vhnt, số 94
27 October 1995
Trong số này:
+ thư tín
+ 1 - thơ, Ghen, Tô Hoài Nam
+ 2 - thơ, Thu Vắng, Trương Nguyễn Thi Thanh
+ 3 - tham luận, Hội nghị "Biển Dâu" ở SFSU (Phần 2), Nguyễn Mộng Giác,
Phùng Nguyễn ghi
+ 4 - truyện ngắn dịch, Bức Xăm Nhền Nhện, Tanizaki Junichiro, Y Yên chuyển ngữ
chào bạn,
Từ khi mới thành lập diễn đàn văn học và nghệ thuật trên mạng thông tin, tôi và nhóm chủ trương đã phác họa trong lòng một tiến trình và một ước nguyện cho con đường của VHNT forum. Sau hơn 3 tháng và 93 số báo theo khổ nhỏ gửi ra mỗi ngày vào từng hộp thư điện tử của bạn đọc, diễn đàn VHNT đến nay đã đi đúng theo tiến trình và ước nguyện của chúng tôi: một không khí thân mật không tranh cãi xung đột, chất lượng bài vở hay và phong phú, nhiều đề tài học hỏi, nhiều thể loại văn chương, bài vở dồi dào có nét sáng tạo, tinh thần yêu quí nghệ thuật và kính trọng lẫn nhau. Tất cả những điều này đã thu hút khiến mỗi ngày vhnt có thêm những độc giả mới và những cây viết mới tham gia vào VHNT forum của chúng ta.
Một điều tưởng cũng đáng nghĩ tới là có những cây bút đã tham gia từ lâu, sau một thời gian đọc và nhận xét, những cây bút tài năng này đã xuất hiện đóng góp bài cho vhnt thêm phần phong phú và đa diện như hiện nay. Một điều nữa tưởng cũng đáng vui, một số độc giả của vhnt còn rất trẻ, họ gia nhập để học hỏi và trau dồi thêm về Việt ngữ cùng văn chương Việt Nam. Ðây là một niềm vui rất lớn cho tôi, khiến tôi không thấy mệt mỗi đêm thức khuya đọc từng bài văn và trả lời từng điện thư cuả bạn. Tôi vui niềm vui của bạn, khi mỗi ngày mở hộp thư ra, đọc từng bài thơ từng câu văn mà bạn đã nhọc công đánh rồi gửi cho vhnt@saomai.org.
vhnt số này đăng tiếp phần 2 bài tham luận của nhà văn Nguyễn Mộng Giác về hội nghị "Bể Dâu". Bể dâu trong đời sống, bể dâu trong tình người, bể dâu qua những đoạn đường, ngay trong vấn đề văn hóa và văn chương của người Việt Nam ở trong và ngoài nước. Sự ngăn cách trong lòng người chỉ có một cách giải tỏa tương đối nhất: hiểu nhau và thông cảm hoàn cảnh của nhau. Mà có gì tiện lợi và dễ dàng hơn là phương cách truyền đạt tư tưởng (mutual communication). Văn chương có thể làm được điều đó,
nếu văn chương chân thành và phát xuất tự tim, với tinh thần cởi mở, hướng thiện. Tôi tin ở điều này. Chẳng có gì quí hơn những phút "nói thật"!
vhnt số này hân hạnh đăng 1 truyện dịch rất hay của Tanizaki Junichiro, nhà văn nổi tiếng của văn học Nhật Bản. Truyện "Bức Xăm Nhền Nhện" do anh Y Yên chuyển ngữ, mời bạn đọc thưởng thức. Ngoài những bài đặc sắc ra, vhnt vẫn gửi đến bạn những vần thơ về tình yêu muôn thuở mới mẻ, về mùa thu dịu dàng nhè nhẹ, của các thi sĩ của chúng ta.
Chúc bạn một cuối tuần yên vui.
thân ái,
PCL/vhnt
Ghen!
Thiếp ơi xin chớ đi xa
Ðừng ra cửa chợ đừng ra quán hàng
Ðừng ra cửa trước đánh đàn
Ðừng sang thăm hỏi người hàng xóm nhe
Buồn thì ra phía vườn chè
Nơi anh lam lũ có vè thiếp nghe
Còn thì nhẹ chén cùng anh
Chiều về ta đến hàng xanh tâm tình
Ra đường ai hỏi thân tình
Xin đừng gở nón trao nhìn cho ai
Ðường về gánh có nặng vai
Cũng xin chớ ghé lâu đài nghĩ chân
Dẫu nghe tiếng nhạc vang ngân
Ðừng nên ghé lại phân vân làm gì
Bướm vàng có ngập lối đi
Cũng xin đừng đuổi đừng thi sắc màu
Dù hoa có ngập lối vào
Cũng xin thiếp chớ mang vào nhà trong
Trời vàng nắng hắt nước trong
Xin đừng phơi nắng tắm sông nhé nàng
Ai đem mâm ngọc trái vàng
Xin nàng chớ nhận chớ sang nhà người
Tô Hoài Nam
June 30th 1994
Thu Vắng
thu về trong nắng lung linh
cây khoe sắc biếc trữ tình đỏ xanh
riêng em vì thiếu vắng anh
hàng mi khem khép
vắng tanh cuộc đời
gió đùa như thể lả lơi
mà dăm chiếc lá chợt
chơi
vơi
lòng
anh đi ...
buồn lắm -
biết không?
trong em lá rụng một vùng -
tím hoang
trách ai khi đã trót mang
tình yêu trên áo dạ lan ngày nàỏ
anh đi cành lá xôn xao
bước chân cô độc dạt dào nhớ thương
thu về ôm những vấn vương
hồn trinh con gái lỡ thương...
một người!...
