vhnt, số 205
16 July 1996
Trong số này:
thư vhnt..................................................................PCL
T h ơ :
1 - Liên khúc cho Ðà Nẵng .............................Trần Hoài Thư
2 - Con tim tiền kiếp sang mùa ..................Nguyễn Hiện Nghiệp
3 - Nan y ...................................................Trần Thái Vân
4 - Yêu dấu mà chi ...................................Trần Nguyên Thảo
5 - Nhớ chiều quê tôi .....................................Sung Nguyễn
6 - Dương cầm ......................................................CỏMay
7 - Mùa ổi chín ..........................................Caroline N Phung
D i ễ n Ð à n V ă n H ọ c :
8 - Lược truyện: Cadimodo (the hunchback of Notre Dame) của V. Hugo ....................................................................Trúc Lê
9 - Giới thiệu diễn đàn Ô-Thước của vhnt ..............Ngưu Lang
10- Thơ văn Bút Tre: thơ trào phúng ....................Ðỗ Danh Ðôn
T r u y ện N g ắn / S án g T ác :
11- Kỷ niệm ..............................................Nguyễn Vy-Khanh
Tháng 7 mưa ngâu, những cơn mưa bất chợt đổ xuống ồn ào không kịp thấm vào những lòng đất khao khát chờ đợi. Mưa tháng bảy như mưa dỗ dành, như mưa làm nũng một khí hậu khó đăm đăm, lúc nào cũng bẳn gắt khó tính, có phần hơi nghiệt ngẩ Ðêm qua cơn mưa phủ phê làm mát lòng những ngọn cỏ xanh êm, cây cối tươi thắm và những đóa hoa trở mình mỉm cười, chào mừng một ngày đẹp trời mới. Mưa tháng 7 là mưa rộn rã giữa mùa, mưa mang một chút sắc thái tươi tỉnh reo vui, không âu sầu ảm đạm như mưa mùa thu và hiu hắt cô quạnh như mưa phùn mùa đông. Mưa ở đây không báo trước một cơn giông từ những đám mây đe dọa, mưa ở đây bất chợt và khó ngờ, ào đến rồi kéo đi, trời lại quang tạnh như chẳng có gì vừa xảy ra mười lăm phút vừa rồi...
Một người bạn nói, mưa là hiện tượng khêu gợi nhất của thiên nhiên hẳn cũng có lý do. Tâm trạng khi nhìn mưa kỳ diệu, chẳng có cơn mưa nào gieo trong lòng mình cùng một tâm trạng giống nhau. Mưa hôm nay có thể buồn man mác và chất đầy kỷ niệm, mưa hôm qua thì lại gợi cảm về những khuôn mặt bằn bặt trong trí nh Tôi cũng muốn nhớ về những cơn mưa nối dài kỷ niệm, nhất là những kỷ niệm ấu thơ, những kỷ niệm trong như lànánh sáng từ một ký ức êm dịu, chưa có những cái buồn làm nhíu lòng, chưa có những nét đăm chiêu trên khuôn mặt và cái nhìn những hạt mưa rơi. Mưa ký ức tuổi thơ chỉ có tiếng cười vang, trong như thủy tinh và hồn nhiên như nắng sớm.
Hẳn bạn cũng đã trải qua nhiều cơn mưa gợi cảm, và khi nhìn mưa, bạn nghĩ gì trong những lúc cạn lòng?
Tháng 7 kỷ niệm đúng một năm VHNT ra đời đến cùng bạn đọc. Một năm với bao nhiêu kỷ niệm, bao nhiêu cố gắng, và bao nhiêu nỗi lo âu cùng niềm vui mà chúng ta đã gặp. Một năm với hơn 200 lần vhnt gửi đến hộp thư bạn đọc, dù còn rất nhiều khiếm khuyết nhưng mong rằng những số báo đã đem đến cho bạn chút nhẹ nhàng và niềm vui qua nhịp cầu giữa những kẻ sáng tác và thưởng thức. Vẫn mong sự ủng hộ và đóng góp của bạn đọc để chúng ta còn đến gần với nhau hơn nữa, trên siêu không gian vô hình nhưng đằm thắm tình người này.
Chúc bạn đọc một ngày vui, đầy ấp những cơn mưa trở về từ ký ức có giọng cười hồn nhiên và trong sáng như trẻ thơ.
thân ái,
PCL/vhnt
Liên Khúc Cho Ðà Nẵng
Ðể tặng Trần Thái Vân, như royalties
Tôi ở miền Ðông xa thị tứ
Mùa giêng hai bão tuyết ngập tràn
Ðàn ngỗng sợ mùa đã bỏ về Nam
Tôi còn lại những ngày đông lạnh giá
Mong ngóng đàn chim thiên di xứ lạ
Tôi hay nhìn về một phía xa xăm
Bỗng thèm vô cùng mây trắng lang thang
Cho tôi đến một phương trời cố xứ
Em ở đó, hai mươi năm rồi, ở đó
Lời ca nào, buồn cả đồi Nam Ô
Học trò trở về, lá rụng đường Quang Trung
Tôi bỏ biệt, qua đèo không dám khóc
Nhớ quán chợ Cồn chờ em đến lớp
Chờ em về, từ Lê Lợi, Hùng Vương
Khi tôi trở về, một nắng hai sương
Ðể tôi phải, tương tư trời dưới phố
Tôi cũng biết, người xa người, phải khổ
Mà khi gần, sao chẳng được gần nhau
Ngày yêu em tôi ở tận miền cao
Những cánh thư xanh kết đầy nỗi nhớ
Ngồi trong hầm sâu đọc thơ thành phố
Mới thương người con gái Phan Châu Trinh
Từ một tấm lòng quá đỗi hy sinh
Ðể tôi phải mang theo cả đời cả kiếp
Thành phố đó, chiều sông Hàn gió thốc
Cơn giông trái mùa ướt áo hậu phương
Khi yêu tôi, em chấp nhận nỗi buồn
Năm với tháng lệ đầy trang nhật ký
Tội cho em, yêu một thằng thi sĩ
Biết mang gì gọi một chút quà xinh
Tôi ở trên rừng năm tháng lao linh
Mỗi ngày chiến tranh, ngóng hoài dưới núi
Mỗi ngày chiến tranh, hai đằng thui thủi
Sao tôi trở về trường nữ thăm em
*
Tôi ở miền Ðông xa phố xá
Ðàn chim thiên di trải cánh trở về
Giữa bầu trời mây trắng lê thê
Chim rộn rã gọi mừng trên quê cũ
Hạnh phúc cho chim, trời không chế độ
Không biên thùy, không chũ nghĩa phân tranh
Với chim là, những cọng cỏ màu xanh
Và bát ngát một khung trời nắng ấm
Chim vui nhé, mang gì từ xa thẩm
Có mang dùm tôi một chút Việt Nam
Chim có bay về trên đỉnh Hải Vân
Có nhìn thấy đồi Nam Ô rũ lá
Có theo con đường qua trường hạ đỏ
Những học trò xứ Quảng, giờ ở đâu?
