vhnt, số 36
27 August 1995
Trong số này:
+ post 1 - biên luận, Người Trẻ Chơi Kiểng, Sơn Nam
+ post 2 - truyện ngắn dịch, Hoa Trắng, Y. Kawabata / PCL
+ post 3 - biên khảo, Trần Hưng Đạo, Dương Hùng
Người Trẻ Chơi Kiểng
Ông bà ta thời xưa có thành kiến cho rằng thanh niên chưa đủ 40 tuổi mà ham chơi cây cảnh, hòn non bộ thì đó là điềm... yểu thọ. Hoặc cậu trai ấy làm trò khôi hài, chẳng khác nào đứa bé 12 tuổi mà đòi đội khăn đen, mặc áo dài, chống gậy dạo phố, thỉnh thoảng lại vuốt râu trong khi râu chưa có. Các cụ quan niệm: chơi cây cảnh, non bộ là đặc quyền đặc lợi của người ngoài 60 tuổi, cháu nội cháu ngoại đầy nhà. Lại còn tự tôn cho rằng cây cảnh và hòn non của các cụ là "nhất nước" vì khắp trong phạm vi một đôi xã chẳng ai có món nào quí hơn. Chưa kể đến thẩm mỹ: hòn non bộ thời xưa giống như kim tự tháp, bốn góc ngay thẳng, đỉnh nhọn, tượng trưng cho tứ phương, trung ương, là vũ trụ thu gọn.
Với cuộc sống tất bật, dễ gây bệnh nhức đầu, ngày nay quả thật ai cũng có nhu cầu "về nguồn" mà không hay. Dùng ô tô, xe gắn máy, hút thuốc có cán, bia lon thì xoàng quá, ai cũng như ai. Những người sống đầy đủ bỗng sực nhớ đến thú chơi sang trọng, độc đáo là cây cảnh và non bộ. Hội chợ hoa xuân, hồ Kỳ Hòa, Ðầm Sen, những tụ điểm hoa-cá-kiểng ngày càng phát triển và chưa thấy ai vỡ nợ, phá sản. Nhưng kiểu chơi bây giờ lại hơi khác.
Tôi đã thấy nhiều thanh niên cố sưu tầm kiểng gốc to, rễ xù xì đến vài trăm gốc, thứ cao cấp. Và có chàng đã dám làm chuyện "động trời" là vô rừng, bứng những gốc cây sao, cây gõ, cây bằng lăng to hơn cột đình, chặt nhánh, chặt ngọn, lần hồi chặt bớt rễ để sau rốt dùng cần cẩu đưa lên xe tải, vượt hàng trăm cây số về ngoại thành Sài Gòn, trồng trong cái chậu hơn 1 mét vuông, sâu chừng 70cm. Ấy thế mà gốc cổ thụ vẫn mọc khỏe, nhánh bằng lăng trổ bông tím, thơ mộng. Chủ nhân rỉ vào tai tôi: "Bỏ ra mấy triệu đồng, trồng thử bốn cây, chết một cây". Bí quyết nhà nghề là đem về trồng trong chậu to, rồi san qua chậu nhỏ hơn. Chủ nhân đã bứng thành công một gốc mai khổng lồ từ Cai Lậy, cũng trồng trong chậu cạn, thêm cần thăng, kim quất, nguyệt quới. Và cho biết: "Chỉ sợ mình không đủ vốn, chưa chi đã có người đặt hàng rồi! Khách sạn mini, những người mới phát lên làm giàu chịu mua lắm".
Nếu cây cổ thụ tượng trưng cho kiểu tu thân thì theo tôi, hòn non bộ lại nhắc nhở "hồn nước" với sơn thủy hữu tình. Cái non bộ trong Ðầm Sen quả là vô địch, như một kỳ quan (I've seen this one on video - LIF). Góc Lê Quí Ðôn - Ðiện Biên Phủ, ta gặp nhiều chàng trai tráng ra công đục đẽo non bộ, dùng đá san hô và đá vôi (đã phong hóa như đá tai mèo) mà tạc nhiều hòn núi chênh vênh. Chưa kể đến những tụ điểm hoa kiểng bao giờ cũng kèm theo non bộ, lắm khi thi công do khách đặt hàng. Nghệ nhân từ Hải Phòng vào đã giới thiệu kiểu non bộ to lớn, hùng vĩ, đặt trong cái ang cạn, với vòi nước che dấu khéo léo, vặn vòi nước là làn suối chảy dọc, chảy ngang, róc rách. Xem cũng là vui và thư giãn.
