vhnt, số 159
12 March 1996
Trong số này:
T h ơ :
1 - Trăng tan .......................................................lephan
2 - Lần cuối .......................................Tiểu Bình Nguyên
3 - Bài thơ đầu ..................................................Chinh
4 - Ngậm ngùi ................................................Ðức Lưu
5 - Bài thơ không gởi ................................Trần Thái Vân
6 - Nghe trong tiềm thức .................................Vũ Thái Hòa
D i ễ n Ð à n V ă n H ọ c / G i ới T h i ệ u S ác h :
7 - Nhớ nhà thơ Lê Anh Xuân ...................Lưu Hương & Xuân Hà
8 - Sách mới: Khuynh hướng thi ca tiền chiến ...............DL g/t
T r u y ện N g ắn / S án g T ác :
9 - Khán giả ..............................................Phùng Nguyễn
Xin tạm nghỉ một kỳ thư vhnt. Xin hẹn thư tới.
thân ái,
PCL/vhnt
Trăng Tan
Từ sao rớt
Một đêm xưa
Trong trăng
có vạn lời thơ
gửi người
Nỗi lòng
Muôn thuở trùng khơi
Ðôi khi
vẳng một tiếng cười
rất riêng
Ðể rồi
Giữa nhẹ ưu phiền
Ngày lên
sáng một
nỗi niềm
lạ trao
Dòng xuôi
Ðã chín mộng đầu
Nhìn quanh vẫn thấy
muôn màu
trăng tan...
lephan
Lần Cuối
Thì em áo gấm hài hồng
Ðò sang bến, sẽ xa giòng sông xưa
Về trong ta những ngày mưa
Bước chân phố cũ vẫn chưa vơi đầy
Ðêm em nhạc rớt đầy tay
Phím đàn hiu hắt quanh đây chỗ ngồi
Nửa cung này, chén ly bôi
Nửa cung trầm lắng cuối đời tìm nhau
Em, trong thoáng nhớ ngàn sau
Có vời vợi phút ban đầu thoảng qua
Giọt em rơi giữa hồn ta
Ừ, thôi em, chẳng qua là từ ly
Nhìn nhau ánh mắt quay đi
Nụ hôn đọng chút cơn thì thầm đau
Mai sau, gặp, lúc bạc đầu
Vẫn hồn thương sợi rụng vào, chiều nay
Tiểu Bình Nguyên
(& N.)
Bài Thơ Ðầu
Sonata mùa hạ đỏ rượu
Hạt mầm chim tha, sang mùa động ổ
Cây khô dấu trọn tiếng chuông chiều
Ðàn tắt tiếng. Tôi tắt tiếng.
Máu rơi đỏ bàn tay.
Máu rơi đỏ phố hoang đường
Sông hai bờ kéo tay giã biệt
Im ỉm trời phương xa.
Tiếng khóc nào bỗng thiếp lặng
Em đi không trở về.
Nước mắt ráo khô. Rã buổi chiều.
Dốc chiều kéo lê tôi lên cùng đàn ngựa già
Tôi lên cao để nhìn xuống thành phố màu xám
Tôi bóp vỡ ly rượu không làm tôi say
Tôi đâm nát tấm toile bôi đầy màu mã não
Tôi chạy mệt nhoài chẳng biết về đâu
Sonata hoen rỉ chứng giám tôi nằm giữa mưa lạnh
Ðà Lạt bay lưa thưa những chiếc lá bạc
Ðà Lạt bay lưa thưa dấu vết tôi trong buổi tình đầu
Ðà Lạt bay cơn mưa giông tôi nằm trong chiêm bao vạn đại
Dương cầm kéo lên phiếm muộn.
Trăng trên nóc. Nghiêng ngửa chờ ai?
Sông hôn vội sương sa,
phải chăng, đã xa rồi mùa hoan lạc?
Cố quận cũng đã xa xăm
tiếng ngựa cuối hoàng hôn
Dốc đèo xuôi khản tiếng mẹ kêu về
Ai đang ngồi đếm bước trầm luân?
Kinh mải mê ru người mệt lả
theo tiếng vỡ
một ngày nào sót, muộn.
Chinh
(Một đoạn ngắn trong bài thơ dài "Chẳng Nói Ðược Gì Cho Một Chia Tay")
Ngậm Ngùi
Mùa thu năm ấy anh về,
Bé còn leo trộm hái lê bên nhà
Gặp anh bé nhỏ xuýt xoa:
- Chú, cho yếm đẹp làm quà cháu đi!
Thu sau anh lại ghé về,
Nhìn cô bé nhỏ vân vê yếm hồng:
- Khi nào bé chịu lấy chồng?
- Ô hay, cháu đã phải lòng ai đâu?
Năm nay thu trút lá sầu
Anh về xóm cũ nghe đau chuyện lòng,
Chuyện cô bé nhỏ theo chồng,
Bỏ quên yếm đỏ bên sông dạo nào.
Lê vườn quả thấp, quả cao,
Bé ơi hái trộm quả nào cho anh?
Quả cao thì hãy còn xanh,
Quả thấp người đã trộm nhanh mất rồi.
Hôm nay anh thẩn thơ ngồi
Ngậm ngùi nhớ lại những lời bé xưa,
Ngỏ lời tự thuở ban sơ
Vô tư bé bảo bé chưa muốn chồng,
Ngày nay môi bé đã hồng,
Bẽ bàng bé lại phải lòng người ta.