Con sông Hàn yên lặng hàng sầu đâu
Có khóc như nỗi buồn lịch sử
*
Thành phố ấy, gió chập chùng biển cả
Gió cũng chập chùng mưa lũ Trường Sơn
Một phía nhìn về biển Thái Bình Dương
Một phía nép mình núi rừng bát ngát
Có sông xanh qua cầu Ðờ Lát
Có Cổ Viện Chàm,
Non Nước, Tiên Sa
Khi yêu em, tôi mới hiểu, thật thà
Cọng mì Quảng vàng như hồn Ðà Nẵng
Hay màu nắng vàng đất đai xứ Quảng
Ðã thắm cõi lòng một xứ sở thênh thang
Ôi, Ðà Nẵng tuyệt vời, Ðà Nẵng trăm năm
Tôi xin đặt vào một nơi trên tất cả
Trần Hoài Thư
con tim tiền kiếp sang mùa
hái cành lan
đỏ vườn
xưa,
nghe
trong tiền kiếp
sang mùa
rêu rong.
suối khe, vốn thuở dòng sông.
trăng sao đó,
vốn phải lòng đêm.
sâu.
này tim,
nửa kiếp bể dâu.
đôi khi.
bất chợt.
nhiệm mầu nở hoa – là
em đến giữa đời ta
hồn hoang
rụng
xuống
ta bà -
vần thơ.
nguyễn hiện nghiệp
Nan Y
Em không cần xưng tội
Vì anh chẳng phải Cha
Em làm anh bối rối
Trong câu chuyện gần xa
Anh từ nguyên kiếp trước
Ðã là quỷ đa tình
Giờ vẫn còn như trước
Sống trong cõi u minh
Linh mục anh chẳng muốn
Chỉ muốn làm tình nhân
Giả được anh sẽ mướn
Con tim đem về gần
Tim chợ đời không bán
Tình hãng chẳng dựng nên
Rong rêu phủ ngày tháng
Hao gầy dựng nỗi quên
Nan y bệnh một chứng
Y khoa không dạy thầy
Văn tự hàng chấm lửng
Kiếp này làm sao đây?
Chuyên viên đời có một
Người không chẩn bệnh anh
Kể chuyện thôi, rất ngọt,
Bảo làm sao anh lành?
Anh không là Linh Mục
Nên tội chẳng sợ đâu
Chỉ sợ tim đau nhức
Chết lịm giữa muà đau...
trần thái vân
Yêu Dấu Mà Chi
Biết rằng không chung lối
Sao yêu dấu mà chi
Môi hôn, dòng tóc rối
Vòng tay, tiếng thầm thì...
Cơn nắng tràn mùa hạ
Soi lửa tình đam mê
Hồn mềm như chiếc lá
Anh, từ cõi hiện về
Tay trơn ôm bối rối
Lòng xôn xao đầy vơi
Cuối chân trời nắng chói
Hằn lên một mảnh đời
Ðường tình dài hun hút
Chỉ lần này rồi thôi
Thương tình yêu mờ khuất
Hạc bay vút cuối trời
Nghe cõi tình vô vọng
Giọt buồn rơi mênh mông
Gần nhau tim lắng đọng
Bên nhau tìm hư không
Nhớ xưa nàng Tô Thị
Ngàn năm đợi chung tình
Em bây giờ muốn thế
Nhưng đời vẫn vô minh
Tình nào trong khoảnh khắc
Ngày mai thành không tên
Có còn chăng bàng bạc
Là ân tình chưa quên
Ðôi bờ sông nhánh rẽ
Ta nhìn nhau... phương xa
Có khi tim khe khẽ
Nhớ nhau, vượt giang hà
Em muôn đời không hiểu...
Ngỡ mình trong chiêm bao
Như loài chim đà điểu
Tình lảng tránh mà sao...
Thì đi bên nhau mãi
Trên đôi đường song song
Dù có khi lòng thấy
Tình đơm hoa trổ bông
Người về bên phố núi
Người còn lại cuối trời
Tình dưng không tìm tới
Nên chẳng thể xa rời
Gặp nhau rồi, biết vậy
Yêu đương một lần thôi
Biển chập chùng sóng dậy
Thôi đừng vỗ, tình ơi ...
trần nguyên thảo
7/01/96
Nhớ Chiều Quê Tôi
Chiều phố xá,
Tôi nhớ chiều thôn dã,
Sáo trúc vút lên mây
Như giục chiều lên gió
Bên sông vẳng tiếng gọi đò
Ứa nước mắt chiều rơi
Trên dốc đỏ - mặt trời như nho chín
Bóng trâu già in thẫm mặt đường
Người nông dân, vai cày nặng còng lưng
Theo trâu về, nồi khoai chiều trên bếp
Khói bay lên tìm mảnh trăng đơn lẻ
Tiếng vạc kéo hoàng hôn về quạnh quẽ
Ðèn sắp lên - Người im tiếng
Tôi đi về hướng thơ rơi
Chiều phố xá
Tôi nhớ chiều thôn dã quê tôi.
Sung Nguyễn
Florida 1995
Dương Cầm
Nhìn xa vắng bên bờ kia đổ vỡ
Dòng sông ơi, em có biết ngọn nguồn
Bùi Giáng
I.
Tôi ngồi đó, mười ngón tay hoang dại
Cây đại dương cầm run rẩy trọn cơn mê
Những thanh âm vô bến vô bờ
Tê dại không gian
Ðặc quánh nỗi buồn
Của Liszt, Mozart, hay Bach
Tôi, mười ngón tay muốn khóc
Rã rời giấc chiêm bao
Giấc mộng ấy tôi về chia hai mảnh
Mảnh cho mình
Và mảnh gửi xuôi sông
II.
Tôi, mười ngón tay man dại
Cây đại cầm mê sảng
Cơn đau nào vùi xuống, mất âm thanh
Căn phòng nhỏ và tôi bé nhỏ
Những âm thanh đi mãi không về
Ðể mùa xuân bay mất
Và nỗi niềm nào xao xác trong tôi
III.
Hề, cây đại cầm, cây đại cầm chết ngất
Mười ngón tay mơ hồ không ngớt vẽ âm thanh
Có những nỗi niềm rơi xuống những nỗi niềm
Tôi khờ dại như ngày nào tôi bé nhỏ
Quên mất mình là con rối
Cho cuộc đời giật dây
Quên mất cuộc đời này
Cảm thông chỉ là ngộ nhận
Và quên mất dưới chân mình
Vực thẳm
Ðang một lần rộng vòng tay.
Cỏ May
Juillet 1996
Mùa Ổi Chín
mấy lần mùa ổi chín
sao chưa thấy anh về
rau đay buồn lan kín
ra tận đến đường đê
hôm anh đi mẹ khóc
em chẳng biết nói gì
chỉ biết nhìn đuôi tóc
che dấu lệ tràn mi
những đêm trời trở gió
hơi lạnh lùa vách phên
em nằm, đôi mắt đỏ
chờ đợi ánh dương lên
có nhiều lần mẹ hỏi
cũng là người cùng nơi
em cúi đầu không nói
lẩn tránh câu trả lời
chiều nay buồn man mác
em ra hái rau mơ
bên dòng sông nước cạn
anh có biết em chờ?
cp
7/10/96
Cadimodo
Trong tiểu thuyết Nhà Thờ Ðức Bà Paris, Victor Hugo đã sáng tạo một nhân vật nỗi tiếng Cadimodo.
Cadimodo là một anh chàng có hình dạng xấu xí, gù, chột điếc, nhưng anh có một trái tim, tấm lòng cao đẹp. Hàng ngày, anh bầu bạn với những quả chuông tỉnh thức nhân loại, tâm hồn anh cũng hòa rung theo nhịp chuông ngân nga mỗi sáng mỗi chiều.
