vhnt, số 25
14 August 1995
Giùm Tôi
Em nhớ nhé, có về ngang qua phố
Nhặt giùm tôi mảnh vỡ của cuộc đời
Quà tặng em chỉ còn bấy nhiêu thôi
Hãy gìn giữ khung trời yêu thuở nọ
Em nhớ nhé, có về trên lối đó
Ngắt giùm tôi cọng cỏ dại bên đường
Bậm vào môi cho dịu nỗi tiếc thương
Ðương thổn thức nơi trời xa, xứ lạ
Em nhớ nhé, có qua khu học xá
Bắt giùm tôi vài chiếc lá me bay
Hãy nâng niu, ấp ủ giữa lòng tay
Cho quá khứ tràn đầy mơ thần thoại
Em nhớ nhé , có dịp nào trở lại
Quán chè xưa hai đứa thích ghé qua
Nghe giùm tôi lời bản nhạc "Tình Xa"
Tình ta đó có còn là sông nhỏ?
Em nhớ nhé, có lên căn gác trọ
Cắt giùm tôi đôi ba bó sầu đông
Ðể những đêm nhung nhớ ngự trong lòng
Hãy đem đốt cho không còn tưởng tiếc
Cho Biển
Thôi, đừng gợn sóng tròn
Buồn chi mà than thở?
Sao ngoảnh mặt dỗi hờn
Giận ai mà nức nở?
Thôi, đừng ngồi khóc nữa!
Hãy cùng ta đêm nay
Chôn cơn đau đang vỡ
Dưới lòng cát trắng này
Nước mắt cay ngày đó
Ðã khô trên đá ghềnh
Cớ sao còn thương nhớ!
Ðể ướt đời lênh đênh
Quên một lần đi nhé
Lâu lắm ta mới về
Hãy ru lời thật khẽ
Cùng ta vào cơn mê
CMH
8/1995
Đêm Phương Bắc Nhớ Về Tổ Quốc
Một màu trắng rợn người dân tộc tôi chưa biết
Đang đối chọi gắt gao với màu than đêm
Nỗi nhớ tôi xin nhập vào bão tuyết
Bay qua nước Nga, vượt Trung Hoa gió bấc
Mưa phùn đêm nay có thổi rát mặt Người
Tổ quốc ơi.
Nửa nước tôi giờ này cuốn trong rơm rạ
Biển dạ dày cồn sóng Thái Bình Dương
Tiếng mọt nghiến dêm kèo nhà đói võng
Từ đỉnh cao tập bước xuống đời thường
Đất nước tôi thuyền vỏ trấu vờn đỉnh sóng
Số phận người neo vào bóng Trường Sơn
Chẳng lẽ không còn con đường nào yên lành hơn
Ngoài một lối vượt đá ngầm dông bão
Trời mắt ếch đáy giếng nào kiêu ngạo
Tổ quốc tôi nằm ở nơi đâu
Trên mùa gặt địa cầu?
Người cày xới bằng xương sườn lấy máu mình gieo hạt
Nứt nẻ vết chân cò, chân vạc toạc đồng sâu
Loa Thành ơi, ai lường gạt Mỵ Châu?
Dấu lông ngỗng tình xưa còn trắng tóc
Tổ quốc tôi đau mà không dám khóc
Hoa cau cười nhòe nhoẹt aó nàng Bân.
Đâu nỗi nhớ nhà đứt ruột Huyền Trân
Đâu Tổ quốc của nàng Kiều Kim Trọng?
Thế giới này quá rộng
Nhưng nỗi nhớ thương chỉ một chỗ đi về
Chỉ nơi mẹ mò cua bùn lạnh cóng
Lửa đói lòng dìm bóng mẹ vào đêm
Chỉ một chỗ em qua đò vịn sóng
Trăng xòa tay dừa ngóng móng chân thềm.
Đêm ai hát tôi nghe qua nửa vòng trái đất
Đêm tro bếp quê hương mầm lửa mạ hoen màu
Nghe gió bấc gọi mặt trời xa khuất
Tổ quốc, xin Người đánh thức cả niềm đau.
