vhnt, số 248
22 November 1996
Trong số này:
thư vhnt..........................................................Nguyện Ý
T h ơ :
1 - Nguyên ngôn giã biệt .....................Nguyễn Phước Tường
2 - Scars ............................................................ian bui
3 - Người, cũng như ta ........................................Hoài Nam
4 - Ðêm hoang ..................................................Thụy Phong
5 - Bàn tay hỏi một bàn tay ..................................Thu-Hồng
6 - Theo dấu chân chim ........................................Tường Vi
D i ễ n Ð à n V ă n H ọ c :
7 - Diễn Ðàn o-thuoc - Nhạc và Thơ .........................Ðan Thanh
8 - Thư gửi một nhà văn ............................Lương Thư Trung
T r u y ện N g ắn / S án g T ác :
9 - Lầu Hạc Vàng (*) ...........................................Lê Ðạt
(*) vì lý do kỹ thuật, vhnt #247 bị cắt mất truyện ngắn của Lê Ðạt, số này xin đăng lại.
oOo
Thời tiết có bốn mùa. Xuân. Hạ. Thu. Ðông. Mỗi ngày có bốn phần. Sáng. Trưa. Chiều. Tối.
Có phải vì thế mà bình minh là hình ảnh của mùa xuân. Trưa, của hạ. Ðêm, của đông. Và chiều, của thu.
Bây giờ là mùa thu.
Trong tôi là chiều lên.
Góp nhặt từng bài thơ trên mỗi cánh lá rơi. Gom lại thành hoàng hôn của một mùa thu man mác. Thành những giòng chữ bạn đang đọc. Thành những vần thơ, áng văn bạn sẽ đọc tiếp theo sau đây, trong số VHNT này.
Và khi những giọt sương văn chương tích đọng đó rơi vào tịch lặng của linh hồn,
bạn có nghiệm ra hứa hẹn của bình minh khi tà dương rực tắt.
Bạn có nghe ra tiếng quá khứ hát bài ca ngợi tương lai.
Bạn có nhìn ra nghệ thuật và nhân sinh kết quang kiều huyền diễm.
Bạn có từ tâm hạnh phúc vô thường.
Như tôi đã.
Như trong lòng tôi đã.
Khi hàng chữ này.
Ngừng lại.
Nơi đây.
Nguyện Ý
(viết thay PCL kỳ này)
Nguyên Ngôn Giã Biệt
Ngày mai anh đi! Ừ! Ngày mai chia ly
Bão vũ trụ về lồng lộng cánh thiên di
Con bướm nhỏ bơ vơ chiều suy tưởng
Chợt nghe đau rạn nứt kén tư duy
Ngày mai anh đi hay ngày mai anh về
Rời bỏ phương nầy vào to rộng phương kia
Ðời vạn nẻo lũ chúng mình xuôi ngược
Trôi về đâu cơn nước lũ đam mê!
Ðến rồi đi đâu là còn hay mất
Mai riêng đường thôi hò hẹn thêm gì
Rồi bước xuống gót đau niềm siêu thoát
Tóc nồng sương nặng trĩu mộng quay về
Mang chất ngọt mấy trời gom nhốt lại
Vá kết tâm tình sờn vai áo treilli
Hờn quê mẹ đau quằn tay súng lạ
Ðời vang lời ru, đất dang rộng vỗ về
Gõ báng súng nhịp lơi niềm tâm sự
Thắp hỏa châu ngồi đếm ánh sao khuya
Trên kháng tuyến tương tư vành nôi cỏ
Lều poncho sương giá đọng đầm đìa
Ngày mai anh đi! Ngày mai tôi đi!
Ngày nao anh về? Ngày nao tôi về?
Ðâu hẹn được - Và thôi xin đừng hẹn
Mỗi phương trời một nôi cỏ vàng hoe
Nguyễn Phước Tường
Scars
Under fields now filled
with wild green grasses
(sleepy fields
bear no stains)
who would think
there then:
Brothers' souls
were hoed down in masses
in a brothers' game?!
Where, by graced meadows
in fiercely heat and rain
bold, hardy women
wear the burden of their men
like hats -
harrowing an unspeakable
past through the heart
of the land
in soft
shifting motions:
Music for orphans
(song of the maimed)
sung by the river
in pain.
11'96
ianb
Người, cũng như ta
tặng PCL
Bằng đôi mắt thật đỏ
Dường như người đã nhỏ
Xuống những giọt
Như nỗi buồn
Mà tôi đã bỏ
Trong tách trà hôm đó
Buồn cũng qua,
Mà người cũng xa
Một chút gì
Còn đọng lại trong ta
Hoài Nam
11/12/96
Ðêm Hoang
Ðêm hoang vọng mắt nhìn trời
Một vì tinh tú chuyển rời ngôi cao
Nghe buồn động vỡ xanh xao
Hồn như xác lá lao đao sân ngoài
Ðêm dài thêm nỗi tương hoài
Tình như bóng nhạt bạc đoài song thưa
Nghe chừng gió xuống vọng đưa
Lời ai nhắn gọi tình xưa đã mòn.
Thụy Phong
(1996)
Bàn Tay Hỏi Một Bàn Tay
Tay hỏi tay có nhớ
Ngày đầu vừa quen nhau?
Tay tìm tay bỡ ngỡ
Như thương tự thưở nào
Ngón đan từng ngón nhỏ
Ðường nét chạy cong cong
Rụt rè tay quấn quít
Như tìm chút thương mong
Tay nào viết bài thơ?
Rồi trao tay vội vã
Tay nào nét ngây thơ?
Ðọc thơ lòng muôn ngã
Tay hỏi tay có thương?
Khói buồn pha màu ngón
Tay về có sầu vương?
Mấy mùa tình chưa trọn
Tay vuốt một bàn tay
Nghe tình đang dậy sóng
Những ngón tay thon thon
Trói đời trong thơ mộng
Ánh dương đà dần khuất
Tay chợt thấy cô liêu
Tay cầm tay thật chặt
Soi bóng khói lam chiều
Tay vẫy một bàn tay
Không gian là ngăn cách
Tay với lấy bàn tay
Xót xa đời cách mặt
Thu Hồng
11/12/96
Theo Dấu Chân Chim...
Em lần ấy bỏ quên thành phố lạ
Và nhánh đời nghiêng ngả dấu chân chim
Tóc mây buồn chiều vương vấn đi tìm
Bờ hoang vắng để hồn anh đứng đợi
Ôi yêu dấu là những cơn mưa dội
Là sông dài gờn gợn sóng đam mê
Mắt đêm vàng như một thuở đi về
Ôm nhung nhớ trong vòng tay nhỏ dại
Anh cứ ngỡ như ngày xưa trở lại
Thời hẹn hò, lần nọ nơi quán khuya
Em ngập ngừng, đêm nồng ấm chở che
Bừng hương tóc, đã nghe tình lớn dậy
Thương một lần, ngàn ngày sau cũng vậy
Em đừng tìm định nghĩa của tình yêu
Yêu thật nhiều, là thêm được bao nhiêu
Thôi cứ nghĩ đời bên nhau có vậy
Rồi mai đây tháng mười không trở lại
Em có còn vui nhẹ bước chân chim?
