ngoài cửa sổ. Tôi với tay vặn nhạc lên nho nho nhỏ đủ để nghe và không át tiếng mưa rơi. Không có gì sung sướng cho bằng nằm cuộn trong chăn, nghe nhạc và tiếng mưa rơi. Mưa lúc nào cũng có một sức quyến rũ đặc biệt đối với tôi. Hồi nhỏ, tôi có thể ngồi hằng giờ nhìn trời mưa, nhìn bong bóng trôi theo dòng nước trước sân nhà mà không biết chán. Bạn bè nói tôi lãng mạn. Tôi không biết tôi có lãng mạn hay không chứ lãng tai và lãng trí thì tôi có.
Ai có ở Sài gòn chắc chắn còn nhớ mưa Sài gòn là như thế nào. Mưa xuống bất chợt và ngưng không bao giờ báo trước. Nhiều khi tôi và đám bạn đang đi ngoài đường, trời nắng chang chang thì tự nhiên mưa bắt đầu đổ xuống. Tụi tôi ba chân bốn cẳNg đạp cho lẹ lên mấy cái hiên nhà người ta để trú mưa. Khi leo lên được thì mưa lại ngưng. Cả bọn lại chạy ra thì lúc đó mưa lại rơi lại. Thật là bực mình mà cũng vui. Cứ chạy vô trú mưa, rồi chạy ra, rồi lạy chạy vô. Có những lần đi học về, trời thì tối xầm lại rồi, mà đường còn xa mới về nhà. Thế là bọn tôi lo kiếm bao nylon bọc sách vở lại trước vì biết trước sau gì cũng mưa. Nếu là trên đưỜng đi học thì có lẽ tôi lo trú nhưng mà trên đưỜng về thì tôi chịu chơi tắm mưa luôn. Ðạp xe một lát là mưa bắt đầu rơi. Sách vở thì an toàn rồi, bọn tôi bắt đầu nhấn... chân đạp xe. Cứ kiếm những vũng nước mà nhào vô cho nước bắn vào lề đường trúng mấy người đang trú mưa cho họ la oai oái, bọn tôi lại cười khoái chí và đi kiếm nạn nhân kế tiếp. Vậy chứ bọn tôi chỉ dám phá mấy cô nàng thôi chứ không dám phá mấy ông đực rựa, khô ng thì họ tức khí lên rượt theo thì tụi tôi chạy có cỡ. Ðó là lúc tôi đang học trung học chứ hồi còn tiểu học, trời mưa là cứ a lê hấp, xà lỏn chạy ra ngoài đường vơ"i mấy thằng nhóc hàng xóm. Ðối với bọn nhóc chúng tôi, trơì mưa là lúc tốt nhất để... tranh tài đá banh. Ðường thì vắng, 2 bên có người đứng trú mưa làm khán giả, mà trời mưa thì mát nữa, đá banh thì khỏi chê rồi. Thế là chúng tôi lo kiếm đá làm hai khung thành 2 bên rồi chia phe ra tranh tài.
Ðá banh nhựa trong mưa thật là vui. Trái banh thì nhẹ mà còn bị nước cản nữa nên lắm khi đá trái banh mà không thấy banh đi, chỉ thấy nước đi. Ðôi khi trận đá banh trở thành đá nước, 2 phe chúng tôi dùng chân đá vào vũng nước về phía địch thủ. Thật là vuị Nhà kế bên tôi có một cái máng xối từ lầu 2 bị lủng nên mưa là nước chảy ra ào ào. Ðứng ở dưới cho nước chảy lên đầu giống như là đang tắm shower. Sau trận banh, chúng tôi tranh nhau cái chỗ đứng dưới cái máng xối để tắm.
Nếu như trận mưa quá dài, mẹ tôi hay chị tôi sẽ kêu tôi vô vì sợ lạnh rồi bị cảm. Từng đứa, từng đứa vô, sau cùng trận banh cũng giải tán luôn.