Ðức Lưu
Bài Thơ Không Gửi
Nhìn bong bóng vỡ
Dưới trời mưa rơi
Khung trời ngày nọ
Nhớ quá đi thôi
Má em hây đỏ
Nắng hè chang chang
Dáng em gầy nhỏ
Như đoá quỳ vàng
Em cười túm tím
Mắt sáng long lanh
Hồn anh chết lịm
Trong cơn si tình
Nhà em anh đến
Sợ chẳng dám vô
Nhìn em len lén
Nụ cười ngây ngô
Bài thơ vụng dại
Anh viết một đêm
Mơ làm thuật sĩ
Biến thơ qua rèm
Trao cho em đọc
Hồi hộp quá chừng
Nhìn trăng sao mọc
Nghĩ ngợi lung tung
Tình yêu rực nở
Như hoa muà xuân
Trời chung hơi thở
Nối nhịp cầu gần
Trên bờ biển vắng
Hẹn nhau lần đầu
Chúng mình im lặng
Sóng cười đêm thâu
Dưới hàng dương liễu
Nghe gió rầm rì
Thì thào không hiểu
Nhưng chẳng hề chi
Thời gian vô tận
Ngày qua, ngày qua
Sống trong tình mộng
Ai ngờ phôi pha...
Ðêm cuối cùng gặp
Anh đàn, em ca
Cung trầm "Ngăn Cách"
Ân tình thiết tha
Giọng em rất ngọt
"Trăm không ngàn lần..."
Lệ buồn thảnh thót
"Nếu đã hay rằng..."
Một chiều vắng vẻ
Anh rời Trường Lâm
Nhìn em buồn tẻ
Lòng cứ mơ thầm
Giấc mơ không thực
Dòng đời trôi xa
Tường vi hoa thức
Một lần xót xa
Hôm nay anh viết
Bài thơ cho em
Nhiều năm cách biệt
Làm sao gởi em?
Em giờ chắc đã
Năm, sáu con thơ
Hoa quỳ còn nở
Vàng sân trước nhà.
Áo màu hoàng yến
Em có còn yêu?
Tóc cài hoa tím
Ai mơ những chiều?
Em có còn hát
Những bài Không Tên?
Lời ca bàng bạc
Anh chẳng hề quên!
Hàng dương già cả
Giờ có còn xanh
Bãi, cồn, ghềnh đá
Nơi đâu nhân tình?
Da em còn trắng
Trong đời gian nan
Làn hương biển mặn
Có thấm chiều vàng?
Anh muốn viết nhiều
Như bờ sông lỡ
Nhiều đến bao nhiêu
Cũng là dang dỡ
Nhìn bong bóng vỡ
Dưới trời mưa rơi
Khung trời ngày nọ
Nhớ quá đi thôi
Mơ thuyền hồi xứ
Nha Trang ngày về
Hoà ơi! Hoà ơi!
Trần Thái Vân
Nghe Trong Tiềm Thức
Bước chung nhau đến vũng lầy
Tình yêu cùng với tháng ngày xác xơ
Dẫu trong hạnh phúc tình cờ
Cơn đau rụng xuống vần thơ cũng đành
Ngỡ em mắt biếc tình xanh
Ngờ đâu nghiệt ngã vây quanh chỗ nằm
Từ em nhẹ gót âm thầm
Sầu tôi tìm thoáng hương trầm vườn xưa
Thôi em, ngày đã sang mùa
Lần trao nhau cũng đong vừa xót xa
Dẫu em lối khác về qua
Vẫn trong tiềm thức nghe ra nỗi buồn
Vũ Thái Hòa
Nhớ Nhà Thơ Lê Anh Xuân
Cuộc chiến Việt Nam chấm dứt cách đây gần 21 năm đã để lại nhiều hy sinh, mất mát. Sự mất mát không đến chỉ từ phía bên này, nhưng cũng cả từ phía bên kia. Trong khi tuổi trẻ miền Nam lên đường cầm súng chiến đấu, thì ngoài kia, miền Bắc, biết bao thanh niên cũng bị đẩy vào cuộc chiến phi nhân, tàn khốc. Ðó là sự tổn thất, đau thương chung. Tôi ghi lại bài viết sau đây nói về nhà thơ trẻ Lê Anh Xuân, một anh lính bộ đội miền Bắc. Anh đã nằm xuống mãi mãi trong một trận chiến ở ven đô Sài Gòn mà vẫn không hiểu tại sao "sinh Bắc lại tử Nam" ?
Dung Nguyen
oOo
MỐI TÌNH HỌC TRÒ CỦA LÊ ANH XUÂN
Em đi giùm anh con đường đôi ta đã từng đi. Qua rặng ổi bên đường Quảng Bá, ăn giùm anh một trái. Mua giùm anh một bó hoa, rồi từ tay này tặng sang tay kia. Tay nào là của anh, tay nào là của em? Ôi thương em quá, em gái nhỏ của anh...
Những dòng tha thiết này là của Lê Anh Xuân (tên thật là Ca Lê Hiến) viết cho người bạn gái của mình trong một bức thư từ chiến trường gửi về. Những dòng được viết ra từ tình cảm yêu thương trong sáng và nỗi nhớ về Hà Nội, một nỗi nhớ da diết, cồn lên từ những kỷ niệm của một thời đi học. Người bạn gái thuở nào nay đã bước qua tuổi 50. Thấm thoát đã hơn ba chục năm. Chị nói, chị vẫn cảm thấy như mới ngày nào.
Những kỷ niệm thời cắp sách
Hồi đó cô bé Bích Hà học lớp 8B Trường Nguyễn Trãi 3 (nay là Trường PTTH Phan Ðình Phùng) ở phố cửa Bắc, Hà Nội. Lê Anh Xuân học trên cô hai lớp. Họ đều là học sinh miền Nam theo gia đình ra Bắc tập kết. Bố của Bích Hà là một nhà ngoại giao có mặt trong đoàn đại biểu chính phủ ta đàm phán tại Paris. Hằng ngày, cứ hết tiết học, chàng trai Ca Lê Hiến lại chạy nhanh xuống tầng một, nơi cô bé mắt đen đang ngồi học. "Anh đi qua lớp tôi, nhìn vào và cười. Cho đến bây giờ, tôi vẫn không sao quên được nụ cười ấy".