Những tụ điểm non bộ, hoa cá cảnh quả thật đã góp phần tích cực làm cho thành phố thêm xanh, thêm sạch vì tụ điểm mà đầy rác rến thì ai chịu vào xem. Người nào chịu chơi hoa kiểng, non bộ thì ghét sự ô nhiễm môi trường hơn ai hết, chưa kể những người nuôi cá, nuôi chim. Thật đáng biểu dương, hợp lòng dân, hợp chủ trương nhà nước, chưa kể đến những người đẩy xe ba gác bán cây cảnh ở đường phố để "tự cởi trói", "xóa đói giảm nghèo".
Hậu sinh khả úy. Giới trẻ trên dưới tuổi 40 đã phục hưng thú chơi cây cảnh và non bộ trước sự thán phục và chào thua của thế hệ già. Giới trẻ đã triển khai ngành "trang trí ngoại thất" để cân đối với ngành "trang trí nội thất".
Sơn Nam
(TTCN ngày 13/8/95)
Đây là một truyện rất ngắn của nhà văn Yasunari Kawabata, nhà văn Nhật được giải Nobel văn chương năm 1968 với những tác phẩm tiêu biểu như "Ngàn Cánh Hạc", "Tiếng Sóng". Xin gửi đến bạn đọc truyện ngắn dịch này, gần giống như một loại truyện ngụ ngôn mang tính chất châm biếm (satire).
Phạm Chi Lan
oOo
Hoa Trắng
Những cuộc hôn nhân có liên hệ họ hàng ruột thịt vẫn thường xảy ra qua nhiều thế hệ, cho đến khi cả gia đình nàng chết dần vì cùng một chứng bệnh lao phổi. Còn nàng, thân hình nàng thật mỏng manh, đôi vai nhỏ bé quá làm ngại ngùng vòng tay của những người đàn ông.
Một người đàn bà nhà quê chất phác có lần bảo nàng, "Hãy thận trọng trong vấn đề hôn nhân. Đừng nên chọn người đàn ông nào quá mạnh bạo. Nên lựa người nào bình thường không mắc bệnh di truyền, bề ngoài tương đối vừa phải là tốt rồi. Cần nhất người đó không mắc chứng bệnh ho lao di truyền. Một người an phận, đời sống yên ổn, không rượu chè, vui vẻ và hay cườị."
Mặc dầu biết thế, nàng vẫn không thể ngăn lòng mơ tưởng đến vòng tay rắn chắc của một người đàn ông, vòng tay mạnh bạo có thể làm gẫy xương sườn khi ôm xiết lấy nàng. Ngoài mặt trông nàng có vẻ bình thản thế, nhưng thật ra trong lòng nàng đã tuyệt vọng lắm. Những khi nhắm mắt, nàng nhìn thấy hình ảnh thân xác mình trôi bềnh bồng trên mặt đại dương của cuộc đời, rồi giạt vào một nơi nào đó khi thủy triều rút xuống. Hình ảnh này thật là lãng mạn.
Bức thư của người anh họ gửi: "Ngực anh đã bắt đầu phát tác. Có lẽ đã đến ngày giờ của số mệnh, anh đành phải chịu khuất phục thôi. Nhưng anh vẫn bình thản lắm. Tuy nhiên, chỉ có một điều làm anh ray rứt phiền lòng. Lúc xưa khi còn khỏe mạnh, đã có lần nào anh xin được hôn em? Đừng để đôi môi xinh đẹp ngọt ngào của em nhiễm lấy những vi-trùng này."
Nàng vội đến với người anh họ... Không lâu sau, nàng được đưa vào một bệnh viện cạnh bờ biển.
Một bác sĩ còn trẻ tuổi chăm sóc nàng như thể nàng là bệnh nhân duy nhất của ông ta. Mỗi ngày, ông ta đặt nàng nằm trên một chiếc ghế bố bằng vải nhẹ, bế bổng nàng nằm trong chiếc ghế như bồng chiếc nôi của trẻ em, rồi đặt nằm ở ngoài mỏm đất trông ra mặt biển. Rừng tre gần đấy lấp lánh sáng trong ánh nắng ban mai.