Trương Nguyễn Thi Thanh
THAM LUẬN CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN MỘNG GIÁC TẠI HỘI LUẬN BỂ DÂU
San Francisco State University ngày 13.10.1995
(phần II)
Về phía chính quyền cộng sản Việt Nam trong nước, thiên kiến ấy nằm trong một chính sách chung, phủ nhận toàn bộ sự hiện diện của chính thể Việt Nam Cộng hòa và dòng văn học dưới chế độ ấy. Sau 1975, chính sách đàn áp truy quét toàn bộ nền văn hóa Miền Nam càng ráo riết hơn, gói trọn tất cả sách vở báo chí miền Nam trong những cụm từ "phản động, đồi trụy, nọc độc của âm mưu văn hóa Mỹ Ngụy". Chính sách đó vẫn còn được áp dụng cho đến ngày nay, hai mươi năm sau khi chiến tranh chấm dứt. Trong chiến tranh, biến kẻ thù thành những quái thai là thủ thuật tuyên truyền thông thường trên thế giới. Nhưng trong thời bình, những kẻ thù cũ, nhất là những kẻ thù chiến bại, phải được quyền trở lại làm người.
Cho đến nay, trên văn chương quốc nội, người miền Nam vẫn chưa được cái quyền đô Nhà văn Lê Minh Khuê mới cho một nữ nhân vật là thanh niên xung phong miền Bắc ngẩn ngơ vì nụ cười của một tù binh sĩ quan miền Nam, đã bị công kích là chao đảo lập trường. Chẳng lẽ những sĩ quan quân đội miền Nam không có ai đủ đẹp trai để làm mềm lòng một cô chiến sĩ miền Bắc hay sao!
Do chính sách khắc nghiệt ấy mà những biến cố lớn trong đời sống gần ba mươi triệu người miền Nam hoàn toàn bị bỏ qua, bỏ quên. Những năm dài mòn mỏi trong trại cải tạo. Ðời sống khổ nhục của công dân hạng hai trong chế độ mới. Những cuộc vượt biên bi thảm chưa từng có trong lịch sử, sau đó là từng đợt di dân rải người Việt khắp thế giới mà ảnh hưởng sau này chắc chắn sẽ vô cùng lớn lao. Những biến cố ấy vắng bóng trong văn chương quốc nội. Từ sự bất công ấy mà phát sinh ra dòng văn chương
hải ngoại trong hai mươi năm qua.
NẾU LỊCH SỬ DO KẺ THẮNG VIẾT, THÌ ÐẤNG TOÀN NĂNG THƯỜNG DÀNH VĂN CHƯƠNG CHO NHỮNG KẺ BẠI NHƯ MỘT MÓN QUÀ BÙ TRỪ NHỮNG THUA THIỆT. Những gì các nhà văn nhà thơ miền Nam không viết được in được dưới chế độ đương thời, họ đã viết và in ở hải ngoại. Cho nên nhìn một cách tổng quát, thì văn chương hải ngoại là phần bổ sung cần thiết cho một nền văn chương Việt Nam bị què quặt vì thiên kiến chính trị. Nó đóng vai trò giống y vai trò văn chương truyền khẩu hoặc văn chương lưu hành bí mật dưới một chế độ độc tài. Nó là "mặt sau của Thiên đường", là "The Other Side of Heaven" tên của tuyển tập truyện ngắn vừa chào đời. Những đau khổ do chiến tranh gây ra cho người Miền Nam không khác gì những đau khổ mà người miền Bắc và người Mỹ đã gánh chịu. Chẳng những thế, người miền Nam còn gánh chịu thêm những tủi nhục dành cho người bại trận. Một người lính miền Bắc hay một cựu chiến binh Mỹ trải qua những kinh nghiệm đau đớn của người lính thời bình. Nhưng người lính miền Nam còn phải đối phó với nhiều thử thách khác: cuộc đời tù tội, cảnh gia đình phân ly tan nát, những bi thảm của cuộc vượt biển tìm đường sống, cố gắng làm lại cuộc đời trong một môi trường hoàn toàn khác biệt. Những đớn đau ấy thể hiện trọn vẹn trong văn chương hải ngoại.
