vhnt, số 110
1 December 1995
Trong số này:
+ thư vhnt
+ 1 - thơ, Ra Biển Gọi Thầm.........................Trần Trung Đạo
+ 2 - thơ, Nhớ Ơi...........................................Dung Nguyen
+ 3 - thơ, Rừng Phong..................................Lộc Quy
+ 4 - thơ, Những Cảnh Đời Buồn.................Thanh Tuyền/Anson Binh
+ 5 - thơ, Biển 2............................................Mây Trắng/Dang Khanh Van
+ 6 - thơ William Shakespeare: "The Phoenix & the Turtle"
..........................................Thanh Tâm Tuyền dịch/PCL
+ 7 - thơ William Shakespeare: "Sonnet 116"
.....................................Tầm Nguyên dịch/Nguyen Tu Hao
+ 8 - truyện ngắn, Bé Thư.........................................Bùi Thanh Liêm
+ 9 - biên luận, Hồ Sơ Nhân Văn Giai Phẩm p2/3.....Thụy Khuê/PCL
Nov. 30, 1995
Trời lại trong trẻo và con trăng lại đầy lên, cứ thế thời gian hết đầy lại vơi, hết vơi lại đầy. Cuối ngày, tôi ở ngoài thanh âm của Stravinsky, những khúc đơn giản tha thiết. Bốn thứ nhạc cụ tấu lên cùng lúc, như của Schubert, như của Schumann, làm gợi nhớ một đoạn ru êm của Beethoven. Âm thanh bảng lảng làm tôi lẩn thẩn. Gần hết một ngày - hôm nay vơi đi, ngày mai lại đầy lên.
Tôi bình an trong tôi. Xin gửi đến bạn một chút bình an.
thân ái,
PCL/vhnt
Ra Biển Gọi Thầm (*)
gửi anh Trần Hoài Thư
Ta ra biển gọi thầm tên đất nước
Gọi quảng đời chìm khuất giữa cơn mê
Ðồng đội ta ơi, ai còn ai mất
Ai ra đi và ai chẳng quay về
Hai mươi năm buộc xa rời áo trận
Ta hóa trang làm một gã học trò
Sách vở, áo cơm, sớm chiều lận đận
Trên lưng đời phỏng nặng vết âu lo
Mưa xứ lạ nhiều đêm không ngủ được
Nhớ anh em, bè bạn đến vô cùng
Những nhánh sông xưa miệt mài xuôi ngược
Biết bao giờ mới được chảy về chung
Ta nhớ lắm những con đường lầy lội
Những chiều hành quân vượt suối băng rừng
Giờ ra trận cười say trên xác giặc
Ðêm âm thầm bưng mặt khóc quê hương
Những ký ức không bao giờ trở lại
Bao chuyện tình dài ngắn đã phôi pha
Những ô cửa của một thời thơ dại
Mây phương nào từ nghìn dặm chia xa
Ta ra biển nhìn mặt trời đỏ cháy
Ðỏ cháy lòng ta một nỗi chờ mong
Thèm một tối cùng anh em bè bạn
Uống cho say rồi chết giữa Sài Gòn.
Trần Trung Ðạo
(*) tên tác phẩm mới nhất của nhà văn Trần Hoài Thư
Nhớ Ơi!!!
Vài chiếc lá
rơi lả tả
gió thu
thổi lạnh sương mù
đánh thức ký ức
em ở đâu và còn thức
có nhớ không??
nơi ấy
bên này sông
khói thuốc toả
ngát buồn
gọi khẽ
người ơi!!
nhớ ơi!!
Dung Nguyen
Khung trời Florida
Rừng Phong
Lần nào đó em chợt tìm về
thung lũng chim bay
ôi ngày tháng mệt nhoài nhung nhớ...
Vẫn còn những lá phong
se sắt màu ly biệt
con phố ngập ngừng
hỏi thăm em những dòng thơ chưa viết.
Em viết
dòng mực tím chơi vơi
hỏi thăm anh mưa thu nắng hạ
nhưng giọt cafe đắng rớt xuống hồn nghiệt ngã
mình chẳng có nhau ở cuộc đời
người ơi.
Thư em không gởi
tình em không theo
nhưng nỗi hạnh ngộ bọt bèo
em giữ.
Ðể làm thơ
để nhớ
con đường có lá phong bay
"anh sẽ nhớ em hoài"
riêng đau, đau mãi.
Cỏ Nhớ
G'day,
Hôm nay nhân sắp xếp lại các tài liệu cũ, tôi gặp lại bài thơ "Những Cảnh Ðời Buồn" của một người bạn học cũ hiện vẫn còn ở VN.
Bài thơ nầy đã được tác giả gửi đi dự thi thơ do chương trình Việt Ngữ, đài NHK Nhật Bản, tổ chức năm 1992, và đã được chấm hạng 3.
Xin gửi đến tất cả các bạn VN trên Net.
Thân ái,
Bình Anson
Những Cảnh Ðời Buồn
Thương thầy giáo nghèo đạp xe kiếm sống
Dấu nổi buồn dưới vành nón che ngang
Ðêm trực vũ trường chờ dăm người khách
Sáng đến trường còn hằn vết lầm than
Thương chú bé không tiền nên nghỉ học
Ngày lượn lờ trên khắp nẻo trần gian
Bán vé số quanh những nơi bàn rượu
Người say rồi đâu nghe tiếng rao vang
Thương cô gái đi làm về ca tối
Lén bán mình mua thêm sữa nuôi con
Thân ốm yếu sao gánh đời trỉu nặng
Bao năm qua lê kiếp sống mỏi mòn
Thương cụ già co ro trên băng đá
Ðêm công viên hiu hắt ánh đèn vàng
Chiếc túi vá kê tóc sương làm gối
Ðời bão bùng đâu mái ấm thâu quen
Thương những kẻ nép mình trong bóng tối
Mái hiên người che giá lạnh đêm mưa
Manh chiếu rách ngăn gió lồng rét buốt
Thèm ánh đèn qua khe cửa đong đưa
Thương cô bé thẩn thờ trong sương lạnh
Phấn son nhòe trên gương mặt ngây thơ
Bao khách lạ với bao đêm thức trắng
Nỗi nhục nhằn cay đắng với bơ vơ
Ta muốn xé trái tim ra từng mảnh
Tặng mỗi người một chút để xót thương
Và chia xẻ những nỗi niềm câm lặng
Mãi trầm luân trong kiếp sống đoạn trường
Quanh đời tôi bao cảnh đời tăm tối
Nên tôi buồn trăn trở mãi khôn nguôi
Ðất nước ơi! Sao vẫn hoài khốn khó?