Rồi sóng bước bên nhau, họ lang thang qua các phố, nói đủ thứ chuyện về nghề nghiệp, tương lai. "Anh ấy nói rằng anh sẽ làm nhà thơ. Còn tôi, tôi muốn trở thành bác sĩ. Anh đã trở thành một nhà thơ mà tên tuổi gắn liền với một "Dáng đứng Việt Nam tạc thế kỷ". Còn chị sau khi tốt nghiệp Trường Y Dược năm 1966, đã trở thành bác sĩ và phục vụ trong quân đội. Song đối với chị, quãng đời đẹp nhất chính là quãng đời sống và học chung đưới mái trường với Lê Anh Xuân. Với quãng đời đó, chị đã cảm thấy được vẻ đẹp trong sáng của tình bạn, tình yêu tuổi học trò. Chính anh là người giúp đỡ chị rất nhiều trong học tập. Nhờ có anh mà chị hiểu biết thêm nhiều về thơ ca, văn học và nghệ thuật. Anh đọc nhiều, biết nhiều và hay kể cho chị nghe về cuộc đời những danh nhân, những nhà văn nổi tiếng của Việt Nam và thế giới. "Anh hay cho tôi xem những bài văn anh làm và buộc tôi cũng phải đưa bài văn của tôi cho anh xem, rồi anh nói: Cô mình làm văn khô khan quá! Trong trường có nhiều cô xinh đẹp yêu mến và muốn kết bạn với anh, nhưng anh lại chỉ muốn đi chơi và trò chuyện cùng tôi. Tôi hỏi vì sao, anh nói vì tôi nhỏ xíu, dễ thương và không biết gì. Vâng, hồi đó tôi đâu có biết gì. Tôi không nhận thấy có một điều gì đó còn lớn hơn tình bạn của hai chúng tôi. Cho đến ngày anh ra đi, tôi cũng không biết phải nói một lời thật sâu sắc."
Năm 1964, trong không khí "những ngày vui sao cả nước lên đường", Lê Anh Xuân xung phong đi chiến trường. Lúc đó anh vừa tốt nghiệp khoa sử Trường đại học Tổng hợp Hà Nội và được giữ lại làm cán bộ giảng dạy. Song, chiến trường miền Nam vẫy gọi và trong trái tim chàng trai trẻ khi đó, tình yêu Tổ quốc là trên hết. Sống và viết ở chiến trường trở thành niềm thôi thúc thiêng liêng. Chị Bích Hà nhớ lại :"Gần đến ngày đi, anh tìm gặp tôi và nói rằng tôi là người cuối cùng anh chào tạm biệt. Chúng tôi đi dọc con phố thân quen. Anh níu cành hoa bên đường, hái một bông đưa cho tôi rồi nói : Có một người con gái anh rất yêu, yêu vô bờ bến. Nhưng anh phải dứt áo ra đi. Cho đến bây giờ, tôi vẫn không hiểu vì sao trong giờ phút chia tay ấy, chúng tôi vẫn không dám nắm tay nhau. Có thể vì anh quá nhút nhát, hay vì tôi quá trẻ con và vô tư? Anh nói với tôi chừng vài năm nừa đất nước thống nhất, anh sẽ trở ra Hà Nội thăm tôi và bạn bè. Rồi sau đó lấy vợ cũng chưa muộn nếu người ta còn chờ anh. Khi đó tôi chỉ muốn khóc nhưng lại sợ anh không yên lòng ra đi. Tôi còn trêu anh, ngày trở ra nhỡ người ta lấy chồng rồi sao. Tôi có ngờ đâu đó là lần cuối cùng chúng tôi gặp mặt".
Tết Mậu Thân 1968, Bích Hà nhận được tin Lê Anh Xuân hi sinh ở ven đô Sài Gòn.
Những bài thơ không viết lên giấy
Trong thời gian học tập chung mái trường, Lê Anh Xuân làm rất nhiều thơ tặng Bích Hà. Về mảng thơ tình của Lê Anh Xuân, hẳn ít người được biết đến. Ðó là những bài thơ "không viết lên giấy" của anh, những bài thơ được đọc ra bất chợt và nhờ có trí nhớ của Bích Hà mà chúng còn được lưu giữ đến gi Bích Hà nói rằng Lê Anh Xuân có tài "xuất khẩu thành thi", xem xong bộ phim "Cánh buồm đỏ thắm", vừa bước chân ra khỏi rạp là anh đọc tặng chị ngay:
Xưa có nàng Axôn mơ mộng
Nghèo bạc vàng, giàu ước vọng tương lai
Tin rằng có một ngày mai
Cánh buồm đỏ thắm, chàng trai đón nàng
Sau rất nhiều năm, khi ngồi chép lại những bài thơ "không viết lên giấy" của Lê Anh Xuân vào sổ tay theo trí nhớ, Bích Hà vẫn không khỏi bùi ngùi xúc động trước những vần thơ học trò mộc mạc, giản dị, chân thành của anh, chẳng hạn:
Ôi những ngày, tháng, năm trong sáng
Những ngày vui trong tình bạn của ta
Những ngày ấy là một bản tình ca
Ngân lên mãi như mùa xuân tuổi trẻ
Ta đón lấy nhữn gì mới mẻ
Dành cho nhau phút sống êm đềm
Tình bạn ta mang đôi cánh thần tiên
Bay cao mãi như phượng hoàng lướt cánh
Trở lại mái trường xưa
Cùng với Bích Hà, chúng tôi đến thăm ngôi trường xưa của chị và Lê Anh Xuân. Chị đứng lặng giữa sân trường im ắng, nhìn lên các lớp học thấp thoáng những mái đầu học trò. Ngày xưa, cũng tại sân trường này, chị đã từng vui chơi, nô đùa với chúng bạn. Còn anh, từ góc sân nào đó đang nhìn ra, dõi theo nụ cười của chị và nhẩm đọc những vần thơ. Ngôi trường vẫn y nguyên như thuở nào, chỉ có khu ký túc xá là đổi thay. Ở mé tường này, chị và Lê Anh Xuân đã từng trèo vào sau mỗi lần đi chơi về muộn. Bây giờ, anh vẫn cứ mãi là một chàng trai đang lớn, còn chị đã già đi theo tháng năm.