Nếu bữa nào mà mẹ tôi không cho tôi ra tắm mưa, tôi có một cái thú khác là ngồi nghe nhạc nhìn trời mưa. Nói cho đúng cái này tôi học từ các anh tôi. Mỗi lần trời mưa, các anh tôi và bạn lại pha cà phê, hút thuốc rồi mở nhạc và ngồi nói chuyện với nhau. Tôi là phận con nít thì không uống cà phê hay hút thuốc nhưng cũng ngồi ké hóng chuyện và nghe nhạc. Có lẽ vì vậy mà tôi đến bây giờ vẫn còn thích mấy cái nhạc Pháp xưa của Christophe, Art Sullivan, Adamo... Nhạc Pháp mà nghe lúc trời mưa thì hay tuyệt.
Mưa Cali không thể nào so sánh nổi với mưa Sài gòn. Hạt mưa nhỏ nên rơi không kêu lớn và mưa không có dai. Tuy nhiên, chỉ khi mưa, tôi mới cảm thấy như tôi đang vẫn còn ở Việt nam. Bầu trời xám làm cho lòng tôi chùng lại và nhớ quê hương ghê gớm. Lúc kẹt xe, tôi nhắm mắt lại, vặn nhạc nhỏ đi và lắng tai nghe tiếng mưa rơi lên mặt kiếng xe hơi để cố liên tưởng tới khoảng thời gian thơ ấu êm đềm của tôi. Tiếng hát của Christophe phát ra từ 2 cái loa trên xe càng làm cho tôi nhớ mưa Việt nam, mưa Sài gòn nhiều hơn. Tôi sẽ đánh đổi tất cả nếu ai đó có thể mang tôi về được tuổi thơ ấụ Mở cái gạt nước nhanh hơn cho mặt kiếng bớt mờ nhưng mắt tôi lạ i ướt nhòa như những lần tắm mưa tại quê nhấ
Một ngày mưa đầu thu. Cali 10/30/96
P. T. Nguyễn
Con Trộm
Con gà tre nhà ai không biết, mới sáng sớm dã mò sang vườn tôi, đứng trên giàn đậu quyên mà te te gáy vài tiếng. Sáng sớm, đi quanh quẩn một tí đã sinh chuyện, tôi va vào cánh cửa sổ đã mục của nhà kho, có vẻ như cái cửa chỉ đợi có chừng ấy để bung ra khỏi bản lề, treo lơ lửng một cách đáng sợ trên bản lề còn lại. Sáng sớm, tôi không thể gọi Hoàn, Mỹ ra phụ một tay để lắp lại cửa, những chị em họ cưa tôi hẳn đang mơ ngủ trong đống chăn chiếu đầy mùi dầu bạch đàn của bà ngoại, thế nên loay hoay tôi đành nâng cửa một mình, kết quả "lợn què": cái cửa bung ra hẳn và tôi lảo đảo, đỡ lấy, dựng vào một bên tường, xòe ra nhìn, hai bàn tay đầy rêu mốc ẩm ướt, và tôi đánh giá: "Hôm nay là một ngày xui!".
oOo
Ngoại kết luận: "Gay đấy! Trộm thế này là táo tợn lắm, may mà con Nữ dậy sớm, nó nghe lục đục, nó sợ, chứ không thì..." Hoàn, Mỹ bảo: "Chắc nó biết bà ở một mình!". Tôi đứng lên, dọn hết đống lá gói xôi ăn sáng của mọi người, không nói gì, biết rằng mọi chuyện đều đã quá đà và thấy vui vui. Mỹ lại bình luận: "Thằng trộm này chắc cũng khỏe hả ngoại, dỡ cửa rồi còn đặt lại đàng hoàng, chắc làm nhẹ lắm!". Tôi xuống nhà, vứt đống lá vào sọt rác và mỉm cười, thử gồng tay lên, khẳng khiu thật thảm hại, trên nhà, chân dung của thằng trộm cũng đã được mọi người phác họa xong: cao, có lẽ khỏe, và phải rất nhanh, có thế khi nó tẩu thoát, chó mới không kịp sủa và con Nữ mới không kíp biết gì chứ!
oOo
Một năm tôi gặp lại Hoàn, Mỹ khoảng ba lần: Tết nhất, giỗ chạp, và hết Hè, các dì, chú tôi cũng như mẹ tôi để cho con cái tự do chọn chỗ nghỉ ngơi, thường là bọn con gái lớn đổ về nhà ngoại, tụi con trai thì không dại gì, vườn bà rộng, những dãy nhà phụ chứa chất vô số công việc dọn dẹp chưa làm, bọn nó đánh giá: "Về là lao động cải tạo!". Trẻ con các nhà bé quá cũng không được về, trong vườn có một cái ao, một cái giếng, các bụi cây cũng chứa đầy rắn rết, sâu bọ... Vậy là chỉ tụi tôi về đây, không ai ép phải làm gì, tha hồ mà hẹn hò bạn bè đi chơi, chỉ cần trước đó nấu cho ngoại một nồi nước lá bưởi gội đầu hay nịnh nọt: "Ngoại để con đấm lưng cho đỡ mỏi!".