Trần Mạnh Hảo
Nha Trang Một Ngày Hè
4g00 chiều, June 19, 1995
Tôi đến Nha Trang lần đầu, vào buổi chiều giữa lúc mọi người đang đổ ra đường trở về sau một ngày làm việc. Ðó là giờ "rush hour", tuy có đông và kẹt xe, nhưng không thể so sánh với cái đông đúc ồn ào của Sài Gòn hay Hà Nội vào những giờ tan sở. Những chiếc xe gắn máy lách ngang dọc một cách tài tình, có vẻ như sắp tông nhau, nhưng họ khéo léo tránh chỉ cách nhau gang tấc. Tôi nói bác tài xế, người đồng hành trong chuyến đi của tôi: tìm đường tắt ra biển trước vì tôi đang khao khát muốn nhìn thấy mầu xanh mênh mông của nước, phố xá thôi bỏ qua, để lúc khác đã. Bác tài đùa: "Cô thèm biển lắm rồi phải không? Từ sáng tới giờ không nhìn thấy miếng nước nào, toàn đi qua sa mạc với đồng ruộng không hà!". Tôi gật đầu cười, tán đồng câu pha trò của chú Quang. Chúng tôi rời Saigon từ 5 giờ sáng, đi trên quốc lộ số 1, qua bao nhiêu phố xá, ruộng muối, núi đồi, đồng ruộng khô cháy, nhưng chưa nhìn thấy biển. Xe chúng tôi rẽ vào đường Trần Phú, tôi vừa nhìn thấy những bóng dừa và mầu xanh của nước.
Nắng lấp lánh trên mặt biển, những con tầu ngoài xa đứng yên tư lự trên mặt nước, khung cảnh hiện ra đúng như tôi tưởng tượng. Tôi cảm thấy thoải mái trước mầu xanh của trời và nước quyện lẫn trải dài trước mặt. Quán nước, nhà hàng, khách sạn, quán bar và những hàng gánh rong, kioske quà lưu niệm nhan nhản, những chiếc dù sặc sỡ và ghế nằm la liệt trên bãi, vài khách bộ hành đi lại dọc bờ, họ trông an nhàn như khách tản du. Tôi muốn dừng xe lại chạy xuống bãi ngay, nhưng trước hết phải tìm nơi nghỉ cho tối nay đã.
Chú Quang chỉ tôi đến khách sạn Grand Hotel, ngay sát bãi trên đường Trần Phú. Không lưỡng lự gì cả, tôi lấy ngay một phòng có cửa sổ trông ra biển, tối nay trăng sẽ lên trên mặt biển, và tôi không thể mất cơ hội ngắm trăng ngàn năm một thuở đêm nay. Chú tài xế hỏi tối nay tôi có cần đi đâu để chú đem xe lại, tôi dặn chú không cần, tối nay tôi dành cho biển, sáng mai sẽ đi quanh thăm Nha Trang.
Về phòng, tôi cần phải sửa soạn vài điều trước khi cử hành cái "ritual" đặc biệt này. Một tập giấy, cây bút, một bình trà, nước sôi, hoa nhài, đủ cả rồi. Sẽ có sóng nhạc ngoài biển vọng lại, thật là tiện lợi! À còn quên một thứ, cần cái quạt giấy để quạt nữa. Ngoài balcon tối nay có vẻ nóng. Gió đứng im một chỗ, mấy tàu lá dừa có vẻ buồn không lao xao lay động. Tôi phải ngủ 15 phút, chỉ mười lăm phút thôi nhé. Tôi dặn tôi cho khỏi quên. Thì giờ ở đây còn quí hơn vàng. Vàng thì chẳng có gì quí, chỉ lo không đủ thì giờ cho Nha Trang.