Tháng mười mưa, anh lặn lội đi tìm
Bờ sông nhỏ chỉ mình em đứng đợi
Ðừng khoác nhé áo lòng thơm tình mới
Vì tình này là tình cuối mà thôi
Mộng trần gian sao còn lắm mọc mời
Thuyền tình giữa bến mê, lòng biển đợi ...
tường vi
11/01/96
Diễn Ðàn Ô-Thước - Nhạc và Thơ
Xin mạn phép đưa ra vài ý nghĩ về đề tài quyến rũ "nhạc và thơ" mà anh S. Nguyễn đưa ra (dù đôi khi đây chỉ là những ý nghĩ cũ mòn!)
"Có phải chăng khi ta yêu thơ trước hết là vì ta yêu nét nhạc của thơ ." (S. Nguyễn)
1.
Anh S. nói đúng lắm, thơ và nhạc luôn có liên hệ mật thiết với nhau. Anh S. đọc thơ để thầm nghe nhạc điệu từ thơ tỏa ra, hay Thanh nghe nhạc để từng lời thơ của nhạc thấm vào, hòa lẫn trong một đêm thanh vắng nào đó, để nghe cái tôi của mình tan biến, thì ngẫm lại cũng đâu có khác nhau nhiều.
Ai bảo rằng nhạc của Trịnh không phải là thơ
"Ru em chờ em nói
Trên môi tình thoát thai
Ru cho bầy lá nhỏ
Rụng đầy một mùa thu"
Và ai bảo thơ của Du Tử Lê không phải là nhạc
"Nhớ ai buồn ngất trên vai áo
Mưa ở nơi này như vết thương"
Có liên hệ mật thiết, nhưng thơ không nhất thiết là nhạc, và nhạc cũng không nhất thiết phải là thơ.
2.
Ðọc thơ tự do khó hơn đọc thơ vần cổ điển. Lấy một ví dụ nhỏ, thơ Thanh Tâm Tuyền. Những dòng chữ siêu thực, tự do, lãng mạn (như nhận xét của Thi Vũ) nhảy múa quay cuồng.
"Khuôn mặt héo chập chờn sau dậu đổ
Khuất dung nhan trong dáng ơ hờ"
Hay
"Những giọt sương, những giọt sương giả lả
Lá khép thu
Nương náu
Kinh hời"
Rồi Nguyên Sa với "vòng môi nhỏ nuôi trăng trong nhịp thở" và mô tả người tình "có mớ tóc màu củi chưa đun"...
Câu thơ không còn suông sẻ, không còn trơn tru, du dương như trước nữa. Những nhẹ nhàng "cô em nhí nhảnh cười", "đứng ngẩn trông vời áo tiểu thư" hay "chị ấy năm nay còn gánh thóc"... biến mất rồi.
Sẽ không hiếm người bảo "thơ gì mà khó hiểu"! và cũng không hiếm người dù có "đọc to", "hét lên", "nghẹt mũi" hay "khản tiếng" thì cũng chẳng cảm được thơ tự do và cũng chẳng tìm ra được tí nhạc điệu nào trong thơ tự do cả! Có lẽ chỉ những người mở lòng ra với thơ tự do thì mới "cảm" được thơ tự do mà thôi, còn "hiểu" thì có lẽ Thanh không dám bàn đến.
Họa chăng phải có những nỗi niềm như tác gỉa thì mới nên bàn đến chuyện "hiểu". Mà ở đời thì có nỗi đau nào giống nỗi đau nào, có nỗi niềm nào giống nỗi niềm nào đâụ Nhưng hiểu theo nghĩa "cảm như thế nào thì hiểu như thế ấy" thì cũng đã quý lắm rồi, phải không anh S.?
Thơ tự do, quả như cái tên của nó: chẳng có ràng buộc về thể thức, về luật lệ. Chữ nghĩa cứ thế mà tràn ra theo tâm tư tác giả, chấm phẩy xuống hàng không còn là hình thức thuần túy nữa mà đã xen chân góp phần làm nên nội dung của bài thợ Thôi thì người đọc cứ tha hồ nhìn bài thơ theo góc nhìn của tâm tư họ vậy .
"Kẻ tri kỷ ngàn năm có một" vì vậy ngày nay chắc không có Tử Kỳ và cũng chăng có Bá Nhạ Thanh nghĩ các nhà thơ làm thơ trước tiên là cho chính họ nên có lẽ họ cũng chẳng thắc mắc về Tử Kỳ Bá Nha đâu anh S. ạ;
Còn nữa, thơ chính là mặt trái của cuộc đời ô trọc này, vì vậy, thơ lúc nào cũng là "thơ thơ" cả, cho dù nó là thơ vần hay là thơ tự do .
Và, đó là vài ý nghĩ của Thanh về thơ và nhạc (hay nhạc và thơ), cũng không biết có đúng hay không, nhưng nó trong đầu thì cứ việc viết ra cho... đầu trống bớt phải không anh S.?
Chúc anh một ngày vui vẻ.