Một buổi sáng bình minh.
"Ồ, em đã khỏe hẳn rồi, em đã bình phục thật rồi. Anh vẫn luôn trông đợi ngày hôm nay."
Bác sĩ nhấc nàng lên từ ghế nằm, đặt ngồi trên một phiến đá.
"Đời sống của em đã bắt đầu lại, và bừng sáng như đóa mặt trời kia. Những con thuyền ngoài khơi sao không giương cánh buồm mầu hồng mừng cho em? Cưng ơi, tha lỗi cho anh. Anh đã chờ đợi ngày hôm nay với hai tâm trạng khác nhau. Với trái tim của người y sĩ, và với tình yêu của anh. Anh chờ mãi ngày hôm nay. Anh đau khổ lắm vì đã không thể vất đi lương tâm của người y sĩ. Bây giờ em đã khỏi bệnh, đã đủ khỏe mạnh để có thể dùng thân thể xinh đẹp này mà bộc lộ tình yêu... Tại sao đại dương không căng những cánh buồm mầu hồng mừng cho chúng mình nhỉ."
Nàng ngước mắt nhìn chàng lòng dạt dào biết ơn, rồi mơ màng nhìn ra ngoài khơi, chờ đợi. Bỗng nàng chợt nhận ra mình đã không hề nghĩ đến vấn đề phẩm hạnh trong trắng của thể xác mình. Từ nhỏ nàng đã tiên đoán được cái chết của chính mình. Nàng không tin ở thời gian. Nàng không nghĩ thời gian có thể thay đổi. Giữ vẹn trong sạch là một điều thật khó và vô lý.
"Anh thường nhìn ngắm chiêm ngưỡng thân thể em với lòng rung động. Nhưng đồng thời anh chỉ nhìn ngắm để mà nhận xét hoặc phân tích khám phá. Với chức vị của một người y sĩ, thì thân thể em là nơi thí nghiệm học hỏi tốt nhất."
"Hả, anh vừa nói gì ?"
"Một nơi thực nghiệm tuyệt diệu. Nếu nghề thuốc không phải là tiếng gọi thiêng liêng cao cả, thì tình yêu của anh giờ này có thể làm em đến chết mất."
Nàng bỗng chợt cảm thấy chán ghét chàng. Xoay người sang phía khác, nàng tránh tia nhìn của người đàn ông.
* * *
Một nhà văn trẻ, là bệnh nhân ở cùng một bệnh viện, tìm đến với nàng.
"Mình nên chúc mừng cho nhau. Hãy rời khỏi nơi đây đi em."
Họ đón xe ngoài cửa bệnh viện, đi ngang qua những cánh rừng thông chập chùng xanh biếc một buổi nọ.
Nhà văn choàng tay ôm lấy đôi vai mỏng manh của người con gái. Nàng ngã vào lòng ông ta, như một sinh vật yếu ớt không đủ sức kháng cự. Họ cùng đi ngoạn cảnh.
"Đây là bình minh "mầu hồng" của cuộc đời. Buổi sáng của em và buổi sáng của anh. Thật kỳ diệu có hai buổi sáng trên thế gian này cùng một lúc. Hai bình minh đã trở thành một. Đẹp tuyệt vời. Anh sẽ viết một tác phẩm tựa đề "Hai buổi sáng!"
Lòng dạt dào niềm vui, nàng âu yếm nhìn chàng.
"Em nhìn đâỵ Đây là bức tranh anh vẽ khi em còn ở bệnh viện. Nếu em và anh có chết đi, chúng mình sẽ còn sống mãi trong tiểu thuyết của anh. Nhưng hiện giờ có đến hai buổi sáng, cái đẹp trong suốt của bản chất không có tính chất. Em mang vẻ đẹp đến, như làn hương thơm không thể cảm bằng cảm xúc thường. Như những bụi phấn làm thơm ngát cánh đồng mùa xuân. Văn chương anh đã tìm được một tâm hồn tuyệt đẹp. Anh sẽ viết như thế nào nhỉ? Đặt tâm hồn em vào tay anh, anh chiêm ngưỡng nó như thể là một báu vật trong ngần bằng pha lê. Anh sẽ vẽ lại vẻ đẹp bằng ngôn ngữ và sự tưởng tượng phong phú của anh..."