Dân tộc ơi! Sao cứ mãi ngậm ngùi?
Ta âm thầm bao năm qua uất nghẹn
Biết bao giờ mới thấy được ngày vui?
Thanh Tuyền
Sài Gòn, tháng 7, 1992
Biển 2
Trong đêm đen biển thì thầm lời tình tự
Thật dịu dàng như những chuyện liêu trai
Thật dễ thương như thơ buổi sáng mai
Và ngọt ngào như mật ong nồng thắm...
Biển lung linh với lời ca say đắm
Những bài ca huyền thoại của yêu thương
Của âu yếm ru tình thật vấn vương
Sao bâng khuâng, bài ca nàng tiên cá...
Hình như là... giọt lệ lăn trên má
Những nàng tiên, đang lặng khóc âm thầm...
Trong ánh trăng và gió biển rì rầm
Nàng vẫn hát, cho người không quen biết!
Biển vẫn thế, rì rào trong sóng biếc
Và nhẹ nhàng với những mộng bâng khuâng
Nàng tiên hát, khúc tặng những tình nhân
Bài hát ấy... lạc loài theo cơn sóng...
Mây Trắng
The Phoenix and the Turtle
Beauty, truth, and rarity,
Grace is all simplicy,
Here enclos'd in cinders lie
Death is now the phoenix' nest,
And the turle's loyal breast
To eternity cloth rest,
Leaving no posterity -
'Twas not their infirmity,
It was married chastity.
Truth may seem, but cannot be;
Beauty brag, but 'tis not she:
Truth and beauty buried be.
To this urn let those repair
That are either true or fair;
For these dead birds sigh a prayer.
William Shakespeare
oOo
Cái đẹp, sự thật, sự hiếm quý
Ân sủng rất mực giản dị
Táng tro cốt nơi đâỵ
Cõi chết Phượng Hoàng nương náu
Và ngực Bồ Câu đoan trinh
Trong thiên thu an nghỉ
Không lưu truyền tông tích
Chẳng bởi tật nguyền
Vì chưng hôn phối thanh khiết.
Vẻ thật, không sao thật
Dáng đẹp phô, hão huyền
Sự thật cùng cái đẹp đã mai một.
Trước quan quách đôi linh điểu
Hằng chân thật hoặc mỹ miều
Vọng gửi khúc kinh cầu ngưỡng mộ
Thanh Tâm Tuyền chuyển ngữ
Xin thân chào tất cả,
Cố gắng diễn dịch bài sonnet 116 của tiên sinh Wiliam Shakespear với ý muốn giữ lại được lề luật của thơ Sonnet (14 hàng, mỗi hàng có 10 vần) nhưng khó quá vì sự khác biệt của ngôn ngữ! Cố gắng kiểu đó không khác nào cố gắng dịch một bài thơ lục bát sang Anh ngữ mà vẫn giữ được lề luật 6-8.
Cho nên xin được dịch bài thơ theo khả năng hạn hẹp của mình.
Hope you enjoy it!
Cheers
Hào
Sonnet 116
Let me not to the marriage of true minds
Admit impediments; love is not love
Which alters when it alteration finds
Or bend with the remover to remove.
O, no, it is an ever fixed mark
That looks on tempests and is never shaken;
It is the star to every wand'ring bark,
Whose worth's unknown, although his height be taken.
Love's not Time's fool, though rosey lips and cheeks
Within his bending sickle's compass come,
Love alters not with his brief hours and weeks,
But bears it out even to the edge of doom.
If this be error, and upon me proved
I never writ, nor no man ever loved.
William Shakespeare
oOo
Ðừng cho tôi tìm tới sự kết hợp của ý nghĩ thực
Ðể thừa nhận những ngăn trở; Yêu không là yêu
Nếu thay đổi khi sự đổi thay của tình tìm đến
Hoặc khuất phục để bị sa thải khi người loại bồ
Ồ, không, yêu luôn luôn là một biểu hiện cố định
Nhìn vào bão lớn và không bao giờ rung sợ;
Tình yêu là ánh sao của từng tiếng sủa lang thang,
Giá trị thì nào ai biết, nhưng ngút ngàn trời caọ
Tình yêu không là sự dại khờ của năm tháng đến,
Dẫu má môi hồng trong tầm lưởi hái cong thời gian,
Tình không thay đổi với những giờ những tuần thoáng qua,
Nhưng cam chịu tháng ngày cho dù đến bờ định mệnh.
Nếu đây là nhầm lẫn, và ở tôi tìm được minh chứng
Tôi không bao giờ viê"t, thế nhân chưa bao giờ yêụ
Tầm Nguyên dịch thuật
tháng 11, 1995
Bé Thư
Bé Thư là cô con gái đầu lòng của vợ chồng Huấn. Tôi biết bé Thư từ lúc tôi quen vợ chồng Huấn, có nghĩa là khoảng 5 năm về trước, khi cô bé mới bập bẹ biết nói.
Năm nay, mới chỉ 7 tuổi đời, mà bé Thư đã như là người lớn rồi. So với những cô bé cùng lứa tuổi, bé Thư khôn lanh hơn nhiều. Một điểm nổi bật ở bé Thư là vóc dáng của cô bé. Có lẽ thừa hưởng di truyền từ ông bố, cô bé mang một thân hình - có thể gọi là quá khổ! Chẳng bù với bé Hùng, em trai của cô, quanh năm ốm tong ốm teo như que tăm.