Thân,
Ðan Thanh
Thư gởi một nhà văn
Boston ngày 24 tháng 01 năm 1996
Kính gởi nhà văn Trần Hoài Thư
Thưa Anh,
Thắm thoát mà tôi đã nhận "Ra Biển Gọi Thầm" của anh gần tròn một tháng. Còn gì thú vị hơn giữa mùa Ðông bão tuyết vùng Ðông Bắc Hoa Kỳ - nơi xa quê hương hơn nửa vòng trái đất - được đọc tập truyện gồm 21 truyện ngắn của anh trải dài trong suốt gần hai mươi lăm năm với biết bao thăng trầm, vinh nhục của cuộc đời... Thưa anh Trần Hoài Thư, Trong "Vết thương không rời" (RBGT trang 118) anh tâm sự: "Với tôi, văn chương chính là hơi thở. Hơi thở hụt hẩng. Hơi thở tha thiết cùng sự sống cuồng điên. Hơi thở tàn nhẫn từ dấu chấm, dấu phết. Trời ơi, tại sao văn chương lại tàn bạo như vậy. Phải chi tôi đừng mang cái nghiệp văn chương như thế này. Viết để làm gì. Ngủ cho ngoan đi, con tim của tôi. Lợi gì đâu, khi đổi lấy những trang giấy mua vui bằng cả cái chết. Bây giờ, mấy mươi năm sau này tôi cũng khám phá những điều như vậy. Cay đắng để nhận rằng, văn chương không còn là một nhu cầu cho tâm linh của mọi người. Chỉ có những kẻ điên khùng rồ dại như tôi và đám bạn tôi." Nhiều lúc trong dòng đời luân lạc, biển dâu, cay đắng, ngậm ngùi... đã làm anh buồn lòng nên mới có những lời tâm sự buồn như vậy... Theo thiển ý của tôi, nhờ có những nhà văn nhà thơ với những tác phẩm văn chương đích thực của họ đã làm cho cuộc sống thăng hoa hơn, dễ thương hơn. Áo cơm cần - đôi khi rất cần - nhưng nếu không có nhà văn, nhà thơ mang đến cho con người những tác phẩm văn chương, cuộc sống của con người chỉ còn là cuộc sống tẻ nhạt tầm thường. Thành ra, "Văn chương đích thực vẫn còn là nhu cầu tâm linh của mọi người". Do đó, nhà văn, nhà thơ là người của mọi người. Họ viết văn làm thơ không phải vì cuộc sống áo cơm của họ, mà họ muốn mang đến cho mọi người "một chút lửa" để sưởi ấm cuộc đời - nhất là cuộc đời của chúng ta - những người đang sống ở một nơi không phải là quê hương của mình. Chính vì vậy, sau khi đọc "Ra Biển Gọi Thầm" rất nhiều lần trong những ngày qua và đọc một cách cẩn thận - đêm nay tôi muốn bộc bạch cùng anh một chút lòng của một độc giả chưa gặp anh một lần nhưng đã đọc văn của anh từ hơn hai mươi lăm năm trước với những ngày, những tháng mà bước chân tôi lang bạt khắp mọi nẽo đường quê hương... Hôm nay, ngồi nơi đây, giữa cơn bão tuyết mịt trời với từng cơn gió rít lạnh cắt da của vùng Ðông Bắc Mỹ, đọc lại "Quán Biên Thùy", "Cánh Bướm của Mùa Luân Lạc", "Nhật Ký Hành Quân" và "Khi Mùa Hoa Cà Phê Nở" được anh viết trước 1975 tôi nghe như mình muốn ứa nước mắt để nhớ về những kỷ niệm một thời ở những nơi chốn mình đã hơn một lần dặt chân đến đó.
Thưa anh Trần Hoài Thư,
Ở trang 5 của tập truyện anh dành một trang thật trang trọng với dòng chữ độc nhất:"cho vợ và con tôi". Nhưng ngoài chị và cháu mà anh đã dành trọn vẹn tấm lòng qua tác phẩm được phát hành đầu tiên này sau hơn hai mươi năm luân lạc, dường như qua hai mươi mốt truyện ngắn trong "Ra Biển Gọi Thầm" anh muốn viết cho mọi người về cuộc chiến tranh Việt Nam cùng những hệ lụy vô thường của nó: những khổ đau dằng dặc, những chua xót ngậm ngùi, những kiếp người tù tội, những cảnh đời lưu vong nơi đất khách quê người... Anh - nhà văn Trần Hoài Thư - chẳng những là một chứng nhân của lịch sữ mà anh còn là con người đi làm lịch sữ bằng cả máu, mồ hôi và nước mắt của mình. Trở về với kỷ niệm học trò cho một mối tình câm nín ở một ngôi trường cũ xứ Huế, dù sau bao nhiêu năm chiến tranh, tù tội, tình cờ gặp lại người xưa anh đã viết một cách tha thiết nỗi lòng của mình: "Tôi đợi chị đây, chị Th. Tôi đợi chị sau mấy mươi năm trầm luân lặn hụp. Chiến tranh, tù tội, vượt biển. Tôi đợi chị như đợi một điều gì mà tôi không thể tìm nỗi ở cõi thế gian này..."( Người Về Trăm Năm).
Thưa anh Trần Hoài Thư,
Ðang viết lá thư cho anh còn dang dỡ tôi lại bệnh. Hơn hai tuần nay tôi lại nằm liệt giường với căn bệnh cũ kể từ năm 1976 lúc tôi còn ở tù cải tạo. Cứ mỗi bốn năm một lần nó lại tái phát. Quả đúng như anh viết: "Ngày hôm sau căn bệnh cũ của tôi lại tái phát. Những năm dài của chiến tranh, tù tội, từ lâu tích lũy trong xương tủy máu huyết, lúc này dường như bộc phát. Ðó là qui luật của trời đất, dĩ nhiên. Cơ thể đã bước vào tuổi về chiều làm sao nó có thể chống trả lại những đêm mưa ngày nắng..." (Người Về Trăm Năm trang 13). Những năm, những tháng tù tội dài đằng đẵng tôi đã bị chứng bệnh này hành hạ cộng với sự làm lụng khổ sai từ đào kinh, phá rừng, vác cây, đấp bờ, làm gạch cùng với trăm công ngàn việc ngập đầu ngập mặt, đã nhiều lần tôi phải lần vách mà đi vì quá gầy yếu... Hết lạnh run, lạnh từ trong xương trong tủy rồi lại nóng sốt - nhiều lúc sốt đến độ như anh bảo: "ôm cây ôm cột", sốt mê man không còn biết đất trời gì hết... Mỗi thời kỳ bệnh như vậy là ba hoặc bốn tháng - có khi hơn. Và chu kỳ là bốn năm - nghĩa là cứ bốn năm là bệnh tôi lại tái phát một lần... Sau thời gian ra tù, anh thì đi "Bán Cà Rem Dạo" là vì anh muốn thoát ra khỏi cái thế giới hiện tại - một thế giới gò ép, khép kín, tối tăm, rình rập... Tôi thì trở về quê làm ruộng, giăng lưới, cắm câu - cũng một mình một bóng giữa cánh đồng nước mênh mông, vui thú với những luồng lưới dính đầy cá, trắng cả khoan xuồng, vui thú với trời trăng mây nước. Những năm tháng như vậy anh có ngờ tôi đã nhiều lần đọc lại văn của anh trên những tạp chí Văn, Bách Khoa mà nhà tôi còn cất dấu lại. Anh thử tưởng tượng có gì thích thú cho bằng - giữa cảnh đời quá nghiệt ngã, cơ cực trăm bề mà có được những giây phút một mình với chiếc xuồng câu, căng chiếc cà rèm lên, nhấp chút nước trà nóng, nằm đọc "Nhật Ký Hành Quân", "Quán Biên Thùy" của anh - những truyện viết về chiến tranh mà không sợ ai để ý dòm ngó.