"Hả, anh vừa nói gị"
"Với những chất liệu tuyệt đẹp đó. Và nếu anh không phải là một văn sĩ, thì tình yêu anh cho em cũng không thể nào sống mãi qua thời gian và vài khoảnh khắc."
Nàng bỗng chợt cảm thấy chán ghét nhà văn sĩ. Ngồi thẳng người dậy, nàng tránh tia nhìn của người đàn ông.
* * *
Nàng ngồi im lặng đơn độc trong căn phòng của mình. Bức thư báo tin người anh họ vừa mới qua đời xong.
"Mầu hồng. Mầu hồng..."
Nàng chăm chú nhìn làn da trắng muốt của mình như đang sáng dần một mầu trong vắt, nghĩ đến một "mầu hồng", rồi mỉm cười bâng quơ.
"Phải chi có người đàn ông nào theo đuổi tán tỉnh mình với một câu nào khác...", Đầu nàng gục xuống, miệng vẫn mỉm cười.
Yasunari Kawabata (1924)
Dịch từ truyện rất ngắn, "The White Flower". Palm-of-the-Hand Stories, của Yasunari Kawabata, North Point Press, 1988.
HƯNG ÐẠO VƯƠNG TRẦN QUỐC TUẤN và BÀI HỊCH TƯỚNG SĨ
Ngài chào đời ở Nam Ðịnh, cha Ngài là An Sinh Vương Trần Liễu, anh ruột vua Lê Thái Tôn. Sử không chép rõ ngày và năm sinh của Hưng Ðạo Vương (HĐV) nhưng dựa trên tuổi của An Sinh Vương khi mất (1251), ta có thể ước đoán HÐV ra đời vào khoảng 1228 đến 1231. Nhân dân VN thường gọi Ngài là Hưng Ðạo Vương, hoặc Ðức Trần Hưng Ðạo, chứ không mấy khi nhắc đến tên húy Trần Quốc Tuấn.
Ngài là vị anh hùng vẻ vang nhất không những trong lịch sử VN mà trên thế giới khi phá tan gần một triệu quân Mông Cổ qua xâm lấn Ðại Việt ba lần (1) trải dài trong 30 năm. Khi Trung Quốc, Âu Châu, Ðông Á ( Miđle East) oằn oại dưới sự thống trị Mông Cổ chỉ có Ðại Việt và Nhật Bản phá tan quân Nguyên, giữ nền độc lập. Nhật Bản thành công nhờ trận gió bão trên biển, còn Ðại Việt lừng danh nhờ toàn dân nhất trí, nhờ chiến sĩ vô danh "sát đát" (2) và nhất là nhờ tài cầm quân lãnh đạo của Hưng Ðạo Vương Trần Quốc Tuấn.
Sau khi đánh bại quân Mông cổ lần đầu vào năm 1257, vua Trần nhân Tôn đã theo lời khuyên của HÐV triệu tập hội nghị Bình Than (1283) để các hoàng thân và văn võ bá quan bàn kế hoạch chống Nguyên. Một thời gian ngắn trước khi quân Nguyên tràn qua lần thứ hai, Vua Nhân Tôn mời tất cả bô lão trong nước bàn việc hòa hay chiến (1284) tại điện Diên Hồng. Tất cả đại biểu đồng thanh quyết chiến. Ðại Việt có thế điạ lợi, toàn dân đã đồng lòng như vây là nhân hoà, chỉ thêm vận trời là vua, dân Ðại Việt sẽ toàn thắng.
Năm 1283, vua Trần Nhân Tôn phong HÐV làm Tiết Chế thống lĩnh muôn quân để sửa soạn kháng Nguyên. Ngài viết quyển "Binh Thư Yếu Lược" và răn giậy ba quân qua bài Hịch Tướng Sĩ.