Ðám bạn bè bọn tôi mỗi lần đến thăm vợ chồng Huấn, lúc nào cũng phải trông trước ngó sau, đề cao cảnh giác sự xuất hiện bất thình lình của bé Thư vì cô bé đôi khi hơi... mạnh tay với mấy chú, mấy bác. Tôi nghe kể lại, Hải cao một hôm ghé lại nhà Huấn chơi, đang ngồi chễm chệ trên chiếc ghế bành trong phòng khách thì thấy bé Thư từ trong phòng ngủ bước ra. Hải cao mở rộng vòng tay và nói:
- Bé Thư, lại đây với chú!
Con bé mắt sáng rực, từ hồi sáng đến giờ không kiếm được người chơi trò đô vật, còn đang ngứa ngáy chân tay. Từ xa, cô bé phóng ào tới, như một cầu thủ phòng vệ của môn bóng bầu dục đang trỗ tài "tackle".
"R...Ắ..M!" Chiếc ghế bành bật ngữa, kéo theo Hải cao và bé Thư. Cô bé bật nhanh dậy như cái lò xo, hỏi:
- Chú có sao không?
Hải cao lồm cồm bò dậy, đưa tay xoa nắn, kiểm chứng lại mấy lóng xương sườn, khuôn mặt Hải méo xệch, thiếu điều muốn khóc. Trong khi ấy nét mặt bé Thư vẫn bình thản, coi như không có chuyện gì đáng tiếc. Thấy chú Hải có vẻ không thiết tha gì với cái trò chơi "tackle", cô bé nhún vai bỏ đi, và khoác khẩu súng cao-su lên vai, đi tìm em trai của cô, để chơi trò "power ranger".
Những câu chuyện kể về bé Thư thoạt đầu mới nghe tưởng là huyền thoại. Chính Huấn, bố của cô, có xác nhận với tôi rằng bé Thư rất lì đòn. Hồi bé, lúc mới biết bò, có lần cô rơi từ trên giường xuống. Mẹ cô vội vàng chạy đến, ôm cô vào lòng, dỗ dành. Nhưng rồi bà thấy bằng thừa, vì cô bé có khóc đâu mà phải dỗ cho nín. Nét mặt cô biểu hiện sự đau đớn, nhưng tuyệt nhiên không thèm hỡ môi. Cũng có lần cô áp nguyên bàn tay vào trên mặt bàn ủi nóng hổi. Theo phản ứng tự nhiên, cô thét lên một tiếng, đưa cao bàn tay phỏng rát khoe với bố mẹ. Và cũng như mọi khi, cô không thèm khóc.
Có lần Huấn tâm sự với tôi:
- Ông biết không, sở dĩ tôi đặt tên cho nó là "Thư" vì muốn con gái mình yểu điệu thục nữ như một trang anh thư, còn thằng con trai mình mang tên Hùng để thể hiện sự hùng dũng của nam nhi. Nhưng bây giờ xét lại, biết thế lúc trước mình đặt ngược lại nghe còn hợp lý hơn.
Và rồi đứa con thứ ba của vợ chồng Huấn ra đời, một bé gái kháu khỉnh dễ thương. Rút kinh nghiệm hai lần trước, lần này Huấn đặt tên cho con gái là Dũng. Nội cái chuyện đặt tên cho con này không thôi mà hai vợ chồng đã bất đồng, cơm không lành, canh không ngọt. Kim, vợ Huấn, nhất định phản đối:
- Kỳ cục, con gái ai lại đi đặt cho cái tên con trai. Em chưa bao giờ nghe ai gọi chị Dũng hay cô Dũng bao giờ, ngoại trừ những trường hợp lấy tên chồng để gọi vợ.
Huấn bảo vợ:
- Ðặt tên như thế cũng có cái hay. Dũng có nghĩa là dũng mảnh, con mình mang một cái tên khỏe mạnh như thế em không thích à? Vả lại, bên Mỹ này tên họ đâu có bỏ dấu, thì nó tự động trở thành cái tên "Dung". Tên như thế tha hồ mà nữ tính nhé!
Kim nghe vậy liền dãy nãy:
- Như thế lại càng không được, cái tên đánh vần như vậy tiếng Mỹ có nghĩa là phân bón!
Sau nhiều lần bàn cãi, cuối cùng Huấn cũng thuyết phục được vợ, đặt tên cho con là Dũng, với điều kiện có phụ âm Z sau chữ D, viết thành Dzũng. Như thế vừa tránh được bị ngộ nhận với chữ "Dung" của Mỹ và cũng giúp cho người Mỹ phát âm chính xác hơn.
Bé Dũng cũng biết làm trò khi cô bé vừa mới tập tễnh biết đi, bập bẹ tập nói. Cái tính láu táu, lém lỉnh của bé đã làm cho bọn tôi nhiều phen cười lăn. Tôi xin tạm ngưng về bé Dũng, vì câu chuyện này viết về chị Thư của bé.
Như đã kể ở trên, bé Thư mang vóc dáng không được nhỏ nhắn cho lắm, có đứa bạn của Huấn nhận xét:
- Con bé này đúng là "tướng không đợi tuổi"
Có thằng còn phán rằng:
- Sao lại gọi là bé? Tại sao không là "nhớn" Thư?
Thậm chí mấy cô bé, cậu bé dân bản xứ, bạn học đồng lớp của Thư so ra chỉ đáng hạng ốc tiêu đối với cô bé. Một trong những cô bạn thân mà bé Thư thường hay qua lại là Jenny. Nhà của Jenny nằm giáp ranh với nhà của Thư, cách nhau bởi một hàng rào gỗ, nên đôi lúc hai cô bé này thường hay đi lối tắt bằng cách leo rào. Một hôm, trong lúc bọn tôi đang nhậu nhẹt đằng sau hiên nhà, lúc ấy bé Thư đang ngồi chơi đồ hàng với Jenny. Bất chợt, cô bé lên tiếng xin phép bố:
- Ba, con qua nhà Jenny chơi được không? Nó muốn khoe chiếc xe đạp mẹ nó mới mua cho.