Thưa anh Trần Hoài Thư,
Viết về anh đã có ông Lê Mai Lĩnh, ông Hồ Công Tâm đã viết và giới thiệu "Ra Biển Gọi Thầm". Tôi thì không đủ tư cách làm cái việc tày đình đó vì thú thật với anh mình phải biết mình là ai. Tôi tự cảm thấy mình không đủ chữ nghĩa để diễn đạt ý mình muốn nói. Thêm vào đó tôi không là cái gì hết. Tôi chỉ có được cái may mắn đã sống và đã đi qua những nơi chốn mà anh đã chiến đấu trong chiến tranh cũng như cơ cực trong tù tội. Ðó là những quốc lộ từ vùng duyên hải dẫn về cao nguyên như quốc lộ 17, quốc lộ 19, những Tuy Phước, An Khê, Pleiku, Phước An, Buôn Hô, Ban Mê Thuột v.v... Những Bình Minh, Phong Ðiền, Cần Thơ, Long Xuyên, Lấp Vò, Kiên Lương, Luỳnh Huỳnh, Tám Ngàn, Kinh Năm, Kinh Một v.v... ở vùng Hai và vùng Bốn chiến thuật, nên "Ra Biển Gọi Thầm" của anh đã đi vào hồn tôi như dòng nước sông Cữu Long vào mùa nước lũ tràn ngập mọi cánh đồng. Nó cuốn hút tôi mãnh liệt đến như vậy. Và tôi đã chìm vào đó... [...] Tôi thì mới qua Mỹ ngơ ngáo như một anh chàng nhà quê - mà nhà quê thật vì từ sau 30-4-75 tôi bị tù gần tám năm ở trong rừng tràm với khỉ, sau đó về quê làm rẫy, làm ruộng, giăng lưới, giăng câu- tiếng Anh, tiếng Mỹ dốt đặc - có dịp gặp một vài người may mắn tới trước mười lăm, hai mươi năm, có bằng cấp - họ không buồn hỏi mình một câu chứ đừng nói là thân thiện như anh. Tôi nghĩ rằng những người ấy, họ chưa có dịp ở tù cải tạo, họ chưa biết thế nào là cơ cực, tủi nhục khi lặn hụp xì xụp dưới nuớc để kéo suốt bè tràm trong khi bụng dạ đói cồn cào như anh viết: " Con người kỳ lạ. Nó biết kéo cái ách bằng cách nào hay nhất. Nó sáng tạo những dao những búa thay vì người ta bắt nó dùng dùng hai bàn tay không. Nó lại biết dùng vải bao cát để che thân, dùng dây điện thoại để làm dây đàn, để hát lại bản tình ca. Nó cũng thâm độc hơn bất cứ sinh vật nào. Nó đái lên những con cá lóc, cá trê nó câu trước khi nạp phần cho cán bộ quản giáo. Nó thầm lén phạt đứt cọng mạ non thay vì làm cỏ. Nó chửi thề khi nó ngồi nghe chính trị viên lên lớp. Nhưng nó lại chịu thua trước thiên nhiên. Bởi vì nước thì quá sâu và chảy quá mạnh. Bởi bó tràm thì quá ngỗ nghịch, cứng đầu. Nó ngoi ngóp. Nó vùng vẫy. Hai chân vừa đạp. Hai tay vừa kéo. Mưa lạnh làm châu thân nó run như lên cơn sốt rét. Hàm răng nó đánh cầm cập. Nó lại đói. Cái đói ghê gớm. Cái đói tàn bạo quật ngã nó kh iến nó cứ thở dốc, thở rống từng hồi từ lồng ngực ngỡ khô cạn. Nó lảo đảo. Nó đang ở bên trời. Nó hay là tôi. Và tôi hay là nó. Tôi cũng chẳng cần biết nữa ..." (Ra Biển Gọi Thầm, trang 140). Họ chưa có dịp sống trong sự quản chế của công an; họ chưa có cơ hội để đi "bán cà rem" như anh và họ cũng không có dịp ngữi mùi bùn, mùi cá như tôi; họ chưa có dịp ăn cơm thiu, uống nước phèn nước mặn nên họ cứ nghĩ những hạng người như tôi là đồ ngu, đồ hèn không cần tiếp chuyện.
Thưa anh Trần Hoài Thư,
Những ngày tháng tôi còn ở Nha Trang, mỗi khi rãnh rỗi, tôi thường hay đến uống trà với nhà văn Võ Hồng. Lúc bấy giờ nhà văn Võ Hồng bằng tuổi anh và tôi bây giờ, nhưng ông vẫn thích tiếp bọn trẻ như mình và nói đủ thứ chuyện một cách bình dị, hiếu khách. Ðọc "Nha Trang" của anh, anh đã làm tôi nhớ lại những lần gặp gở nhà văn Võ Hồng ở một cái bàn bề bộn ly tách chưa kịp quét dọn lau chùi - Và dường như ông cũng thích sự bề bộn như vậy - để nghe ông say sưa nói về cách viết văn của ông, để nghe ông kể về "Mái Chùa Xưa", "Trận Ðòn Hoà Giải". Với vầng trán rộng, giọng nói Phú Yên thân quen, tác giả của "Hoa Bươm Bướm" đã làm lòng tôi êm ái như bây giờ nghe giọng nói Nha Trang quen thuộc của anh mà tôi có dịp sống ở thành phố biển đó tròn bốn năm...
Với "Nha Trang" của anh, tôi cũng nhớ lại những cái tết ở nhà chị M.Ð, trưởng nữ của bác Mộng Cầm, để được gặp bác Mộng Cầm từ Phan Thiết ra thăm, và nghe bác kể về giai thoại giữa bác với thi sĩ Hàn mặc Tử.
Nha Trang của anh cũng là Nha Trang của tôi với những năm tháng tuổi trẻ. Nhà sách Huy Hoàng ở đường Ðộc Lập. Chẳng lúc nào là tôi không đến đó - đến để tìm mua báo mới mà cũng để được gặp cô hàng sách dáng xinh xinh...
Anh yêu biết mấy Nha Trang của anh, nhưng anh cũng yêu biết mấy một tên gọi là Bình Minh ở vùng đồng bằng - một thị trấn nhỏ, nằm trên đường quốc lộ 4 giữa Vĩnh Long với Bắc Cái Vồn (Cần Thơ). Một thị trấn với cả trăm người cùng với trăm quả tim yêu thương anh: "Nếu một ngày nào đó, tôi bỏ nơi này ra đi, thì những con đường hẻm, những chiếc cầu khỉ, ngôi trường tiểu học, những bãi đá gà, những ngôi nhà ven bờ sông và bao nhiêu người sẽ là những hình ảnh khó có thể quên được. Họ là lửa hâm con tim tôi, nâng bàn chân cùng những vòng xe đạp lăn, dù nhiều người ở cùng con đường nơi thành phố cũ đã dấu mặt mà khóc thầm: Không ngờ một người như thế mà đi bán cà rem dạo. Tôi nghiệp dường nào." (Người Bán Cà Rem Dạo, trang 37).
Thưa anh,
Qua hai mươi mốt truyện ngắn trong "Ra Biển Gọi Thầm" của anh đã có biết bao mảnh đời bất hạnh, nghiệt ngã trong chiến tranh và còn kéo dài mãi tới hôm nay. Trường hợp cô T. con của cố CHuẩn Tướng Lê văn Hưng là một: "Sau khi họ về, cô T. phải mang cái ách con của tên tướng tử thủ, chịu trăm cay nghìn đắng, làm nghề giặt mướn cho các nhà trong xóm" (Khi Về Nữu Ước trang 98).