Từ máu lệ của đời sống trở thành chữ nghĩa văn chương, đối với người viết ở hải ngoại, cũng không dễ dàng. Những tạp chí văn chương như Ðất Mới, Việt Chiến, Quê Mẹ, Nhân Chứng, Văn Học Nghệ Thuật, Nhân Văn, Tin Văn, Văn, Văn Học, Làng Văn, Văn Uyển, Hợp Lưu, Thế Kỷ 21... chẳng những không nuôi nổi người chủ trương mà còn là một gánh nặng về tài chánh, cả người làm báo lẫn người viết đều làm không công. Không hề có tác quyền, tiền nhuận bút. Các tác giả ở hải ngoại thường phải tự bỏ tiền ra in sách, sách in xong tự lo lấy việc phát hành. Số độc giả lại hạn chế. Thế mà các tạp chí văn chương vẫn sống được cho tới ngày nay, tờ Văn của nhà văn Mai Thảo ra được 14 năm, Làng Văn 12 năm, Văn Học 10 năm. Số sách phát hành hàng tháng rất cao, và sau hai mươi năm đã có nhiều tác giả và tác phẩm uy tín nếu đánh giá về tư tưởng cũng như nghệ thuật sáng tác. Thử đưa ra một vài con số: Những năm phát triển cao của văn chương hải ngoại từ 1985-1990, số lượng in của tiểu thuyết, truyện ngắn trung bì nh từ 1500 đến 2000 bản. Hiện nay, con số ấy có hạ xuống, từ 1000 đến 1500. Số lượng bản in ấy tương đương với số lượng trong nước hiện nay. Xin lưu ý số
độc giả đọc được tiếng Việt ở hải ngoại không hơn nửa triệu, trong khi dân số Việt Nam hiện nay là 72 triệu. Những người cầm bút ở hải ngoại, bằng chính sự cố gắng đơn độc của mình, đã tạo được một dòng văn chương đa dạng và phong phú, trong tất cả mọi thể loại, với nhiều khuynh hướng khác nhau. (xin xem thêm hai tài liệu viết về thành quả của thi ca và văn xuôi hải ngoại trong hai mươi năm qua đính kèm).
Tuy nhiên, cũng giống như nền văn học miền Nam 1954- 1975 bị phủ nhận ở quê nhà, văn chương hải ngoại hiện nay cũng là hàng quốc cấm. Sách báo hải ngoại không được đem về trong nước, những người có thân nhân bạn bè đem về được thì đọc trong lén lút, sợ hãi, không dám phổ biến rộng rãi. Các cơ quan kiểm soát văn hóa theo dõi tường tận sinh hoạt văn chương hải ngoại, nhưng những người cầm bút trong nước biết rất ít về sách báo ngoài này. Chính sách ấy là trở ngại lớn cho mục tiêu "hàn gắn những vết thương chiến tranh và tạo niềm cảm thông" như đã nêu ra trong chương trình cuộc hội luận này. Trước hết là trở ngại cho mối cảm thông giữa những người cầm bút trong và ngoài nước. Không đọc tác phẩm của nhau, chúng ta chỉ thấy cái nhãn xã hội mà mỗi người cầm bút mang trên người, không thấy con người. Nếu không đọc Lê Minh Khuê, có lẽ anh Nguyễn Quí Ðức vẫn cứ xem chị như một thành phần trong cái guồng máy đã giam cầm thân phụ anh trong 12 năm. Nếu không đọc những truyện ngắn lấy hứng từ văn hoá phong tục Ấn độ, tôi chỉ biết Hồ Anh Thái là một cán bộ ngành ngoại giao mà thôi. Chính nhờ theo dõi được khá đầy đủ và cập nhật tình hình xuất bản trong nước mà giới cầm bút hải ngoại nhận diện được nhân cách và tài năng của nhiều cây bút trong nước, tránh được những qui kết hàm hồ.
Ngược lại, do không được đọc những tác phẩm văn chương ghi lại những đớn đau thăng trầm của người miền Nam trong văn chương hải ngoại, các nhà văn trong nước chưa có thay đổi lớn trong cách chọn đề tài, và trong cách mô tả con người. Ðề tài văn chương, đến nay, sau hai mươi năm chiến tranh chấm dứt, vẫn lấy từ cuộc sống của một phía, chỉ khác là từ những tác phẩm mang dáng dấp anh hùng ca của thời chiến sang những bận tâm của đời thường thời bình. Người miền Nam, một bộ phận quan trọng của dân tộc, vẫn vắng mặt. Họ vẫn bị liệt vào đám đông nhếch nhác của những nhân vật phản diện. Họ không được quyền "đẹp trai" , càng không được quyền làm mềm lòng một cô bộ đội miền Bắc! CHO NÊN THEO TÔI, VẤN ÐỀ CHÍNH LÀ NHỮNG NGƯỜI CÓ TRÁCH NHIỆM VỀ CHÍNH SÁCH VĂN HÓA VIỆT NAM CÓ THỰC SỰ MUỐN HÀN GẮN NHỮNG VẾT THƯƠNG CŨ VÀ HÒA GIẢI DÂN TỘC HAY KHÔNG NẾU CÒN CẤM ÐOÁN KHÔNG CHO SÁCH BÁO HẢI NGOẠI PHỔ BIẾN TRONG NƯỚC, HAY ÍT NHẤT KHÔNG TẠO ÐIỀU KIỆN CHO NHỮNG NGƯỜI CẦM BÚT TRONG NƯỚC TIẾP CẬN VỚI VĂN HỌC HẢI NGOẠI, THÌ NHỮNG LỜI TUYÊN BỐ NHƯ TRÊN CHỈ LÀ NHỮNG LỜI TUYÊN TRUYỀN CHÍNH TRỊ.