- Ðược, nhưng nửa tiếng thôi nhé.
Rồi hai cô bé hí hửng, tiến về phía hàng rào. Cái hàng rào cao ngang đầu người lớn, bình thường thì hai cô bé phải bắt ghế hai bên hàng rào mỗi bên một chiếc để leo sang. Hôm nay, bất ngờ ngoài dự định nên hai cô phải quay qua mấy chú, mấy bác đang nhậu gần đó nhờ vả. Huấn lên tiếng:
- Mấy ông khiêng con nhỏ dùm tôi qua bức rào.
Huấn vừa nói vừa nhìn Hải cao. Hải cao vội xá hai tay:
- Cho em xin!
Cuối cùng, Robert, người bự con nhất trong đám, đành phải ra tay nghĩa hiệp. Robert bế cô bé da trắng, thả qua bức rào nhẹ nhàng như thả một món đồ chơi, nhưng đến phiên bé Thư, chúng tôi thấy anh chàng lúng túng hẳn, đầu gối có vẻ khập lại một chút, lưng khòng xuống. Khi anh chàng trở về bàn tiệc, có người hỏi:
- Thằng này trông to con mà sao yếu quá, mới vác có hai đứa bé tí ti mà mặt mày đỏ rần.
Robert cãi lại:- Xì, hai đứa nhóc đó mà thấm thía gì, so với mớ tạ gần trăm pounds ở nhà. Mặt đỏ chắc vì tại bia!
Nhưng có điều chúng tôi để ý Robert nói không ra hơi, hai tay run rẩy, gắp miếng thịt gà mải không được. Câu chuyện này kể ra để các bạn hình dung được bé Thư không phải bé nhỏ như đích danh.
Một hôm Kim nói với con:
- Thư này. Hè này con "diet" đi, chứ con gái gì mà to con lớn xác quá. Thôi hè này xuống 10 pounds đi nhé.
Huấn nghe vậy liền phản đối:
- Em nói vậy nghe sao được. Con nít tuổi đang lớn, phải lên cân để biểu hiện sự phát triển cơ thể. Sao lại có chuyện ngạo ngược. Muốn bớt mập thì bắt nó ăn rau và các thức ăn có nhiều chất đạm, tránh mỡ màng.
Thế là mùa hè năm ấy chương trình ăn uống của bé Thư bị quản chế, ăn toàn là đồ ăn không có chất béo. Một hôm tôi xin phép vợ chồng Huấn đến dẫn hai chị em cô đi chơi, buổi chiều đói bụng chúng tôi ghé vô McDonald. Tôi định order ba cho mỗi người một cái "Big Mac" và một ly coke thì Thư nói:
- Con đang diet, không được ăn cheese, uống nước ngọt.
- Vậy con muốn gọi thứ gì gọi đi.
- Cho con hai cái hamburger không có cheese và 2 ly diet coke.
Tôi làm theo ý cô bé, nghĩ rằng con bé này con mắt to hơn bao tử. Nhưng tôi lầm. Bé Thư thanh toán sạch sẽ phần của mình, và thầu luôn phần của em Hùng bỏ dỡ. Tôi nghĩ thầm diet kiểu này cũng như không.
Có một điều là bé Thư không thích bị người khác nhận diện ra sự phát tướng của cô mình. Hể ai mà nói cô mập, tức thì khuôn mặt của cô bí xị xuống ngay. "Lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau", vì vậy hể gặp cô nàng là tôi hay nịnh:
- Sao dạo này trông con ốm quá vậy!
Do đó trong đám bạn của Huấn, bé Thư chỉ thích bám theo tôi mà thôi. Sau này mấy đứa bạn cũng bắt chước nói theo tôi để lấy cảm tình con bé. Huấn nghe vậy, liền nói:
- Mấy ông cứ nói thế, sau này nó lớn, biết được rằng hồi nhỏ bị mấy chú, mấy bác lừa, nó sẽ hận mấy ông cho mà xem.
Cũng như bao nhiêu bậc phụ huynh khác biết lo lắng cho con cái từ lúc chúng còn bé, vợ chồng Huấn luôn muốn tạo điều kiện cho con của mình phát huy tài năng từ buổi thiếu thời. Bé Hùng có vẻ có khiếu về hội họa nên hai vợ chồng mua sắm đầy đủ giấy, cọ vẽ, sơn dầu, sơn nước, chì than, v.v. về cho cu cậu vọc. Ði shopping thấy bọn con nít Mỹ tập vẽ trên máy điện toán, Hùng muốn bắt chước, thế là hai vợ chồng mua ngay một dàn computer mới toanh cho cu cậu.
Duy chỉ có bé Thư là hai vợ chồng không biết cô nàng muốn gì. Huấn một hôm gợi ý:
- Con muốn học vũ ballet không?
Cô con gái chưa kịp trả lời thì bà mẹ góp ý:
- Em thấy ý kiến này hay đấy. Môn ballet vừa có tính cách nghệ thuật, vừa để cho con bé exercise xuống cân.
Bé Thư nhún vai, không có ý kiến, rồi xách súng cao-su đi tìm mấy thằng trẻ con hàng xóm chơi trò cao-bồi. Sự thật cô bé có sở thích muốn học võ, nhưng cô không dám nói với bố mẹ. Số là cô đang âm thầm học võ từ ông chú ruột mới từ Việt Nam sang, và chú có dặn là đừng nói lại với bố mẹ. Nhật, tên của chú, tuy còn trẻ tuổi nhưng đã là một võ sư thượng thặng, từng đoạt giải vô địch trong các kỳ thi võ thuật ở Sài Gòn. Nhật biết ông anh của mình không thích cho con gái học võ, nhưng bé Thư cứ nằng nặc đòi thọ giáo. Thương cháu nên Nhật dạy lén cho nó vài chiêu bí truyền. Thế là bé Thư được hội lãnh đầy đủ các món độc chiêu của Nhu Ðạo, Thái Cực Ðạo, và Thiếu Lâm Tự mà không phải tốn một xu.