Một tác phẩm chỉ vỏn vẹn 222 trang mà đã gói ghém hằng trăm, hằng ngàn những mảnh đời tan tác với biết bao kỷ niệm có thật thì cũng quá đủ. Thế nhưng có điều tôi xin thưa thêm cùng anh. Sau 30-4-1975, tất cả anh em chúng ta bị lùa vào trại tập trung. Chị Oanh cũng như nhà tôi cùng tất cả các chị đều tần tảo kiếm từ hạt cơm hạt gạo nuôi con, thăm chồng đăng đẳng... Từ một cô thơ ký kế toán, nhà tôi phải bỏ về quê ngâm mình trong nước lũ để dọn rong, dọn cỏ, chuẩn bị cho một mùa sạ lúa mới, kiếm gaọ nuôi chồng nuôi con. Ðôi bàn chân học trò chưa một lần dính bùn, ngâm nước, nhớp nhúa phân gà phân heo mà trong bụng lúc nào cũng eo sèo ủ dột, chia xẻ cùng chồng nỗi bi thảm tủi nhục tột cùng. Rồi những năm tháng thăm chồng, một mẹ hai con thơ dại lên ba lên năm, chắt chiu từng đồng dành dụm mua từng con mắm con khô... Rồi một lần trên dường đi thăm chồng về, tàu bị cháy và chìm, nàng lại không biết lội, bị phõng lửa mà phải cố bườn, cố lội để cứu mình, cứu con. Anh thử tưởng tượng có cảnh nào bi thảm hơn không? Anh đã viết về sự thủy chung của người góa phụ sau hai mươi năm lưu lạc đã trở về "Bãi Chiến" tìm lại mộ chồng (Bãi Chiến, trang 15). Tôi nghĩ là anh sẽ viết rất độc đáo về nỗi đơn độc, lẽ loi của những chị là vợ của tù cải tạo gặp phải. Thưa anh Trần Hoài Thư, Cổ thư có câu:
"Văn vô sơn thủy phi kỳ khí.
Nhân bất lao lung vi lão tai"
Tuyển tập "Ra Biển Gọi Thầm" của anh quả thật rất "kỳ khí" và cá nhân anh - nhà văn Trần Hoài Thư - quả thật rất "lão tai".
Hy vọng với lá thư khá dài này - tuy chưa nói hết được nỗi lòng của tôi về tuyển tập "Ra Biển Gọi Thầm" vì những truyện ngắn của anh như con trăn cứ quấn quanh mình, tôi cố gỡ, nó cố quấn chặc vào- phần nào làm anh vui giữa nơi quê người. "Một chút lửa" mà anh vừa nhóm lên đã sưởi ấm mọi tấm lòng - trước hết "một chút lửa" đó hâm nóng con tim của anh, của những chiến hữu của anh, của những văn hữu của anh - những nhà văn nhà thơ từ khắp mọi nẻo đường xa xôi dịu vợi bão tuyết của quê người đã cùng về với anh trong đêm ra mắt "Ra Biển Gọi Thầm" để được sưởi ấm bởi "một chút lửa" qúy hiếm đó. Và cả chúng tôi - những độc giả của anh từ hai mươi lăm năm trước cũng như bây giờ luôn luôn háo hức chờ đợi được anh mang đến ánh lửa bập bùng đã cháy trong anh.
Tôi mơ uớc một điều - có lẽ anh không phản đối - Tôi ước gì những bà con ở Bình Minh, một thị trấn heo hút vùng đồng bằng, nơi mà những con người mộc mạc, chất phác, quê mùa, khi anh đi vắng họ nhớ họ thương, khi gặp lại anh họ mừng họ khóc - những bà con đó họ được đọc "Ra Biển Gọi Thầm" của anh. Họ sẽ sung sướng biết dường nào... "Ra Biển Gọi Thầm" của anh sẽ không còn là "một chút lửa" nữa, mà là ngọn lửa bùng cháy rực sáng khắp quê hương để xua tan bóng đêm tăm tối triền miên.
Nơi đây đang là mùa đông băng giá nhưng nơi quê nhà đang vào những ngày cuối năm. Chạnh lòng nhớ về bằng hữu, anh em ruột thịt ở quê nhà, nhớ về mồ mả tổ tiên, cha mẹ, nhớ về gốc mận gốc xoài, nhớ về những em bé nghèo khó không có áo mới mặc vào đầu năm, nhớ về những người hàng xóm nghèo cực không có đủ tiền mua chút thịt cho ba ngày Tết, lòng tôi se thắt lại - nói như anh đã viết: có gì đó "cứa" vào da thịt - không ngũ được. Hằng năm tôi cố tằn tiện để có chút ít tiền gởi về làm quà cho những em bé, những người hàng xóm nghèo - của tuy tơ tóc nhưng đó là một chút tình chân thật của tôi để đền đáp lại tấm lòng của những nông dân quê mùa, mộc mạc đã đến ôm choàng lấy tôi và họ đã khóc khi tôi trở về sau tám năm ở tù cải tạo - cũng như họ đã đứng hai bên đuờng chảy nước mắt tiễn tôi khi tôi rời bỏ nơi cắt rún chôn nhau thêm một lần lưu lạc...
Lương Thư Trung
Boston MA 4-2-1996
oOo
Thư Trả Lời của Trần Hoài Thư:
New Jersey ngày 16 tháng 11 năm 1996
Kính gửi anh Lương Thư Trung
Trước hết cho tôi được gởi lời xin lỗi ở sự hồi âm quá chậm trể nàỵ Thú thật tôi vô cùng bối rối khi đọc thư của anh. Những ân cần của một độc giả có một kiến thức quá rộng như anh, đã làm tôi quá ngỡ ngàng, tự thẹn với chính mình. Tôi không biết mình có xứng đáng với những gì anh viết qua lá thư hay không. Thưa anh Lương Thư Trung, Tôi học được một vài điều:
1. Người viết không bao giờ cô đơn
2. Người viết phải có trách nhiệm
3. Viết cho mình, tốt, nhưng viết cho đám đông bị bỏ quên, tốt hơn
4. Mọi thứ mất đi. Núi sông, quê hương, bằng hữu... Nhưng văn chương và tấm lòng người đọc không bao giờ bị mất...
Một lần nữa cám ơn anh đã nhen ngọn lửa trong bếp tro quạnh hiu của tôi.
Thân kính
Trần Hoài Thư
Lầu Hạc Vàng
Không tận xanh thơ thở trắng trời
Nắng xiên khoai mặt người cố tình đánh chìm đời mình trong sóng rượu... làm Thôi Hiệu bừng tỉnh.
Cơn buổi xế chiều thật não ruột. Chưa bao giờ Thôi Hiệu cảm thấy chiến bại như lúc nàỵ Cuộc đời như con thuyền rời bến Dương Châu hoa khôi hoà khói bỏ rơi kẻ nhỡ đò trên đất lạ.
Văn hay chữ tốt mà làm gì...
Cái bằng tiến sĩ chỉ đem lại cho Thôi Hiệu một chức quan nhỏ với bao nhiêu hệ lụy.