Ðêm, ngoại không dám ngủ chung với đứa nào trong đám chị em tôi vì sợ bị đạp nửa đêm; nửa đêm, một cái chân dài của Hoàn có thể vắt sang cổ ngoại, một cánh tay tôi có thể vắt vẻo đè lên những dẻo sườn làm ngoại nghẹt thở. Ngoại nằm một mình, trong mùng xếp vài ba cái bị cói bé tí, sạch sẽ, đựng những thứ vặt vãnh của một bà lão, thứ nào cũng được nai nịt bằng ba, bốn lớp ni lông. Cẩn thận như thế, nên qua vụ trộm hụt này, ngoại lo lắng kinh khủng. Ðôi lúc, tôi muốn bảo: "Ngoại! Con dỡ cửa xuống đấy!" rồi lại thôi, thấy rằng thời cơ để thốt ra câu ấy đã qua rồi! Tôi định kể Hoàn, Mỹ nghe nhưng cũng không kịp nữa, ngoại ra chỉ thị sửa sang lại hàng rào, hai đứa đó nhăn nhó và thế là tôi sợ phải nghe những lời oán trách, đành câm miệng. Sửa hàng rào bằng tre gai và bông giấy dặm lại, tôi thấy vô lý nhưng vẫn cần mẫn làm, cắm một lô gai dưới chân hàng rào thấp lè tè thì phỏng có ích gì, có chăng chỉ để ngăn gà và chó con từ hàng xóm lâu lâu vớ vẩn sang chơi, còn trộm, một thằng trộm lùn bằng tôi có thể vừa đút tay túi quần vừa phóng qua rào theo một phong cách kiểu cách, phóng qua phóng lại vài lần như thế cũng chưa sợ rách quần... Ba đứa chặt gai, lọ mọ cắm đến chiều thì xong. Tôi không than một tiếng, nghĩ :"Tại mình!".
Sẩm tối, ngoại lui cui xách chậu, xô vào nhà kho, Hoàn ngạc nhiên: "Ðem đi đâu vậy ngoạỉ". "Cất đi, tối không dùng, khóa kho lại, không đáng gì nhưng trộm mà lấy thì ngoại cũng không có tiền mua lại!". Tôi và Mỹ đứng xem đom đóm bay lập lòe ngoài ao, Mỹ cười lẩm bẩm: "Ngoại sợ rồi!", tôi không nói gì, lại nghĩ: "Tại mình cả!".
Tôi đã nghĩ cái câu: "Tại mình!" như thế đến cả chục lần, mỗi khi ngoại đưa ra một biện pháp mới để phòng trộm. Khi bà Tư hàng xóm khuyên: "Phải thủ dao đầu giường!", ngoại nhét dưới chiếu một con dao cho ba đứa, Hoàn lủng bủng: "Chém trộm đâu không thấy, coi chừng đứt tay con!" và hôm sau dưới gầm giường có thêm cái gậy tre. Mỹ càu nhàu: "Sáng kiến của vị hàng xóm nào đây?". Lần nào cũng vậy, tôi im lặng mà thực thi mọi việc, trong một cảm giác hối hận vui vui...