Trong ngôi thánh đường kia là nơi ẩn nấp của bóng tối và tội ác. Vị phó giáo chủ Phrolo, một ngày nọ mê sắc đẹp nàng vũ nữ xinh đẹp Exmeranda và ông muốn bắt cóc nàng. Cadimodo trung thành được sai đi tìm bắt nàng Exmeranda. Khi việc không thành công, Cadimodo bị trừng phạt một cách man rợ trên đài cao trước đám đông khán giả dửng dưng mà ta gọi là "con người" Cadimodo đau đớn quằn quại trong cơn đói khát. Nàng Exmeranda đã thương xót con người khốn khổ Cadimodo, nàng đã lên đài, và cho anh uống những giọt tình thương trong mát là dịu đi vết thương của kiếp người.
Từ đó trở đi, Cadimodo thường đứng trên tầng cao chót vót của nhà thờ, tìm và theo từng bước của nàng Exmeranda. Cadimodo đã yêu nàng bằng trái tim hồng của mình.
Sự ham muốn ác quỹ của phó giáo chủ Phrolo đã biến thành sự hằn học trả thù tàn bạo. Exmeranda sẽ bị đưa lên giá treo cổ không cần xét lý do chính đáng. Cadimodo đã tận tâm săn sóc cho nàng bằng tình thương chân thật, tình thương của biển nước mắt chảy ngược vào tim chàng, tim của một kiếp người tàn tật, xấu xí, dị dạng khi không thể khóc thành lời. Anh đã canh gác cho nàng ngon giấc, nhường phần bánh cho nàng, che chở cho nàng từ bàn tay độc ác của Phrolo, và âu yếm trao nàng những lời lẽ dịu êm, "Hỡi cô gái Exmeranda, hãy nhìn ta bằng trái tim, đừng nhìn khuôn mặt"
Sự lương thiện lẻ loi yếu đuối của Cadimodo cũng đành bó tay trước âm mưu cạm bẫy xão quyệt của gã quỹ sứ đội lớp thầy tu Phrolo. Exmeranda vẫn phải bị đưara đoạn đầu đài. Từ trên gác chuông, nơi những tiếngchuông vang dội tỉnh thức ngân nga hàng ngày, Cadimodo nhìn thấy Exmeranda quằn quại trong cơn hấp hối trên giá treo cổ, chàng hết sức phẫn nộ đẩy Phrolo xuống đất.
Sau nhiều năm, người ta tìm thấy bộ xương của Cadimodo ôm quấn quít bộ xương của Exmeranda, như một huyền thoại về một mối tình kì diệu của con người.
Trúc Lê
July 1996
Diễn Ðàn Ô Thước của Văn Học Nghệ Thuật
Văn Học Nghệ Thuật (VHNT) là một nhu cầu, một món ăn tinh thần cho đọc giầ Và cũng là môi trường cho những cây bút trên internet trang trải tâm hồn, suy tư của mình.
Hơn thế nữa, người cầm bút thường có nhu cầu chia xẻ và trao đổi tư duy và quan niệm của mình về các vấn đề liên quan đến sáng tạo và tác phẩm. Diễn đàn Ô Thước (OT) được thành hình để đáp ứng nhu cầu đó của các cây bút thường xuyên đóng góp bài vở cho VHNT.
Có rất nhiều đề tài được đem ra thảo luận trong OT - nghệ thuật phục vụ nghệ thuật hay nhân sinh, thơ tương tác (interactive poetry), Lục Châu Học, kinh nghiệm phát hành tác phẩm, phong trào Sáng Tạo, nguyên tắc làm thơ Ðường Luật, thế nào là một truyện ngắn hay, trao đổi tư liệu về các tác giả hay các tác phẩm đã tuyệt bản, kỹ thuật làm gia trang (homepage), v.v...
Ðiều đáng nói là tất cả các "quạ" kết thành cây cầu Ô Thước này đều đến với nhau trong một tình thân cởi mở và thân mật. Những "cái tôi" được bỏ qua một bên trong diễn đàn này. Thay vào đó là tinh thần cầu tiến, thành thật trao đổi, học hỏi và giúp đỡ lẫn nhau. Ðó là phương châm, là "luật bất thành văn" của diễn đàn OT.
Tuyển Tập San VHNT được thành hình cũng là do các "quạ" trong diễn đàn OT tích cực giúp đỡ ban chủ trương trong mọi vấn đề - chọn bài, trình bày, hình ảnh, in ấn, vận động, v.v...
Mặt khác, trong diễn đàn OT còn có các "quạ" khác làm việc một cách âm thầm hơn. Ðó là nhóm kỹ thuật. Nhóm này lo về cách làm đẹp và phong phú hơn gia trang của VHNT. Khi nào bạn đọc có dịp ghé qua gia trang của VHNT, URL address: http://saomai.org/~vhnt mời bạn vào quán cà phê Ô Thước, xem (và nghe) Hành Trình Âm Nhạc của Phạm Duy, xem tranh ảnh do VHNT sưu tầm, để thưởng thức thành quả của các "quạ" kỹ thuật này. Tuyển Tập San này có bài về phần này của anh Hoàng Hải Việt, trưởng nhóm kỹ thuật. Xin bạn đọc qua để hiểu rõ thêm về đề tài này.
Với một quá trình không quá sáu tháng từ khi thành hình, diễn đàn OT đã thật sự trở thành một môi trường xứng đáng với danh xưng của nó - Là một nhịp cầu cho những tâm hồn yêu sáng-tạo-cho-nghệ-thuật và yêu nghệ-thuật-của-sáng-tạo.
Chắc chắn những lợi ích nó mang lại cho các "quạ" sẽ được phản ảnh qua nội dung ngày một phong phú của VHNT đối với đọc giả.
Ngưu Lang
Thơ Văn Bút Tre
Trong nền văn học lớn lên và trưởng thành ở miền Bắc Việt Nam có một hiện tượng lạ là thơ văn Bút Tre (bút hiệu của Ðặng văn Ðăng 1911-1987). Lạ là vì đây là thơ văn trào phúng rất khó phổ biến ở trong một môi trường làm gì cũng phải có đúng với đường lối, nói khác đi rất dễ bị mang một cái nhãn rất nguy hiểm cho sự nghiệp bản thân. Không khí nghiêm nghị trong thơ văn này được gán cho cái chữ 'Nghiêm như hội nghị'. Tuy thế thơ văn Bút Tre hơi ngoại lệ một chút, được phổ biến trong dân gian cũng như trong giới văn học. Những câu thơ truyền miệng đọc lên cười nôn ruột, ngạc nhiên đến nỗi khoái trâ Hãy đọc một câu tiêu biểu:
Hoan hô đại tướng Võ Nguyên
Giáp ta thắng trận Ðiện Biên lẫy Lừng
Một điểm đặc biệt là chữ Võ Nguyên Giáp bị bẻ mất phần chót để làm phần đầu cho câu thơ tiếp, đọc lên nghe khôi hài dù nghĩa đen thì rất nghiêm chỉnh. Bút Tre có lẽ là người đầu tiên làm thơ với thể thức này, chưa có tên chính thức nên có tên là thơ văn Bút Tre.
Hoặc những câu rất ngô nghê, nhưng nghe trong một môi trường nghiêm nghị ai cũng phải cười:
Bỗng đâu tin sét đánh ngang
Bác Hồ đang sống chuyển sang từ trần.
và
Ta đi bầu cử tự do,
Chọn người xứng đáng mà cho vào hòm (hòm phiếu)
Bút Tre còn thay đổi dấu chấm hỏi như trong các câu:
Hôm qua học tập chính tri
Cơ sở ngồi ỳ, chẳng chịu phát biêu
Cơm ăn chẳng được bao nhiêu
Giám đốc còn bắt phát biêu cả buồi (cả buổi)...