Sau khi thôn tính Trung Quốc nhà Nguyên ( Mông Cổ) bắt đầu kiếm chuyện nuốt sống Ðại Việt từ năm 1282. Tháng Chạp năm Giáp Thân (1284), Thoát Hoan lấy cớ mượn đường sang Chiêm Thành không được khởi quân tiên đánh Ðại Việt. Toa Ðô dem một đạo quân vượt biển đến Chiêm Thành rồi đánh ngược ra Bắc; Thoát Hoan dẫn đại quân qua Ải Chi Lăng thẳng đến Thăng Long. Tướng Trần Bình Trọng bị quân Nguyên bắt không chịu hàng giặc nên bị giết. Mất Thăng Long, quân Ðại Việt rút lui rước vua về Thanh Hoá.
Tháng Tư năm Ất Dậu (1285), quân nhà Trần phản công toàn diện, đánh bại Toa Ðô tại cửa Hàm Tử, đốt chiến thuyền quân Nguyên nơi bến Chương Dương và chiếm lại Kinh Ðô Thăng Long. Quân Ðại Viêt giết Toa Ðô nơi trận Tây Kết và kết thúc cuộc giải phóng đất nước với trận Vạn Kiếp tháng năm năm Ất Dậu (1285). Thoát Hoan dẫn tàn quân chạy về Tầu; không đầy sáu tháng, năm trăm ngàn quân Mông Cổ tan tành.
Nhà Nguyên rất căm tức, đình chỉ cuộc xâm lăng Nhật Bản và sai Thoát Hoan sang xâm chiếm Ðại Việt lần nữa vào năm 1287. Thoát Hoan đem 300.000 quân qua lấy cớ lập hoàng thân phản nghịch Trần Ích Tắc làm vua Ðại Việt. Quân Mông Cổ xâm lăng qua ba ngả: đại quân của Thoát Hoan từ châu Khâm, châu Liêm kéo qua, Ô mã Nhi dẫn chiến thuyền cùng lính thủy theo đường biển đánh vào, Trương Văn Hổ tải lương bằng đường biển, Trịnh Bằng Phi và Ái Lỗ dẫn quân dọc theo sông Hồng Hà đánh xuống.
Quân Ðại Việt rút lui, đưa vua về Thanh Hóa nhưng không bỏ ngỏ Kinh Đô Thăng Long. Quân Nguyên đánh nhiều lần không chiếm được. Ngày 4 tháng Giêng năm Mậu Tý(1288), HÐV trực tiếp cầm quân đánh thắng quân Nguyên tại trận Ðại Bàng. Bảy ngày sau, tướng Trân Khánh Dư phá tan chiến thuyền tải lương của Trương văn Hổ tại cửa Lục, tỉnh Quảng Yên. Mất lương thực, Ô Mã Nhi bỏ Vân Ðồn rút về Vạn Kiếp. Quân Ðại Việt chiếm thành. Hai tháng sau, vào ngày 7 tháng ba, đại quân của HÐV phá tan cánh quân thủy của Mông Cổ và bắt trọn các tướng Ô Mã Nhi, Phan Tiếp và bộ hạ trên sông Bạch Ðằng.
Thoát Hoan được tin Ô Mã Nhi bị bắt, đẫn đại quân rút về. Quân Ðại Việt phục kích nơi ải Nội Bàng và núi Khưu Cấp (Lạng Sơn) diệt tan quân Thoát Hoan. Thoát Hoan cùng một số bộ tướng sống sót vượt biên giới về Tầu.
Hưng Ðạo Vương rước vua về Thăng Long. Tháng 10 năm Mậu Tí (1288), vua Nhân Tôn sai sứ sang Tầu câu hoà và phóng thích những tướng Mông Cổ bị quân Ðại Việt bắt.
Tháng 8 năm Canh Tý (1300), HÐV lâm bênh nặng, trước khi ngài mất Vua Nhân Tôn hỏi ngài nếu quân Nguyên tràn sang lần nữa thì nên đối phó ra sao, HÐV đáp:
"Trước đây Toa Ðô, Ô mã Nhi vây ta bốn mặt. Chúng ta vua tôi đồng tâm, anh em hoà thuận, cả nước hợp sức chúng mới bị bắt, đó là trời xui nên."