oOo
Gần hết hè, ngoại đã mua sẵn tập viết, giấy bao cho ba chị em đi học. Tôi chợt cảm thấy nhớ trường lớp không thể tả được, chỉ nôn nóng về nhấ Một sáng tỉnh dậy, thấy rằng hôm nay phải về ngay, tôi bảo với ngoại: "Con di trước, Hoàn, Mỹ về sau!". Ngoại dúi tiền vào tay tôi: "Ðể con may áo mới!". Tôi xách một túi to, nặng, vui vẻ đi xiêu vẹo trên con đường đất đầy cỏ dại ra đường cái. Trời âm u, mưa bụi lất phất, đi được nửa đường, tôi quay lại gọi cửa. Ngoại hỏi: "Con lấy áo mưa hả?". "Không!". Hoàn, Mỹ chạy ra, tôi ngượng, bảo nhỏ: "Ngoại ra đây, cho con nói riêng, đừng la con!". Hai bà cháu đứng dưới tàn mận, tôi bảo: "Hôm nọ không phải trộm đâu, con dỡ cửa xuống đó! Con về, nghĩ ngoại còn lại một mình, ngoại sợ, nên con khai thật cho rồi!". Mỹ lại xông ra: "Cái gì vậỷ". Ngoại cười: "À, nó dặn ngoại phải cẩn thận, không được tắm đêm nữa!". Tôi chào: "Con đi!" và tôi đi, lại bước xiêu vẹo với cái túi to cộ, ra đường cái...
Phan thị Vàng Anh
Nổ
Vĩnh vừa đi ăn trưa về thì Brenda, cô thư ký từ phòng bên cạnh, hớt ha hớt hãi chạy sang báo:
- Mày đi đâu mà tao kiếm từ nãy giờ không gặp vậy Vĩnh?
Vĩnh liếc nhìn đồng hồ treo tường, hỏi lại người em tóc vàng mắt xanh:
- Cô em có biết bây giờ là giờ ăn trưa của tớ không?
Brenda vuốt tóc chữa thẹn, nói tiếp:
- Có cái hẹn đột xuất, thằng Paul kêu tao kiếm mày cho bằng được.
Paul là xếp của Vĩnh. Chàng đưa 2 tay lên trời, than:
- Họp với hành. Tao mới đi nghỉ phép bên New York về mới có hai hôm mà đã có đến chục buổi họp, ớn đến cỗ rồi Brenda ạ! Có gì quan trọng lắm không, hay là tha cho tao phen này đi!
Brenda lắc đầu:
- Không được, thằng Paul bảo là quan trọng lắm, phải kiếm mày cho bằng được. Bọn nó đang họp ở lầu 5, phòng số 5025.
Vừa lúc đó thì điện thoại trong phòng vang lên. Vĩnh nhấc ống nghe, chưa kịp nói thì đã nghe giọng của thằng Paul:
- Vĩnh hả? Mày đang làm cái địa ngục gì mà còn chưa lên đây? Con Brenda không nói gì với mày sao?
- Ê, bình tĩnh lại người anh em. Tôi lên ngay đây.
Vĩnh gác máy và tức tốc đi lên phòng họp.
Phòng 5025 là phòng họp kín, chỉ để dùng cho những buổi họp quan trọng. Căn phòng này được trang bị bằng những hệ thống thính-thị cực kỳ tân tiến. Có cả màn ảnh lớn như trong rạp hát, được điều khiển bằng phương tiện điện toán và liên mạng viễn tuyến truyền hình. Căn phòng này chỉ dành cho các buổi họp xuyên bang. Từ trong căn phòng này, người ta có thể nhìn thấy mặt mũi và nghe rõ tiếng nói của nhau từ Cali qua Texas, đến Ohio, Virginia, Maryland. Buổi họp hôm nay được triệu tập trong căn phòng này chứng tỏ có chuyện quan trọng.
Vĩnh đút tấm thẻ căn cước vào trong cái khe nhỏ nơi cánh cửa. Sau khi thấy ánh đèn xanh báo hiệu kèm theo tiếng "tít", chàng đẩy cửa đi vào trong.
Bên trong phòng họp tối hù. Vĩnh phải mất vài giây định thần, để làm quen với bóng tối. Chàng chửi thầm trong đầu: "Tiên sư bọn này, hết trò rồi hay sao kêu tao vô đây coi phim!" Chàng nhìn về phía trước, xem bọn nó đang coi phim gì. Trên màn ảnh, hình chiếc phi thuyền kiểu mẫu của công ty McDonnell Douglas đang là đà bay.