Tại phòng giám hiệu của trường, chúng tôi thật sự thất vọng khi biết rằng phòng truyền thống nhà trường không lưu giữ một kỷ vật nào của Lê Anh Xuân, dù là một bức ảnh. Song điều đáng tiếc hơn là ở những ánh mắt ngơ ngác của một số người khi nghe nhắc về Lê Anh Xuân. Với một học trò cũ, rất có thể họ không thể nh Nhưng với một nhà thơ, từng được nhắc tới trong sách trích giảng văn học, không lẻ... Ðôi mắt Bích Hà thoáng chút u buồn. Cuộc đời có thể lãng quên. Nhưng đối với chị, anh vẫn sống trong một miền ký ức.
Lưu Hương - Xuân Hà
Trang Văn Học Nghệ Thuật - Giới Thiệu Sách
Trong mục giới thiệu sách tuần này, xin hân hạnh trình làng cuốn "KHUYNH HƯỚNG THI CA TIỀN CHIẾN - Biến cố văn học thế hệ 1932 - 1945" của hai tác giả Nguyễn Tấn Long và Phan Canh, do nhà xuất bản Xuân Thu ấn hành. Sách dày non 600 trang - Bìa mềm và trơn - Giá 18 Mỹ kim.
Ðại cương sách diễn giải những cuộc luận & bút chiến sôi nổi giữa hai cao trào văn lưu - Nền thơ cũ nho học và cao trào thơ mới của thế hệ trề - Ðọc để thấy, để hiểu, để thông cảm những nỗi niềm của những văn nhân thuở ấy.
- Một bên tranh đấu giữ quyền sống (Thơ cũ)
- Một bên tấn công để giựt quyền sống (Thơ mới)
Tất cả đều có cái lý do riêng của họ, bạn sẽ bùi ngùi & thông cảm cho nỗi lòng đôi bên.
Hơn nữa sách còn hữu ích cho những bạn đang sưu tầm văn học, bạn lại có một dịp gặp lại những tên tuổi thi nhân mà bạn đã từng ái mộ, sưu tầm thơ của họ. Sách sẽ giúp bạn hiể thêm nhiều về đường lối, tư duy, và cách nhình của những văn thi sĩ ấỵ Vì khi khảo cứu, sưu tầm văn thơ, bạn có hai con đường lựa chọn:
(1) Tìm cuộc đời tác giả qua tác phẩm của họ, hoặc
(2) Từ cuộc đời, tư duy, suy nghĩ của tác giả mà bạn đã có, bạn dễ dàng biết được hoàn cảnh xuất xứ, nội dung của những tác phẩ mà bạn đang sưu tầm vậy.
Tôi hân hạnh xem qua cuốn sách trên, thiết tưởng đây là một giá trị cần có trong tủ sách văn học cho những tâm hồn yêu nghệ thuật nên đem trình làng trong mục giới thiệu sách tuần này vậy.
Ðức Lưu
Khán Giả
Thành đứng nghiêng người về phía trước, hai tay ôm chặt cái ống tròn màu đen, đôi mắt chăm chú nhìn vào góc phòng, miệng mấp máy liên tục. Bỗng dưng hắn rống lên, giọng khem khép như vịt đực: "Anh yêu em anh yêu em như rừng yêu thú dữ..." Rừng ở đâu thì không biết chứ thú dữ thì quả có, nó đang ở ngay trong phòng khách nhà tôi gào rống trước màn ảnh TV và cái Laserdisc Karaoke một cách... man rợ. Tiếng hát bỗng im bặt. Thành quay lại, chán nản vất cái microphone màu đen lên chiếc "sopha" gần đó, nhìn tôi nhăn nhó:
- Mẹ kiếp, cứ rớt nhịp hoài!
Tôi nâng ly Michelob màu vàng sóng sánh hướng về phía Thành an ủi:
- Thôi lại đây làm một hớp lấy sức rồi dợt tiếp.
Bỏ mặc chiếc TV ở góc phòng với những dòng chữ phụ đề xanh đỏ và tiếng nhạc xập xình của bài hát dang dở, Thành bước đến bàn ăn kéo ghế ngồi, khuôn mặt còn lộ vẻ bực bội. Tôi uống cạn ly bia, mở giọng khuyến khích:
- Bài này coi vậy mà khó hát. Bà xã anh cũng thích lắm, tập hoài mà ca vẫn còn sượng.
Dạo sau này Thành hay đến nhà tôi chơi, uống vài lon bia rồi ôm cái máy karaoke dợt mãi. Tôi biết Thành khá lâu, lúc hắn và tôi còn đi học ở ngôi trường Ðại học tọa lạc ở phía Tây thành phố. Tôi có gia đình còn hắn thì độc thân, thỉnh thoảng gặp nhau ở cafeteria cũng không có nhiều chuyện để nói. Những cuộc viếng thăm khá thường xuyên của Thành trong thời gian gần đây tất nhiên là có lý do. Cái lý do mang tên một loài hoa có gai nhọn, Hồng.
Hồng đến Mỹ gần một năm nay theo diện H.O. Cha nàng là một cựu sĩ quan trung cấp đã học tập cải tạo nhiều năm. Mỗi tuần vài lần, Hồng đến nhà tôi học thêm Anh văn. Vì vợ tôi là chỗ quen biết của gia đình Hồng, nên dù khá bận rộn, tôi cũng không tiện từ chối việc dạy kèm nàng. Hình ảnh người thiếu phụ trẻ mồm miệng lanh lợi, nhan sắc mặn mòi nhanh chóng chiếm ngự trái tim của Thành, chàng trai mang bệnh độc thân kinh niên. Hôm nay là ngày cuối tuần. Mới sáu giờ chiều Thành đã lò dò đến chơi, chắc không ngoài mục đích gặp gỡ Hồng.
Nhìn vẻ bứt rứt đứng ngồi không yên của Thành, tôi cảm thấy vừa buồn cười vừa thương hại. Với giọng vờ vĩnh, tôi bảo hắn:
- Giờ này còn sớm, làm với anh một lon bia nữa, chờ bà xã anh đi chợ về thế nào cũng có món lai rai. Chắc bà ấy và Hồng cũng sắp về đến.