Tài hoa làm gì... Nếu tài hoa chỉ để làm những câu thơ đẹp đủ quyến rũ đám nữ nhân chuộng hư danh hay đám nhà thơ dễ tính. Nói chi so sánh với Lý Bạch, Ðỗ Phủ, với Lưu Trường Khanh, Vương Xương Linh, Thôi Hiệu cũng còn xa mới với tới.
Thôi vẫn nhớ đêm cầm ca mùa trăng ấy, đệ nhất giai nhân Tây Hồ chỉ hát toàn thơ Vương Chí Hoán. Danh sĩ đất Biện Châu bỗng có cái xót xa của một trượng phu thấy người yêu ngoại tình ngay trước mắt mình và chén bồ đào mỹ tửu đêm ấy đột nhiên đắng ngắt như có ai vô tình bỏ vào đó một trái bồ hòn. Người ta đã quên Thôi ngay lúc sinh thời.
Cái giống nhà thơ kể cũng lạ nếu không nói là hâm, chập mạch. Bao nhiêu đền đài, miếu mạo, lăng tẩm đồ sộ đã bị thời gian xóa sạch, thế mà bọn ngông cuồng không ngoằng vô dụng dám đánh một canh bạc lớn với thời gian, ôm cuồng vọng cầm giữ bất tử trong một kỳ trận chữ.
Và cũng thật trớ trêu, hình như không ít những giai nhân, những vương triều hùng mạnh, những chiến tích hiển hách thời xưa sở dĩ lưu lại hậu thế cũng là nhờ mấy con chữ gió thổi bay của đám cuồng sĩ kia. Hay kiếp trước Thôi đã làm gì thất đức.
Mà nào ai có hiểu được nỗi lòng của Thôi. Một người bạn thân đã chỉ vào mặt nhà thơ quát lên khi rượu đã vơi trong bình: "Mày là thằng không biết điều... Cả vùng Giang Nam này bao nhiêu người chỉ thèm được một bài thơ như của mày cũng đã cho là tuyệt vời hạnh phúc!".
Biết nói thế nào với bạn bây giờ.
Kể nhiều lúc ngồi múa bút giữa bầy cung văn một chữ thè lưỡi khen hay , hai chừ xuýt xoa khen tuyệt cũng khoái... để lúc tỉnh đồng lại càng dằn vặt, càng xót xa với câu hỏi tàn nhẫn: "Trong hàng trăm bài thơ này liệu có câu nào còn lại?"
Ôi, trong cuộc chạy đua với thời gian không gì nản hơn sự cầm bằng tất cả những câu thơ của mình sẽ lần lượt bỏ cuộc.
Thôi nhìn mấy chữ đại tự Hoàng Hạc Lâu nét bút gân guốc mà bay múa tựa nét bút Vương Hi Chi . Ánh nắng chiếu vào nền thiếp vàng khiến những chữ lung linh như khởi động. Thôi Hiệu chua chát: một trăm năm sau công trình tuyệt tác này chỉ còn là gò đống và cỏ lác... Có lẽ cả tên Lầu Hạc Vàng cũng chẳng còn ai nhắc nhở tới nữa.
Cảnh đẹp như thoát tục. mây trắng bay cả vào chung rượu. Xa kia là đất Hán Dương, những hàng cây đứng thẳng tắp như đạo quân vào lúc Hàn Tín điểm binh... và bãi Anh Vũ cỏ xanh mơn mởn lông tơ má thì con gái.
Chẳng lẽ tất cả rồi sẽ bị thời gian tàn phá hết? Biết đâu tất cả sẽ còn sống mãi nhờ mấy dòng chữ của Thôi. Nhà thơ đứng tuổi bỗng thấy lòng bồn chồn khó tầ Thành công, chí ít cũng được hưởng cái say của một giấc mộng lớn... Như người xưa, chắp hai cánh vào tay bay lên giữa man mác rời rộng... Và chết cùng mây trắng...
Thôi bỗng mỉm cười nữa hài hước nữa ngậm ngùi: "Có khi làm xong bài thơ này mình sẽ từ trên lầu Hạc Vàng nhảy xuống... lấy cái chết thế mạng cho những con chữ bất đắc".
Và Thôi cầm bút. Viết gì bây giờ? Những chữ đầu lòng mới khó làm sao! Tay ông rùng rùng. Mồ hôi và rượu vã ướt đầm. Thôi cảm thấy người bừng bừng như say rượu. Có lẽ còn say hơn rượu. Ông không nhìn thấy ngọn lầu, không nhìn thấy dòng sông, không nhìn thấy cảnh vật chung quanh... Ông cố trấn tĩnh nhưng không trấn tĩnh được. Hình như có một ai đó nói trong đầu ông. Tiếng quen lắm... Nó nói gì vậy? À, nó đọc thơ. Ông có cảm giác một diễn viên quên lớp nghe tiếng người nhắc vở trong cánh gà. Tay ông cũng tuân theo mệnh lệnh của kẻ khác. Và nó lượn nó múa nó viết gì thế kia, dưới thôi thúc một mãnh lực kỳ bí không cưỡng lại được.
Bài thơ xong lúc nào Thôi cũng không hay. Khi đọc lại ông bỗng bàng hoàng. Bài thơ tuyệt vời này có thật của chính ông hay của ai? Làm sao ông có thể viết nổi những câu thơ trác tuyệt đến thế! Chúng có thể sánh những câu thơ đẹp nhất từ ngàn xưa không chút xấu hổ. Ai đã gà cho ông? Hay những chữ bỗng biến hóa, tung hoành, tự tin ở thân phận bất tử của chúng đã nhập vào bất cần ông. Nhà thơ đã tạo ra chúng hay chúng đã tạo ra nhà thơ? Lòng tràn ngập một niềm hân hoan và tri ân vô hạn. Thôi Hiệu qùy xuống kính cẩn chắp tay lạy những con chữ đang lấp lánh trên tường. Chữ đã dẫn ông ông gặp bất tử trong khoản khắc kỳ ngộ.
oOo
Thời đó chưa có hệ thống phát hành sách cũng như các hệ thống thông tin đại chúng hiện đại như bây giờ nhưng bài Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu đã nhanh chóng truyền đi khắp lục địa Trung Hoạ Những ăng-ten cực nhạy là tai của giới yêu thơ đã bắt ngay được tần số của nó và người ta lập tức phát miệng phủ sóng toàn quốc... mở đầu cho cơn dịch Hoàng Hạc Lâu.
Tên tuổi Thôi Hiệu bỗng sáng chói như một thiên thạch bay trên nền trời, tưởng chừng át cả Lý, Ðỗ.
Ở đâu cũng thấy nói đến "Hạc Vàng đi mất từ xưa. Ngàn năm mây trắng bây giờ còn bay". Vô phúc cho kẻ nào không thuộc lòng bài này. Anh ta lập tức bị xem khinh mười lăm phút và có thể vĩnh viễn bị khai trừ khỏi hàng ngũ tao nhân mặc khách.