Có một lỗi lầm Nhật đã vướng phải là dạy võ cho cháu mà không dạy cho nó rèn luyện tinh thần võ sĩ đạo, biết tự chế, chỉ ra tay khi cần thiết. Bé Thư vì thế vào trường mặc sức mà trổ tài. Mấy thằng Mỹ con lúc trước vẫn hay chọc ghẹo cô bé, bây giờ cô cho chúng đo ván, hay ít nhất cũng phải văng mất vài cái răng cửa. Do đó mà ở trong trường danh tiếng cô nổi như cồn, tuy nhiên ở nhà bố mẹ cô không hay biết. Lý do là bọn nhóc chỉ kháo cho nhau nghe mà thôi, chứ không dám kể cho người lớn, vì sợ bị Thư ra tay trừng trị. Có nhiều đứa bị bầm vập, thâm tím mặt mũi, nhưng nhất định không hở môi, hỏi thì nói bị ngả té.
Một tuần lễ sau khi vợ chồng Huấn gởi con gái cho đi học vũ ballet, cô huấn luyện viên than rằng không hiểu tại sao không em trai nào dám cặp đôi với cô. Huấn bảo vợ:
- Chắc có lẽ thấy cô bé to con lớn xác quá nên mấy thằng Mỹ con sợ "mỏi tay", vì như em cũng biết đó, trong môn ballet người nam phải bế vác người nữ hơi nhiều.
- Anh nói làm em nhớ đến chú Robert lúc bế nó qua hàng rào.
Nói rồi hai vợ chồng phá lên cười. Huấn vừa đưa ra một nhận xét chính đáng, tuy nhiên có điều làm anh thắc mắc. Anh nhớ cái hôm đầu tiên mang Thư đến lớp học ballet, chả hiểu sao khi vừa mới nhìn thấy cô bé là mấy thằng Mỹ nhóc te te chạy có cờ, giống y như mấy con gà bị rót. Rồi anh tự giải thích chắc có lẽ trẻ con Mỹ nó nhát gái hơn trẻ con Việt Nam.
Thời gian vật đổi sao dời. Thoáng đó mà đã mười năm, từ ngày vợ chồng tôi dọn về Cali sinh sống. Chúng tôi mất liên lạc với gia đình Huấn từ ngày từ giã tiểu bang Mississippi, một phần vì cả hai gia đình di chuyển lung tung.
Một hôm chúng tôi đi chợ Việt Nam, trong khu siêu thị Little Saigon. Bỗng vợ tôi khều vào vai tôi nói nhỏ:
- Anh xem kìa. Nom con bé đó y đột con gái của Kim.
Tôi quay qua hỏi:
- Kim nào?
- Kim-Huấn. À, con bé tên gì nhỉ...
- Ý em muốn nói bé Thư.
Tôi vừa nói, vừa đảo mắt theo hướng tia nhìn của vợ tôi. Cách đấy không xa, có một cặp trai gái trẻ đang lúi húi lựa rau. Nhìn từ phía sau, thấy cái dáng gầy gò của cô bé, tôi kết luận ngay:
- Em nhìn gà hóa cuốc rồi, bé Thư gì mà ốm tong ốm teo vậy!
Vợ tôi đinh ninh:
- Em không thể nào nhầm được, khuôn mặt cô bé giống chị Kim như tạc.
Chúng tôi còn đang phân vân thì hai người trẻ này đi đến quầy trả tiền. Cô bé có tình cờ quay lại nhìn chúng tôi trong thoáng chốc, rồi quay trở lại quày trả tiền. Thoáng nhìn nghiêng, tôi thấy phảng phất vài nét quen thuộc của cô bé ngổ ngáo năm xưa. Và bằng một phản xạ tự nhiên, chỉ trong vòng vài giây sau đó cô nàng quay lại nhìn chòng chọc vợ chồng chúng tôi, rồi rời quày trả tiền, tiến nhanh về hướng chúng tôi đang đứng. Cô bé lên tiếng trước:
- Dạ xin lỗi, có phải bác tên là Liêm không ạ?
Vợ tôi hỏi ngược lại:
- Cháu Thư?
Cô bé gật đầu và ôm chầm lấy vợ chồng chúng tôi. Tôi hỏi:
- Sao dạo này mày gầy quá vậy? Suýt tí nữa thì bác nhận không ra.
Thư mĩm cười, không nói gì. Tôi hỏi tiếp:
- Gia đình cháu dọn về đây hồi nào vậy?
- Dạ đâu có. Bố mẹ và các em của cháu vẫn còn ở Mississippi. Cháu sang Cali này đi học, cháu học ở UCLA năm này là năm thứ hai.
Rồi chợt nhớ ra điều gì, cô nàng chạy ra quày tiền, kéo chàng thanh niên trẻ lại:
- Giới thiệu với hai bác, đây là Hoàng nhí, bồ của cháu.
Anh bạn trẻ, với cái hỗn danh Hoàng nhí, mang vóc dáng nhỏ nhắn như một thiếu nữ, lễ phép chào chúng tôi. Sau khi trao đổi số điện thoại, chúng tôi chia tay. Trên đường về, vợ tôi nói:
- Tội nghiệp cho thằng nhỏ, cặp phải cô bé Thư nhà ta. Em còn nhớ hồi bé nó đã võ nghệ cao cường lắm thì phải. Nhỡ mà sau này chúng nó có thành vợ chồng, chắc không tránh khỏi cảnh "chồng tôi vợ chúa".
Tôi im lặng không có ý kiến, trong lòng ngầm đồng ý với nàng. Nhưng cả hai chúng tôi đều lầm, lầm to. Thế mới biết ở đời không ai học được chữ ngờ. Sẵn có số điện thoại của vợ chồng Huấn, cuối tuần đó, tôi gọi điện thoại nói chuyện, nó mới cho tôi hay rằng thằng bé con tên Hoàng kia nhìn bề ngoài nhỏ con, ốm yếu như vậy, nhưng thật sự là một võ sinh có hạng. Nó chính là người duy nhất đánh thắng bé Thư trong một cuộc tranh giải võ Thiếu Lâm, được tổ chức ở tiểu bang Tennessee cách đây 3 năm.