"Đại khái kẻ kia cậy thế trường trận, ta có đỏan binh: đoản chế trường đó là thói thường của binh pháp. Quân địch ầm ầm tràn đến như lửa như gió, thế ấy đễ trị. Nếu nó dùng chước tầm ăn lá dâu, không cần mau thắng, không cướp bóc lương dân, thi hành nhân nghĩa thì ta phải lựa dùng lương tướng, xem tình hình mà liệu quyền biến như đánh cờ vậy. Nhưng phải tùy từng lúc mà chiến đấu, lựa hạng quân sĩ thân tín như tình cha con thì mới dùng được. Và phải nới lỏng sức dân để làm cái chước rễ sâu gốc vũng. Ðó là phương sách giữ nước hay hơn cả." (3)
Hưng Ðạo Vương mất ngày 20 tháng 8 năm Canh Tí (1300). Ngài để lại gương trung hiếu, mẫu nhân nghĩa, và phong thái hùng anh ngàn đời sau, nhân dân Việt Nam hằng bái phục.
Ðại Nam Quốc Sử Diễn Ca (4) ghi lại cuộc kháng Nguyên dưới đời vua Nhân Tôn như sau:
Trao truyền theo lối phép nhà,
Nhân Tôn hùng lược lại là tài hơn.
Rợ Nguyên quen thói tham tàn,
Quân năm mươi vạn , những toan tranh hành,
Sắc sai Hưng Ðạo tổng binh,
Với Trần quang Khải các dinh tiến vào.
Chương Dương một trận phong đào,
Kìa ai cướp giáo, ra vào có công?
Hàm quan một trận ruổi giong,
Kìa ai bắt giặc, uy phong còn truyền?
Giặc Nguyên còn muốn báo đền,
Mượn đường hộ tống binh thuyền lại sang.
Bạch Đằng một cõi chiến tràng,
Xương bày trắng đất, máu màng đỏ sông.
Trần Hưng Ðạo đã anh hùng,
Mà Trần Nhật Duật kể công cũng nhiều.
Hoài Văn (5) tuổi trẻ trí cao,
Cờ đề sáu chữ quyết vào lập công.
Trần Bình Trọng cũng là trung,
Đành làm Nam quỷ, không lòng Bắc Vương.
Khuyển ưng còn nghĩa đá vàng,
Yết Kiêu, Dã Tượng hai chàng cũng ghê!
Mà trong ngọc điệp kim chi,
Lũ Trần Ích Tắc sao đi đầu hàng?
Nhân khi biến cố vội vàng,
Kẻ trung người nịnh đôi đàng tỏ ra,
Trùng hưng đem lại sơn hà,
Ðã hay thiên tướng cũng là tái sinh,
Nước nhà khi ấy thanh bình,
Truyền ngôi thái tử, lánh mình Ngoạ Vân (6) ./.
(1) Quân Mông xâm lăng Ðại Việt lần đâu tiên vào năm 1257. Tướng Mông là Ngột Lương Hợp Thai chiếm Thăng Long, tàn sát tòan dân trong thành. HÐV rút quân rước Vua về Hưng Yên. Quân Ðại Việt phản công, thắng trận Ðông bộ Ðầu, Qui Hoá, quân Mông rút về Tầu. Lúc đó nhà Tống bên Tàu chưa bị diệt hoàn toàn nên quân Mông Cổ tạm ngưng chuyện thôn tính Ðại Việt. (Ðại Việt là quốc hiệu VN dưới đời Nhà Trần).
(2) Sát Ðát = Giết Mông . Quân Ðại Viết xâm hai chữ đó trên cánh tay trước khi lâm trận.
(3) Phạm văn Sơn, VSTB, Quyển 2, trang 246-247.
(4) Câu 1057 đến 1086, DNQSDC (1865 ? , 1870 ?), nguyên bản chữ Nôm của Lê Ngô Cát và Phạm đình Toái , bản quốc ngữ do Hoàng Xuân Hãn đề tựa và dẫn (1949).
(5) Hoài Văn Vương Trần Quốc Toản. Khi quân Nguyên xâm lấn, TQ Toản mới có 16 tuổi đã chiêu mộ quân sĩ ra giúp vua dưới lá cờ thêu sáu chữ " Phá cường địch báo hoàng ân" (Phá giặc mạnh, báo ơn vua).