Một hôm Thôi Hiệu đi thăm một người bạn tại một địa phương nọ. Gió mùa thu bay lá cuốn theo ngọ tửu kỳ xào xạc của một quán rượu khiến nhà thơ không đành lòng bước qua. Ôi những lá cờ rượu, nó mới đình đám mời đón làm sao! Hình như chỉ có ở Trung Hoa người ta mới treo cờ trước các cửa hàng rượu ngày nọ sang ngày kia như vậy. Lá cờ lúc nào cũng bay... cũng say. Có phải câu "nam vô tửu như kỳ vô phong" là xuất xứ từ những lá cờ tưng bừng như cờ lễ hội này?
Rượu ngon, cá nướng lại tuyệt. Thôi Hiệu mềm môi đánh chén mãi, cho đến lúc tửu nhị đến tính tiền, cho tay vào túi mới biết nó đã rỗng. Mặc dù nhà thơ hết lời nói khó và cam đoan rằng khi gặp người bạn là Vương tri phủ nhậm chức tại đây sẽ cho người đến thanh toán gấp đôi, ông cũng không lay chuyển được lập trường sắt đá của tên hầu bàn. Cũng chẳng nên trách nó. Ðời thiếu gì kẻ ăn quịt mặt mũi còn phương phi, ăn vận còn bảnh bao hơn Thôi Hiệu.
Lý luận của nó rất đơn giản. "Ngài đã ăn thì phải trả tiền, không có tiền thì gửi khăn áo lại". Và nói đi đôi với làm, nó xấn tới lột khăn áo nhà thơ.
Thấy ồn ào, chủ quán chạy tới. Khi nghe khách nói là bạn Vương tri phủ và nhất là tự xưng danh Thôi Hiệu, chủ quán mừng líu cả lưỡi:
- Ngài có phải là Thôi Hiệu... ấy không?
Và khi biết khách là Thôi chính hiệu, chủ quán bèn quát tiểu nhị bày thêm rượu và món nhậu thượng hạng ăn mừng thời cơ ngàn năm có một hạnh ngộ đệ nhất sĩ.
Thôi Hiệu đành nể tình một suất tiệc đúp... và viết tặng chủ quán một bài Hoàng Hạc Lâụ Chủ quán xuýt xoa mãi như được một đặc ân, tất nhiên không dám tính tiền mà còn biếu nhà thơ lớn khoảng bạc vụn làm lộ phí.
Bài thơ Hoàng Hạc Lâu gần như trở thành một tấm các-tín-dụng với tài khoản vô hạn cho phép Thôi chu du qua hầu hết các ca lâu tửu quán loại năm sao khắp miền tổ quốc. Và trung tâm nào không có bài thơ Hoàng Hạc Lâu do chính tay Thôi đề tặng trên vách sau những ngày hành lạc thoải mái và cả khoảng phong bì hậu hĩnh đương nhiên là bị hạ cấp xuống mấy sao.
Thôi Hiệu đắt hàng quá nên lập tức nảy sinh ra nạn Thôi Hiệu dỏm không sao dập tắt được . Bắt chước nét chữ Thôi Hiệu nào có khó khăn gì! Sử chép thời đó nguyên vùng Giang Nam đã có ngót ngét một vạn Thôi vừa chính vừa giả hiệu.
Không chỉ có giới chủ khách sạn và cao lâu mê Thôi Hiệu như một phương tiện quảng cáoo đặc hiệu, giới trí giả cũng hâm mộ ông không kém. Thôi Hiệu đã trở thành một hiện tượng.
Ai cũng biết Ðường Tư Khổng là một vị đại quan giàu sang nhất nước, cũng là một nhà nho nghiêm cẩn đên cố chấp. Nhất cử nhất động gia pháp họ Ðường đều như diễn tả những lời dạy của cụ Khổng. Nhưng họ Ðường lại có tật yêu thơ. Ông muốn mời Thôi Hiệu đến chơi lắm. Nhưng tai tiếng của Thôi cũng đồng cân đồng lạng với danh tiếng của nhà thợ Nghiện chè, nghiện rượu, nghiện cả đàn bà. Một nhà nho chính danh như Ðường không thể tiếp Thôi Hiệu tại nhà mà không ảnh hưởng tiêu cực đến gia pháp. Họ Ðường bèn xây dựng riêng một căn hộ thoáng mát với đầy đủ tiện nghi để tiếp một mình nhà thơ bạc hạnh danh. Thôi thì hắn ta có bậy bạ gì thì bậy bạ ra đó.
Ðể đền đáp mắt xanh của chủ nhân, Thôi lại chép tặng ông... lại... một bài Hoàng Hạc Lâu.
Dịch Hoàng Hạc Lâu ảnh hưởng không tốt đến giới làm thơ trẻ... những bài Hoàng Hạc Lâu con cháu chút chít sòn sòn đua nhau ra đời. Cũng chẳng sao. Với thời gian, nhà thơ trẻ nào có chân tài sẽ tìm thấy tiếng nói lập nghiệp của mình, như những người con đến tuổi trưởng thành từ biệt bố mẹ ra ở riêng. Ðiều đáng chú ý là nó ảnh hưởng ngay đến sáng tác của Thôị Từ sau bài Hoàng Hạc Lâu, Thôi Hiệu cũng viết rất nhiều nhưng bài nào cũng bị bài Hoàng hạc Lâu làm nghẹt thở như bị bóng đè. Bản thân Thôi Hiệu bỗng run... Ra bài này liệu nó có phương hại đến mình không? Và ông lại xệ... lại viết... lại xệ... hàng chục năm trời Thôi Hiệu vẫn chỉ chép tặng tri kỷ thập phương một bài... Hoàng Hạc Lâu.
Vả lại người ta, cũng có đòi bài khác đâu!
Không ai biết thảng thốt hoặc vào những lúc anh khuya thức giấc Thôi uất ức bài Hoàng Hạc đến mức nào. Bài thơ hình như đã chiếm đoạt cả cuộc đời làm thơ của ông. Nhưng có thật là ông uất ức nó không? Thôi Hiệu thở dài. Té ra mình đã về hưu từ buổi Lầu Hạc Vàng.
Thôi Hiệu cố vùng vẫy. Nhưng vô hiệu... Chiếc đĩa đã thành rãnh và đầu kim đành chạy theo lối cũ.
Nói thế thôi chứ Hạc Vàng vẫn còn ăn khách chán. Và Thôi Hiệu có thể sống suốt đời một cách sang trọng nhờ bài thơ. Một nhà triệu phú qúa hâm mộ còn mở một cuộc thi lớn: "Ai viết nổi một bài vịnh Lầu Hạc Vàng địch được với bài của Thôi Hiệu sẽ được tặng một nghìn cân vàng"
Hôm chung kết các tao nhân mặc khách đến đông chẳng khác gì một kỳ thi hoa hậu. Nhất là khi mọi nngười được tin cả Lý Bạch cũng tham dự.
Không ai biết lý do sâu xa gì đã dẫn Lý trích tiên tới đây. Theo giới am hiểu thì đó là vì rượu.