Nguyễn Mộng GIác
PHỤ LỤC:
The Other Side of Heaven, xuất bản bởi Curbstone Press, 1995 là một tập hợp những truyện ngắn do 18 văn sĩ Hoa Kỳ, 12 văn sĩ VN (quốc nội), và 8 nhà văn VN hải ngoại. Ðây là bản Anh ngữ. Có một điều đáng ghi nhận là không có sự góp mặt của Dương Thu Hương.
Các nhà văn quốc nội gồm có:
Bảo Ninh - Dạ Ngân - Hồ Anh Thái - Lê Lựu - Lê Minh Khuê - Ma Văn Kháng - Nguyễn Huy Thiệp - Nguyễn Quang Lập - Ngô Tự Lập - Nguyễn Quang Thiều - Vũ Bảo - Xuân Thiều
Các nhà văn hải ngoại có mặt trong tuyển tập:
Hoàng Khởi Phong - Nguyễn Mộng Giác - Nguyễn Xuân Hoàng - Andrew Lâm - Phan Huy Ðường - Lại Thanh Hà - Trần Vũ - Võ Phiến
Trong Văn Học số 114 tháng 10/95, nhà văn Trương Vũ, người đã góp công sức trong việc thực hiện tuyển tập này, có viết một bài giới thiệu cho tuyển tập tựa đề "Chiến Tranh Việt Nam, Văn Học Việt Nam Hải Ngoại, và Phía Bên Kia Thiên Ðường." Các bạn có thể tìm mua Văn Học tại các nhà sách hoặc liên lạc với tòa soạn Văn Học.
Bức Xâm Nhền Nhện
Tanizaki Junichiro (Cốc Kỳ Nhuận Nhất Lang)
bản dịch của Y-Yên
Lời người dịch:
Tác giả sinh trưởng ở Ðông Kinh trong một gia đình phú thương truyền thống, từng viết văn lúc còn trẻ, khi theo học văn chương cổ truyền tại đại học Hoàng Gia Tokyo, được coi như người sáng lập ra trường phái "Tân Lãng Mạn" ở Nhật. Sau trận động đất lớn ở Ðông Kinh 1923, ông đến cố đô Kyoto sống và chuyên viết lại truyện cổ Nhật Bản theo văn phong mới. Tác phẩm đồ sộ "Genji Monogatari, Truyện Hoàng Tử Nguyên Thị" - một danh tác của thế kỷ 10 mà không một người dân Nhật nào không biết đến và hãnh diện vì nó, tựa truyện Kiều ở Việt Nam - đã được ông phóng tác lại sau chiến tranh 45, đưa ông lên văn đàn quốc tế. Truyện ngắn Irezumi (Bức xâm Nhền Nhện) dưới đây được viết khi ông 24 tuổi (1910), ngập tràn không khí liêu trai cùng một số ảnh hưởng Tây phương.
oOo
Chuyện xảy ra vào buổi những điều phù phiếm thời thượng đương hồi cực thịnh, lúc những cuộc cạnh tranh gây cấn để sinh tồn chưa được đời biết đến. Chân dung của đám quý tộc trẻ cùng các nhà phú hào địa chủ chưa bị đám mây xám phủ che. Chốn cung đình, bọn thị nữ, giới kỹ nữ còn luôn hé miệng tươi cười; lũ hề giúp vui, các tay trà nhân chuyên nghiệp vẫn còn được ưu đãi; đời sống đầy an bình lạc thú. Ở các hí viện ưa trình diễn những vở tuồng ca tụng sắc đẹp và quyền quý như hai điều bất khả phân ly. Có thể nói, vẻ đẹp vật chất, nét mỹ miều của thân hình là niềm khát khao, là lẽ sống của cuộc đời lúc đó. Mong đạt được nó, người ta bèn hè nhau xâm mình: trên thân thể họ, những đường xâm màu sắc hực hở đan múa, xoắn quyện vào nhau. Khi đến chơi phố Thanh Lâu, người ta thích chọn mấy anh phu khiêng kiệu mình xâm hình đẹp khéo; đám hồng quần kỹ nữ nơi Hồng Lâu Mộng yêu mê say các chàng dân chơi phô bày trên thân mình những bức xâm tuyệt mỹ. Từ bọn con bạc đến lính cứu hỏa, thương gia và cả giới võ sĩ nữa đều đến cậy nhờ tài năng của các thầy xâm. Ðó đây tổ chức lia chia những cuộc biểu diễn hình xâm; khách tham dự được tận tay sờ mó từng vết xâm trên thân thể diễn viên. Họ trầm trồ tán dương tay thợ tài hoa đã phác kiểu hình xâm này và phẩm bình, chê bai khuyết điểm của tay khác.