(6) Tên ngôi chùa vua Nhân Tôn về tu sau khi nhường ngôi cho con.
Bài đọc thêm:
HÐV viết bài Hịch tướng sĩ vào năm 1284 bằng chữ nho để khuyên răn gia tướng tại Vân Ðồn. Thấy thế giặc mạnh như chẻ tre, một số thân vương nhà Trần chủ hàng, một số nhỏ như Trần Ích Tắc tích cực tiếp tay giặc. HÐV nêu rõ trong bài hịch những gương trung chinh trong lịch sử Trung Quốc, những gương hy sinh của tướng sĩ nhà Tống trong cuộc kháng Nguyên. Ngài minh định lập trường quyết chiến " ... căm tức rằng chưa được sả thịt, lột da quân giặc, dẫu thân này phơi ngoài nội cỏ xác này gói trong da ngựa thì cũng đành lòng." Chiến thắng quân Nguyên là lựa chọn duy nhất để bảo tồn xã tắc, gia đình và danh dự bản thân; ham vui sa đọa chỉ đưa đến diệt vong. Ngài khuyên tướng sĩ thấm nhuần binh pháp, tập dượt ba quân để dẹp tan quân giặc. Ngoài phần đầu dùng điển tích Tàu, toàn bài lời văn bình dị, thẳng vào đề nhưng ôn tồn như cha con tâm tình hoài bão.
Học giả Trần Trong Kim (1882-1953) dịch ra tiếng Việt như sau:
HỊCH TƯỚNG SĨ (1284)
Hưng Ðạo Vương
"Ta thường nghe chuyện Kỷ Tín liều thân chịu chết thay cho vua Cao Ðế; Do Vũ lấy mình đỡ ngọn giáo cho vua Chiêu Vương; Dự Nhượng nuốt than dể báo thù cho chủ; Thân Khoái chặt tay để cứu nạn cho nước; Kính Ðức là một chức quan nhỏ, mà liều thân cứu vua Thái Tông được thoát vòng vây; Kiểu Khanh là một bề tôi ở xa, mà kể tội mắng thằng Lộc Sơn là quân nghịch tặc. Các bậc trung thần nghĩa sĩ ngày xưa, bỏ mình vì nước, đời nào không có? Giả sử mấy người ấy cứ bo bo theo lối thường tình, chết già ở xó nhà, thì sao cho lưu danh sử sách dến nghìn muôn đời như thế được?"
"Nay các ngươi vốn dòng vũ tướng, không hiểu văn nghiã, nghe những chuyện cổ tích ấy, nửa tin nửa ngờ, ta không nói làm gì nữa; ta hãy đem chuyện Tống Nguyên mới rồi mà nói: Vương công Kiên là người thế nào? Tỳ tướng của Vương công Kiên là Nguyễn Văn Lập lại là người thế nào, mà giữ một thành Ðiếu Ngư nhỏ mọn, chống với quân Mông Kha kể hàng trăm vạn, khiến cho dân sự nhà Tống, đến nay còn đội ơn sâu. Ðường Ngột Ngại là người thế nào? Tỳ tướng của Ðường Ngột Ngại là Xích Tu Tư là người thế nào mà xông vào chỗ lam chướng xa xôi, đánh được quân Nam Chiếu trong vài ba tuần, khiến cho quân trướng đời Nguyên đến nay còn lưu tiếng tốt. Huống chi ta cùng các ngươi sinh ra ở đời nhiễu nhương, gặp buổi gian nan này, trông thấy những ngụy sứ đi lại rầm rập ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà xỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tổ phụ, lại cậy thế Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa, ỷ thế Vân Nam Vương để vét bạc vàng; của kho có hạn, lòng tham không cùng, khác nào như đem thịt mà nuôi hổ đói, giữ sao cho khỏi tai vạ về sau!"
