vhnt, số 3
19 July 1995
Tính cho đến ngày hôm nay, đã có khoảng 20 người gia nhập mailing list, dù rằng vhnt chưa sống được một tuần, đó là một khích lệ lớn cho chúng tôi, những người chủ trương. Tuy vậy, chỉ mới có vài người đóng góp bài vở thôi! Chị Lan than thở phải bao giàn, hơi mệt cho tấm thân gầy gò. Tôi xin kêu gọi sự đóng góp của tất cả các bạn, đừng e ngại gì cả.
Ở Dallas này sắp chiếu phim Belle de Jour, có Catherine Deneuve thủ vai chánh. Khi ra lần đầu năn 1967, phim này được coi là khá táo bạo về những đoạn cụp lạc :). Có bạn nào đã xem phim này xin cho biết vài cảm tưởng. Nghe nói phim đã bắt đầu chiếu ở New York và Los Angeles rồi.
Việt
Hạt Gạo
Hạt gạo bốn ngàn năm
Ðất Văn Lang
Người trăm họ đã vun từng thớ đất
Ðôi tay sinh tồn
Nhặt mầu xanh từ lượm lúa
Gấm vóc giang san
Hạt gạo
Cơ nghiệp của một đời
Có lúc mẹ phải cắn đôi
Như hai giòng sữa
Già nua
Vẫn cho con từng gịot
Thời gian
Là trăng ngàn động bóng
Khua tiếng chày
Giục gà eo óc sang canh
Hạt gạo
Mẹ Âu Cơ cũng đôi lần khốn khó
Về biển lên non
Ðoạn trường ấy
Mẹ cũng chia như những lần thương nhớ...
Bình Nguyên Hư
Phía Sau Tác Phẩm: Mầu Tím Hoa Sim
Ðây là bài phóng sự của nhà báo Lê Xuân Kỳ về cuộc nói chuyện với nhà thơ Hữu Loan, tác giả bài thơ phổ nhạc nổi tiếng tiền chiến: Mầu Tím Hoa Sim.
Xin mời bạn đọc vhnt thưởng thức câu chuyện thật đằng sau tác phẩm nàỵ
Phạm Chi Lan
oOo
Có những người làm thơ viết văn có những thói đời khác nhau. Họ ngạo mạn, khó gần. Còn Hữu Loan lại là một con người khác - Gặp lần đầu là thấy dễ mến, dễ quí. Anh tài hoa vậy mà vẫn giản dị khiêm tốn. Sống xa chốn phồn hoa đô thị và làm đủ nghề: kéo lưới, xe thồ, đi cày, đốn củi... Nhưng tâm hồn vẫn rất thi sĩ. Anh là người tỉnh Thanh và vẫn giữ đủ cái cốt cách xứ Thanh: bộc trực, thẳng thắn. Lần này anh ra Hà Nội mươi ngày và tôi lại được gặp anh.
Tôi ngẩng lên đã thấy nhà thơ Hữu Loan lừng lững vào đến cửa. Cụ già 79 tuổi bận bộ đồ tàng tàng, chiếc quần bò mặc lại của con có vài chỗ mạng, khéo nhìn mới thấy, chiếc áo jacket chắc đã dùng dăm ba vụ rét, đôi giày vải màu tím cũ kỹ. Tôi đưa thuốc mời anh, anh xua tay nói:
- Mình thôi lâu lắm rồi .
Tôi rót rượu mời, anh cười và nói:
- Cái này thì được vài chén.
Anh cầm chén rượu nhấm nháp và phát giác ra rượu địa liên. Thôi, chết tôi rồi! Lắm chai lọ để lẫn lộn cả. Rượu địa liên để làm thuốc bóp giãn gân cốt chứ ai đem uống. Anh ngăn lại và nói:
- Uống cho nó nóng, cho tỉnh táo.
Tôi rót rượu bổ mời anh, vừa ngắm bộ râu của anh đã bạc và dài hơn lần gặp trước mà khen cái cánh thợ bán chữ ở gần chợ Đông Ba Cố Đô Huế đã có hai câu chào thật hóm hỉnh:
Chào người màu tím hoa sim
Chào chòm râu bạc đi tìm ban sơ
Lạ lùng thật, còn 9 tháng nữa anh tròn 80 tuổi, vất vả cực nhọc là vậy mà anh vẫn mạnh khoẻ, vẫn vào Nam ra Bắc, và hôm nay lang thang trên đường phố Hà Nội. Tôi hỏi:
- Anh đi được những đâu rồi?
- Ði đến chỗ các nhà sư chùa Hương để ngâm thợ
Ra thế, anh đi chùa Hương để ngâm thơ. Tôi hỏi:
- Họ trả bao nhiêu?