Không rõ có phải đây là hiện tượng phản kháng vì bị đè nén quá hay không nữạ Lúc phi hành gia đầu tiên của Nga lên vũ trụ ông có làm câu:
Hôm nay trời nhẹ mây cao
Anh Ga-ga-rỉn bay vào vú tru (vũ trụ)
Trong thời gian Mỹ oanh kích ngoài Bắc, để ca tụng một số phụ nữ bắn rớt maý bay Mỹ ngay của nhà của mình ông viết:
Chị em du kích tài thay
Bắn tầu bay Mỹ rớt ngay cửa mình
Trở lại với cách bẻ chữ để phần chót chữ là phần đầu câu kế tiếp, đây là một cách chơi chữ mới cho các câu thơ thêm trào phúng và có khi thêm nhiều nghĩa để ai muốn hiểu ra sao thì hiểu. Thí dụ chữ "có kinh nghiệm" mà chữ "Nghiệm" bị lấy ra cho câu kế tiếp thì phần trước lại bịngang nghiã khác, như trong câu sau đây:
Bác Hồ khoe bác có kinh...
nghiệm trên thế giới chỉ mình bác thôi!!
Câu thơ có hai nghĩa, nghiệm lại rất là thú vị.
Sau khi các bạn ngừng cười, còn nữa chưa hết, chẳng hạn các điạ danh như Pleiku, Ban Mê Thuật trong các câu:
Anh đi công tác Pơ lây
Cu dài dằng dắc biết ngày nào vê
Anh còn ở lại Buôn Mê...
Thuột xong một cái lại về với em...
Các quạ Ô Thước, các Văn Lang, Văn Nương thử làm thơ cách này xem sao, VHNT sẽ tổ chức một buổi thi thơ xem ai đoạt giải thưởng thơ Bút Tre này...
Chúc các bạn một ngày nhiều điều vui .
Đỗ Danh Ðôn
Kỷ Niệm
1
Qua khỏi cổng vào thành nội, đêm chỉ còn là những ánh đèn đường heo hắt từ những cột thông khô thẳng tắp và từ một vài quán cà phê hãy còn mở cửa. Vy lững thững đi về phía Promenades des Gouverneurs, lối dạo mát của mấy ông phó vương thời xưa. Chàng ngồi xuống bờ ghế sắt uốn lạnh lùng. Sông vắng lặng, đang vào khuya. Dãy phố thủ công nghệ với đủ thứ cửa hàng dành cho du khách chập chờn ánh điện bên dưới chân thành. Vọng gác ở cuối promenades nơi có biệt điện của phó vương điêu tàn không bóng lính hoàng gia, khác hẳn với ban ngày hai ba chú lính kiểng đi lại cứng ngắc làm cảnh cho du khách đi tìm khung cảnh gợi nhớ một thời đã quá vãng.
Dưới chân đồi, hai dãy đèn song hành theo con đại lộ ven sông soi mình xuống mặt nước đen lấp lánh ánh sao lẫn đèn các phao bập bềnh. Bên kia sông chỉ còn là mấy vệt ánh sáng hòa lẫn với bóng đèn của những khu phố ngoại ô, đôi ba thập giá tháp chuông nhà thờ lạnh lùng vươn cao trên các mái nhà bao quanh. Sau lưng chàng, âm thanh và ánh sáng từ cửa tiệm NHÀ QUÊ nơi chàng vừa gặp Tam vẫn như chập chờn chạy đuổi theo chàng, như lời thư Hương người tình của chàng nơi phố thị nào đó của thành Hồ xa xôị Chàng không nghĩ tới nhưng lời lẽ dịu êm vẫn ám ảnh, như nói bên tai:
Cũng như cả hai mươi năm nay, từ khi tiếng nhạn chắp nối lời tri kỷ, mỗi khi lòng hạo hực vì nhớ nhung, em phải đặt bút viết như hôm nay, là em lại luôn luôn viết cho anh, nói với anh, người tình hiền hòa ít nói, người tình sinh viên ngày nào mà nay đã trên hai mươi mùa Xuân trôi qua, ngày anh chỉ biết cười mỗi lần hẹn hò, cười để che dấu sự dịu dàng yêu dấu khó diễn tả bằng lời. Anh ơi, em đang phụ anh, em của anh dang rơi xuống đáy địa ngục. Thời gian đã thử thách chúng mình, nó đang diễu cợt em. Nhiều lúc em đã tin rằng sẽ không bao giờ gặp lại anh. Con người anh đang ở bên kia địa cầu, dĩ nhiên, những ý thức, tâm tưởng và cả tình cảm yêu đương biết đâu không còn hướng về em . Hãy nghe em kể chuyện Tam...
Một đoạn promenades chợt tối hẳn. Bóng đêm như chùng thêm xuống, lòng Vy cũng chẳng khác hơn. Chàng chợt nhớ đến mái tóc Hương đen huyền trong bóng tối chập chờn của đại lộ Duy Tân phía gần ty Bưu điện. Ðêm duy nhất hai đứa được mẹ nàng cho phép đi âu yếm ở bãi biển thành Nha. Ðôi mắt nhung huyền với hàng mi đậm, tóc mai tơ nhẹ đã làm Vy khổ nhiều năm sau đô "Tóc mai sợi ngắn sợi dài, lấy em không được thương hoài ngàn năm", Vy vẫn thường nói trêu chọc nàng, không ngờ vận đời xui xẻo nay đã thành thực tại mất rồi!
Phước Long rồi Ðà Nẵng, cao nguyên tiếp nhau bỏ ngõ cho Việt cộng, Nha Trang hiền hòa sau những ngày nặng nề chống đỡ đoàn quân thất trận trên đường rút tràn ngập hỗn loạn thị xã, dân chúng nghe đài BBC cuối cùng cũng đành lũ lượt Nam tiến. Trong cơn bàng hoàng đó, Vy bỏ nhiệm sở dạy học vào Sàigòn và cuối cùng lên chiến hạm số 1 rời bến Bạch Ðằng đêm 29 tháng Tự Hương ở lại, ba năm sau Vy mới lại được tin về Hương. Nàng cũng vào Sàigòn đầu tháng Tư, và đã hồi hương về quê Nha sống lại nghề buôn của mẹ ở Chợ Ðầm cho đến khi nhà và cửa hiệu bị Nhà Nước xã hội tịch thu vì thiếu thuế từ khi cách mạng chưa vô. Nhà nàng trở thành xưởng mành trúc và nàng thành người làm công cho xưởng ngay trong nhà nàng! Ðời sống ngày càng khó khăn, cuộc sống xã hội chủ nghĩa mới của nàng càng đi xuống, nàng sống vô nghĩa, thẫn th Cho đến một ngày, tổ chức đi chui ở Ba Làng bị lộ, nàng bị bắt, anh rể nàng nhận tội thay chủ tàu con đông bị kết án tù bảy năm. Cuộc đời đã đưa đẩy nàng gặp Tam và hình như đang dự tính lấy Tam. Tam không ai khác hơn lại là bạn học thuở thiếu thời của Vy, nay trở thành cán bộ cao cấp chỉ huy một cơ quan Tuyên huấn và tổng biên tập cho một tờ báo đảng ở thành Hồ.