Chiếc phi thuyền Delta Clipper DC-X này đâu có xa lạ gì với Vĩnh. Chàng đã làm việc suốt mấy năm liền, từ lúc DC-X mới chỉ là sáng kiến trên giấy trắng mực đen. DC-X là một ý kiến mới mẻ và táo bạo được NASA và Douglas đề nghị hồi năm 1993. Mới lạ là vì đây là loại phi thuyền lên thẳng đáp thẳng, khác với phi thuyền con thoi hiện tại là lên thẳng đáp ngang. Lúc về, DC-X đưa mũi xuống trước, và khi gần đất liền nó sẽ tự động xoay một vòng 180 độ và đáp xuống đất bằng phần đuôi. Suốt mấy năm dài, phi thuyền kiểu mẫu với kích thước bằng một phần mười phi thuyền thật đã được cho phóng ở căn cứ White Sands Test Missle, tiểu bang New Mexico. Mỗi lần thử nghiệm là mỗi lần thành công, ngoại trừ một vào sơ suất nhỏ trong khi đáp, vì bị dao động mạnh nên một phần nhỏ của hệ thống ăng-ten bị hư hỏng.
Nhóm của Vĩnh ở NASA chịu trách nhiệm về hệ thống phản lực và phi-động lực khi bay. Vĩnh và đồng nghiệp yêu con chim sắt DC-X này vô cùng, vì nó chính là thành quả tim óc của họ. Mỗi lần nhìn thấy hình DC-X được quảng cáo trên trang bìa của mấy tờ tạp chí khoa học làm Vĩnh cảm thấy tự mãn vô cùng. Không tự mãn sao được, khi đứa con tinh thần của bọn chàng đang được đánh giá là "cuộc cách mạng" trong khoa học không gian.
Trên màn ảnh DC-X vừa quay xong một vòng đưa mũi lên trời, phần đuôi xẹt lửa ra, và chuẩn bị đáp. Bỗng dưng Vĩnh cảm thấy hình như có điều bất ổn. Toàn thân chiếc phi thuyền kiểu mẫu nghiêng sang một bên, đám lửa nhiên liệu phát ra từ bộ phận động cơ chạm đất, dội ngược trở lên, bốc khói mù mịt nên khó mà nhìn cho rổ Chiếc phi thuyền như muốn dở chứng, như không muốn đáp xuống nhẹ nhàng êm ái như mọi khi. Và đùng một cái, nó ngã nhào, lật gọng, phần nhiên liệu từ trong bình chứa ào ra ngoài gặp oxy bắt lửa và nổ đùng.
Vĩnh bàng hoàng nhìn lên màn ảnh. Tất cả xảy ra quá nhanh, như một cuộn phim, như một trò chơi, một trò chơi tốn kém vô cùng. Ánh đèn phòng phựt sáng, soi rõ từng khuôn mặt, những khuôn mặt quen thuộc đối với Vĩnh. Chàng hỏi:
- Ê, thiệt hay chơi vậy? Thằng nào trả lời cho tao nghe, cái này là animation hả? Sao giống thí nghiệm thiệt hết sức vậy bây?
Thằng Paul nghiêm mặt nhìn Vĩnh:
- Chuyện quan trọng như vậy ai dám giỡn chơi với mày! Tại vì hồi nãy mày đi vắng nên không biết đó thôi. Chuyện xảy ra hồi sáng nay. Cả tuần nay thí nghiệm không sao, tự nhiên hôm nay sao xui thiệt!
Paul vừa nói vừa đưa hai tay lên đầu. Sau đó lần lượt từng người góp ý:
- Chắc tại hệ thống phản lực!
- Hay là giàn đáp? Hình như tao thấy nó nhả ra có 3 chân á.
- Hay là tại thằng kiểm soát hệ thống viễn khiển.
- Kiểm soát viễn khiển là ai mày biết không? Là phi công xuất phát từ binh chủng không quân, cũng từng là trưởng phi hành đoàn trong phi vụ STS.
Ôi thôi mỗi người mỗi giả thuyết. Phòng họp bỗng dưng nhộn lên như một cái chợ. Thằng Paul gõ bàn cái rầm:
- Tất cả câm mồm lại. Hình như có điện thoại của headquarter.
Mấy chục con mắt vội nhắm lên màn ảnh. Hình xếp Daniel hiện ra kèm theo câu trách móc:
- Các chú làm ăn cái kiểu gì kỳ vậy? Phen này tôi ăn nói làm sao với quốc hội! Phó tổng thống vừa mới rầm rộ tuyên bố kế hoạch phi thuyền thế hệ mới X-33 thay cho phi thuyền con thoi, vừa mới có chút ít tiếng tăm thì bây giờ lại đổ bể.