6g15 chiều
Vậy là tôi ngủ quên mất cả tiếng, thêm 15 phút rửa mặt cho tỉnh táo, tôi chuẩn bị đi khám phá Nha Trang. Băng qua đại lộ đi về phía bãi, trước mặt tôi là Hòn Khói lơ lửng ngoài khơi, như đang trôi dần ra xa. Những chiếc tàu đánh cá xếp hàng ngang ngoài xa, li ti như những chấm đen ngoài đuờng chân trời. Nước phản ánh nắng buổi chiều, mầu vàng ửng của nắng quái nhuộm dần phía Tây. Có vài gợn gió nhẹ, những tàu dừa lao xao, vài xác hoa phượng đỏ rực bay trong gió. Tôi ngửi thấy mùi mực nướng, mùi biển mặn, mùi đổ biển xào nấu tỏa ra từ phía sau nhà bếp của nhà hàng trước mặt biển. Ðèn treo lấp lánh trong những bụi cây, những bàn ăn kê ngoài trời, sát bên bãi cát. Tôi tìm được một bàn trống ngay góc, sát mé nước. Bên cạnh những du khách ngoại quốc đang tụm lại uống bia, cafe và nhâm nhi đặc sản Nha Trang. Một anh chiêu đãi tươi cười cầm menu đến bàn, tôi gọi một trái dừa tươi, rồi phân vân không biết sẽ gọi bao nhiêu món cho một người ăn, vì thực đơn hấp dẫn với bao nhiêu là món đồ biển đặc biệt. Anh chàng nháy mắt: "Chị cứ chọn kỹ, món nào ở đây cũng ngon cả". Vâng, nhà hàng của anh hẳn món nào cũng ngon là lẽ đương nhiên, tôi mỉm cười nhủ thầm. Cuối cùng chọn được hai món, gỏi sứa và lẩu đồ biển. Muốn thử ốc xào dừa lắm, nhưng con mắt chắc to hơn bụng. Thôi, để dịp khác. Tiếng nhạc tỏa ra từ mấy cái speakers treo trong góc trên cột, những bài nhạc rock đang thịnh hành ở bên Mỹ.
Không khí ở đây không có vẻ gì là "quê hương", ngoài mùi gió Nha Trang, và những mái đầu đen đang đi lại trên bãi. Có tiếng cười rộ từ phía gần bãi, cạnh quầy nước, một anh chàng ngoại quốc có vẻ như là dân bụi đời, mặc áo Tshirt quần jeans, đầu đội nón kết, đang chọc ghẹo một cô bồi bàn. Anh ta đưa tay quàng vai cô gái, nói một câu tán tỉnh rẻ tiền. Người con gái để mặc, miệng cười tươi, thản nhiên như chuyện bình thường. Bỗng dưng tôi cảm thấy bực bội, bữa ăn trở nên nhạt nhẽo trước mặt. Những người con gái tuổi đó còn quá nhỏ cho những việc này, nhất là nhìn thấy họ đang buông thả với những người ngoại quốc đến đây để hưởng thụ tìm không khí lạ. Nếu cô bé đó là em gái tôi, thì tôi sẽ làm gì lúc này? Nhưng tôi không thể làm gì cả, họ cần tiền để sinh sống và công việc này so ra dễ kiếm tiền và nhàn hơn bao nhiêu việc khác. Lúc này, hơn bao giờ hết, tôi ước ao mình đang ở một nơi nào đó ở nước ngoài, ở San Francisco, Los Angeles, Dallas, hay New York, nhưng đừng là Nha Trang, là một thành phố của quê hương. Tôi no ngang, những món đồ biển không còn hấp dẫn như vài phút trước đây nữa,
Bãi bắt đầu đông người lúc mặt trời vừa sụp xuống chân trời, vài con chim hải âu lượn vòng trên đầu, có lẽ cũng là giờ cơm chiều của chúng. Hoàng hôn thoi thóp trên mặt biển, những chiếc tầu đánh cá xếp hàng ngoài xa đã lên đèn, lấp lánh như một thành phố nổi, nổi bật trên mặt nước đã nhuộm màu tím sẫm. Tôi thả bộ xuống bãi, vài đứa bé bán hàng rong đi ngang mời mua hàng. Tôi lắc đầu, thầm nghĩ tôi không thể ăn gì thêm được nữa. Những chiếc bắp luộc nóng hổi ủ trong rổ này nhằm lúc đang đói hay trời lành lạnh thì ngon tuyệt. Một em nhỏ cắp rổ có bao tải bọc, em len lén nhìn tôi từ xa, dáng vẻ rụt rè, em cầm một cái chuông nhỏ rung leng keng. Rồi em đến gần: "Cô ơi ăn cà rem không?". Bụng no, nhưng tôi gật đầu, không hiểu tại sao tôi lại gật đầu. Em nhỏ mừng rỡ ngồi xuống bên cạnh, em mở cái bao tải có vỏ trấu độn quanh một hộp thiếc, cô bé nói một cách nhỏ nhẹ: "Cô thích kem dâu hay vanilla?". Tôi nói mùi gì cũng được. Em đưa tôi que kem màu hồng hồng, có lẽ mùi dâu. Tóc em hoe vàng, mồ hôi ướt bện hai bên má, những lọn tóc lòa xoà vương mùi biển mặn, vài hạt cát bám nơi ngọn tóc. Bàn tay em nhỏ nhắn, tôi nghĩ giá em được mặc quần áo đẹp và tắm rửa sạch sẽ, em là một cô bé thiên thần. Tôi đưa em tờ giấy bạc hình cụ Hồ màu xanh có nhiều số không, em bảo không có tiền thối lại. Tôi nói thôi em giữ luôn số còn lại. Em chớp mắt, có vẻ lúng túng, rồi lí nhí nói cám ơn. Em đi một quãng rồi, que kem chảy trên tay, nhưng tôi vẫn còn thấy bồi hồi. Bóng em lẫn vào đám đông trên bãi, chìm vào bóng tối, nhưng tôi như còn nhìn thấy đôi mắt em nhỏ long lanh, nét mặt như tạc bằng nỗi buồn của thân phận. Tối nay em có bán hết hộp cà-rem, có về khoe bố mẹ tờ giấy bạc còn mới.