Cũng theo lời kể của Huấn, chỉ có cậu bé Hoàng mới trị được con gái của hắn, vì từ ngày hai cô cậu quen nhau, Thư bắt đầu trở nên hiền hậu, đảm đương như một thục nữ, và hai bên gia đình đã đồng ý sẽ tổ chức đám cưới cho chúng sau khi hai đứa tốt nghiệp đại học, có nghĩa là hai năm nữa. Nghe đến đó tôi nhắc nhở:
- Nhìn mấy đứa nhỏ trưởng thành mới biết mình già. Tôi với ông như vậy mà đã sắp trở thành ông nội, ông ngoại hết cả rồi. Nghĩ đến đó thấy ớn lạnh!
Huấn cũng đồng ý với tôi. Bấy lâu nay chật vật với mưu sinh trong cuộc sống, thời gian trôi qua như bóng câu, ngày lại qua ngày, tuổi đời chồng chất. Giờ. Nhìn lại mình chúng ta thấy gì? Câu trả lời đã được tìm thấy trong một lời nhạc của Trịnh Công Sơn: "Nhìn lại mình đời đã xanh rêu".
Bùi Thanh Liêm
Tháng 11, 1995
Hồ Sơ "Nhân Văn Giai Phẩm"
theo đài RFI, Pháp, Thụy Khuê soạn & đọc
(phần 2)
Những thành viên của phong trào NVGP nhiều người đã khuất và thế hệ ngày nay ít ai biết rõ về con người, về cuộc sống của họ. Nhưng ký ức văn học may mắn không bị thời gian lôi cuốn đi, nhờ đó mà số phận của các tác giả dù có trải những đoạn trường, văn bản của họ vẫn sống, vẫn được người đời đọc lại và viết lại.
Thụy An, trong vụ án NVGP tên bà được nêu lên hàng đầu với cái tựa "Con phù thủy xảo quyệt" cùng bản cáo trạng nặng nề và độc ác nhất dành cho bà. Thụy An là ai? Thụy An tên thật là Lưu thị Yến, trong điạ hạt tiểu thuyết, bà là nhà văn phụ nữ đi tiên phong với cuốn "Một linh hồn". Thụy An đã cộng tác với báo Phụ Nữ Tân Văn và là chủ nhiệm các báo Đàn Bà Mới ở Sài Gòn và Đàn Bà ở Hà Nộị Là phóng viên chiến tranh, bà đã tham dự nhiều cuộc nhảy dù ra mặt trận để cung cấp tài liệu cho báo chí. Bà Thụy An đã từng giữ chức quyền giám đốc Việt Tấn Xẩ Cuối năm 53, Thụy An liên lạc với Hồ Hữu Tường, cổ động cho báo Đông Phương và Thuyết Trung Lập Chí.
Về cuốn tiểu thuyết Một Linh Hồn của Thụy An, nhà phê bình Vũ Ngọc An nhận định trong tờ Nhà Văn Hiện Đại như sau: Một Linh Hồn chính là một tiểu thuyết tình cảm, tác giả Thụy An lại vốn là một nhà thơ, Hàn Mạc Tử đã đem vào thi ca VN lòng tin tưởng ở đạo Gia Tô với một giọng say sưa đầm ấm, Thụy An đã xây dựng cho tiểu thuyết của bà, có những nhân vật tin cậy ở Đấng Cứu Thế, ở Đức Mẹ Đồng Trinh và sẵn lòng nhịn nhục hy sinh. Hãy đọc bà diễn tả những sự tin tưởng êm đẹp của người con gái dòng Thức Đường:
Trên bàn thờ Chuá và những bàn thờ nhỏ chung quanh, vài ngọn nến le lói trong bóng nửa tối nửa sáng Ánh nến dập dờn làm linh động những pho tượng, những bức tranh. Mặt Đức Bà như càng lúc càng rầu rĩ thêm và cứ dần dần sát xuống mặt Vân, và 2 bàn tay mềm dẽo của người thường chắp lại nay từ từ rời ra và đang xoa trên cái trán rạo rực nóng bừng của Vân. Vân tưởng hít thấy cái hơi thở thiêng liêng của người và nghe người thì thào như một cơn gió: "Hỡi con, hãy đem nỗi đau khổ gởi vào lòng ta đây". Vân ngã hẳn đầu, tựa vào bức tường mà bấy giờ Vân mơ màng thấy ấm ấm như tưạ vào ngực Đức Bà.
Một câu chuyện bắt đầu giữa nguồn an ủi muôn năm và nỗi đớn đau cực điểm, và Vũ Ngọc Phan kết luận: Một Linh Hồn đáng kể là cuốn tiểu thuyết xuất sắt nhất của phụ nữ VN từ trước đến nay, tác giả đã giầu tưởng tượng, truyện lại xây dựng 1 cách vững vàng, chắc chắn.
Thời kỳ NVGP, theo lời khuyên của Nguyễn Hữu Đang, Thụy An không lộ mặt trên báo, tuy vậy tập tài liệu của nhà xuất bản Sự Thật có nói đến 2 bài viết của bà tưạ đề "Bích Xu Va" và "Trường hợp tòng quân của thiếu úy Lâm". Thụy An thường ra vào hội nhà văn, mạt sát chế độ bần cùng hoá nhân dân và Thụy An liên lạc, nâng đỡ tinh thần, giúp đỡ quần áo, tiền bạc cho văn nghệ sĩ. Thụy An có 1 ảnh hưởng lớn đối với họ Trong bản tự kiểm thảo, Lê Đạt viết về Thụy An: Mỗi lần ở nhà Thụy An ra, là mỗi lần tôi thấy mình tài giỏi thêm, oán đảng thêm và chán nản thêm, lòng tin tưởng vào đảng của tôi mất dần khi Thụy An nói đến những con người không đất đứng và tôi cũng tự hỏi đất đứng của mình ở đâụ Không chịu đi chỉnh huấn, Thụy An bị bắt giam vào Hoả Lò Hà Nội.