Mắt sáng lên, Thành hỏi ngay:
- Vậy là chị với Hồng đi chợ hả anh?
- Cô ấy đến sớm định nhờ anh dò bài, bị vợ anh bắt cóc từ chiều đến giờ.
- Em thấy chị và Hồng có vẻ thân nhau lắm. Hình như hai người có biết nhau từ lúc còn ở VN phải không anh?
- Ðúng vậy. Bà xã anh và chị của Hồng là bạn học từ nhỏ.
Ngập ngừng một chút, Thành hỏi tiếp:
- Nghe nói chồng của Hồng còn ở lại VN, không biết bao giờ mới qua Mỹ?
- Cái đó thì anh không rõ. Theo chỗ anh biết thì hai người đã thôi nhau. Nếu không thì làm sao Hồng có thể đi theo diện H.O. được.
Tôi đổi giọng đùa cợt, hỏi:
- Mà tại sao Thành quan tâm đến đời tư người ta kỹ thế?
Thành đang lúng túng tìm câu chống chế thì có tiếng xe chạy vào sân, rồi tiếng cửa xe mở đóng ầm ĩ, tiếng đàn bà lao xao. Vợ tôi và Hồng tay xách nách mang, ùa vào nhà như cơn lốc, miệng tía lia về những món đồ đại hạ giá mua được hôm nay. Vừa nhìn thấy tôi, Ngọc - vợ tôi - đã cự nự:
- Ơ cái anh này, thấy người ta như vậy mà không chạy ra phụ, cứ ngồi đấy uống bia...
Câu phàn nàn của vợ tôi không làm tôi sờn lòng mà lại khiến cho Thành có vẻ bất an. Hắn đứng lên, lúng túng như gà mắc đẻ, không biết phải giúp ai trước. Cuối cùng hắn lí nhí đề nghị giúp vợ tôi một tay.
- Chú Thành cứ việc ngồi chơi, chị lo được rồi. Chỉ ghét cái ông ấy chả biết giúp đỡ vợ con gì cả.
Ngọc vừa nói vừa đưa mắt lườm tôi. Ðôi mắt đã làm tôi điêu đứng khổ sở, cái "bể oan cừu" sâu thẳm dìm tôi chết ngộp hai chục năm xưa nay đã... cạn dần theo năm tháng, cho nên tôi vẫn bình chân như vại, nhìn nàng nở một nụ cười... cầu tài. Ngọc cong môi lên, dấu hiệu của phật ý, quay lại với mớ hàng hóa bề bộn.
Thành đến gần Hồng, lúc này đang ngồi bệt dưới thảm soạn thức ăn từ trong những túi giấy ra. Hắn nói, giọng hơi cao hơn bình thường:
- Chào cô Hồng. Cô có khỏe không?
- Dạ khỏe. Còn anh có khỏe không?
- Dạ cũng khỏe.
Tôi không nhịn được, chen vào:
- Chỉ có anh là không khỏe!
Mấy cặp mắt đổ dồn vào tôi, dò hỏi.
- Tại vì tuần lương kỳ này của anh không cánh mà bay vào mấy cái túi ny lông mấy cô mới mang về đấy. Tôi tiếp, giọng làm bộ buồn rầu.
Vợ tôi phì cười:
- Cái anh này vô duyên... Mà nầy, em có mua được miếng thịt bò ngon lắm, để em xào lên cho mấy ông lai rai.
Buổi tối trôi đi vui về Tôi ngồi thưởng thức món bò xào lúc lắc, uống thêm vài lon bia. Ngọc và mấy người kia bỏ mặc tôi ngồi một mình, chúi mũi vào chiếc TV và cái máy karaoke. Lúc hai vợ chồng đưa nhau vào phòng ngủ, Ngọc hỏi tôi:
- Em thấy hai đứa nó có vẻ hợp nhau lắm. Anh quen Thành đã lâu, thấy hắn thế nào?
Tôi biết Ngọc vẫn coi Hồng như đứa em gái nhỏ mà nàng quen biết lúc còn đi học chung với Tuyết, chị của Hồng, cách đây hơn hai mươi năm. Tôi trả lời, giọng nhựa đi vì bia và cơn buồn ngủ:
- Thì... cũng được.
- Cũng được là thế nào?
- Thì thế nào... cũng được.
Tất nhiên là tôi lãnh một cái véo vào đùi non đau điếng người!
Khoảng vài tuần sau đó, Hồng khoe với vợ tôi là nàng đã tìm được việc làm. Theo lời kể của Ngọc, Hồng giúp việc nhà cho một người Mỹ độc thân đứng tuổi. Ông ta có một đứa con gái nhỏ, khoảng bảy tám tuổi, bị bệnh Dow. Hồng được chủ nhà dành cho một phòng riêng đầy đủ tiện nghi và thù lao mỗi tháng là bảy trăm đô. Ðổi lại, nàng phải làm việc sáu ngày một tuần, ăn ở tại chỗ. Tôi bảo Ngọc:
- Thôi thế cũng mừng cho cô ấy. Như vậy lại có cơ hội để thực tập tiếng Anh với người ta.
Ngọc chỉ ậm ừ trong miệng, mặt lộ nét đăm chiêu.
Thành không có vẻ hào hứng gì mấy với cái tin Hồng đã có việc làm. Hắn than thở với tôi:
- Thiếu gì việc làm mà phải nhận công việc đó. Ðàn bà con gái ở đêm nhà người ta, lại thêm đàn ông độc thân nữa...
- Ðàn ông... già mà Thành lo làm gì. Nghe nói ông này đã ngoài sáu mươi rồi.
Thành không bị thuyết phục bởi lời trấn an của tôi. Hắn nói cộc lốc, giọng xa vắng:
- Ở Mỹ mà. Tuổi tác mà nhằm gì...