Chính Tam đã kể lại một phần đời Hương như một người ngoài cuộc trong quán ăn ở thành cao haute-villẹ Tam ra ngoại quốc "tham quan"; sau khi đã công tác ở Vancouver, Montreal, đến Quebec city để gặp mấy trự thuộc Huynh đệ Việt-Nam, đã tìm gặp Vy theo lời yêu cầu của Hương. Vy và Tam nói về Hương như một người con gái yểu điệu rảo bước trước mặt hai người, cả hai vẫn ra vẻ cao thượng, dù sao hai đứa đã từng là bạn thân từ dạo 12, 13 tuổi thuở trung học ở Võ Trường Toản rồi cả Pétrus Ký, vì cả hai thằng cùng thích mơ làm chuyện lớn, cùng thiết tha với quá khứ oai hùng của dân tộc, cùng có một số hận thù lịch sử và chính trị chung; nói chung, cả hai cùng nhìn về một hướng nói như Antoine St-Exupérỵ Từ năm đệ tứ, tình bạn trở nên thân thiết ăn ngủ dầm dề nhà nhaụ Năm đó cả hai cùng vào ban báo chí phụ trách đặc san Tết cho trường. Thời đó, học trò chỉ học một buổi, chiều lại là những tranh luận triết lý bi quan hoặc lãng mạn, nuôi nấng bởi những sách vở thời thượng bấy giờ của Phạm công Thiện hoặc sách dịch của Albert Camus, Jean-Paul Sartre đã trở thành sách gối đầu giường. Con đường lá me Nguyễn Du, Nguyễn Bỉnh Khiêm với quán Hẹn đã đếm những bước đầu của chàng và Tam tập làm người lớn.
Trong số báo Xuân của trường năm đó, Vy viết về chuyến đi thăm bố ở chiến trường Sự vô nghĩa của cuộc đời và phi lý của cuộc chiến huynh đệ tương tàn đã được chàng khai thác khá kỹ. Nếu tùy bút của Vy đã khiến Tam và bạn bè gần gủi với chàng hơn thì bài bút ký của Tam viết về bệnh hen kinh niên của nó, của sự đày đọa của cuộc đời dành cho nó và gia đình nó ở xóm Mã Ðỏ Phú Nhuận đã khiến thầy Cẩm và chúng bạn dành nhiều cảm tình hơn cho nó. Bạn bè nó hình như đã hiểu tại sao nó dễ phẫn nộ và có những cử chỉ ra vẻ khí khái hoặc uất hận dù thể chất và tay chân gầy yếu của nó có vẻ phản bội điều phát biểu.
Một sáng mưa lạnh, trong căn nhà nhỏ của nó, gió từ mấy ngõ ngách tối tăm lầy lội lồng lộng qua khe cửa trống xiên xẹo, nó đã kể Vy nghe chuyện bố nó đi kháng chiến ở Liên khu Ba đã bị bọn lính Lê dương bắn chết trong một cuộc phục kích. Mẹ nó dẫn nó và hai dứa em vào Nam dịp di cư 1954. Vy nghe đâu đó như nó muốn thở than, tuyệt vọng, đồng thời thấy lấp ló tia sáng chập chờn của một sự đắc thắng vì sẽ trả được thù. Lúc đó Vy chỉ cảm nghiệm mà không hiểu nó hận thù gì ngoài sự nghèo khó mà mẹ con nó phải cắn răng cam phận và vì đó mà anh em nó thua kém bạn bè. Nhưng lúc đó nó đã hơn Vy ở chỗ đã chiếm được trái tim của cô gái hàng xóm hình như cũng nuôi dưỡng một số hoài bão thầm kín như nó.
Nhưng cơn sốt chính trị của miền Nam đã lôi cuốn hai đứa vào một số hoạt động mà cả hai cùng cho là một cách dấn thân. Nó kéo Vy hoạt động cho phong trào Bảo vệ văn hóa dân tộc của ông chú nó và Lữ Phương, Vũ Hạnh. Hai đứa trao đổi nhau sách về chiến tranh võ trang nhân dân của Võ Nguyên Giáp và lịch sử cách mạng bôn-sê-vích. Dịp Tết Mậu-Thân nó tới gõ cửa nhà Vy đêm khuya tưởng gì hóa ra chỉ cốt nhờ giấu giùm hai cuốn sách về đảng Cộng sản Liên-Xô do Hà Nội in, lấy lý do khu nó ở không có an ninh (!). Mấy tháng sau tới nhà nó, Vy ngạc nhiên thấy nó có thêm một đứa em - đứa trước Vy không để ý, hoặc đã nghe nó kể mẹ nó nuôi vú con người khác. Thấy chàng có vẻ tò mò, nó đánh trống lãng bảo là việc riêng của mẹ nô Những năm cuối cùng ở Pétrus Ký, tình bạn hai đứa bắt đầu bớt gắn bó, nó kết thân với một số bạn khác lớp thường gặp bàn luận không biết chuyện gì, nhưng hễ thấy Vy là chúng có vẻ thậm thụt như giấu diếm gì đó.
Tam thi tú tài hai rớt. Một ngày kia, nó rủ Vy vô bưng, thú thật việc ba nó tưởng đã chết, nay tập kết vô Nam mấy năm nay. Ðó cũng là lý do tại sao mẹ nó, một người đàn bà Bắc ninh có vẻ xưa và quê mùa, lại lâu thay có thêm nhóc con. Vy đi với nó tới Dầu Giây thì đổi ý, lấy xe đò trở về Sài Gòn.
Từ đó đến khoảng 1972, Vy bặt tin nô Ðã thấy và biết nhưng chàng vẫn không tin Tam có thể là cán bộ Cộng sản được. Một tâm hồn nhiệt tình vì lý tưởng nhân bản và vì hoài bão xây dựng đất nước công bằng và dân chủ hơn. Tới ngày đó, Vy nghĩ nó thành thật, chỉ muốn sống xác định nỗi nhiệt thành tha thiết dấn thân của tuổi trẻ vì hy vọng một ngày mai có ánh mặt trời tỏa đều cho mọi người.
Năm 1972, Việt cộng xâm nhập Sàigòn lần thứ hai, đứa em trai kế của nó gặp Vy ở khuôn viên đại học Sư-phạm, ngỏ ý anh nó muốn nói chuyện với chàng nơi quán nước ở Ngã Sáu Cộng Hòa. Vy bỏ một buổi hẹn hò với cô bạn cùng lớp để đến gặp lại nó, bất ngờ có cả Tùng, một người bạn chung nhưng học trên hai lớp, đã có lúc làm báo trường chung mấy năm về trước. Tùng theo cộng sản, bị giam từ ngoài Côn Ðảo mới được phóng thích về đất liền. Về phần Tam, nó đang nằm vùng khu Bàn Cơ, đề nghị Vy tham gia một số hoạt động sinh viên phản chiến; nó biết cả việc chàng làm trưởng lớp. Dĩ nhiên nó vẫn theo dõi Vy, biết người nhà chàng bị kết tội thân cộng và biết cả chuyện chàng hay liên lạc với một vài linh mục thiên tả cũng như chuyện chàng không được đi du học với học bổng của Pháp và Nhật vì lý do trên, nó dùng đó để lung lạc Vỵ Khoảng một tháng sau Vy tỏ ý cho Tam biết chàng đang gặp khủng hoảng, bớt tin vào những lý tưởng chính trị, đang chỉ muốn cậy trông nơi lý tưởng nhân bản và tình yêu là những chân lý có thể thật và lâu bền hơn!
2
Sau đó Vy không còn được nghe nói về Tam cho đến năm vừa rồi, Hương đã nhắc đến nó trong các thư gửi từ quê nhà, và không ngờ hôm nay, Tam gặp lại chàng nơi đất khách quê người khi hai người đã ở hai chiến tuyến đối đầu nhau. Tình thế chính trị cũng đã thay đổi, các nước tư bản bắt đầu o bế Việt Nam mời cán bộ đỏ tham quan về đủ mọi ngành hoạt động và nuôi cả sinh viên công cán bên nhà qua tu nghiệp mà trình độ sinh ngữ rất đáng nghi ng Tam ở trong số được "ưu đãi" đó và đây là lần thứ nhì nó qua Canada. Lần trước nó đã biết Vy ở đâu qua trung gian một linh mục thân cộng, giáo sư đại học nhưng không được ở nhà xứ mà ở nhà riêng và hình như lai rai phạm giới. Quá khứ đứt quãng được ít nhiều chắp nối, hai người tránh nói những khúc uẩn có thể làm tổn thương nhau, nhưng nhiều sự tình lý không ổn vẫn còn vương vất.