Tất cả im lặng. Gần chục trung tâm được nối liền trên màn ảnh, phải có đến gần trăm mạng đang lắng nghe xếp Daniel khiển trách, thế mà không có ai lên tiếng. Họ chỉ nghe tiếng thở dài của nhau. Xếp kết luận:
- Tôi đề nghị mấy chú cử phái đoàn điều tra gấp về vụ nổ này, tôi đang bị sức ép của báo chí. Thôi, tôi phải đi ngay bây giờ, có phiên họp báo về vụ thiên thạch đến từ Hỏa Tinh.
Vĩnh biết rõ thời giờ của xếp rất eo hẹp, lão đã thu xếp vài phút vào trong buổi họp vô tuyến hôm nay đủ chứng tỏ lão quan tâm đến vụ thí nghiệm DC-X này đến mức nào. Xếp vừa ra lệnh cử phái đoàn điều tra, Vĩnh liên tưởng đến cái hồi chàng mới vào làm việc trong này, năm 1985, sau khi phi thuyền con thoi Challenger bị nổ, cũng có điều tra, và kết quả là hàng loạt cấp quản lý chóp bu buộc phải từ chức. Lần này không biết sao, cũng may là chỉ mới là thí nghiệm, chỉ mới có mất tiền, chưa có toi mạng.
Thế là Vĩnh được đề cử vào cầm đầu trong nhóm điều tra. Chàng đã tìm đủ cách thoái thác nhưng không được. Vĩnh nói với Paul:
- Mày cũng biết sở trường của tao là nghiên cứu và áp dụng, bắt tao đi làm thám tử, tò mò, tọc mạch chuyện đã lỡ làng rồi e không thích hợp.
Thằng Paul vẫn trước sau như một:
- Vĩnh, mày là thằng có mặt trong dự án này từ ngày phôi thai, mày biết rõ về DC-X hơn ai hết. Tao chọn mày dẫn đầu nhóm điều tra là điều rất hợp lý.
Thế là mấy tuần lễ liên tiếp sau đó, Vĩnh và nhóm bạn được đề cử phải cắm đầu vào đống giấy tờ được gửi qua từ New Mexico, có nhiều hôm chàng phải bay liên tiếp qua bên đó, đi đi về về như đi chợ, để phỏng vấn trực tiếpnhững người có quan hệ đến cuộc thí nghiệm trong cái ngày lịch sử đó.
Ba tuần lễ trôi qua rất nhanh. Ngày mai là hạn chót phải lập bản báo cáo, thế mà bọn Vĩnh vẫn chưa tìm ra câu trả lời. Thật ra thì có rất nhiều câu trả lời, nhưng tất cả đều là giả thuyết mà thôi, không có câu trả lời nào có cơ sở vững chắc đáng tin cậy được.
Vĩnh gấp cuốn sách giáo khoa Lý Thuyết Nổ (Combustion Theory) lại, nhìn đồng hồ treo tường vừa điểm đúng 11 giờ đêm. Chàng đứng dậy vươn vai, lùi lại vài bước, nhìn lại cái bàn giấy của mình, và chợt ngỡ ngàng. Thật không khác nào một bãi rác, từ trên bàn cho tới dưới đất bừa bãi những chồng giấy điện thư và từng thùng giấy ghi dữ kiện, có cả những tấm ảnh màu khổ lớn chụp lại hình chiếc chiếc phi thuyền kiểu mẫu bị cháy đen mà Vĩnh và đồng nghiệp đã chứng kiến tận mắt ngay tại hiện trường, vài giờ sau khi bị nổ tung. Cuối cùng là những bài báo cáo, phân tích của đồng nghiệp. Tất cả Vĩnh đã đọc lướt qua nhưng cũng không thấy giúp ích được gì.