Triệu phú đã tinh quái đánh vào tín hiệu tửu của Lý. Nhà thơ này có thể xem khinh công danh phú qúy, thậm chí coi thường cả tính mạng nhưng ông xót từng giọt rượu quý.
Mà rượu của triệu phú thì còn trên mức qúy, gần như độc nhất vô nhị. Ðó là rượu lồ ô hảo hạn cất từ Tây Vực phải vận chuyển trong mười chiếc túi da bọc ngoài đựng nước mỗi ngày thay một lần và phải mất một trăm con tuấn mã thay nhau đi nhật dạ không nghỉ và khi đến Vũ Xương lập tức phải hạ thủy sâu dưới mười thước nước để nhiệt không làm khê rượu. Chính vì vậy mà người ta còn gọi nó là bách mã tửu. Thứ rượu này tay cao thủ nhất cũng chỉ uống năm sáu chung là say đừ, ngủ một ngày mới tỉnh.
Quả như triệu phú đã dự đoán, không ai trên tài Thôi Hiệu. Các nhà thơ đã làm đủ trò. Người thì cho đảo mây trắng trên hạc vàng, người thì thay "Hán Dương sông tranh cây bày" bằng "chiều sông sương mù mịt" và "cỏ xanh Anh Vũ" bằng "thảm cỏ héo tàn mùa thu" đủ kiểu nhưng không bài nào thoát khỏi quỹ đạo bài Hoàng Hạc Lâu. Tất cả dù đẹp đến đâu cũng phảng phất một mùi thức ăn hâm lại.
Chỉ còn Lý Bạch. Mà sao đến giờ này Lý vẫn chưa tới? Mọi người đều chờ đợi hồi hộp. Cái nhà thơ đánh vỡ chén ngọc trên trời phải đày xuống trần giới, người dám ngang nhiên giữa triều đình đưa chân sai cao lực sĩ cởi giày, bắt Dương Quý Phi mài mực...
Lý chưa tới nhưng huyền thoại về ông đã lừng lững giữa nhà như bộ phận tiền trạm hùng hậu...
Cử tọa đang ồn ào bỗng im phăng phắc. Một ông già tóc râu lông mày trắng xóa như cước khoác một chiếc áo vàng bước vào nhà. Chủ nhân thân chinh ra giếng kéo rượu lên trịnh trọng đem đến trước mặt Lý. Ông mở nút hít một hơi dài, mặt hớn hở như trẻ được mẹ cho kẹo.
Rượu thơm quá. Và ông rót uống luôn. Một chén rồi hai chén rồi ba chén... Cứ cái đà này thì có khi ông làm hết cả vò rồi lăn ra ngủ chưa biết chừng.
Thánh hiền bặt dưới cỏ xanh
Riêng phường bợm rượu nghìn năm để đời
Người đã xếp rượu trên cả tư tưởng của thánh hiền, người ấy dám làm việc ấy lắm .
Nhưng chủ nhân tinh ý đã bày giấy mực trước mặt ông. Lý cười: "Làm thơ hả?". Rồi lại uống tiếp một chén nữa. Chừng như rượu đã thấm, Lý cởi khuy áo, cầm bút lên tay, nhìn mọi người. Thôi Hiệu cảm thấy ông hơi nheo mắt nhìn mình một cách tinh nghịch nhưng không biết có đúng thế không.
Kể cũng lạ, khi Lý uống rượu thì mọi người mãi mê tham quan ông như một kỳ tích thứ tám của thế giới. Nhưng khi ông bắt đầu cầm bút, cử tọa lập tức chia làm hai phe. Phe chống Lý Bạch và phe chống Thôi Hiệu. Và người ta bỗng nhìn nhau một cách khác lạ, nếu không phải là quyết liệt . Người ta bắt đầu chuyển chỗ tập hợp lực lượng. Có người đã xắn tay áo.
- Phen này Lý tiên sinh nhất định sẽ dạy cho Thôi Hiệu một bài học cho biết thế nào là lễ độ.
- Có lẽ lần này ông Lý kềnh cũng nên...
Còn Thôi thì căng thẳng như thủ quân đội bóng bất ngờ lọt vào chung kết một giải Mondial chờ hiệu còi trọng tài mở đầu cuộc tranh hùng với một đối thủ siêu hạng .
Riêng Lý Bạch vẫn thản nhiên... ông hỏi triệu phú:
- Chủ nhân này, mấy chung thì say?
- Dạ năm chung
- À, thế thì còn hai nữa.
Ông nghiêng vò rót luôn hai chung tợp hai hớp như người khát nước và bắt đầu động bút.
Nét bút sắc như toát ra hơi thép lạnh của một thanh kiếm báu, một số người rùng mình và hơi lùi lại. Người ta chưa kịp đọc xem ông viết gì thì Lý Bạch đã quẳng bút nằm xuống sập ngủ.
Bài thơ vẻn vẹn có hai câu:
Nhãn tiền hữu cảnh đạo bất đắc
Thôi Hiệu đề thi tại thượng đầu
(Trước mắt có cảnh không nói được
Vì thơ Thôi Hiệu để trên đầu)
Bảo hơn bài Hoàng Hạc Lâu thì không phải. Bảo kém thì không ai dám.
Vì nó khác, hoàn toàn khác.
Hơn một chục năm nay mới có một người làm thơ Hoàng Hạc Lâu Thôi Hiệu khác lạ như vậy.
Mọi người chưng hửng vi một trận đọ tài đã kết thúc ngoài dự kiến của tất cả. Họ tiếc cho nhiệt huyết, không có đất dụng võ, cho cuộc đấu có thể muôn phần quyết liệt, gay cấn, hào hứng... hứa hẹn những cú sút tuyệt vời. Nhưng hầu như tất cả đều rưng rưng một lòng cảm phục vô hạn.
Nhún nhường mà khí phách . Dung dị mà kỳ lạ. Khiêm cung mà siêu phàm. Vẻn vẹn hai câu mà bao la bài học về thi pháp.
Thôi sững sờ... tưởng như Lý Bạch không phải nói về ai khác mà về Thôi. Chính bài Hoàng hạc Lâu đã để đè trên đầu Thôi Hiệu bao nhiêu năm như một nghiệp ách. Nhà thơ đã bị chính mình cầm tù.
Ông chợt nghĩ đến câu nói lạ tai của Ðại sư Tuệ Giác: "Hãy quẳng mình đi như một cái bị rách".
Lý Bạch nằm ngủ, mồ hôi toát cùng hơi rượu thơm lừng, hình như cả người ông là một vò rượu qúy, râu tóc phơ phất như mây trắng, chân gác lên mâm vàng đẩy những thỏi kim qúy rơi xuống đất... Thôi Hiệu lẩm bẩm: Người xưa cưỡi hạc bay đi... Người xưa đã cưỡi hạc về nằm ngủ đây chăng ?
Ông bỗng nhắm mắt. Trong phút buông thả nhất, Thôi Hiệu vẫn chưa thoát khỏi bài Hoàng Hạc Lâu .
Lê Ðạt