Một giờ trước đó ở quán Nhà Quê, Tam vẫn lập luận như hơn hai mươi năm về trước, có lẽ nó lại muốn lôi cuốn Vy theo lý tưởng của nó, lý tưởng hình như ngày càng mất ý nghĩa hiện tồn trên đất nước khổ đau Việt Nam.
- Tao có thể lầm vì có ông bố là đảng viên từ hơn bốn chục năm nay, nhưng đảng còn lầm lẫn hơn khi mù quáng tưởng chủ nghĩa sẽ thắng. Ðàn anh hay cường quốc đều như nhau, bao giờ cũng vì quyền lợi riêng của họ trước. Mình phải thắt chặt hàng ngũ và tự lực cánh sinh trước khi chúng bỏ rơi Viet Nam lần nữa. Sự sống còn của đất nước là phận sự chung của mọi người dù là ở ngoài nước...
Vy nghĩ đã tới lúc không còn ngại làm mất lòng vì nói thật, ít ra là nói những gì đã day dứt chàng lâu nay:
- Theo tao nghĩ đảng Cộng sản ở Việt Nam cũng như ở các nước khác sẽ thất bại mãi mãi vì quá tự cao tự đại với cái gọi là "đỉnh cao trí tuệ của loài người", chạy theo nghĩa vụ cho "loài người" cho "quốc tế" mà bỏ quên nếu không nói là miệt thị văn hiến Việt tộc. Theo Liên xô, Trung quốc, bỏ Trung quốc , rồi lại trở về với Trung quốc chỉ vì tham vọng chủ nghĩa. Sau hơn sáu chục năm, đảng Cộng sản Việt đã trở thành một guồng máy vô nhân không biết rằng con người ta còn có tim óc, còn những hy vọng, ý chí muốn vươn lên, đòi hỏi tự do tối thiểu và sự sống thoải mái theo ý mình. Hơn nữa người Việt xưa nay vẫn quý sự hòa hoãn, khoan dung...
- Cái mà mày nghĩ là bất nhân đó chỉ là hiện tượng, chỉ là hành động xấu của một thiểu số cán bộ hủ hóa, nhũng lạm hoặc còn giữ tính quan liêu...
Vy cho Tam biết chàng đã chán những lý luận gỡ gạc dán vết thương kiểu đô Hễ có chính sách không chạy hoặc bị phản đối, đảng lại thí thân, đổ lỗi cho một vài nạn nhân hay thủ phạm và ngay cả người đã chết như Lê Duẩn, Trường Chinh, Lê Ðức Thọ, hoặc tìm một vài " nguyên nhân khách quan" để vờ vĩnh giải thích.
- Cái gọi là "Ðổi mới" lâu nay ở quê nhà đâu phải vì dân vì nước. Ðảng chỉ nhắm sửa lại guồng máy đảng khi đã kiệt quệ và sợ dân nổi dậy; đảng chỉnh đốn nội bộ, lãnh tụ, chia chác quyền lợi để lại tiếp tục cai trị hà khắc như xưa nay, như "Tư Bản luận" đã đề ra... Hơn nữa, nếu bên Mac tư khoa và Bắc Kinh chưa có Gorbatchev, Ðặng Tiểu Bình thì Hà Nội làm gì có Nguyễn Văn Linh giai đoạn. Giai đoạn vì để sống còn, vì còn muốn ăn trên ngồi trốc. Nhưng khi sinh viên, thanh niên Trung quốc nổi dậy ở Thiên An môn, khi làn sóng Perestroika và nhất là Glasnost tràn đến các nước Ðông Âu làm sập bức tường ô nhục Bá linh, các lãnh tụ Bắc bộ phủ lại cấu kết với nhau để biến Ðổi mới thành chuyện cho có; đa đảng đa nguyên bị ngăn chặn tối đa, luật lệ mới có ra thì cũng chính người ra luật muốn cắt nghĩa và thi hành sao cũng được, tòa án chỉ là công cụ của công an... Kẻ có ít nhiều lương tâm hiểu biết như Hoàng Minh Chính, Nguyễn Kiến Giang, Nguyễn Hộ, v.v... nói ai nghe! Hóa ra, mấy bình vôi cổ lỗ sĩ già khú đế, thần tượng của anh em mày trước sau vẫn chỉ là những kẻ muốn giữ độc quyền ôm khư khư những cái ghế nay được Tàu Ðài loan, Hương Cảng bọc vàng cho, không dám nhìn thẳng sự thực, hoặc đã thoáng thấy sự thực nhưng không có cái liêm sỉ của người hiểu biết; họ còn tệ hơn những người quốc gia mày vẫn phê bình. Ít ra dưới chế độ quốc gia cũ, dù có bất công xã hội, nhưng không có tới cả chục giai cấp với quyền lợi khác nhau một trời một vực, vẫn là chỗ nương tựa cho mẹ con mày trong khi cha mày đang ở trong bưng biền tìm cách lật đổ chế độ đó ...
Vy càng nói càng đâm tức tối, chàng đem cả đời sống hiện ở xứ người để Tam hết hy vọng lung lạc. Nếu ngày xưa Vy có theo thiên tả vì cũng như Tam, chàng muốn những cái đẹp, cái thật và cái tốt một ngày kia tràn lan đất nước quê hương. Nhiệt tình của chàng không thể đi đến chỗ theo Cộng sản một cách cuồng tín, kinh nghiệm khiến chàng vẫn đứng xa những kẻ cuồng tín. Có lẽ tại Vy không có hận thù là chất tôi cho nhiều cán bộ như Tam. Thiên tả vì muốn một xã hội mới tốt đẹp hơn, nhưng không cực tả, lý tưởng dân chủ xã hội cộng với nhân bản Á đông có lẽ là điều Vy mong một ngày kia quê nhà đạt tớị Cứ nghĩ tới quê nhà vì hình như chàng cũng không muốn cắt giây liên hệ với quá khứ. Quê hương chưa trở thành quá khứ đối với chàng, vì quê hương còn đô Hương vẫn còn đó, dĩ nhiên Vy không có thể chờ mãi mãi, chàng đã dứt khoát không trở về quê ngày nào còn đảng Cộng sản độc quyền chuyên chính cai trị. Chàng có thể về tham quan cho chính phủ chàng đang phục vụ, nhưng đâu đó hãy còn nghi kỵ; vả lại chàng đâu cần phải cúi đầu để về lại quê hương của chàng. Rồi hình như tình yêu quay quắt ngày đầu dành cho Hương nay đã trở thành một loại tình yêu chỉ còn như kỷ niệm vương vất. Chàng đã thử ở chung với Chantal, một cô gái hai dòng máu - ông nội người Ý đi lính cho Tây ở Ðông dương vì thích giang hồ, gặp bà nội cô ta ở Hải Phòng, đến đời bố cô ta bỏ Pháp sang lập nghiệp ở Gia nã đại lập gia đình với người Québec. Hơn một lần, Vy nghĩ Chantal đã đánh thức dĩ vãng, nàng như một cái bóng của đời chàng, vẫn hằng đeo đuổị Ðôi mắt và cách nhìn của Chantal đã nhiều lần cho chàng nhìn thấy quê hương long lanh buồn, má lúm đồng tiền và sự dịu dàng gợi nhớ và thay thế Hương. Vy cũng như Chantal có lẽ vì cùng tìm kiếm cội nguồn, tìm cái đã mất hoặc sắp mất, do đó đã lạc lõng để phải gặp nhaụ Trong mọi hành động hoặc suy tư, hình như tiềm thức vẫn sống động đẩy đưạ Nhưng cuộc sống thử vì tìm kiếm đã phải tan vỡ, tâm tính cũng như nếp sống cả hai đã không thể hòa nhập trọn vẹn, nhiều hiểu lầm đã xảy ra, cái exotic của nhau đã không che đậy được những cái tầm thường của cuộc đời!