Chàng đứng dậy, tắt đèn văn phòng, bụng bảo dạ: "Mặc kệ, đến đâu thì đến!". Trên đường lái xe về nhà, Vĩnh nhìn thấy bên lề đường tấm biển rất lớn quảng cáo dự án DC-X. Cái tấm biển này đã có ở đây cả năm trời, trong nổ lực tranh đua để thắng giải thầu X-33 gần 1 tỉ đô-la giữa 3 công ty McDonnell Douglass, Lockheed, và Rockwell. Nó đã nằm chình ình bên vệ đường lâu rồi thế mà Vĩnh có bao giờ để ý đến. Nhưng đêm nay, dưới ánh sáng cực mạnh của bóng đèn néon, nó hiện lên mồn một. Tấm biển vẽ hình chiếc phi thuyền hình kim tự tháp, kèm theo hàng chữ nhắc nhở mọi người: "nếu muốn biết ai sẽ thắng thầu trong cuộc chạy đua vào quỹ đạo thì hãy nhìn lên trời". Công ty Douglass lên mặt là phải, bởi vì trong 3 công ty tranh đua lúc đó, chỉ có DC-X của Douglass là có phi thuyền kiểu mẫu đã cho bay thử|.
Ðêm nay, nhìn lại tấm biển này Vĩnh thấy mỉa mai vô cùng. Nhìn lên trời ạ Có thấy gì đâu, phải nói lại là nhìn xuống đất thì đúng hơn, và nếu thấy thì có chăng chỉ là một đống sắt vụn.
Vĩnh về đến nhà đã gần nửa đêm. Chàng biết đêm nay có thể lại là một đêm mất ngủ. Vĩnh đi vào nhà bếp, tự pha cho mình một ly rượu mạnh, sau đó trở ra phòng khách, để y nguyên quần áo như vậy, nằm dài trên ghế sofa, lột bỏ đôi giầy và gác chân lên trên bàn kiếng.
Vĩnh mân mê ly rượu có cái chân dài trong lòng bàn tay, nhìn ánh nâu sóng sánh làm chàng chợt mĩm cười, khi nhớ đến câu pha trò của người bạn:
- Kết quả của cuộc điều tra về tai nạn DC-X cho biết là nguyên nhân của vụ nổ này bắt nguồn từ sự sơ ý của một kỹ sư trẻ gốc Việt có trách nhiệm bộ phận động cơ, người này đã cẩu thả pha trộn cognac vào trong phần nhiên liệu lõng của hệ thống phản lực.
Vĩnh thở dài, ngã người trên ghế, mắt đảo một vòng nhìn lại căn phòng độc thân trống vắng của mình, và chàng lưu ý hình như có điều gì bất thường. Chàng suy nghĩ một hồi mới nhận thức ra rằng căn phòng độc thân của chàng hình như dạo này bừa bãi hỗn độn hơn. Cái sự bừa bãi hỗn độn bắt đầu từ ngày người yêu đã bỏ ra đi. Vĩnh lại thở dài thườn thượt. Công việc ở hãng bế tắc, chuyện tình cảm lại đổ vỡ, rối bời trăm mảnh.
Cảm thấy khát nước vô cùng, Vĩnh đi đến mở tủ lạnh tìm hộp bia. Chàng dùng ngón cái nậy nắp hộp, xong tu một hơi dài cạn sạch. Theo thói quen, Vĩnh dùng mấy ngón tay bóp bẹp cái lon nhôm và tiện tay quẳng bừa vào góc phòng. Chàng cầm hộp viễn khiển lên bấm nút mở TV. Trên màn ảnh truyền hình, David Letterman, danh hài về đêm đang chọc cười khán giả, thỉnh thoảng từng tràng cười bên dưới ré lên như cái máy cười rất đều đặn, nhịp nhàng.
Vĩnh không để ý, đôi mắt của chàng mông lung như người thất thần. Ðôi mắt đó bất chợt dừng lại ở góc phòng, nơi có cái lon bia bẹp dúm mà chàng vừa ném đi. Ðôi mắt chợt sáng phựt và mở to. Vĩnh vội đứng phắt dậy, đi đến nhặt lên lon bia, quan sát thật kỹ.
- À há! Chân lý là đây rồi.
Vĩnh nghĩ là mình đã tìm ra câu trả lời. Chàng mừng quá, nghĩ thầm chắc Isaac Newton khi nhìn thấy quả táo rơi rồi khám phá ra định luật về trọng lực cũng mừng đến cỡ này là cùng. Cũng may là Vĩnh không có nằm trong bồn tắm khi chàng tìm ra câu trả lời, nếu không thì chàng cũng bắt chước Archimede, trần truồng như nhộng chạy lơn tơn ra ngoài đường tuyên bố phát minh mới.