- Năm chục!
Tiếp đó, anh kể chuyện vừa rồi các cô Huế lặn lội ra Thanh (chứ không phải Đào Huế ra Kinh Bắc tìm Tuần Ty), dừng chân ở đâu hỏi thăm Hữu Loan người ta cũng biết, cũng chỉ đường. Các cô biết nhà thơ trước hết qua nhạc, rồi mới đến thơ và nay là người. Tôi hỏi:
- Cái bản nhạc suốt ngày rên rỉ 'Nàng có ba người anh đi quân đội' là của ai?
- Phạm Duy. Lúc ấy Thanh Hoá là "thủ đô văn nghệ" kháng chiến. Các nhà thơ Xuân Diệu, Huy Cận, Vũ Ngọc Phan, Hằng Phương, Lưu Trọng Lư... và cả các trí thức Đặng Thai Mai, Tôn Quang Phiệt, Nguyễn Mạnh Tường, Trương Tửu đều về quê ta cả. Nguyễn Tiến Lãng, Phạm Duy và bọn tôi là lính của tướng Nguyễn Sơn. Mình cưới vợ thời ấy và làm "Mầu Tím Hoa Sim" cũng vào thời ấy. Phạm Duy phổ nhạc nhưng lúc vào thành mới đem ra hát. Chuyện trong bài thơ là chuyện thật của đời mình! Cả cái câu:
Ngày hợp hôn nàng không đòi may áo mới
Tôi mặc đồ quân nhân
Ðôi giầy đinh bết bùn đất hành quân
Nàng cười xinh bên anh chồng độc đáo...
- Cả, y nguyên như chuyện ngoài đời chỉ dùng lời để đưa vào thơ nên có thể làm một mạch. Cuộc sống đọc, nhà thơ ghi lại.
- Giữa lúc cuộc kháng chiến đang ở hồi gay go quyết liệt, đang cần hàng vạn vạn thanh niên lên đường ra trận sao anh dám viết:
Lấy chồng thời chiến chinh
Mấy người đi trở lại
Nhỡ khi mình không trở về
Thì thương người vợ chờ bé bỏng chiều quê...
- Thì chuyện là như vậy, và mình cũng không ngờ là đã có những câu thơ như vậy. Nhưng ai có đọc thơ mình mà không lên đường ra trận cứu nước đâu? Còn nếu mình lên giọng "xung phong" thì biết đâu hôm nay không còn ai biết Hữu Loan là ai cả.
- Ðúng là như vậy ! Một em học sinh của tôi, anh Lê Ðình Bảng, kể rằng năm anh đi lính trong ba lô có cuốn sổ nhỏ ghi bài thơ "Mầu tím Hoa Sim" và cả bài "Bên Kia Sông Ðuống" nữa. Bài thơ đã theo em đi suốt đời cầm súng và em đã trở về lành lặn chững chạc.
Tôi lại nhớ có người hỏi tôi về chuyện riêng của nhà thơ Hữu Loan, nên tôi hỏi anh:
- Trong bài "Mầu Tím Hoa Sim" câu mở đầu 'Nàng có ba người anh đi bô đội' là chuyện văn chương hay chuyện có địa chỉ hẳn hoi?
- Nàng là Lê Ðỗ thị Ninh, vợ mình, con ông Lê Ðỗ Kỳ. Ba người anh nàng đi lính thời bấy giờ thật.
- Hình như đến bây giờ anh vẫn yêu chị Ninh?
- Bà ấy là một người đẹp, dịu dàng, một cô gái tân thời, có học thức, ra đi từ lúc vừa tròn 18 tuổi. Bài thơ "Mầu Tím Hoa Sim" viết từ năm 1949 và bằng con đường truyền miệng đã đến với bạn đọc trước khi được in vào năm 1956. Nhiều năm sau cái chết của vợ, mình vẫn nhớ khuôn mặt thanh tú ấy, chiếc áo nàng vẫn mặc "mầu tím hoa sim". Bà vợ hiện nay của mình vẫn nói: Anh ăn ở với người đang sống nhưng vẫn yêu người đã mất...
Ðúng là cái chuyện văn chương. Ngày xưa Tương Phố đã khóc chồng và Ðông Hồ đã khóc vợ, tưởng như phải chết theo rồi mà họ vẫn phải lo phần đời còn lại. Anh Hữu Loan cũng vậy, anh đã lập gia đình và có 8 con. Con gái út đã là họa sĩ mới ra trường. Cuộc đời anh như mơ như thật, biết đâu sau này sẽ có một cuốn phim tình sử về "Mầu Tím Hoa Sim"...
Lê Xuân Kỳ
Hà Nội, 4-1995