Lạ một điều là tôi gần như đồng ý với hắn. Buổi tối, khi tôi nhắc lại điều suy nghĩ của Thành cho vợ tôi nghe, nàng gạt đi:
- Thành chỉ vớ vẫn. Hồng nó chỉ bằng tuổi con ông ấy, làm gì có chuyện lộn xộn.
Tôi tin rằng câu nói của Ngọc phản ảnh trung thực điều nàng nghĩ mặc dầu tôi bắt gặp mắt nàng đang lãng tránh mắt tôi.
Một hôm vợ tôi đi thăm mấy người bạn về, mặt mày có vẻ buồn bực. Nhìn nàng bứt rứt đi tới đi lui, tôi thả ba lông thăm dò:
- Sao hôm nay em về sớm thế. Mọi lần cái chợ... chồm hỗm của mấy bà vẫn họp đến khuya kia mà.
Ngọc đưa mắt lườm tôi không trả lời, bỏ vào phòng tắm dội nước ào ào. Nàng trở ra, tươi mát như củ hành tây lột hết vỏ. Nàng đến gần, đôi cánh tay trần làm thành một vòng ôm tròn trịa từ sau lưng ra trước ngực tôi, mái tóc ướt thơm mùi dầu gội đầu dụi vào má tôi mát lạnh. Tôi bỗng chột dạ. Mới hôm kia, nàng đã kéo tôi dừng lại khá lâu ở một cửa hiệu kim hoàn nổi tiếng trong cái thương xá lớn nhất thành phố.
- Hồng nó hỏng quá anh à.
Tôi thở phào, mừng thầm vợ tôi không đá động gì đến... nữ trang.
- Cô ấy đã làm gì?
- Lúc ở VN nó đi làm gái nhẩy đấy.
- Gái nhẩy thì đã làm sao?
- Lại không làm sao á. Khách của nó đủ thứ, Việt kiều này, ngoại kiều này, bộ đội này, trọc phú này. Rồi làm gì lại tránh khỏi cái chuyện ấy...
- Thì người ta cũng phải sống chứ. Nhưng mà sao em biết?
Theo lời Ngọc kể lại, một gia đình H.O. vừa đến thành phố này là lối xóm của gia đình Hồng nên biết rõ chuyện. Họ cho biết là sau khi chia tay với người chồng cũ, một công nhân lam lũ ở nhà máy xi măng Hà Tiên, Hồng bắt đầu xuất hiện thường xuyên ở một trong những vũ trường đã mọc ra nhan nhản tại Sài Gòn trong thời kỳ phôi thai của nền kinh tế thị trường.
- Em không hiểu tại sao Tuyết lại để em nó ra nông nỗi. Ngọc than thở.
Tôi ôn tồn bảo nàng:
- Hồng nó đã trưởng thành lâu rồi. Hơn nữa đời sống bên ấy rất là khó khăn. Có những điều chúng ta chưa trãi qua, tốt hơn đừng phê phán một cách vội vàng.
- Em ấy à, thà chết thì thôi chứ đừng có mong em làm cái nghề ấy.
- Ðúng vậy. Em làm sao mà cạnh tranh nổi với mấy cô gái nhẩy trẻ măng cho được!
Nói xong câu đùa không đúng chỗ, tôi hối hận ngay. Nhưng đã trễ, lưng tôi lãnh ngay một quả thụi đích đáng!
Rồi lời đồn đãi cũng đến tai Thành. Hắn nhăn nhó:
- Em thấy Hồng có vẻ đứng đắn. Ðâu có dè...
- ...
- Ðâu có dè cô ấy lại là vũ nữ. Thương nữ bất tri vong quốc hận...
Tôi thật tình ngạc nhiên. Hắn để tâm thương Hồng thì tôi biết rồi. Còn thương nữ bất tri... từ miệng hắn thì tôi chưa nghe bao giờ. Một trong những lý do khiến Thành vẫn một mình lẻ bóng là tính... gàn của hắn. Lúc còn ở Ðại học, Thành theo ban Toán, mở miệng ra là đạo hàm với tích phân, đàn bà con gái chê hắn vô duyên. Riêng Hồng lúc nào cũng vui vẻ, chân tình với hắn. Có lẽ chính điều này đã làm cho hình ảnh của nàng trở nên đậm nét trong cuộc đời tình cảm kém may mắn của Thành. Bỗng dưng thấy thân thiết với Thành hơn, tôi nhẹ nhàng khuyên giải hắn với luận điệu cũ rích:
- Thành phải hiểu là có đôi khi người ta phải làm những điều trái với lòng mình chỉ vì hoàn cảnh bắt buộc. Vả lại, cũng nên cho người ta cơ hội làm lại cuộc đời . Khi đến xứ này, Hồng có được cái cơ hội đó, phải không?
Thành ra về nhưng cuộc đối thoại giữa hắn và tôi ở lại. " Thương nữ bất tri vong quốc hận..." Câu thơ này vẫn thường lãng vãng trong tâm trí tôi ngay từ lúc còn ở quê nhấ Biến cố bi thảm năm bảy mươi lăm đã tạo ra hàng ngàn thương nữ, những con én lẻ loi, mệt nhoài, dang đôi cánh mỏng xơ xác bay lượn trên biển đời bất trắc, chỉ mong tìm được một bến đậu bình yên. Tổ ấm của bầy én đã mất, những chồng, những cha, những con cái, những anh em nếu không xanh xao ghẻ lở ở vùng núi non miền Bắc, vùng rừng rú miền Nam thì cũng lang thang góc bãi đầu ghềnh hay vỉa hè lở lói thị thành. Con én nhỏ không có nhiều lựa chọn nên bãi đáp nhiều khi là chốn bùn nhơ hay miệng hùm nọc rắn. Mười năm trước có lẽ tôi cũng hấp tấp gọi Hồng thường. Bây giờ tôi lại đâm ra hoài nghi giá trị của lối phán xét một chiều. Một thập niên sống vất vưởng như oan hồn uổng tử nơi đất khách quê người, trải qua bao nỗi nhục nhằn của kẻ ăn nhờ ở đậu, tôi đã nhiều lần "nín thở qua sông" cũng chỉ vì miếng cơm manh áo. Và cũng hơn một lần ở nơi rượu thịt ê hề hay chốn đèn màu rực rỡ tôi đã cùng lũ bạn bè vỗ bàn hát khúc Hậu Ðình Hoa. Tôi Trần Hậu Chúa hoang đàng sao dám trách người.