Vĩnh mở tung chiếc cặp táp, tìm mấy tấm hình chụp bộ phận động cơ của DC-X bị tàn phâ Chàng so sánh với lon bia và gật gù. Sau đó, chàng đi đến bấm máy điện thoại, gọi mấy tên đồng nghiệp được giao phó cùng với chàng trong cuộc điều tra này. Vĩnh dùng dây nối nhiều người một lúc để điện đàm.
Ðồng nghiệp cằn nhằn:
- Mày có biết bây giờ là mấy giờ rồi không Vĩnh?
- Xin lỗi phải đánh thức các bạn vào giờ này. Chuyện này quan trọng lắm, tớ không thể chờ đến sáng mai. Thông báo với các bạn là tớ đã tìm ra câu trả lời, chắc chắn đúng đến 90 phần trăm. Bây giờ cho tôi hỏi, có ai biết những mảnh vụn động cơ bị nổ đang được lưu trữ ở đâu?
Một trong những đồng nghiệp trả lời:
- Tụi mình làm gì cô Chắc vẫn còn đang nằm trong kho ở New Mexico hoặc đã được chở về Long Beach rồi.
Vĩnh hỏi tiếp:
- Có bạn nào có số điện thoại để liên lạc hai địa điểm trên không?
- Muốn gọi bọn nó, cần phải bấm số mật mã. Chỉ có xếp Paul mới có số mật mã.
- Vậy, chắc tớ phải làm phiền xếp. Thôi cám ơn các bạn, có lẽ tớ phải vào hãng ngay bây giờ.
Vĩnh nói xong, cúp máy, để mấy đồng nghiệp chưng hửng vì chàng chưa cho biết câu trả lời là gì. Sau đó chàng gọi phá giấc ngủ của xếp Paul để xin số mật mã điện thoại, và tức tốc trở vào hãng để kiểm chứng thêm một số giả thuyết mới.
Vĩnh thức trắng đêm hôm đó để liên lạc với White Sands và Long Beach để thâu thập thêm một số tài liệu trước và sau khi xảy ra tai nạn DC-X. Với tiến bộ của truyền tin liên mạng, Vĩnh có thể nhận được đầy đủ các dữ kiện áp suất và nhiệt độ phần động cơ phản lực trước và sau khi bị nổ. Người ta còn gửi cho chàng hình ảnh không gian ba chiều phần động cơ bị tàn phá, bằng phương tiện máy điện toán. Vĩnh càng khảo cứu càng đâm ra lôi cuốn và thích thú, bởi vì tất cả đều ăn khớp với khám phá mới của mình.
Trưa hôm saụu. Phiên họp báo cáo về cuộc điều tra tai nạn DC-X được bắt đầu, cũng tại phòng họp kín, số 5025. Nhiều báo cáo viên từ nhiều trung tâm khác nhau trên toàn quốc Hoa kỳ đã đưa ra phân tích của riêng họ để cùng nhau bàn thảo. Nhưng duy chỉ có phân tích của nhóm Vĩnh là đáng được chấp nhận nhất.
Theo lời thuyết trình của Vĩnh thì căn cứ vào điều kiện áp suất và nhiệt độ trước và sau tai nạn rõ ràng là sự nổ bể này bắt nguồn từ bên ngoài. Bằng chứng hiển nhiên nhất là hình dáng bộ phận động cơ bị hủy hoại; nếu động cơ này bị nổ tung do nhiên liệu bên trong thì đáng lý ra những mảnh sắt bị bẻ cong ra ngoài, đằng này nó bị ép vào bên trong bẹp dúm lại, như bị sức ép từ bên ngoài. Mọi người đã cười ồ lên khi Vĩnh cho biết là chàng tìm thấy giả thuyết này khi nhìn lon bia bị bóp nhỏ lại. Vĩnh kết thúc bài thuyết trình bằng một câu hỏi:
- Sức ép từ bên ngoài này bắt nguồn từ đâu? Tôi xin nhường câu trả lời cho giới hữu trách.
oOo
Câu chuyện tạm kết thúc ở đây, vì cuộc điều tra bắt đầu bước sang một ngả rẽ mới, khi có sự tham dự của cơ quan tình báo liên bang. Dựa theo lý luận của Vĩnh thì rất có thể đây không phải là một tai nạn, mà là một hành động phá hoại có tính toán.
Bùi Thanh Liêm
Tháng 10, 1996