Người được nêu tên hàng thứ nhì trong vụ án NVGP ngay sau Thụy An là Nguyễn Hữu Đang với cái tựa "Tên quân sư quạt mo" với lời buộc tội nặng nề và thô thiển. Nguyễn Hữu Đang quê quán ở Thái Bình, ông tham gia những phong trào ái quốc rất sớm. Trước năm 1942, ông hoạt động trong phong trào truyền bá Quốc ng Năm 1942, ông tham gia Văn hoá cứu quốc, ngay từ 1945, Nguyễn Hữu Đang đã liên lạc mật thiết với Trần Thiếu Bảo, sau này là chủ nhà xuất bản Minh Đức. Trong thời kỳ toàn quốc kháng chiến, Nguyễn Hữu Đang tổ chức Thanh Niên Xung phong và sau đó làm thanh tra bình dân học vụ. Đến năm 1947, Nguyễn Hữu Đang mới chính thức vào đảng. Năm 1951, ông ly khai đảng và từ đó khi ở Cầu gỗ, khi ở Hậu hiền, ông lên tiếng đả kích đường lối của đảng.
Theo lời buộc tội của Mạnh Phú Tư thì Nguyễn Hữu Đang là linh hồn của tờ Nhân Văn, ông tìm tiền, kiếm giấy, thu xếp việc ấn loát và viết bài, nhưng lại ký tên người khác, che lấp những nguồn tài chính, những người cung cấp phương tiện bằng hình thức nêu danh những người góp tiền in báo có một nhân lên gấp mười. Trong bản tự kiểm thảo, Trần Dần viết về Nguyễn Hữu Đang: Nếu không có Đang, không ai có thể tập họp anh em được, sẽ không có tham luận những đề nghị gặp trung ương ra báo mà cũng sẽ không có tờ Nhân Văn. Nguyễn Hữu Đang chủ trương tranh đấu triệt để và trực tiếp. Nhân lớp học 18 ngày do hội Văn Nghệ tổ chức, ông đọc 1 bản tham luận nẩy lửa nhằm đả kích đường lối văn nghệ lãnh đạo của đảng. Nguyễn Hữu Đang không chịu đi chỉnh huấn bị bắt giam vào Hoả Lò Hà Nội.
Trần Thiếu Bảo xuất thân trong 1 gia đình giàu có ở Thái Bình. Trần Thiếu Bảo mở hiệu sách Minh Đức sau trở thành nhà xuất bản, trước ở Thái Bình đến năm 1954 dời về phố Phan Bội Châu, Hà nộị Trần Thiếu Bảo không theo cách mạng ngay từ đầu và ông có tiếng là mạnh thường quân đối với văn nghệ sĩ. Cùng với Nguyễn Hữu Đang, Trương Tửu, ông tổ chức lễ kỷ niệm Vũ Trọng Phụng khi ấy VTP chưa được vinh thăng như bây gi Nhà xuất bản Minh Đức lợi dụng chuyện khai thác vốn cổ để tái bản những sách của Tự Lực Văn Đoàn như Tiêu Sơn Tráng Sĩ, v.v... Nhà xuất bản Minh Đức cũng là trụ sở các cuộc hội họp báo Nhân văn, in giai phẩm Đất Mớị Trần Thiếu Bảo xuất tiền bạc giúp phương tiện in ấn và phát hành.
Ba giáo sư đại học đã tham gia phong trào NVGP là Trương Tửu, Trần Đức Thảo và Đào Duy Anh. Cả ba đều bị cất chức và bị quản thúc gần như suốt đời.
Trương Tửu là nhà phê bình, nhà văn, giáo sư đại học và lý thuyết gia. Trương Tửu bước vào làng văn với loạt bài phê bình những tác phẩm của Tự Lực Văn Đoàn trên báo Loa, Hà Nội năm 1935. Ông còn là tác giả của những tập tiểu thuyết tranh đấu và xã hộị Khi mặt trận dân chủ của Việt Minh bắt đầu phát động, ông đã viết bài đả kích mặt trận trên các báo Quốc Gia và Thời Thế.
Trương Tửu tuyên bố "Văn nghệ không làm chính trị để giữ sự độc lập của trí thức". Cùng với Nguyễn Đức Tùng ông thành lập nhóm Hàn Thuyên. Nhóm Hàn Thuyên theo chủ trương cộng sản đệ tứ in những sách của Lương đức Thiệp, Thái văn Tam, Nguyễn Tế Mỹ, Lý Hải Âu và các sách của Nguyễn Bách Khoa, tức Trương Tửu như "Nguyễn Du và Truyện Kiều", "Hai bà Trưng". Ngày mùng 10-9-45, Trương Tửu cho xuất bản cuốn Tương Lai Văn Nghệ Việt Nam, trong đó ông nhắc đến cái hôm nay đen tối và chật hẹp, và mượn lời André Gide khuyên các văn nghệ sĩ hãy gieo rắt vào tâm trí mọi người chất men bất phục tòng và phản kháng. Tuy vậy, khi toàn quốc kháng chiến, ông cũng đi theo trào lưu trong 9 năm trời.
Về hoạt động của Trương Tửu trong thời kỳ NVGP, Hoài Thanh tố cáo: "Trong 3 tập giai phẩm liên tiếp, nó tức là Trương Tửu đả kích thậm tệ vào toàn bộ cán bộ đảng phụ trách công tác văn nghệ, phủ nhận tính chất Mác Xít, tính chất vô sản của đảng" và Bằng Sĩ Nguyên viết: "Tửu đã nói gì khi giảng dạỷ Tửu đã vu khống đảng là hiện tượng tha hoá, trường đại học có đảng trị, có đảng cụ thể và đảng trừu tượng. Cụ thể bao giờ cũng có sai lầm, vậy mỗi giai đoạn cần có 1 đảng mới. Tửu gây ý thức thoát ly sự lãnh đạo của đảng cụ thể là tấn công vào cán bộ lãnh đạo của đảng trong bài học Tửu đề cao quá đáng Vũ Trọng Phụng để nói rằng không có đảng lãnh đạo, nhà văn vẫn viết được những tác phẩm có giá trị và văn nghệ sĩ còn sáng suốt hơn đảng, cố vấn cho đảng phát hiện vấn đề cho đảng biết.