- Dĩ nhiên tao không thể cắt đứt một trăm phần trăm sợi giây vô hình nối kết với quê hương. Hội nhập, đi làm để sống, có sự hiện diện của người mới để ngày bớt dài, cuộc sống bớt lẻ loi, vui buồn có san sề Nhưng ý nghĩ, giấc mơ vẫn là Việt Nam, hơi thở, cơm ăn vẫn là sách vở báo chí người đồng hương. Một ngày nào đó tao sẽ trở về, tao vẫn mơ ước được đi dạo lại những con đường cũ, hòa nhập vào đám người chen chúc đi chợ Tết, lễ đêm hoặc đi chùa hái lộc... nhưng tao không thể cúi đầu, cười gượng để được trở về. Tao không được diễm phước như mày được thấy tận mắt, nhưng tao tin người dân vẫn không được sống tự do thoải máị Một đám người ngày trước còn hô hào truy lùng, trả thù kiểu Lữ Phương, Trần Bạch Ðằng, hôm sau lại kêu gọi Ðổi mới để ... xây dựng lại những đổ nát mà họ là thủ phạm chính! Mỗi đứa một lý tưởng riêng, mày đừng nghĩ tới việc đòi hỏi tao phải làm cái gì cho quê hương theo cách nói của Nhà Nước cũng như theo lối nghĩ của mày. Tao hỏi thật, mày có thấy thoải mái thành thật với mày trong công việc hàng ngày của mày không?
- Dù không thoải mái vật chất và thường căng thẳng với một số đồng nghiệp chính trị làm chung cơ quan, nhưng lúc nào tao cũng sống thành thật với tao, nghĩ mình phục vụ cho lý tưởng mình vun đắp khi mới lớn. Không thể vì một thiểu số cán bộ cấp trung và cấp thấp thiển cận, bần tiện, tham lam mà tao phải thất vọng cho lý tưởng xã hội của tao...
- Hóa ra những cơn hen ngày xưa của mày cũng chỉ là hiện tượng của một sự không thoải mái ở miền Nam?
- Nhắc tới bệnh hen làm tao tiếc nuối thời trẻ, dù chưa hết hẳn bịnh nhưng tao đã được thở thoải mái hơn... Nghe mày kể thầy tổng Tuân đã qua đời ở Montréal, tao cứ thấy như có cai gì ngày xưa thì phải cứ lẩn quẩn, vẩn vơ!
- Chắc mày hối hận, ổng quá tốt với bọn mình ngày đó! Và mày có chắc sẽ được thở hít lâu dài không, hay khi bố mày nằm xuống, công trạng của mày sẽ bị xét lại, mày sẽ như hạt cát vô nghĩa trong một vũ trụ bao la vĩ đại là chủ nghĩa quốc tế, hạt cát đó sẽ nhỏ và vô nghĩa hơn nữa?
- Con người tự xưng là quốc gia kiểu mày chỉ có những lý luận suông hoặc suy luận một chiều... Mày nên bắt chước mấy ông trí thức về hưu đang cổ động "hòa hợp hòa giải dân tộc" hoặc một số khác lúc nào cũng tự xưng lãnh tụ cách mạng, ăn tiền tư bản nhưng ít ra còn biết hô hào kết hợp hết nhóm này tới liên minh khác!
- Dĩ nhiên phía nào cũng có những mụn nhọt. Tuy nhiên tao tin chắc rằng thời gian sẽ trả lời với tổ quốc dân tộc rằng sự thối nát và thiển cận của chế độ cộng sản sẽ đẩy đất nước lùi lại cả hàng thế kỷ và sẽ đưa đất nước xuống tận cùng địa ngục, vì đó là thối nát của ngu xuẩn, độc tài và cố chấp! Ðừng thấy có tí đô la của tư bản đổ vào mà tưởng rằng sẽ thịnh vượng và đám lãnh đạo sẽ vững như bàn tọạ Cái gì cũng có luật chơi của nó, mình tháu cáy thì cũng đừng nghĩ mấy tay chơi kia không biết gì!
Tam không trả lời, có vẻ suy nghĩ, ánh mắt buồn tối đi. Nhìn Tam, tự nhiên Vy có cảm tưởng rối rắm vừa khinh thường vừa tội nghiệp. Lần đầu Tam tới tham quan thành phố chàng ở vào lúc chớm Ðông, chân đi giày, quần ống hơi cao; một người bạn Vy dạy ở đại học phụ trách tiếp đón đã phải cho Tam áo lạnh và giày mùa lạnh Bắc Mỹ. Người bạn đó kể "vậy mà miệng hắn cứ lớn tiếng chửi tư bản và đề cao đỉnh trí tuệ của đảng". Ðúng lúc đó ông chủ tiệm đưa món chuối chiên bọc đường tráng miệng, món mà nó có lẽ lần đầu được nếm.
3
Sương mù cuối Thu từ xa kéo tới, biên giới thực hư như bắt đầu giăng mắc. Cái lạnh Bắc Mỹ đã bắt đầu buốt giá những tâm hồn băn khoăn hoặc không tìm thấy hạnh phúc trong hiện tại của hội nhập, của sự tranh sống còn. Dòng sông St. Laurent bát ngát như sông Cửu bên nhà càng như tối đen. Bến Cảng đẹp (Beauport) với ngọn hải đăng có vẻ xa xôi trong sương mù. Hòn đảo với cây cầu treo dài ba cây số trong đêm vắng chỉ còn là một đốm hạt đèn li ti như đã bị đẩy lùi vào bên kia bóng khuya.
Vy cứ ngồi như thế cả hai tiếng đồng hồ hay đâu khoảng đô Chàng nhìn quanh, mắt cứ mở nhưng chẳng thấy gì! Ngày mai chàng sẽ viết cho Hương với cái tự do của một người nghĩ rằng yêu là có quyền biểu tỏ, dù thư tay phải đưa nhờ Tam khi trở lại thành Hồ, nơi nàng thiên cư về từ khi có phong trào "Ðổi mới tư duy", vì tình cờ của số mạng, Hương trở thành nhà văn biên tập cho tờ báo của Tam. Vy cũng không ngờ bút pháp "Lệ Hằng" ngày xưa ảnh hưởng Hương nặng nề trong những thư từ viết cho chàng nay lại trở thành cây bút hợp thời văn nghệ "cởi trói".