Những ngày tháng kế tiếp, Hồng và Thành vẫn ghé thăm chúng tôi đều đặn. Như thường lệ, Thành đến sớm hơn một chút, lóng ngóng chờ đợi. Trong thâm tâm, vợ chồng chúng tôi vẫn mong hai người trở nên đôi bạn tình. Nhưng dưới mắt tôi, hình như Thành vẫn chưa tiến xa hơn bao nhiêu trong việc nắm giữ trái tim người thiếu phụ trẻ. Tai tiếng về cái dĩ vãng "gái nhẩy" của Hồng đã không còn làm Thành quan tâm, nhưng bàn tay hắn đưa ra - cơ hội thứ hai hắn ân cần dành cho nàng - Hồng vẫn chưa chịu nắm lấy. Ngọc thì có vẻ lạc quan, "con gái thì phải như thế, vồ vập quá sau này chồng nó khinh." Cũng như Thành, Ngọc đã không còn nhắc nhở gì đến cái nghề nghiệp không mấy vinh quang của Hồng tại VN.
oOo
Ðã gần ba tuần Hồng không đến. Nàng phải theo cha con người chủ lên căn nhà nghỉ mát của ông ở trên núi. Cũng giống như nhiều người Mỹ khá giả khác, ông chủ của Hồng cần phải tìm nơi yên tĩnh để nghỉ ngơi, để tạm thời gác bỏ công việc làm ăn phiền toái, để lấy lại quân bình cho thể xác lẫn tâm hồn sau một năm dài lao lực.
Tất nhiên ông cũng cần có người phục dịch cho ông và cô con gái cưng. Hồng than thở với Ngọc:
- Nghe nói trên núi lạnh lắm, chắc em chịu không nổi đâu.
- Thôi em ráng đi. Một tháng cũng chẳng là bao. Nhớ mang theo đồ ấm.
Trong thời gian Hồng đi xa, Thành vẫn đến chơi đều đặn. Tôi đã quen với dáng điệu lom khom trước dàn máy karaoke và giọng hát khem khép như vịt đực của hắn. Một hôm hắn hỏi tôi:
- Anh có tin tức gì của Hồng không?
- Không thấy cô ấy gọi về. Thế Thành có gọi cô ấy không?
- Hồng đâu có cho em số điện thoại của ngôi nhà nghỉ mát. Em tưởng anh chị có số của Hồng đấy chứ.
Tôi lắc đầu:
- Anh cũng không có. Tuần sau cô ấy về rồi, làm gì mà bấn lên thế.
Tuần sau đó Hồng cũng chưa về. Cánh hồng còn mãi bay bỗng tuyệt vời ở trên một sườn núi tuyết nào đó. Tôi đoán câu hỏi mà Thành tự hỏi mình bây giờ không còn là "Bao giờ nàng về" mà là "Liệu nàng có còn trở về."
Tuần lễ kế tiếp không những Hồng vẫn bặt tin mà Thành cũng không thấy đến. Lâu lắm vợ chồng tôi mới có được trọn buổi tối thứ Bảy, bỗng dưng lại thấy thiêu thiếu điều gì. Ngọc và tôi rủ nhau đi nghỉ sớm, tâm trạng hụt hẩng giống như một khán giả trung thành bỗng khám phá ra cái chương trình TV ưa thích của mình đã bị cắt bỏ một cách đột ngột.
Vào lúc bất ngờ nhất, Hồng đến tìm chúng tôi. Nhìn quanh quất không thấy Ngọc đâu, nàng hỏi:
- Chị đâu rồi anh?
- Bà ấy đi họp chợ chồm hỗm rồi.
Tôi trả lời với vẻ đùa cợt rồi hỏi nàng:
- Hồng về hồi nào mà không cho anh chị hay? Dễ cũng đã hai tháng rồi đấy nhỉ?
Hồng lộ vẻ bối rối. Ánh mắt nàng lang thang trên những vật dụng quen thuộc trong căn phòng khách nhỏ, cuối cùng rồi cũng đậu trên mặt tôi:
- Em đến báo với anh chị em sắp lập gia đình.
Cậu Thành này trông rù rờ mà cũng lẹ quá chứ, tôi vui vẻ nghĩ thầm.
- Vậy ạ Chúc mừng cho Hồng. Thế bao giờ thì đám cưới?
- Chắc không có đám cưới đâu anh. Chỉ lo thủ tục giấy tờ thôi. Cuộc hôn nhân này...
Hồng bỗng dừng lại đột ngột như có vật gì chắn ngang thanh quản của nàng. Tôi cảm thấy có điều gì không ổn. Hai tháng dài biệt tăm biệt tích, khuôn mặt xa vắng, dáng điệu bối rối... Tôi nhìn nàng, lặng lẽ chờ đợi.
- Em lập gia đình với Joe.
- Joe?
- Ông chủ của em đó.