Khi ấy, một thợ xâm tài năng ngoại hạng đương nổi danh như cồn, tiếng tăm của chàng vượt qua mặt cả những mặt thầy nghề xâm thuở trước như Lê Văn ở vùng phố dưới Asakusa, Trần Bình ở phố Tùng Ðảo hay Ðỗ Lang ở miệt Phẩm Xuyên. Mọi danh tác của chàng đều được điểm cao trong các cuộc trình diễn nên vô số kẻ ngưỡng mộ nghệ thuật ao ước được trở thành thân chủ của tay thợ xâm số một ấy. Trong khi nghệ sư Ðạt Ma Kim lừng lẫy với loại hình xâm màu nhã, Thảo Ðiền là thầy của lối xâm sơn đỏ, chàng Vũ Sinh này lại được xưng tụng là tổ sư của phái xâm hòa hợp màu sắc, đầy nét gợi nhục cảm. Trước đây, đã có lần chàng nổi tiếng như là một họa sĩ thuộc trường phái Ðông Phương, chuyên họa vật thể. Chuyển xuống cấp thợ xâm, Vũ Sinh vẫn còn giữ nhiều tinh thần nghệ sĩ và một nguồn cảm hứng lớn. Chàng từ chối không nhận xâm cho những kẻ có làn da hay cơ thể tầm thường, không bắt mắt; loại khách hàng như thế, nếu được chấp thuận phải tuyệt đối bằng lòng với hình mẫu cùng giá cả Sinh đưa ra. Lại nữa, họ phải ráng chịu những cơn đau kéo dai dẳng cả một hai tháng trời dưới mũi kim thần sầu quỉ khốc của Vũ Sinh.
Trong trái tim chàng thợ xâm trẻ ngấm ngầm ẩn chứa niềm đam mê, hứng khởi vô bờ bến. Lúc kim của Sinh châm sâu vào khiến da bị phồng sưng, máu đỏ rịn ra, khách hàng chịu không thấu trận hành xác phải rên lên đau đớn, càng rên rỉ chừng nào, tay nghệ sĩ xâm càng khoái chừng đó. Vũ Sinh đặc biệt rất thích lối xâm hình sơn son, lối xâm gây đau buốt nhất trong ngành. Chừng thân chủ của chàng đã lãnh đủ 5, 6 trăm mũi châm, rồi chịu thêm một phùa tắm nước nóng hết cỡ để màu xâm nổi ra chói lọi, họ thường té lăn ra suýt chết ngất dưới chân Vũ Sinh. Thấy họ nằm một đống không cựa quậy, chàng hỏi, miệng cười thống khoái: "Ủa, bộ đau thiệt sao tả". Khi lỡ tiếp phải một ông khách nhát gan, răng đánh lập cập hoặc đau quá la làng, Vũ Sinh ưa bảo: "Mèn ơi, tui cứ ngỡ đâu bạn là một dân chơi gốc cố đô Kyoto thứ thiệt, loại lì đòn chớ nào có dế... Thôi, ráng cố gắng tí đi, kim của tui xưa rày cũng hổng gây đau lắm đâu", rồi liếc bằng đuôi con mắt vào bộ mặt nhăn nhó, dàn dụa nước mắt của nạn nhân, chàng thản nhiên xâm tiếp, coi như chẳng có gì đáng quan tâm. Ngược lại, lúc gặp thứ khách lì, chịu đau không nao núng, Sinh lại hù dọa: "A, té ra ông bạn lì hơn tôi tưởng, nhưng đợi đó đi, để chốc nữa là biết bạn còn chịu nổi hay không liền hà", và Vũ Sinh cười nhe hai hàm răng trắng ởn.
Ðã nhiều năm rồi, Vũ Sinh ước vọng được đặt mũi kim tài tình của mình lên làn da ngọc của một nữ lang tuyệt vời nào đó mà chàng mong thực hiện một bức xâm với trọn vẹn tâm hồn. Người đàn bà trong mộng ấy phải hội đủ các điều kiện thể chất và tính tình chàng đặt ra. Một dung nhan yêu kiều và một làn da mịn chưa đủ để Vũ Sinh mãn nguyện, bởi vậy chàng đã cố để tâm tìm một cách vô vọng trong số các ca kỹ, vũ nữ lừng danh ra một nữ nhân đáp đúng ý mình. Khuôn mặt của người đẹp trong mơ hằng chập chờn nơi đầu óc Sinh, đã hơn 3 năm qua từ ngày chàng nảy ý định đó, ước vọng cứ mỗi lúc mỗi tăng lên mãnh liệt.
Một chiều mùa hạ, lững thững dạo phố Tân Xuyên, Vũ Sinh sững người, mắt dán vào bàn chân trắng ngần ngần của một thiếu nữ đang biến vào đàng sau tấm rèm kiệu hoa. Một bàn chân thôi cũng đủ truyền đạt nhiều cảm xúc khác nhau như thể một khuôn mặt đẹp, cái bàn chân trắng trẻo kia, kỳ quái sao Vũ Sinh lại coi quí như món ngọc ngà châu báu trân quí nhất trên đời. Những ngón chân xinh hoàn mỹ, óng ánh móng ngà, tròn lẳng gót nguyệt, tuyệt đẹp màu da, nó xán lạn tựa đã được gội rửa tự bao đời nơi suối nguồn trong vắt chốn thâm sơn. Ôi, tất cả đã kết hợp lại để tạo hình bàn chân quá đỗi diễm kiều, đủ để xốn xang con tim một người đàn ông và dẫm nát linh hồn gã. Vũ Sinh hiểu ngay đây chính là bàn chân của người trong mộng chàng hằng tìm kiếm. Hân hoan, hồi hộp, chàng vội rảo bước theo sau chiếc kiệu, lòng mong thấy được thoáng bóng giai nhân, nhưng chỉ mới loanh quanh một vài đường phố, kiệu hoa đã biệt dạng đàng nào. Từ buổi sơ ngộ đó, niềm ước vọng mơ hồ nơi Sinh thực sự bùng cháy, nó biến thành nỗi đam mê day dứt, cuồng nhiệt.