Tiếng sóng vỗ ngoài xa rì rào, gió làm những ngọn sóng bạc đầu vì lo sợ nỗi buồn đánh mất thời gian. Tôi nhẩm đếm những ngày trải qua ở trên quê hương, tính toán những giờ còn lại. Thời gian như nước trôi, có những giọt nước quay trở về nguồn, nhưng dòng sông thì đã biến khúc. Tôi là một giọt nước, nhưng không còn là cô bé lên năm lên mười ngày xưa nô đùa hồn nhiên trên một bãi cát cũng giống như bãi cát này. Hai mươi năm trôi dạt, hai mươi năm qua đi và một phần đời vô nghĩa. Tất cả chỉ còn lại hai bàn tay trống và nỗi trăn trở trong giấc mơ. Giấc mơ đang ở trước mặt tôi đây: tôi đang ở trên mảnh đất quê hương mang rất nhiều thương tích, như thương tích trong lòng tôi lúc này. Chợt nhớ đến em bé bán kem lúc nãy, có rất nhiều những em nhỏ tần tảo buôn bán nơi đây, những em nhỏ lớn trước tuổi, can đảm xông ra gánh vác đời. Ở cách đây nửa vòng trái đất, có những người không bao giờ chịu lớn để hiểu cuộc đời. Ở đó, những đứa bé lớn tuổi chỉ hiểu cuộc đời với một ít kinh nghiệm sống bon chen, khoác cho mình những chiếc áo mầu sặc sỡ danh vọng, tâm hồn thì trống trải. Có những khác biệt quá chênh lệch và sự sắp đặt của đời sống khiến tôi không thể hiểu đời sống.
Tôi trở về khách sạn lúc sương bắt đầu xuống, gió và sóng biển rì rào như cuốn tôi vào một thế giới nào đó, không ở trước mặt, không ở phía bên kia quả địa cầu, không biết có phải ở một nơi nào trên mặt đất này. Mặt trăng sáng rực như quả cầu chín, lơ lửng trên mặt nước. Thành phố tàu ghe đánh cá ngoài xa vẫn nhấp nhánh những ánh đèn giăng câu, giờ này là giờ làm việc của những ngư phủ. Cái lạnh thấm vào người, hoặc cái lạnh đã có sẵn trong tim tôi. Trong túi tôi lổn nhổn vài mảnh vỏ ốc vừa nhặt được ngoài bãi, còn mùi mặn nồng của biển. Trăng vẫn sáng rực, nhìn ánh trăng trải dài trên mặt nước giống như một dải lụa đang bay phất phơ, tôi chợt nhớ tới một câu: đưa ngón tay chỉ trăng, không phải là đã chạm được tới trăng, nhưng ảo giác từ hình ảnh ngón tay khiến ta có cảm tưởng như trăng thật gần. Tôi yêu cái ảo giác này biết bao! Thật ra tôi còn muốn ngồi lại bãi, nhưng dường như đêm đã khuya lắm rồi. Quán ăn đã đóng cửa, những kioske bán đồ lưu niệm đã tắt đèn, chỉ còn vài xe bán khô mực nướng vẫn còn lục đục dọn hàng. Tôi hít thật đầy mùi biển đêm vào phổi, có hơi mặn của muối và cái ngây ngất của lòng trống vắng. Trăng theo tôi về đến tận phòng, mùi biển vẫn còn phảng phất quanh đây.
Tôi mang "lễ vật" ra ngoài ban-công, có chiếc ghế ngồi đợi tôi sẵn ngoài đó.
(hết phần I)
Phạm Chi Lan