Thì ra là Joe, lão già Mỹ có căn nhà nghỉ mát trên núi. Tự dưng tôi cảm thấy buồn bực. Những cán bộ quyền thế miền Bắc mang xà cột, những doanh gia Ðài Loan, Hồng Kông béo phị, những Việt Kiều túi quần phồng lên bởi đống danh thiếp dầy cộm, những già Joe với căn nhà lớn và chiếc Mercedes bóng lộn trong garage một bên và Thành, ba mươi ba tuổi, mười hai năm lưu lạc, lương mười tám ngàn đô một năm đơn độc ở phía bên kia, có điều gì như niềm chua xót , như nỗi bất bình dấy lên trong tôi. Biết Hồng đang quan sát mình, tôi cố giữ nét mặt bình thản. Hồng nhìn thẳng vào tôi, ánh mắt như phiền trách. Nàng nói tiếp, giọng đều đều như trả bài:
- Anh biết đó. Em qua đây nghề nghiệp không có, tiếng Anh chẳng rành, lại mang đủ thứ tai tiếng. Em cần một nơi nương tựa. Rồi còn anh em, bà con ở VN. Ông Joe tuy già nhưng tốt với em lắm. Ở với ông ấy em không phải lo về mặt tiền bạc. Ðời em cũng đã chìm nổi nhiều phen, bây giờ chỉ muốn yên thân. Cuộc hôn nhân này tất nhiên không phải vì tình, điều đó thì ai cũng biết. Em đã yêu cầu Joe đừng làm rình rang, chỉ trong vòng gia đình của ông ấy thôi.
Hồng đứng dậy, rồi như sực nhớ điều gì, lại ngồi xuống. Vẻ cứng cỏi cố tình trên mặt nàng đã biến mất.
- Anh nói dùm với anh Thành là em cám ơn cái tình anh ấy dành cho em. Người tốt như anh ấy thế nào rồi cũng được đền bù. Em cũng đã suy nghĩ kỹ. Bây giờ thì việc gì cũng cho qua, nhưng mà một khi đã ăn ở với nhau rồi, thế nào cái dĩ vãng nó cũng trở lại ám ảnh mình. Không phải là em có ý nói anh ấy hẹp hòi, nhưng về mặt vợ chồng, em kinh nghiệm hơn anh Thành nhiều.
Hồng lại đứng dậy. Nàng cười buồn:
- Thôi em về. Cho em gởi lời thăm chị. Mai mốt xong việc, thế nào em cũng đến chơi.
Tôi đứng dậy theo, lí nhí chúc nàng thành công trong hướng đi nàng đã chọn. Tôi mở cửa, trịnh trọng tiễn Hồng ra xe như đưa nàng Scarlett phong trần của "Cuốn Theo Chiều Gió" trong bộ trang phục lộng lẫy nhất của nàng lên xe song mã để đi chinh phục cái thế giới đàn ông hung hiểm ngoài kia. Trên đường quay vào nhà, tôi rầu rĩ vì bỗng dưng trở thành người đưa thư xui xẻo phải báo tin buồn cho những người thân, Ngọc và Thành.
Chiều hôm sau Ngọc bày lên bàn mấy món đồ nhậu tươm tất, bảo tôi:
- Chốc nữa Thành đến, em lánh mặt để mấy ông dễ nói chuyện. Em cứ quấn quít với anh có khi làm hắn tủi thân.
Tôi kéo nàng vào lòng, nói nhỏ:
- Cám ơn em. Thỉnh thoảng em cũng nên nhắc anh là may mắn lắm mới có được người vợ dễ thương như em.
Ngọc có vẻ cảm động, kề môi vào tai tôi thầm thì:
- Em sẽ nhắc nhở anh mỗi ngày. Và mỗi đêm.
Mỗi đêm ?!
Tôi không ngờ Thành khá như vậy. Hắn đón nhận cái tin không vui một cách chững chạc. Tôi đợi cho hắn cạn xong lon bia thứ nhì rồi mới bắt đầu làm nhiệm vụ đưa tin, hy vọng hơi men sẽ giảm đi phần nào nỗi đau xót.
- Thành à, anh muốn nói với chú chuyện này. Chiều hôm qua, Hồng có đến đây...
Thành ngồi im lặng nghe tôi kể lại gần như nguyên văn những điều Hồng đã tâm sự với tôi. Khuôn mặt hắn hằn vẻ chịu đựng của con bệnh trầm kha được thầy thuốc cho biết giờ giải thoát đã gần kề. Sau cùng hắn ngẩng đầu nhìn tôi, cặp mắt nhấp nháy sau đôi kính cận:
- Thật ra em cũng đã có cái dự cảm về việc này. Chưa bao giờ Hồng đi xa hơn tình bạn. Dù sao em cũng mong cô ấy hạnh phúc.
Hắn ngưng lại một chút rồi tiếp, giọng tâm tình:
- Em thì đã quen rồi. Không phải lần đầu, chỉ mong là lần cuối.
Thành đứng dậy, bước lại tủ lạnh lấy thêm mấy lon bia.
- Tối nay em muốn uống thêm mấy lon với anh cho vui. "Mồi" còn nhiều quá mà chị đâu rồi không ra ăn phụ?
- Bà ấy than mệt, vào buồng từ chiều. Chú cũng biết, bà ấy đâu có vui gì...
Thành uống thêm mấy lon bia rồi đứng dậy đi lại góc phòng, nơi có dàn máy karaoke. Tôi thấy hắn lục lọi trong mớ đĩa tìm kiếm. Tư thế quen thuộc của hắn, hai tay ôm chặt cái microphone, lưng lom khom, chân đánh nhịp, bỗng dưng trông có vẻ... nghệ sĩ ra phết. "Ta tiếc cho em trong cuộc đời làm người..." Cái giọng khem khép như vịt đực của hắn hôm nay sao nghe... truyền cảm chi lạ.
Chiếc bàn bỗng như chông chênh. Tôi nghe tiếng Thành loáng thoáng, "Nhìn em tay nâng ly rượu, môi cười mà lệ như rơi..." Hình ảnh Thành ở góc phòng bỗng dưng nhòe đi như được nhìn qua một màn nước. Tôi nâng lon bia khui dở lên uống cạn. Tiếng hát của Thành lại vọng lên, bập bùng như đến từ một không gian, một thời gian nào khác. "Cách giang do xướng Hậu Ðình Hoa..." Bài hát gì mà kỳ cục vậy nhỉ?
Hình thù đống vỏ bia ngổn ngang trên bàn bỗng cong vẹo đi như được nhìn qua một màn nước. Tôi đưa tay dụi mắt, cười ngu ngơ. Bậy quá, uống cho lắm vào...
Phùng Nguyễn