Khoảng gần một năm sau, một sáng nọ có người khách tìm tới nhà riêng của Vũ Sinh thuộc phố Tân Xuyên. Ðó là một người con gái còn trẻ, được một ả nghệ giả quen Sinh ở khu Mộng Lâu phái tới, cô gái rụt rè cất tiếng:
- Thưa Họa Sư, cô chủ em bảo phải đưa tận tay ông cái áo choàng này và xin ông vui lòng vẽ cho một cái mẫu viền thiệt đẹp vào dùm ạ!
Cô gái trao cho Sinh một lá thơ và một tấm áo choàng phụ nữ; lá thơ được xếp trong tờ giấy bìa có in hình kép hát Chế-Lâm. Trong thơ, ả nghệ giả cho biết cô gái trẻ đưa thơ là người ả nhận nuôi bảo trợ, sẽ bước vào nghề nghệ giả Geisha phục vụ nơi các tửu lầu chốn kinh đô. Thơ đề nghị Sinh hãy giúp người con gái trẻ ấy những gì mà chàng xem như sẽ tốt đẹp cho nàng trong buổi đầu dấn thân vào nghiệp dĩ.
Vũ Sinh ngắm nghía khách thật kỹ lưỡng. Cô gái, dù chưa quá tuổi trăng tròn 16 đã mang nét trưởng thành lạ kỳ trên mặt. Ðôi mắt nàng phản chiếu những giấc mơ phóng đãng của mọi gã đàn ông hào hao phong nhã cùng mọi phụ nữ phong lưu rất mực hồng quần sống nơi thành đô, nơi đạo đức lẫn sự đồi trụy của cả Xứ Phù Tang cùng hội tụ.
Chợt Sinh nhìn xuống đôi chân thanh tú của nàng, xỏ trong đôi guốc đi đường bện quai rơm:
- Có phải cô là người đã rời khỏi quán Lạc Viên tháng 6 năm ngoái trên một chiếc kiệu hoa?
- Vâng thưa ông, chính là em.
Nàng vừa đáp vừa cười vì câu hỏi hơi kỳ quặc của Sinh.
- Hồi nớ cha em còn sống, ổng có dẫn em tới quán Lạc Viên đôi lần.
- Ta đợi em từ 5 năm nay! Ðây là lần đầu tiên ta nhìn thấy mặt em nhưng ta đã biết em lâu rồi nhờ bàn chân xinh kia. Vào đây, vào đây đi, ta có mấy món này muốn đưa cho em xem, vào đi mà, đừng sợ!
Vũ Sinh miệng nói, tay dắt cô gái trẻ đang phải miễn cưỡng bước theo chàng lên lầu, vào một căn phòng ngó ra dòng sông rộng. Chàng lấy hai bức tranh cuộn tròn ra, lăn trải một bức trước mặt người con gái.
Ðó là bức họa Mộng-Huệ, cô công nương yêu vì của bạo chúa nhà Chu bên Trung Hoa cổ đạị Dáng điệu uể oải, nàng đứng tựa vào bao lơn, đuôi áo dài quyền quý lộng lẫy thêu kim tuyến vương vương trên mấy bậc cấp dẫn xuống hoa viên. Cái đầu xinh xắn của nàng như quá mềm yếu dưới chiếc vương miện khảm ngọc bích. Tay phải cầm nghiêng chiếc tách sứ, với vẻ mặt lạnh lùng hờ hững, nàng ngắm nhìn một tù nhân sắp bị chém đầu dưới khu vườn. Bị trói chặt tay chân vào một cây cọc, gã tử tội đứng đợi giây phút cuối cuộc đời mình; mắt y nhắm nghiền lại, đầu y gục xuống thiểu não. Bức họa có cảnh trí hơi thô thiển, nhưng bậc Họa Sư nào đã minh họa quá khéo dáng vẻ đối nghịch của nàng công chúa và gã tù khiến cho cuộn tranh biến thành một tuyệt tác phẩm.
Người con gái trẻ chăm chăm nhìn bức họa lạ thường một đỗi. Nàng không biết rằng mắt nàng đã rực lên, cặp môi run rẩy: rồi dần dần khuôn mặt nàng trở nên giống hệt cô công nương nhà Chu.
- Linh hồn em phản lộ trong bức tranh đó.
Vũ Sinh liếc nhìn vào mặt nàng, cười khoái trá. Nàng đưa tay lên che mắt;
- Họa Sư ơi, sao ông lại đưa em xem bức tranh gì ghê khiếp thế này?
- Vì người đàn bà vẽ trong tranh chính là em! Máu nàng đã ngấm vào buồng tim em rồi!