"Tuyết vừa rơi, và cứ thế mỗi năm gần sáu tháng. Mỗi lúc nhìn tuyết rơi anh lại nghĩ tới con đường ngập đầy lá me vắng lặng chỉ có hai đứa mình dạo qua lén lút mỗi cuối tuần. Nơi cổ thành anh đang ở, sự vắng lặng đó thật mênh mông. Màu trắng tinh tuyền bao phủ vạn vật nhà cửa cỏ cây cũng mênh mông và lớn quá. Anh cảm thấy mình gần với trời xa đất, nhưng cùng lúc anh cảm thấy thật cô đơn quạnh quẻ. Không tiếng chó sủa, không ruồi vo ve, không một bướm bay tìm chỗ đậu tình tứ với nụ hoa, chim chóc cũng biến mất đâu! Vạn vật như chết, như đông giá, sự sống như ngừng lại, như đình trệ. Lòng người cũng giá buốt, tim đập chậm hơn vì bầu không khí quá tinh tuyền, quá nhễ Em sẽ trách anh lúc nào cũng thơ với thẩn, không chấp nhận thực tại và điều hiển nhiên. Hương cứ việc trách anh, vì em có lý. Cũng vì lẽ đó mà anh đang phải ở đây, xứ lạnh cô đơn, lạnh vì thời tiết, lòng người cũng lạnh. Anh lo sợ rồi tâm hồn anh cũng sẽ lạnh giá, trở thành lãnh đạm, thờ ơ với người đời và thế cuộc, mà trí tưởng của anh cũng sẽ trở nên lạnh, cứng, trơ, hết phát triễn, hết còn xoi xách nữa.
"Anh chợt cảm thấy hối hận, cái hối hận thường trực... xin lỗi em, ngay cả lúc anh gần với Chantal người đàn bà bản xứ. Anh hối đã vội vã quá khi ra đi, hối đã dễ dàng có tư tưởng rời bỏ quê hương, hối hơn nữa vì hôm nay mới thấy ra đi là mất, mới thấm thía câu hát "ra đi là hết rồi, quay nhìn đoạn đường trôi, ô hay sao lạnh lùng ..."
"Tam sẽ kể lại em rõ đời sống hội nhập của anh ở xứ người, dù tên Chantal có được nhắc tới, em cứ hãy tin anh dù biết yêu sớm nhưng chỉ yêu có mỗi một lần. Tình yêu chỉ vạn thuở khi đã chín, khi người trong cuộc đã được sửa soạn và đã trải qua bao thử thách, kinh nghiệm... Khi chúng mình còn bên nhau, em đã chứng kiến những tình bạn chân thành khác của anh như Trịnh Công Sơn - chân thành vì bọn anh cần nhau để đi chung lý tưởng. Từ ngày xa quê, anh vẫn chưa tìm ra được những tình thân không lừa dối, không lợi dụng nhau đó. Bạn bè để nhậu khi buồn hoặc để tính chuyện lấp bể vá trời anh không thiếu, nhưng lâu thay anh lại khám phá một hai tên đã nhân danh tình bạn để hại sau lưng, khi vắng mặt, vẽ bướm trét màu lên những chuyện đồn nhảm...
"Dù sao Tam vẫn luôn là bạn của anh, nhiều hơn thuở thiếu thời và ít hơn hôm naỵ Tam có đi lỡ trớn vì cũng bị ru ngủ như bao người khác. Quá khứ gần đã cho Tam có lý, nhưng ngày mai sẽ kết tội Tam và bè đảng. Em có nghe những người như Bảy Trấn, Hà Sĩ Phu, Tiêu Dao Bảo Cự, Nguyễn Hộ... tức tối phát biểu chưa? Ngay trong đám bạn chung của anh và Tam có Tùng Côn đảo, cũng đã đi chui và đã có lần gặp lại anh ở một đại hội cộng đồng người Việt ở Ottawa. Tam tiếc anh không làm thơ được nữa, hắn ví anh với anh chàng thi sĩ lang thang. Anh trả miếng lại Tam, dù anh có phải lang thang xứ người hôm nay là để cho một quê hương đẹp hơn sau này với nhiều người trẻ hơn nhưng hành trang cứng cáp và hy vọng sẽ ít hận thù nhỏ nhoi! Tam nhắc khéo anh "Ðổi mới tư duy, cởi bung kinh tế" cũng là cơ may cho những người tự xưng "quốc gia" có dịp tạ lỗi và trở về. Tam làm anh đùng đùng nổi giận...
"Sáng nay anh ngó ra đường, sau cơn tuyết nhẹ đầu mùa, nắng lại tốt dù trời có lạnh. Sự dịu dàng của cái nắng lạnh vuốt ve cây cỏ ẩn hiện dưới lớp tuyết nước mỏng như nuôi hy vọng cho người chờ đợi, anh mới thấy và hiểu. Ôi giòng thời gian cứ chảy như nước dưới chân cầu tình yêu, anh cũng như em đang hết còn xuân xanh để có thể suốt đời đợi chờ nhau với hy vọng tái hợp như kết cục truyện Tàu. Anh đã hết tin tình yêu sẽ vượt thời gian và không gian, tất cả đã trở thành sáo ngữ, vì tình yêu là đời sống thường ngày, là dịu dàng của hôm nay, là ánh mắt đang nhìn hoặc mong mỏi như anh, hôm nay đẹp hơn, bớt cô đơn hơn. Anh tiếc là hiện tại đang chiếm đoạt suy tư nghĩ ngợi của anh. Quê nhà anh không quên, có lúc thấy dã xa, có lúc như thấy trong đôi mắt của người tới saụ Cái hôm nay tàn nhẫn quá! Anh lại phải nếm mùi thất bại tuy không hẳn chua cay khi Chantal bỏ anh trở về "ấp" cũ. Anh lại một mình độc hành, em sẽ phán rằng anh đáng kiếp vì đã không chung thủy!
"Dù không an nhiên chấp nhận định mệnh đất nước và sự cách chia hôm nay làm chúng mình phải mất nhau, anh không còn muốn đánh lừa em. Nghe anh, anh không còn xứng đáng với lòng chung thủy của em! Tóc sẽ bạc phai, con người vẫn thích đánh lừa nhau với đủ loại hóa chất nhuộm kiểu Nhật kiểu Mỹ... Anh phải nói thật để xứng đáng với em hơn, với cả mọi người thân quen. Quê hương cũng hiểu anh! Hiểu rằng thời gian sẽ là thuốc độc làm con người hết xứng đáng với nhau, sẽ là thức ăn trần gian khiến con dân lưu lạc có thể lớn dậy thể xác mà dần dà xa mất gốc. Quê hương vẫn còn đó, nhưng hình như nơi đó không còn là đất nước xưa của anh mà chỉ còn là một mảnh đất thiếu sót nhiều bộ phận hoặc có cái gì đó đã mất! Tình quê hương đối với riêng anh đã trở thành một loại hận tình!
4
Dòng sông Saint-Laurent mênh mông vẫn hững hờ chậm trôi. Thành phố Levis bên kia sông lặng câm, như chìm khuất hẳn sau làn sương khuya và dưới kia phía sau trường thành, tòa nhà Quốc hội nơi chàng sáng xách dù đi chiều xách về chợt trở nên xa lạ bùi ngùị Ðã hai mươi năm nay, Vy đã phải xa ngọn cỏ hoang đàng, xa tiếng sóng đêm vội vàng trào liếm đại lộ Duy Tân, xa những cái tầm thường của Ngã Sáu Ngã Bảy Ðô thành thủ đô của một vận nước đã bị xóa tên... Chàng đã đến đây, đã làm lại cuộc đời, hội nhập khi không còn lựa chọn khác, có thể là hình ảnh của một sự thành công nào đó của tình cảnh di trú. Nhưng ai có biết chàng đã tự trở thành một hột cát vô nghĩa của một nếp sống; vì bên kia trái đất, quê hương Vy vẫn còn đó với hai tiếng gọi mơ hồ, của Tam và nhất là của Hương, Nguyễn thị Quê-Hương!
Nguyễn Vy Khanh