Trần Đức Thảo nổi tiếng về tài học, đỗ đầu vào trường Normale Superieur ở Pháp năm 1936, thạc sĩ triết học. Trong thời kỳ ở Pháp, ông cộng tác với Jean Paul Sartre tham gia nhóm Les temps modernes. Sau này ông kiện Sartre về 1 cuốn sách viết chung mà Sartre lại không muốn xuất bản.
Những năm 44, 45 ông hoạt động cho hội Việt kiều theo lời buộc tội của Phạm Huy Thông. Khi phái đoàn Việt minh đồng chiếu hộ sang Pháp năm 1946, Trần Đức Thảo đả kích phái đoàn, cho chính sách ngoại giao của Việt Minh là đầu hàng và phản bội, và đảng cộng sản Pháp có đầu óc đế quốc thực dân. Trần Đức Thảo chống lại hiệp ước sâu bộ 6-3-1946. Năm 1949, tại đại hội hoà bình thế giới ở Paris, Trần Đức Thảo lên tiếng cảnh cáo đại biểu Liên Sô và đại biểu Pháp là phản bội các dân tộc thuộc điạ.
Năm 1951, Trần Đức Thảo về nước và năm 56, tham gia phong trào NVGP. Sau khi Nhân văn bị cấm, Trần Đức Thảo vẫn tiếp tục hoạt động, che chở và giúp đỡ các sinh viên. Ông mở diễn đàn tự do ở đại học để truyền bá tinh thần tự do dân chủ. Hai bài viết quan trọng của ông trong thời kỳ NVGP là bài "Nội Dung Xã Hội và Hình thức tự do" đăng trong giai phẩm muà đông, tập 1, năm 1956 lên án những sai lầm trong cải cách ruộng đất và bài "Nỗ Lực Phát Triển Tự Do Dân Chủ" đăng trên Nhân văn số 3 tháng 10-56 được coi như một đề cương tranh đấu cho tự do dân chủ của nhóm NVGP. Trần Đức Thảo viết: "Cái tự do mà họ tức là những người lao động trí thức và chân tay muốn phát triển là tự do của toàn dân phê bình lãnh đạọ Cái tự do đó là quyền của người công dân đã được hoàn toàn công nhận và bảo đảm trong chế độ tạ Tự do không phải là cái gì có thể ban ơn. Người trí thức hoạt động văn hoá cần tự do như khí trời để thở, có tự do thì mới đẩy mạnh được sáng tác văn nghệ, nghiên cứu khoa học, cải tiến kỹ thuật. Phát triển tự do là nhu cầu thiết thân đồng thời là nhiệm vụ số 1 của người trí thức cũng như của toàn dân. Hình thức tự do là tự do cá nhân, cá nhân phục tòng tập thể nhưng tập thể cũng phải có cá nhân xây dựng. Xét đến tình hình thế giới mới đây, lý tưởng tự do cá nhân lại là lý tưởng của những ngày tiến tới, lý tưởng của chủ nghiã cộng sản bâu giờ đến bắt đầu trở thành 1 thực tế lịch sử ở Liên Sô", ký tên Trần Đức Thảo.
Học giả Đào Duy Anh đóng góp tiếng nói của mình trong Giai phẩm Mùa Thu tập 3 năm 1956 với bài "Muốn phát triển học thuật", nội dung phân tích những sai lầm trong nguyên tắc dùng chính trị để lãnh đạo học thuật. Ông viết: "Sự xâm phạm của những cán bộ chính trị vào điạ hạt chuyên môn, cố nhiên là rất trở ngại cho công tác chuyên môn, nhất là công tác nghiên cứu khoa học. Cái điều kiện không thể thiếu được để cho học thuật phát triển là tự do tư tưởng, tự do thảo luận. Tôi chỉ muốn nhấn mạnh 2 hình thức hạn chế tự do tư tưởng tác hại nặng nhất đối với học thuật là bệnh giáo điều và biến chứng của nó là bệnh sùng bái cá nhân. Ở nước ta thì các bệnh giáo điều và sùng bái cá nhân lại còn trầm trọng hơn khiến người ta vô luận bàn về vấn đề gì cũng đều phải bắt đầu dẫn những đề án của Marx, Angel va Lenin, hoặc những ý kiến của Stalin hay các lãnh tụ khác. Bệnh giáo điều và bệnh sùng bái cá nhân lại dẫn thẳng đến cái tệ tư tưởng độc tôn, hễ thấy ai có ý kiến gì vượt ra ngoài nhưng công thức cũ, những khuôn khổ sẵn có thì người ta chụp ngay cho những cái mũ dễ sợ như danh hiệu "cải biến chủ nghiã" chẳng hạn để bịt mồm, bịt miệng người khác.
Tư tưởng không tự do thì không thể tự do thảo luận được, mặc dâù không ai cấm tranh luận, các nhà lãnh đạo vẫn thường nói nên mở rộng tranh luận, nhưng trong thực tế thì sự tranh luận đã bị thủ tiêu từ gốc rồi. Nghiên cứu hay nghị luận 1 vấn đề gì, người người chỉ nơm nớp lo sợ, không khéo thì trật ra ngoài đường lối tư tưởng chính thống độc tôn. Đối với những người ấy công tác học thuật trở thành trò xiếc leo giây. Con đường học thuật phải là con đường cái thênh thang cho mọi người tự do đi lại chứ không phải là sợi dây căng cho người làm xiếc. Phải trừ bỏ những bệnh giáo điều và sùng bái cá nhân để trả lại tự do cho học thuật.
(còn tiếp)