Vũ Sinh lần dở cuộn tranh còn lại, có tựa đề "Ðám nạn nhân". Giữa tranh, một mỹ nhân đứng dựa gốc anh đào, mắt nàng đăm đăm nhìn vào mớ xác đàn ông nằm la liệt dưới
chân; nét kiêu kỳ, thỏa mãn bộc lộ rõ trên khuôn mặt trắng xanh của nàng. Như trông đợi điều chi nơi đám thi hài, một bầy chim nhỏ lượn quanh vui thích. Thật khó để xác định rằng đây là bức họa trình bày cảnh chiến trường hay khu vườn xuân, Vũ Sinh lấy tay chỉ vào nữ nhân trong tranh, một lần nữa lại hao hao lạ kỳ cô khách trẻ:
- Bức họa này biểu hiện cho tương lai em, lũ đàn ông nằm phơi xác dưới đây chính là những kẻ sẽ phải bỏ mạng sống vì em!
- Ôi, em van ông, ông làm ơn cất tranh đi!
Cô gái gào lên, và như để trốn sức mê hoặc khủng khiếp của nó; nàng vội quay lưng lại, nằm vật mình trên chiếu, đóa môi run run, toàn thân rung động:
- Họa sư ơi, em phải thú thật với ông: đúng như ông nói, dòng máu của người đàn bà ấy đang ngấm vào em. Xin ông tội nghiệp em với, xin hãy cất bức tranh đi.
- Ðừng có nói như bọn bé gan! Trái lại, cô cần phải xem xét bức họa kỹ hơn, rồi mấy hồi cô sẽ chẳng còn sợ sệt gì nó nữa đâu.
Người con gái trẻ vẫn gục mặt giấu trong tay áo dài Kimono, nàng nằm phủ phục trên sàn lót chiếu, miệng lảm nhảm:
- Em van ông, họa sư ơi, xin cho em về nhà đi, ở đây với ông em hãi quá.
Vũ sinh ra lệnh độc đoán:
- Cô phải ở lại một thời gian ngắn. Tôi, chính tôi là kẻ có quyền biến cô trở thành một mỹ nhân!
Giữa mớ chai lọ và kim ngổn ngang trên kệ, Vũ Sinh lựa ra một chiếc lọ nhỏ đựng liều thuốc mê cực mạnh.
Vầng dương chiếu rực lòng sông, ánh phản quang vạch những lượn sóng vàng trên các ô cửa sổ và trên mặt hoa của cô gái trẻ đang mê thiếp.
Vũ Sinh nhẹ đóng cánh cửa lại, ngồi xuống cạnh nàng. Mãi tới bây giờ, lần đầu tiên chàng mới có thể hân thưởng trọn vẹn vẻ đẹp huyền hoặc của nàng. Sinh chợt nghĩ chàng có thể ngồi mãi ở đây cả chục năm để ngắm nhìn dung nhan tuyệt mỹ, bất động ấy. Nhưng, sự khẩn thúc phải hoàn thành cho xong họa phẩm của mình đã trỗi dậy, ưu thắng trong tâm chàng. Với lấy đồ lề dùng để xâm trên kệ, Sinh cởi áo xoay trần thân hình cô gái, khởi vạch những đường vẽ phác trên lưng ngà bằng ngọn bút được giữ giữa ngón cái, ngón áp út và ngón út nơi bàn tay trái của chàng. Tay phải cầm kim, chàng đâm dọc theo những nét vừa vẽ xong. Tựa như dân tộc cổ đại Memiphis đã tô điểm miền đất một thủa mỹ miều Ai Cập bằng tượng đầu sư tử và kim tự tháp, hiện Vũ Sinh cũng đang điểm tô làn da tinh tuyền của người con gái trẻ. Dường như toàn tâm hồn tay thợ xâm tài hoa đã nhập vào họa phẩm, mỗi giọt mực son châm, ngấm vào da ngọc là một giọt máu của chàng thấm qua thân thể nàng.
Vũ Sinh không còn ý thức thời giờ đang trôi, buổi trưa, chiều đến rồi đi, một ngày xuân yên định đã dần qua. Vậy mà không chút mỏi mệt, bàn tay Sinh liên tục theo đuổi công việc sáng tác. Chẳng hề làm kinh động đến giấc điệp của nàng. Mảnh trăng non đã treo lơ lửng giữa trời, tỏa ánh sáng huyền ảo trên những mái nhà phía bên kia sông. Hình xâm chưa được một nửa, Sinh ngừng tay để bật ngọn đèn lên rồi lại cắm cúi với lấy kim.