"Ta đây, ngày thì quên ăn, đêm thì quên ngủ, ruột đau như cắt, nước măt đầm đìa, chỉ căm tức rằng chưa được sả thịt lột da quân giặc, dẫu thân phơi nơi nội cỏ, xác này gói trong da ngựa, thì cũng đành lòng. Các ngươi ở cùng ta coi giữ binh quyền cũng đã lâu ngày, không có áo thì ta cho áo, không có ăn thì ta cho ăn, quan còn nhỏ thì ta tăng thưởng, lương có ít thì ta tăng cấp, đi thủy thì ta cho thuyền, đi bộ thì ta cho ngựa, lúc hoạn nạn thì cùng nhau sống chết, lúc nhàn hạ thì cùng nhau vui cười, những cách cư xử so với Vương công Kiên, Ðường Ngột Ngại ngày xưa chẳng kém gì."
"Nay các ngươi trông thấy chủ nhục mà không biết lo, trông thấy quốc sỉ mà không biết thẹn, thân làm tướng phải hầu giặc, mà không biết tức, tai nghe nhạc để hiến ngụy sứ, mà không biết căm ; hoặc lấy việc chọi gà làm vui đùa, hoặc lấy việc đánh bạc làm tiêu khiển, hoặc vui thú về vườn ruộng, hoặc quyến luyến về vợ con, hoặc nghĩ về lợi riêng mà quên việc nước, hoặc ham về săn bắn mà quên việc binh, hoặc thích rượu ngon, hoặc mê tiếng hát. Nếu có giặc đến, thì cựa gà trống sao cho đâm thủng được áo giáp; mẹo cờ bạc sao cho dùng nổi được quân mưu; dẫu rằng ruộng lắm vườn nhiều, thân ấy nghìn vàng khôn chuộc; vả lại vợ bìu con díu, nước này trăm sự nghĩ sao; tiền của đâu mà mua cho được đầu giặc; chó săn ấy thì địch sao nổi quân thù; chén rượu ngon không làm được cho giặc say chết; tiếng hát hay không làm được cho giặc điếc tai; khi bấy giờ chẳng những là thái ấp của ta không còn, mà bổng lộc các nguơi cũng hết; chẳng những là gia quyến của ta bị đuổi, mà vợ con các ngươi cũng nguy; chẳng những là ta bị nhục bây giờ, mà trăm năm về sau, tiếng xấu hãy còn mãi mãi; mà gia thanh của các ngươi cũng chẳng khỏi mang tiếng nhục, đến lúc bấy giờ các ngươi dẫu muốn vui vẻ, phỏng có được hay không? "
"Nay ta bảo thật các ngươi: nên cẩn thận như nơi củi lửa, nên giữ gìn như kẻ húp canh, dạy bảo quân sĩ, luyện tập cung tên, khiến cho người nào cũng có sức khỏe như Bàng Mông và Hậu Nghệ, thì mới có thể dẹp tan được quân giặc, mà lập nên được công danh. Chẳng những là thái ấp của ta được vững bền, mà các ngươi cũng đều được bổng lộc; chẳng những là gia quyến của ta được yên ổn, mà các ngươi cũng đều được vui với vợ con, chẳng những là tiên nhân ta được vẻ vang, mà các ngươi cũng dược phụng thờ tổ phụ, trăm năm vinh hiển; chẳng những là một mình ta được sung sướng, mà các ngươi cũng được lưu truyền sử sách, nghìn đời thơm tho; đến bấy giờ các ngươi dầu không vui vẻ, cũng tự khắc được vui vẻ."
"Nay ta soạn hết các binh pháp của các danh gia hợp lại làm một quyển gọi là "Binh Thư Yếu Lược". Nếu các người biết chuyên tập sách này, theo lời dạy bảo, thì mới phải đạo thần tử; nhược bằng khinh bỏ sách này, trái lời dạy bảo, thì tức là kẻ nghịch thù."
"Bởi cớ sao? Bởi giặc Nguyên cùng ta, là kẻ thù không đội trời chung, thế mà các ngươi cứ điềm nhiên không nghĩ đến việc báo thù, lại không biết dạy quân sĩ, khác nào như quay ngọn giáo mà đi theo kẻ thù, giơ tay không mà chịu thua quân giặc, khiến cho sau trận Bình Lỗ mà ta phải chịu tiếng xấu muôn đời, thì còn mặt mũi nào đứng trong trời đất nữa. Vậy nên ta phải làm ra bài hịch này để cho các ngươi biết bụng ta ./."
Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược, Quyển I , trang 139-142
Dương Hùng sưu tập
082495