Giờ đây, đã tới thời điểm mỗi nhát kim đòi hỏi mỗi nỗ lực và tay nghệ sĩ sắp phải tiết lộ toàn bộ hình xâm, từ chút từ chút một, dần hiện ra hình đại cương của một con nhền nhện khổng lồ. Lúc tia nắng vàng vọt buổi rạng động lọt vào phòng, con vật mang bộ mặt ma quái ấy đã trườn dài tám cẳng trên lưng cô gái trẻ. Ðêm xuân tàn lâu rồi, người ta đã nghe rõ tiếng mái chèo khua trong nước của những chiếc đò dọc chở khách xuôi ngược dòng sông sương mù đang tan dần để hiện mấy cánh buồm nơi đám ghe đánh cá no phòng gió sớm. Cuối cùng, Vũ Sinh nhổm người dậy đặt kim xuống; đứng sang một bên, chàng chiêm ngắm bức hình xâm con nhện cái to lớn nơi tấm lưng ong của nàng. Nhìn chăm vào nó, chàng bỗng nhận ra rằng trong lần sáng tác này chàng đã trút hết tinh hoa cuộc đời nghệ sĩ của mình vào đô Bây giờ xong xuôi, người nghệ sĩ chợt ý thức được một niềm trống rỗng, hoang vu vô hạn, Vũ Sinh lẩm bẩm:
- Ðể làm cho em đẹp, ta đã dốc cả linh hồn vào bức xâm tuyệt tác này. Kể từ đây trở đi sẽ không còn một người đàn bà nào của xứ phù tang địch lại em nữa; mọi gã đàn ông sẽ trở thành nạn nhân của em...
Nàng có nghe những lời chàng nói không? Một tiếng rên chợt thốt ra từ cặp môi nàng, tay chân nàng hơi nhúc nhích, chầm chậm, nàng phục hồi dần ý thức; khi nàng nằm thở hào hển, đám cẳng chân của con nhện xâm di động trông giống y con nhện sống.
- Cô phải ráng chịu đau một tí, bởi con nhện đang ôm xiết thân hình cô quá chặt.
Nàng hé nửa cặp mắt, thoạt tiên chúng có vẻ vô hồn, rồi đôi đồng tử ngời lên ánh rạng rỡ như ánh bình minh phản chiếu trên mặt Vũ Sinh:
- Họa sư ơi, hãy để cho em xem hình xâm trên lưng em đi, nếu ông đã cho em cả linh hồn ông, tất em phải thiệt sự trở nên đẹp đẽ.
Nàng nói như còn trong giấc mộng, tuy thế âm điệu tự tin, quyền lực đã pha trong giọng nói của nàng.
- Trước hết, cô phải đi tắm để màu mực nổi bật lên.
Và Sinh nói thêm bằng thái độ lo âu hiếm có:
- Sẽ bỏng rát lắm đấy, đau vô cùng. Ráng can đảm lên nhé!
- Em sẽ chịu đựng tất cả miễn là được đẹp hơn xưa. Nàng theo Sinh xuống thang lầu để bước vô phòng tắm, lúc nhúng người vào làn nước nóng đang bốc hơi, mắt nàng long lanh tỏa những tia đớn đau:
- Úi da, bỏng, buốt làm sao đâu!
Nàng rên rỉ:
- Họa sư, xin lên lầu đợi em đi, em sẽ lên với ông sau khi tắm xong, em không muốn bất kỳ người đàn ông nào thấy em đau khổ!
Nhưng khi ra khỏi phòng tắm, nàng không còn đủ sức lau nổi thân mình, nàng hất bàn tay trợ giúp của Sinh, nằm quị ngay xuống sàn nhà. Nàng nằm đó rên xiết, mớ tóc dài buộng lỏa xõa trên sàn, tấm gương lớn đàn sau phản soi đôi gót chân để trần, óng ả như gót ngọc.
Vũ Sinh quay người lên lầu đợi nàng; lúc đến gặp chàng nàng đã mặc xong xiêm áo. Mái tóc ướt được chải kỹ, xỏa mượt mà hai bên bờ vai; miệng hoa xinh xắn và đôi mi cong vút không còn hé lộ gì về cơn đau thử thách vừa qua nữa; nàng nhìn xuống dòng sông, tia sáng lạnh băng lóe trong cặp mắt huyền. Dù đang trẻ tuổi, nàng như đã có khuôn mặt của một người đàn bà từng trải nhiều năm nơi Hồng Lâu, Trà Quán, đã đạt được nhệ thuật chinh phục trái tim đàn ông. Sửng sốt kinh ngạc, Vũ Sinh đối chiếu, với vẻ rụt rè e thẹn của người con gái ngay hôm trước.
Ði vào căn phòng bên, chàng lấy ra hai cuộn tranh đã từng đưa cho nàng xem sáng qua:
- Ta tặng em hai bức họa nàỵ Và tất nhiên, luôn cả bức xâm nữa, chúng thuộc về em.
- Họa sư ơi, con tim em bây giờ đã thoát khỏi mọi niềm sợ hãi ông... ông... chàng ơi, chàng sẽ là nạn nhân đầu tiên của em!
Nàng ném qua Sinh một cái nhìn sắc như gươm bén, đó là cái nhìn của nàng công nương Trung Hoa, của người đàn bà đẹp đứng tựa gốc anh đào, vây quanh bởi bầy chim và đám tử thi; một cảm giác thắng cuộc chạy suốt người Vũ Sinh
- Ðể anh nhìn hình xâm của em, cho anh xem hình xâm của em với.
Không thốt một lời, nàng nghiêng đầu trút bỏ xiêm y. Những tia nắng ban mai rơi đậu trên tấm lưng ngọc ngà, những tia nắng vàng lợt lạt ấy bỗng chốc như hực lên bắt lửa nơi bức xâm nhền nhện.
Y Yên